Tải bản đầy đủ (.docx) (61 trang)

THEO dõi TÌNH TRẠNG DINH DƯỠNG và PHÁT TRIỂN tâm vận ĐỘNG của TRẺ TRONG 6 THÁNG SAU SINH tại HOÀI đức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (795.22 KB, 61 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

VŨ THỊ NHUNG

THEO DÕI TÌNH TRẠNG DINH DƯỠNG
VÀ PHÁT TRIỂN TÂM VẬN ĐỘNG CỦA TRẺ
TRONG 6 THÁNG SAU SINH TẠI HOÀI ĐỨC

ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC


HÀ NỘI –2015
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

VŨ THỊ NHUNG

THEO DÕI TÌNH TRẠNG DINH DƯỠNG
VÀ PHÁT TRIỂN TÂM VẬN ĐỘNG CỦA TRẺ
TRONG 6 THÁNG SAU SINH TẠI HOÀI ĐỨC
Chuyên ngành: Dinh dưỡng
Mã số : 60720303
ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC
Người hướng dẫn khoa học:


1. PGS. TS. Lê Thị Hương
2. PGS.TS. Trương Tuyết Mai


HÀ NỘI – 2015
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

CC/T:

Chiều cao theo tuổi

CN/T:

Cân nặng theo tuổi

CN/CC:

Cân nặng theo chiều cao

DQ:

Development quotient (chỉ số phát triển tâm vận động)

IQ:

Intelligence quotient ( Chỉ số thông minh)

SDD:

Suy dinh dưỡng


TVĐ:

Tâm vận động

UNICEF:

United Nations International Children’ Emergency Fund
(Quỹ Nhi đồng Liên hiệp quốc)

VDD:

Viện Dinh Dưỡng

WHO:

World Health Organization (Tổ chức Y tế Thế giới)

TTDD:

Tình trạng dinh dưỡng

TCYTTG:

(Tổ chức Y tế Thế giới)

HSSHNVN:

Hằng số sinh học người Việt Nam


NCHS:

National Center For Health Statistics

MGRS:

Multicentre Growth Reference Study

ABS:

Ăn bổ sung


MỤC LỤC


DANH MỤC BẢNG


6

ĐẶT VẤN ĐỀ
Trẻ em là tương lai và hi vọng của toàn thể nhân loại. Việc chăm sóc,
nuôi dưỡng trẻ em ngay từ những ngày đầu khi mới sinh ra là một việc làm
hết sức cần thiết. Thời gian trong bụng mẹ và những năm tháng đầu sau sinh
là thời gian quan trọng quyết định mọi tiềm lực về sức khỏe, sự phát triển não
bộ ở trẻ. Nếu bị SDD sớm thì trẻ dễ mắc các bệnh nhiễm trùng, những đứa trẻ
này lớn lên sẽ kém phát triển cả về thể lực và trí tuệ, ảnh hưởng đến khả năng
học tập và lao động và gây tổn thất lớn về kinh tế trong tương lai.
Theo ước tính của Tổ chức Y tế Thế giới, các nước đang phát triển có

khoảng 500 triệu trẻ em bị thiếu dinh dưỡng và hàng năm có 12,9 triệu trẻ bị
chết vì bệnh tật như viêm phổi, ỉa chảy, trong đó suy dinh dưỡng là nguyên
nhân trực tiếp chiếm tới 50%[1]. Ở Việt Nam, theo điều tra năm 2010[2], tỷ lệ
SDD thể nhẹ cân, thấp còi, gầy còm ở trẻ dưới 6 tháng tuổi lần lượt là 7%,
12% và 4,5%. Theo nghiên cứu của Lê Thi Hương và cộng sự năm 2012[3],
cho thấy tỷ lệ này là 10%; 20% và 5%. Kết quả này khá cao mặc dù trong
thời gian này trẻ được khuyến cáo nuôi bằng sữa mẹ. Bên cạnh đó vấn đề thừa
cân béo phì đang trở thành một thách thức lớn. Tình trạng thừa cân mới xuất
hiện nhưng đã tăng nhanh ngay cả ở vùng nông thôn, theo tác giả Tạ Đăng
Hưng [4], tỷ lệ béo phì ở trẻ dưới 6 tuổi ở vùng nông thôn là 9.2%. Đây cũng
là một báo động cho ngành dinh dưỡng Việt Nam hiện nay.
Theo dõi, đánh giá về tăng trưởng, tâm vận động của trẻ em đặc biệt
trong 6 tháng đầu là rất cần thiết trong công tác chăm sóc và nuôi dạy trẻ.
Đánh giá được sớm có thể phát hiện ra những bất thường giúp cho các nhà
chuyên môn và cha mẹ có những can thiệp kịp thời để trẻ phát triển tốt hơn ở
những giai đoạn sau[5].
Trong nước hiện có rất nhiều nghiên cứu của các tác giả về tăng trưởng
thể chất và tâm vận động ở trẻ[6],[7],[8, 9],[10],[11]qua đó đã mô tả được đặc
điểm phát triển ở từng thời kỳ của trẻ. Gần đây nhất có công trình nghiên cứu


7

của tác giả Nguyễn Đỗ Huy [12], Lê Thị Hương[13] và một số tác giả [4],
[14],[15]tuy nhiên các nghiên cứu này đều là nghiên cứu mô tả cắt ngang và
đối tượng trẻ dưới 6 tháng tuổi còn ít. Do vậy cần có nhiều nghiên cứu theo
dõi tăng trưởng và tâm vận động trên diện rộng theo chiều dọc ở đối tượng
này. Bởi vì các chỉ số nhân trắc trẻ và phát triển tâm vận động luôn thay đổi
theo thời gian và chịu ảnh hưởng của các yếu tố như dinh dưỡng, kinh tế, văn
hóa, xã hội.

Hoài Đức là một huyện ngoại thành của thành phố Hà nội, được sáp nhập
năm 2008. Huyệngồm 19 xã và 1 thị trấn, diện tích 82,67 km 2, dân số 198.424
người với tổng số 48.776 hộ gia đình. Từ khi sáp nhập đến nay chưa có đề tài
nghiên cứu về tình trạng dinh dưỡng và phát triển tâm vận động ở trẻ em.
Để đánh giá thực trạng về tăng trưởng và tâm vận động của trẻ dưới 6
tháng, và góp phần bổ sung vào số liệu còn ít và luôn thay đổi chúng tôi tiến
hành nghiên cứu đề tài: “Theo dõi tình trạng dinh dưỡng và tâm vận động
của trẻ trong 6 tháng sau sinh tại một số xã thuộc huyện Hoài Đức, Hà
Nội” với hai mục tiêu sau:
1. Theo dõi cân nặng, chiều dài và đánh giá tăng trưởng của trẻ trong 6
tháng sau sinh tại một số xã huyện Hoài Đức, Hà Nội năm 2015
2. Đánh giá tâm vận động của trẻ trong 6 tháng sau sinh tại một số xã huyện
Hoài Đức bằng test DenverII.


8

Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Tình trạng dinh dưỡng trẻ em
1.1.1. Khái niệm về tình trạng dinh dưỡng (TTDD)
Tình trạng dinh dưỡng là tập hợp các đặc điểm chức phận, cấu trúc và
hoá sinh phản ánh mức đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng của cơ thể. Tình trạng
dinh dưỡng là kết quả của ăn uống và sử dụng các chất dinh dưỡng của cơ thể.
Sự cân bằng giữa thức ăn ăn vào và tình trạng sức khỏe là kết quả của tình
trạng dinh dưỡng tốt. Khi cơ thể có tình trạng dinh dưỡng không tốt là thể
hiện có vấn đề về sức khỏe hoặc dinh dưỡng hoặc cả hai[16]. Theo TCYTTG,
các số đo nhân trắc (cân nặng, chiều cao) quan trọng để đánh giá TTDD và
khuyến cáo có chỉ có 3 chỉ số nên dùng là cân nặng theo tuổi, chiều cao theo

tuổi và cân nặng theo chiều cao[17].
Cân nặng theo tuổi (CN/T) là chỉ số đánh giá TTDD thông dụng từ
những năm 50 của thế kỷ trước. Chỉ số này được dùng để đánh giá TTDD của
cá thể hay của cộng đồng. CC/T chịu ảnh hưởng của thiếu dinh dưỡng trước
đó và cả thiếu dinh dưỡng hiện tại vì vậy khó xác định được trẻ có vấn đề về
dinh dưỡng trong quá khứ hay ở hiện tại.
Chiều cao theo tuổi (CC/T) phản ánh tiền sử suy dinh dưỡng (SDD
trong quá khứ), CC/T thấp là chỉ tiêu phản ánh tốt nhất ảnh hưởng tích lũy dài
hạn do chế độ ăn uống không đầy đủ hoặc do mắc bệnh mang lại.
Cân nặng theo chiều cao (CN/CC) là chỉ số đẻ đánh giá TTDD hiện tại.
Chỉ số này để phản ánh tình trạng SDD cấp. CN/CC thấp phản ánh tình trạng
thiếu dinh dưỡng ở thời kỳ hiện tại hay gần đây làm cho đứa trẻ không tăng
cân hay giảm cân.


9

1.1.2. Suy dinh dưỡng ở trẻ em (SDD)


Khái niệm SDD
Suy dinh dưỡng là tình trạng cơ thể thiếu Protein- Nặng lượng và các vi

chất dinh dưỡng. Bệnh hay gặp ở trẻ em dưới 5 tuổi, biểu hiện ở nhiều mức
độ khác nhau nhưng ít nhiều ảnh hưởng đến thể chất, tinh thần và vận động
của trẻ[18].


Phân loại SDD[19],[20]
Trước đây để đánh giá phân loại SDD có rất nhiều phương pháp như


phân loại như:
Theo Gomez(1956), ông đề ra cách phân loại như sau: quy cân nặng của
đối tượng theo phần trăm so với cân nặng được coi là chuẩn của quần thể
tham khảo Harvard theo đó thiếu dinh dưỡng độ I tương ứng với 75% - 90%
của cân nặng chuẩn. Thiếu dinh dưỡng độ II tương ứng với 60-75% cân nặng
chuẩn. Thiếu dinh dưỡng độ III khi cân nặng dưới 60% cân nặng chuẩn.
Trong một thời gian dài cách phân loại của Gomez được sử dụng như là cách
phân loại duy nhất trên cộng đồng
Năm 1966 Jelliffe đã đưa ra cách phân loại SDD và cũng dựa vào quần
thể tham khảo Harvard.
Năm 1977, Warterlow và cộng sự đã đề nghị sử dụng chỉ tiêu chiều cao
theo tuổi để đánh giá TTDD.
Các phân loại của các tác giả trên đều có ưu điểm là dễ áp dụng, đơn
giản và dễ hiểu tuy nhiên kết quả đánh giá đều dựa vào tỷ lệ % đạt được so
với giá trị trung bình của quần thể tham khảo để phân loại SDD, các ngưỡng
phần trăm đề ra chưa tính đến phân bố chuẩn hay không chuẩn cho nên phân
loại này thiếu chặt chẽ về mặt thống kê. Ngoài ra cách phân loại này không
phân biệt được thiếu dinh dưỡng vừa mới xảy ra hay đã lâu [19].


10

Năm 1981 Tổ chức Y tế thế giới chính thức khuyến nghị sử dụng
khoảng giới hạn từ -2SD đến +2SD để phân loại TTDD trẻ em, quần thể tham
khảo được sử dụng là NCHS (National Center For Health Statistics)
Từ năm 1994 Hội đồng Y tế thế giới đã thông qua đề nghị của WHO áp
dụng chuẩn tăng trưởng mới MGRS(Multicentre Growth Reference Study)
bắt đầu thực hiện từ năm 1997 đến 2005.
Từ năm 2006, WHO đã khuyến cáo áp dụng chuẩn tăng trưởng mới

MGRS hay WHO 2005 để đánh giá TTDD ở trẻ em và đề nghị áp dụng trên
toàn thế giới, các chỉ tiêu để đánh giá TTDD cũng dựa vào điểm ngưỡng -2 độ
lệch chuẩn (-2SD) so với quần thể tham khảo[20]. Cho tới nay đây là thang
phân loại được chấp nhận rộng rãi trên thế giới.
Dựa vào Z-Score (điểm –Z) tính theo công thức:
Z-score =

kích thước đo được – số trung bình của quần thể chuẩn
độ lệch chuẩn của quần thể chuẩn

Tình trạng dinh dưỡng của trẻ được đánh giá theo quần thể tham chiếu
WHO 2006 với 3 chỉ tiêu dựa vào Z- score là cân nặng/tuổi, chiều cao/ tuổi,
cân nặng/chiều cao[21].


Nguyên nhân, hậu quả và các yếu tố ảnh hưởng đên SDD:

Nguyên nhân:
Năm 1998, UNICEF đã xây dựng mô hình nguyên nhân của SDD, mô
hình này cho thấy nguyên nhân của SDD khá phức tạp, đa dạng, có mối quan
hệ chặt chẽ với y tế, lương thực- thực phẩm và thực hành chăm sóc trẻ tại hộ
gia đình. Mô hình này nói lên nguyên của SDD gồm nguyên nhân trực tiếp,
nguyên nhân tiềm tàng và nguyên nhân cơ bản[22].


11

Nguyên nhân trực tiếp: Thiếu ăn hay nói rộng hơn là đói nghèo là
nguyên nhân trực tiếp của SDD. Theo tổng điều tra dinh dưỡng năm 2010[2]
thì có sự khác biệt có ý ngĩa thống kê về tỷ lệ trẻ SDD theo mức kinh tế hộ

gia đình, theo đó, tỷ lệ nhẹ cân ở trẻ dưới 60 tháng tuổi ở hộ gia đình nghèo
nhất cao gấp 3,4 lần so với trẻ ở nhóm gia đình giàu nhất. Cũng theo điều tra
này tỷ lệ SDD ở nhóm thành phố lớn thấp hơn rất nhiều (5,5%) so với các xã


12

nghèo (24.8%). Nghiên cứu của Lê Thị Hương tiến hành ở Phường Trần
Hưng Đạo tỉnh Hà Nam cho thấy tỷ lệ SDD tại đây (4,3%) thấp hơn rất nhiều
so với tỷ lệ chung toàn tỉnh (15,9%)[13]. Nghiên cứu của Nguyễn Đỗ Huy
cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống về tỷ lệ SDD của những đứa con
trong những gia đình ở vùng nông thôn là nơi có điều kiện kinh tế khó khăn
và thành thị nơi có điều kiện hinh tế hơn tại Hải Dương[12]. Còn theo tác giả
Tạ Đăng Hưng[4] thì có sự khác biệt rõ rệt về tỷ lệ SDD cả ba thể giữa 2 vùng
thành thị, nông thôn. Tỷ lệ SDD thể nhẹ cân, thấp còi, gầy còm tại phường Trần
Hưng Đạo là 4.3%;7.1%;7.1% thấp hơn rất nhiều so với kết quả ở Xã Kim
Bảng là 10.4%;27.8%;9.8%. Các bệnh nhiễm trùng đặc biệt là tiêu chảy ảnh
hưởng rất nhiều đến tình trạng dinh dưỡng của đứa trẻ. Nhiễm trùng dẫn đến
các tổn thương đường tiêu hóa do đó làm giảm hấp thu các chất dinh dưỡng, trẻ
ăn kém hơn do giảm cảm giác ngon miệng. Bên cạnh đó, nhiễm khuẩn đường
hô hấp cũng ảnh hưởng đáng kể đến tình trang dinh dưỡng của trẻ. Theo nghiên
cứu của tác giả Cao Thị Thu Hương[23] cho thấy những trẻ tiêu chảy có nguy
cơ bị thấp còi cao hơn 1,5 lần so với trẻ không bị tiêu chảy. Cũng theo tác giả
thì có mối liên quan giữa tần xuất tiêu chảy với thấp còi, trẻ có tần xuất tiêu
chảy nhiều hơn 3 lần thì nguy cơ thấp còi cao hơn 1,5 lần so với trẻ có tần xuất
tiêu chảy <3 lần với tỷ xuất chênh OR = 1,5. Theo tác giả Amy L. Ricce, Lisa
và cs nhận thấy có mối liên quan giữa SDD và bệnh tật, trẻ bị SDD khi bị tiêu
chảy tình trạng bệnh nặng hơn và nguy cơ tử vong cao hơn, trẻ bị SDD nguy cơ
tử vong tăng gấp 2-3 lần[24].
- Nguyên nhân tiềm tàng: Đó là sự yếu kém trong dịch vụ chăm sóc bà

mẹ, trẻ em, kiến thức của người chăm sóc trẻ, yếu tố chăm sóc của gia đình,
các vấn đề nước sạch, vệ sinh môi trường và tình trạng nhà ở không đảm bảo,
mất vệ sinh, tình trạng đói nghèo, lạc hậu. Nhiều nghiên cứu cho thấy trình độ
học vấn, nghề nghiệp, số con trong gia đình có liên quan đến tỷ lệ SDD ở trẻ


13

em [10, 14], [13]. Theo tác giả Kiên, có mối liên quan không có ý nghĩa thống
kê giữa tỷ lệ SDD ở trẻ có mẹ với trình độ >cấp 3 và < cấp 3 với OR là 1,4 và
có liên quan giữa viêc ABS dưới 6 tháng và trên 6 tháng.Còn theo tác giả Lê
Thị Hương [25]số con trong gia đình, nghề nghiệp của bà mẹ có liên quan có
ý nghĩa thống kê đến tình trạng suy dinh dưỡng thể thấp còi. Theo tác giả ở
những trẻ sống trong gia đình có 2 con trở lên thì nguy cơ mắc suy dinh
dưỡng gấp 4,5 lần so với trẻ ở những gia đình có từ 1 - 2 con, trẻ của những
bà mẹ có nghề nghiệp không phải cán bộ viên chức thì nguy cơ mắc suy dinh
dưỡng gấp 2,5 lần so với trẻ của những bà mẹ là cán bộ viên chức. Trình độ
học vấn, nghề nghiệp của bà mẹ, của trẻ có liên quan đến tình trạng suy dinh
dưỡng thể gầy còm. Ngoài ra việc thực hành nuôi con bằng sữa mẹ và ăn bổ
sung chưa tốt cũng ảnh hưởng đến tỷ lệ SDD. Theo tác giả Trần Thị Tuyết
Mai[26] tỷ lệ nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu còn thấp
37,3%, cho trẻ ăn bổ sung sớm <6 tháng là 29,%. Theo tổng điều tra dinh
dưỡng 2010[2] thì tỷ lệ nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu rất
thấp chỉ là 19,6%. Đây là một yếu tố nguy cơ của SDD.
- Nguyên nhân cơ bản: Đó là kiến trúc thượng tầng, chế độ xã hội, chính
sách, nguồn tiềm năng. Cùng với sự phát triển kinh tế, sự phân hóa giàu nghèo
ngày càng gia tăng, tác động đến xã hội ngày càng sâu sắc, đặc biệt khủng
hoảng kinh tế làm cho việc đảm bảo an ninh lương thực và khả năng cung cấp
các dịch vụ y tế, dinh dưỡng trở nên khó khăn hơn. Đây chính là nguyên nhân
làm cho suy dinh dưỡng là gánh nặng sức khỏe ở nhiều nước đang phát triển.

Tỷ lệ trẻ em trước tuổi đi học bị SDD chiếm từ 20-50%, Khu vực Nam Á có tỷ
lệ mắc khá cao 40-50%. Số liệu từ các cuộc điều tra nhân khẩu học và sức khỏe
của 11 quốc gia cho thấy hầu hết ở nước này, nhóm trẻ thuộc tầng lớp nghèo có
tỷ lệ thấp còi cao gấp đôi so với nhóm trẻ thuộc lớp giàu[27].
Hậu quả của SDD:


14

-Tăng tỷ lệ tử vong ở trẻ dưới 5 tuổi: Theo tài liệu của TCYTTG, trong số
11,6 triệu trường hợp tử vong trẻ em dưới 5 tuổi trong năm 1999 ở các nước
đang phát triển thì có tới 6,3 triệu( 54%) có liên quan đến SDD vừa và nhẹ[28].
- Tăng nguy cơ mắc bệnh: Suy dinh dưỡng là điều kiện thuận lợi để các
bệnh như viêm đường hô hấp cấp, tiêu chảy…xảy ra và kéo dài. Khi trẻ bị
mắc các bệnh này dẫn đến ăn uống kém, nhu cầu năng lượng tăng cao vì vậy
lại làm cho tình trạng SDD càng trở nên trầm trọng hơn. Theo tác giả Cao Thị
Thu Hương [23] tỷ lệ trẻ thấp còi có tần xuất bị tiêu chảy ≥ 3 lần trong 3
tháng qua cao hơn có ỹ ngĩa thống kê so với tỷ lệ này ở nhóm không thấp
còi.Người ta ước tính khoảng 50-60% trẻ dưới 5 tuổi tử vong do nguyên nhân
tiềm ẩn là SDD, trong đó 50-70% gánh nặng bệnh tật của tiêu chảy, sởi, sốt
rét, nhiễm trùng đường hô hấp ở trẻ em toàn thế giới là do sự góp mặt của
SDD[29]. Bên cạnh đó các bệnh như tim mạch, đái tháo đường, rối loạn
chuyển hóa ở người tưởng thành có thể có nguồn gốc từ SDD bào thai. Theo
Baker, Hale và CS thì có mối liên quan giữa kích thước nhân trắc học mới
sinh và lúc 1 tuổi với bệnh tim và coi đó như là một yếu tố nguy cơ[30].
- Chậm phát triển thể chất: Gần đây nhiều bằng chứng cho thấy SDD ở
giai đoạn sớm, nhất là trong thời kỳ bào thai có mối liên hệ với mọi giai đoạn
của chu kỳ vòng đời. Những trẻ bị SDD bào thai khi sinh ra là những đứa trẻ
bị SDD lúc bé, lớn lên sẽ thành trẻ vị thạnh niên thấp bé, trẻ vị thành niên
thấp bé sẽ thành những bà mẹ có tầm vóc nhỏ bé, những bà mẹ này dễ sinh ra

những đứa trẻ có cân nặng sơ sinh thấp. Hầu hết những đứa trẻ có cân nặng sơ
sinh thấp bị suy dinh dưỡng nhẹ cân hoặc thấp còi ngay trong năm đầu[31].
- Chậm phát triển tâm thần: SDD ảnh hưởng đến sự phát triển trí tuệ,
hành vi, khả năng học hành của đứa trẻ. Với sự hiểu biết hiện nay người ta nhận
thấy SDD sớm trong bào thai và những năm đầu của cuộc đời có ảnh hưởng xấu


15

đến phát triển trí tuệ ít nhất suốt cả thời niên thiếu bởi vì khi trẻ bị thiếu dinh
dưỡng đồng nghĩa với việc thiếu các chất dinh dưỡng cân thiết cho sự phát triển
não bộ và trí tuệ. Trẻ bị SDD thường chậm chạp, lờ đờ, giao tiếp xã hội kém[32].
Theo tác giả Lahiri SK và cộng sự đã tiến hành nghiên cứu ở 72 trẻ từ 3 - 6 tuổi
sống tại một vùng nông thôn Ấn Độ, các trẻ này được đánh giá tình trạng thể lực
và đánh giá chỉ số IQ: tỷ lệ trẻ không suy dinh dưỡng và trẻ suy dinh dưỡng độ I
có mức IQ bình thường là 77,3% và 75%, trong khi đó chỉ có 57,1% trẻ suy dinh
dưỡng độ II và 20% trẻ suy dinh dưỡng độ III có mức IQ bình thường. Sự khác
biệt này rất có ý nghĩa thống kê với p < 0,05 [33].
1.1.3. Thực trạng SDD ở trẻ em trên thế giới và của Việt Nam.


Trên thế giới:
Theo báo cáo của Liên Hợp Quốc năm 2008 về thực hiện các mục tiêu

thiên niên kỷ và Báo cáo của UNICEF cho thấy trong khoảng 16 năm( 19902006) tỷ lệ SDD thể nhẹ cân trên toàn thế giới giảm từ 33% xuống còn 26%,
tuy nhiên trong khoảng 146 triệu trẻ bị SDD thì có tới 73% trẻ sống ở 10 nước
đang phát triển, trong đó có Việt Nam[34, 35]. Gần đây theo số liệu của
UNICEF(2009), trên thế giới có tới 129 triệu trẻ em dưới 5 tuổi ở các nước
đang phát triển bị SDD nhẹ cân trong đó 10% bị SDD nặng, và có khoảng 195
triệu trẻ em <5 tuổi bị SDD thể thấp còi trong đó 90% trẻ em sống ở khu vực

Châu Phi và Châu Á[36].


Tại Việt Nam:
Ở nước ta qua số liệu điều tra cho thấy tỷ lệ SDD đã giảm rõ rệt, từ

mức SDD nhẹ cân trên 50% vào thập kỷ 80 đến nay (2014) chỉ còn 14,5%,
mức giảm trung bình 1,5-2%/ năm. Mặc dù vậyViệt Nam vẫn là một nước có
tỷ lệ SDD cao trên thế giới. Theo UNICEF năm 2009, Việt Nam là một trong
24 quốc gia có tỷ lệ SDD thấp còi cao và có số lượng lớn trong tổng số 195


16

triệu trẻ thấp còi trên toàn Thế giới[36].Tuy nhiên cũng theo UNICEF Việt
Nam là một trong các quốc gia giảm SDD liên tục và bền vững.
Bảng 1.1. Tỷ lệ Suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi trên toàn quốc(2007-2014)

Nguồn: />Mặc dù tỷ lệ SDD chung cả nước giảm tuy nhiên mức giảm này không
đồng đều giữa các vùng sinh thái, nhiều địa phương tỷ lệ SDD miền núi cao
hơn hẳn vùng đồng bằng, nông thôn cao hơn thành thị. Tại các vùng nông
thôn tỷ lệ SDD thấp còi vẫn còn ở mức cao[38]. Theo nghiên cứu của Lê Thị
Hương ở trẻ dưới 5 tuổi tại vùng dân tộc Mường cho thấy tỷ lệ SDD vẫn còn
khá cao: thể nhẹ cân là 52,2%, thấp còi là 23,5%[39].
1.1.4. Tăng trưởng ở trẻ
Thuật ngữ tăng trưởng biểu hiện sự tăng về số lượng và kích thước của
tế bào dẫn đến sự thay đổi khích thước của từng bộ phận và của cơ thể. Quá
trình tăng trưởng diễn ra một cách liên tục từ khi trứng được thụ thai đến khi



17

trưởng thành. Quá trình này diễn biến theo những giai đoạn khác nhau, có giai
đoạn tăng trưởng nhanh, có giai đoạn tăng trưởng chậm[40].
Quá trình tăng trưởng của trẻ em bao gồm cả sự tăng trưởng thể chất và
sự phát triển tâm lý, vận động. Nghiên cứu sự tăng trưởng thể chất là nghiên
cứu sự phát triển của các kích thước nhân trắc của cơ thể bao gồm chiều cao,
cân nặng và một số chỉ số khác như kích thước, chu vi các vòng. Tuy nhiên
chỉ số về chiều cao và cân nặng là chỉ số cơ bản mà bất cứ nghiên cứu nào về
tăng trưởng cũng sử dụng.


Cân nặng ở trẻ từ 0-6 tháng tuổi:
Cân nặng là số đo thường được tiến hành trong tất cả các công trình

điều tra cơ bản cũng như thường ngày. Đây là số đo không thể thiếu trong
đánh giá về mặt thể lực, dinh dưỡng, sự tăng trưởng, ngoài ra đây cũng là kích
thước phổ cập, dễ áp dụng và tiến hành[41].
Cân nặng của người nói lên khối lượng và trọng lượng hay độ lớn tổng
hợp của toàn bộ cơ thể, nó có liên quan đến mức độ và tỷ lệ giữa sự hấp thu
và tiêu hao. Trẻ được nuôi dưỡng tốt sẽ tăng cân, do đó việc theo dõi cân nặng
ở trẻ phần nào nói lên tình trạng thể lực, dinh dưỡng của trẻ
Cân nặng lúc đẻ phụ thuộc vào tuổi thai, giới, con so hay con dạ và
chủng tộc. Các nghiên cứu về tăng trưởng trước đây cho thấy trẻ trai thường
có cân nặng cao hơn trẻ gái ở mọi lứa tuổi khoảng từ 50-100g và con so nặng
hơn con dạ[42],[9]. Theo hằng số sinh học người Việt Nam năm 1975[43] thì
cân nặng lúc đẻ trẻ trai là 3070±320g, của trẻ gái là 3020±350. Sau 20 năm thì
cân nặng lúc đẻ của trẻ trai là 3110±350g, của trẻ gái là 3060±340[44] điều đó
cho thấy có sự tăng trưởng thế tục ở trẻ em qua thời gian. Còn theo nghiên
cứu về cân nặng sơ sinh theo tuổi thai của tác giả Đỗ Thị Đức Mai nghiên cứu

trên 3847 trẻ từ 1/5/2000 đến 30/4/2001[42]cho thấy khi trẻ đẻ thiếu tháng thì


18

cân nặng thấp hơn với trẻ đủ tháng và có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê.
Theo tác giả, cân nặng sơ sinh của trẻ đủ tháng là 3194,8± 346,8g, có sự khác
biệt giữa cân nặng sơ sinh của trẻ trai 3224,1g ± 345,1g và trẻ gái là
3161,2±345,8, kết quả này cũng cao hơn cân nặng sơ sinh trẻ em việt nam
thập kỷ 90. Ngoài ra cân nặng của trẻ còn phụ thuộc vào yếu tố giống nòi. Trẻ
em Việt Nam có cân nặng thấp hơn quần thể tham chiếu NCHS ở mọi thời kỳ.
Trong năm đầu, một trong các đặc điểm quan trọng về tăng trưởng về
cân nặng ở trẻ là trẻ càng nhỏ thì mức độ tăng cân càng nhiều. Theo nghiên
cứu của Hàn Nguyệt Kim Chi[9], cân nặng của trẻ tăng rất nhanh trong 6
tháng đầu, đặc biệt là chỉ trong vòng 3 tháng đầu trẻ trai đã tăng được 3,39kg,
trung bình tăng 1.13kg/ 1 tháng và tăng gấp đôi cân nặng sơ sinh sau 3 tháng.
Trẻ gái thì tăng ít hơn so với trẻ trai, sau 3 tháng trẻ tăng được 2,56kg. Từ 3-6
tháng thì mức tăng của cả 2 giới đều giảm, ở trẻ trai tăng 1,49kg trung bình
mỗi tháng tăng 49,7g, ở trẻ gái tăng 1,4kg trung bình mỗi tháng tăng 47g.
Chiều cao ở trẻ 0-6 tháng tuổi:
Chiều cao ở trẻ là một trong những kích thước cơ bản nhất trong các
cuộc điều tra về nhân trắc[41]. Chiều cao nói lên chiềudài của toàn thân. Do
đó nó được dùng để đánh giá sức lớn của trẻ em, hình thái, tầm vóc của người
trưởng thành.
Chiều cao là số đo rất trung thành của hiện tượng tăng trưởng, chiều
cao phản ánh tố cuộc sống quá khứ và là bằng chứng của sự dinh dưỡng. Trẻ
thiếu dinh dưỡng kéo dài sẽ làm chậm phát triển chiều cao.
Theo HSSH của người Việt Nam(1975)[43] thì chiều dài lúc mới đẻ của
trẻ trai là 48,64±1,22cm, của trẻ gái là 48,35±1,22cm, Sau 20 năm [44], chiều
dài sơ sinh của trẻ trai là 50,01±1,61cm, của trẻ gái là 49,79±1,46cm. Theo

nghiên cứu của Hàn Nguyệt Kim Chi[9] thì chiều dài sơ sinh của trẻ trai là


19

50,17±2,29cm, còn của trẻ gái là 49,40±1,52cm. Theo tác giả Đỗ Thị Đức Mai
[42] thì chiều dài sơ sinh trẻ trai là 50,55±1,28 và trẻ gái là 50,41±1,46. Điều
đó cho thấy sự tăng trưởng về chiều cao ở trẻ thể hiện rất rõ nét và phù hợp với
đặc điểm, quy luật phát triển chung của trẻ lứa tuổi 0-72 tháng là chiều cao liên
tục đi lên ở cả trẻ trai và gái, trẻ trai cao hơn trẻ gái ở mọi lứa tuổi.
Cũng giống như tăng trưởng cân nặng, tăng trưởng chiều cao cũng có
đặc điểm là trẻ càng nhỏ thì mức độ tăng trưởng càng nhiều. ba tháng đầu tiên
chiều cao của trẻ tăng rất nhanh, sau 3 tháng đầu chiều cao của trẻ tăng từ 912cm. Trung bình khoảng trên 3cm/1 tháng, ba tháng tiếp theo mức tăng ít
hơn khoảng 2cm/1 tháng.
Nghiên cứu trên trẻ em nước ngoài, một số tác giả nhận thấy trẻ sơ sinh
nước ngoài dài hơn trẻ em nước ta ở cả hai giới và trẻ trai dài hơn trẻ gái sơ
sinh[45, 46]
Bảng 1.2. Cân nặng và chiều cao của trẻ từ 0-6 tháng(2005)[47]
Tháng tuổi

Cân nặng(g)

Chiều cao(cm)

Trai

Gái

Trai


Gái

0 (sơ sinh)

3.05±0.30

3.12±0.20

50.17±2.29

49.40±1.52

1

4.29±0.41

4.15±0.26

55.01±1.92

54.64±1.05

2

5.47±0.59

5.01±0.44

58.88±2.21


57.76±1.21

3

6.44±0.63

5.68±0.56

62.34±2.36

60.19±1.82

4

7.10±0.66

6.16±0.58

64.61±2.51

62.23±1.43

5

7.55±0.76

6.68±0.65

66.68±2.10


63.98±1.44

6

7.93±0.75

7.02±0.62

68.30±2.10

65.88±1.74

1.1.5. Các nghiên cứu theo dõi về tăng trưởng cân nặng chiều cao của trẻ
trong 6 tháng sau sinh


20

Ở nước ngoài, nghiên cứu về tăng trưởng theo chiều dọc bắt đầu từ rất
sớm ngay từ những năm 1759-1777 bởi tác giả người Pháp Philibertb
Montbeilard, ông đã theo dõi liên tục chiều cao của con trai mình trong 18
năm liên tục, mỗi năm đo 2 lần cách nhau 6 tháng. Đây là một nghiên cứu
được đánh giá cao, và được trích dẫn trong các nghiên cứu tăng trưởng suốt
thế kỷ XIX[48]. Từ các số liệu của Philibertb Montbeilard, được Aray
Thomson thể hiện bằng đồ thị chiều cao tính theo cm/năm, từ đó ông đưa ra
khái niệm đầu tiên về tốc độ tăng trưởng và coi hai đại lượng cân nặng và
chiều cao như là những chỉ tiêu về sức khỏe để sử dụng trọng các nghiên cứu
về tăng trưởng[48]. Một nghiên cứu khác tại cộng hòa Sec được Bouchalova
tiến hành từ năm 1961 -1982 trên 55 trẻ từ sơ sinh đến 18 tuổi về quá trình
tăng trưởng cân nặng, chiều cao…và các yếu tố ảnh hưởng như điều kiện kinh

tế, xã hội, môi trường sống, bệnh tật…, còn ở Hoa Kỳ, có công trình của
H.P.Bowditch(1840-1911), hiệu trưởng đầu tiên của khoa Y trường đại học
Harvard, ông đã đưa ra chuẩn tăng trưởng của trẻ em Hoa Kỳ và lần đầu tiên
sử dụng hệ thống bách phân vị trong nghiên cứu[49]. Một ứng dụng khác của
tăng trưởng đã được các nhà lâm sàng dùng trong nghiên cứu người bệnh,
ngay từ những năm 1800, cân nặng và chiều cao của bệnh nhân đã được đo
đạc thường quy trong bệnh viện ở Paris.
Ở nước ta cũng đã có nhiều đề tài nghiên cứu về tăng trưởng trẻ em
nhưng chủ yếu vẫn là các điều tra ngang[50], các số liệu đã được tập hợp
trong cuốn “Hằng số sinh học người Việt Nam” xuất bản năm 1975[43]. Đến
đầu những năm 80 đã có một số các công trình nghiên cứu về tăng trưởng
theo chiều dọc như của tác giả Lê Thị Hợp từ 1981-1984[6]đã theo dõi sự
tăng trưởng của trẻ từ sơ sinh đến 60 tháng tuổi. Tiếp theo có tác giả Bùi Thị
Như Thuậnvà CS[8] đã theo dõi chiều cao, cân nặng và sức khỏe của trẻ từ 072 tháng, sau đó có công trình do Nguyên Thu Nhạn và CS theo dõi trong 2


21

năm 1987-1989 về các chỉ tiêu cân nặng, chiều cao, bệnh tật của trẻ từ 0-24
tháng[7]. Đến năm 1992, Nguyễn Hữu Cần đã tiến hành nghiên cứu các chỉ
tiêu nhân trắc ở trẻ sơ sinh Hà Nội đã đưa ra tiêu chuẩn về cân nặng, chiều
cao ở trẻ sơ sinh đủ tháng [51]. Một công trình nữa cũng là của tác giả Lê Thị
Hợp (1996-1997) đã nghiên cứu 400 trẻ từ sơ sinh đến 24 tháng để so sánh sự
tăng trưởng và TTDD với nhóm trẻ đã nghiên cứu trong giai đoạn 1981-1984
[52]. Một công trình điều tra cơ bản về nhân trắc với quy mô lớn triển khai
trên quy mô toàn quốc đã được Lê Nam Trà và CS công bố năm 1997[44]. Tất
cả các công trình trên đã công bố kết quả điền tra về cân nặng, chiều cao và
các yếu tố ảnh hưởng đến sự tăng trưởng của trẻ như dinh dưỡng, bệnh tật,
trình độ văn hóa của mẹ…và ứng dụng trong chăm sóc sức khỏe và các lĩnh
vực khác. Sau đó có các công trình cấp Bộ cũng đã nghiên cứu về tăng trưởng

ở trẻ giai đoạn 0-36 tháng và 0-72 tháng, qua đó đã làm rõ hơn về bức tranh
tăng trưởng ở trẻ em Việt Nam.
1.2. Phát triển tâm vận động trẻ 0-6 tháng
Tâm vận động(Psychomotor) được ghép từ Psycho(tâm lý) và motor
(vận động), lý do là ở thời kỳ thơ ấu cho tới 5-6 tuổi thì sự phát triển tâm lý
và vận động ở trẻ có liên quan mật thiết với nhau. Tâm vận động là hoạt động
của các giác quan, cơ bắp dưới sự điều khiển ủa não bộ. Tùy vào mức độ
trưởng thành của não bộ mà nó chỉ đạo các hoạt động vận động của cơ thể.
Theo tác giả Nguyễn Thị Nhất, thần kinh phát triển đến đâu vận động phát
triển đến đó, kết hợp với luyện tập và chịu sự chi phối của tình cảm, vận động
dần dần phù hợp với ý đồ mục tiêu. Trong thời thơ ấu phát triển của vận động
và trí khôn gắn liền với nhau[53].
1.2.1. Sự hình thành và phát triển của hệ thần kinh trong
thời kỳ phôi thai[54].


22

Hệ thần kinh phát triển vào ngày thứ 18 của phôi. Ống thần kinh được
hình thành từ sự dày lên của phần ngoại bì ở phía lưng của phôi, phần ngoại
bì lõm xuống thành rãnh. Hai bờ rãnh gắn lại với nhau thành ống thần kinh, ở
giữa là ống nội tủy, đầu dưới của ống sẽ trở thành tủy sống, đầu trên phát triển
rất to trở thành não. Hệ thần kinh bao gồm các tế bào thần kinh gọi là các
nơron thần kinh. Trẻ đủ tháng có khoảng 100 tỷ nơron, sau này sẽ không tăng
thêm nữa. Điều quan trọng là mỗi nơron chết đi sẽ không được thay thế, mặt
khác mỗi tế bào thần kinh được cấu tạo vào một thời điểm nhất định và nếu bị
tổn thương thì khó có khả năng hồi phục. Thời kỳ chu sinh và những tháng
đầu của cuộc sống có nguy cơ bị đe dọa nhất.
Sự tăng trưởng của não: não được tạo thành bởi sự gắn liền não trước
và gian não. Não trước tăng trưởng thành hai bán cầu đại não. Sự cuộn lại của

các bán cầu dẫn đến hình thành các thùy thái dương, rãnh Sylvius, vùng
Sylvius và thùy đảo
Sự phát triển của vỏ não: Vỏ não bao phủ mặt ngoài và chùm xuống tận
bán cầu não. Tới tháng thứ 5 của phôi, vỏ não vẫn có cấu trúc sơ sài, sau đó
cấu trúc của nó được hình thành nhưng vẫn không có một hoạt động nào. Trẻ
mới sinh chỉ có phản xạ tự động và những phản ứng thuần túy thuộc về bản
năng dưới vỏ. Trong quá trình vỏ não mở rộng các nối tiếp của nó, các chuỗi
nơron bắt đầu hoạt động, các phản ứng giác quan được thiết lập, các hoạt
động tâm lý được phát triển.
1.2.2. Sự phát triển của hệ thần kinh sau khi sinh.
Khi mới sinh các tổ chức vỏ não chưa hoạt động, não sơ sinh nặng
khoảng 300-400g. Khi sinh ra hệ thần kinh kém phát triển nhất so với các cơ
quan khác, sự trưởng thành được tiếp tục trong 3 năm đầu. Trẻ sơ sinh não
chưa trưởng thành vì chưa được myelin hóa. Sự tiến triển của hệ thần kinh,


23

của não khi sinh ra cơ bản là sự myelin hóa các cấu trúc thần kinh và những
biến đổi ở vỏ não. Myelin hóa có sự liên quan đến sự chín muồi trưởng thành
của hệ thần kinh, song song với sự phát triển chung của cơ thể. Hiện tượng
myelin hóa bắt đầu vào tháng thứ 4 của phôi[54].
Sau khi sinh trẻ có một cuộc sống tách rời mẹ. Não, bộ phận quan trọng
nhất phát triển rất mạnh ở toàn bộ các diện của vỏ não. Mặt khác trẻ lại tiếp
xúc với môi trường bên ngoài cơ thể, ảnh hưởng trực tiếp bởi sự chăm sóc,
vấn đề dinh dưỡng. Do đó vấn đề nuôi dưỡng là rất quan trọng, dinh dưỡng
tốt sẽ đảm bảo cho cơ thể và não phát triển tốt.
1.2.3. Sự phát triển tâm vận động ở trẻ từ 0-6 tháng tuổi[5]
Trẻ dưới 1 tuổi chưa có sự kiểm soát của vỏ não nên vận động không
cố định, không chính xác, có nhiều động tác chủ yếu là do các thay đổi về

trương lực và phản xạ. Sự phát triển vận động của trẻ tuân theo quy luật cơ
bản là phát triển theo hướng đầu – đuôi, có nghĩa là phát triển từ đầu đến
chân. Đầu ưu tiên phát triển trước, sau đó đến các bộ phận khác của cơ thể.
Trong phát triển vận động cũng theo trình tự này: cất được đầu, giữ cứng cổ,
nâng được vai, lẫy, bò, ngồi, đứng, đi. Ngoài ra còn tuân theo quy luật phát
triển từ trung tâm ra ngoại vi,tức là vận động bắt đầu từ trung tâm cơ thể sau
đó đến các chi. Các kỹ năng vận động cũng được xác định theo một trình tự
nhất định từ đơn giản đến phức tạp. Đầu tiên vận động trẻ sơ sinh chỉ là những
phản xạ không điều kiện, sau này sự phát triển ngày càng hoàn thiện của vỏ
não đã cho phép đứa trẻ kiểm soát được nhiều loại vận động phức tạp hơn.


Trẻ sơ sinh(từ 1-29 ngày tuổi)
Trong giai đoạn này trẻ thường ngủ 16 tiếng/1 ngày, nhưng khi thức

dậy trẻ vận động khá nhiều. Vận động và hoạt động chủ yếu của trẻ là các
phản xạ hoặc vận động tự phát, không có mục đích do trung tâm dưới vỏ chi


24

phối. Khi hệ thần kinh bắt đầu trưởng thành, những phản xạ này sẽ chuyển
thành những vận động có mục đích
-

Vận động: vận động tự phát, không trật tự, không phối hợp, không có mục
đích, xuất hiện đột ngột cả hai bên và không giống nhau.

-


Phản xạ: gồm những phản xạ tự nhiên sau
+ Phản xạ bú: Phản xạ này bắt đầu xuất hiện khi trẻ 32 tuần tuổi thai và
phát triển đầy đủ khi trẻ tròn 36 tuần tuổi. Trẻ đẻ non có phản xạ bú yếu hoặc
không có phản xạ bú nếu trẻ được sinh ra trước khi phát triển phản xạ này
+ Phản xạ Moro: còn gọi là phản xạ giật mình hay phản xạ bắt chộp vì
phản xạ này xuất hiện khi có tiếng động hoặc cử động mạnh, trẻ giật mình,
dang hai tay và chân, sau đó ôm choàng vào thân. Phản xạ này có thẻ kéo dài
tới khi trẻ được 5-6 tháng tuổi
+ Phản xạ nắm: Khi bị kích thích vuốt vào lòng bàn tay, trẻ nắm chặt
tay lại. phản xạ này chỉ kéo dài 2 tahngs và biều hiện mạnh hơn ở trẻ đẻ non.
+ Phản xạ Root: Khi kích thích hoặc đụng vào góc miệng trẻ, trẻ xoay
đầu và há miệng theo hướng vật kích thích. Phản xạ này giúp trẻ tìm được đầu
vú mẹ.
+ Phản xạ bước đi: Khi giữ trẻ ở tư thế thẳng đúng, chân chạm xuống
mặt phẳng cứng, trẻ dường như bước chân đi.

-

Từ 2-3 tuần: Trẻ có thể nhìn theo người mẹ, ánh sáng, có thể có hiện tượng
lác mắt sinh lý.
+ Ngôn ngữ: Ngôn ngữ giao tiếp của trẻ sơ sinh là tiếng khóc. Lúc đầu
dường như tiếng khóc mọi lúc là giống nhau, nhưng cha mẹ sóm nhận ra sự khác
nhau của tiếng khóc khi trẻ đói, khó chịu, cô đơn…và nhiều khi không rõ nguyên


25

nhân. Trẻ cần được đáp lại nhanh chóng bằng sự chăm sóc, vuốt ve và những lời
nói âu yếm tạo cho trẻ sự tin cậy và cảm giác được thương yêu, an toàn.



Trẻ từ 2-3 tháng:
-Hầu hết các phản xạ dần mất đi.
-Tư thế nằm sấp trẻ có thể ngẩng đầu từng lúc, khung chậu duỗi rộng,

hông duỗi gần hoàn toàn. Cuối tháng thứ 3 trẻ có thể nâng ngực và ngẩng đầu
cao và lâu hơn.
- Tư thế được giữ đúng thẳng có thể giữ thẳng đầu
- Đưa tay vào miệng, nhìn ngắm, mở và nắm bàn tay
- Trẻ biết nhìn mặt người và mỉm cười, biết hóng chuyện khi được nói
chuyện, phát âm líu lo.
- Tiếng khóc thể hiện những mục đíc khác nhau rõ ràng hơn


Trẻ từ 4-5 tháng
- Giữ thăng bằng đầu tốt, có thể ngồi khi được đỡ nách
- Lẫy được từ ngửa sang sấp và ngược lại
- Nhanh nhẹn hơn, thích cười đùa, cười reo thành tiếng.
- Có thể phát âm được vài nguyên âm, có thể bắt trước một số âm thanh.
- Hướng về, với theo đồ chơi. Nhìn chăm chú các đồ vật có màu sắc.



Trẻ 6 tháng
- Trẻ ngồi được nhưng chưa vững, dễ đổ, dễ ngã.
- Cầm đồ vật bặng lòng bàn tay, đưa tay với đồ vật khi trông thấy.
- Bắt đầu bập bẹ âm tiết đơn như ma, ba, da…
- Nhận biết mặt mẹ, người quen



×