Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Tâm Lý Sư Phạm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.09 KB, 16 trang )

BÀI GIẢNG: TÂM LÝ HỌC SƯ PHẠM NGHỀ NGHIỆP

Bài 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA TÂM LÝ HỌC SƯ PHẠM NGHỀ
NGHIỆP
I-

Đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu của tâm lý học
1- Đối tượng nghiên cứu của tâm lý học

Đối tượng nghiên cứu của tâm lý học là toàn bộ các hiện tượng tâm lý với các đặc
điểm, quy luật và cơ chế của nó, những hiện tượng tâm lý này:
- Trước hết, có cơ sở tự nhiên là hoạt động của hệ thần kinh và hoạt động biến
đổi nội tiết (sinh lý). Ví dụ: khi sợ tái mét mặt, nổi hết cả da gà, khi lo lắng mất ngủ,
hoặc rối loạn tiêu hóa.
- Thứ hai, những hiện tượng tâm lý này chỉ được nảy sinh và hình thành trong
hoạt động, gắn liền với điều kiện xã hội - lịch sử cụ thể. Ví dụ, phong tục, tập quán,
truyền thống, kinh nghiệm sống…
Với hai tính chất cơ bản trên của hiện tượng tâm lý mà khoa học tâm lý học
nghiên cứu, chúng ta nhận thấy, tâm lý học không phải là một môn khoa học tự nhiên
hay một môn khoa học xã hội đơn thuần, mà tâm lý học vừa là môn khoa học tự nhiên
nhưng đồng thời cũng vừa là môn khoa học xã hội.
2- Nhiệm vụ nghiên cứu của Tâm lý học

Tâm lý học nghiên cứu:
-

Bản chất và các quy luật của hoạt động tâm lý.

-


Các quy luật nảy sinh và phát triển tâm lý.

-

Những cơ sở khách quan và chủ quan tạo ra tâm lý người.

-

Cơ chế hình thành và biểu hiện của hoạt động tâm lý.

-

Chức năng vai trò của tâm lý đối với hoạt động của con người.

Trên cơ sở các thành tựu nghiên cứu, tâm lý học sẽ đưa ra những giải pháp hữu
hiệu cho việc hình thành, phát triển tâm lý, sử dụng nhân tố tâm lý trong con người một
cách có hiệu quả nhất.
II-

Bản chất hiện tượng tâm lý người theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện
chứng

1


1- Tâm lý là sản phẩm phản ánh hiện thực khách quan bằng hoạt động của

mỗi người.
Khi hiện thực khách quan trực tiếp tác động vào giác quan và não, chúng sẽ để lại
hình ảnh của hiện thực khách quan trên não. Hình ảnh đó gọi là hình ảnh tâm lý.

Như vậy, hình ảnh tâm lý là kết quả của quá trình phản ánh hiện thực khách quan
vào não. Song, hình ảnh của phản ánh tâm lý khác xa về chất so với hình ảnh phản ánh
của các hình thức phản ánh khác (phản ánh cơ học, vật lý, hóa học, sinh lý, xã hội…).
Sự khác nhau ở đây là việc phản ánh tâm lý mang:
Tính tích cực: nghĩa là kết quả của lần phản ánh trước ảnh hưởng trực tiếp
tới lần phản ánh sau. Nhờ đó con người tích lũy được kinh nghiệm trong cuộc sống, là
cơ sở cho sự tồn tại và phát triển. Tục ngữ có câu: Mỗi lần ngã là một lần bớt dại / Ai
nên khôn mà chẳng dại đôi lần.
Tính sinh động, sáng tạo: là việc cùng một hiện thực khách quan tác động,
nhưng ở những con người khác nhau và ngay trong cùng một con người thì sự phản
ánh khác nhau.
Ví dụ:
+ Với tình yêu: Đàn ông yêu bằng mắt - Phụ nữ yêu bằng tai.
+
Trong cùng một con người: Khi yêu một trăm chỗ lệch cũng kê cho vừa,
khi ghét bới bèo ra bọ …
+ Hình ảnh tâm lý về cuốn sách trong đầu của người biết chữ, khác xa về chất so với hình
ảnh vật lý có tính chất “chết cứng”, hình ảnh vật chất của chính cuốn sách đó ở trong
gương.
Sự phản ánh tâm lý mang tính sinh động, sáng tạo do nhiều yếu tố chi phối: giới
tính, hoàn cảnh, thời đại, nền văn hóa, giai cấp, lứa tuổi, giáo dục, đặc điểm giải phẫu
sinh lý, trạng thái tâm sinh lý, nghề nghiệp…Nếu các yếu tố này khác nhau thì sự phản
ánh sẽ khác nhau.
- Tính chủ thể: là sự phản ánh tâm lý mang đậm màu sắc cá nhân (hay nhóm
người) mang hình ảnh tâm lý đó, hay nói khác đi, hình ảnh tâm lý là hình ảnh chủ quan
về thế giới khách quan. Tính chủ thể của hình ảnh tâm lý thể hiện ở chỗ: mỗi chủ thể,
trong khi tạo ra hình ảnh tâm lý về thế giới đã đưa vốn hiểu biết, vốn kinh nghiệm, đưa
cái riêng của mình (về nhu cầu, xu hướng, tính khí, năng lực)… vào trong hình ảnh đó,
làm cho nó mang đậm màu sắc chủ quan.
Tuy nhiên, không phải cứ hiện thực khách quan trực tiếp tác động vào giác quan

và não là có hình ảnh phản ánh tâm lý. Mà muốn có hình ảnh phản ánh tâm lý phải
thông qua con đường gián tiếp hoạt động (cầm, nắm, đo, đếm, sờ, mó,...) của mỗi cá
nhân thì thuộc tính của sự vật hiện tượng mới được bộc lộ, con người mới cảm nhận
được, mới có hiện tượng phản ánh tâm lý.
2


Qua việc phân tích luận điểm một của bản chất hiện tượng tâm lý người, ta có thể
rút ra một số kết luận cơ bản sau:
- Tâm lý người có nguồn gốc hiện thực khách quan, vì thế, khi nghiên cứu cũng
như khi hình thành, cải tạo tâm lý người, phải nghiên cứu hoàn cảnh trong đó con
người sống và hoạt động.
- Tâm lý người mang tính chủ thể, vì thế, trong dạy học cũng như trong ứng xử,
phải chú ý nguyên tắc quan sát đối tượng (tức chú ý đến đặc điểm riêng của con
người).
- Tâm lý người là sản phẩm của hoạt động và giao tiếp, vì thế phải tổ chức hoạt
động và các quan hệ giao tiếp để nghiên cứu sự hình thành và phát triển tâm lý con
người.
2- Tâm lý là chức năng của não
Mối liên hệ giữa não và tâm lý là một trong những vấn đề cơ bản của việc lý giải cơ
sở tự nhiên, cơ sở vật chất của hiện tượng tâm lý người.
Khi có hiện thực khách quan tác động vào não, bộ não tiếp nhận tác động của
hiện thực khách quan dưới dạng các xung động thần kinh, cùng với những biến đổi lý
hóa ở từng nơ-ron thần kinh, từng xi-náp, các trung khu thần kinh ở bộ phận dưới vỏ và
vỏ não, làm cho bộ não hoạt động theo các quy luật thần kinh, tạo nên hiện tượng tâm
lý này hay hiện tượng tâm lý khác theo cơ chế phản xạ.
Như vậy, tâm lý là kết quả của hệ thống chức năng những hoạt động phản xạ của
não. Vì vậy, các hiện tượng tâm lý vừa là hoạt động phản ánh, vừa là hoạt động phản
xạ.
Tuy nhiên:

- Không phải cứ có não và vỏ não là có hiện tượng tâm lý. Đó mới là điều kiện
cần, cái quyết định tâm lý là ở chỗ: não phải ở trạng thái hoạt động mới có tâm lý.
- Tâm lý không phải do não sinh ra giống như gan tiết ra mật, mà não chỉ quy
định hình thức biểu hiện của hiện tượng tâm lý. Đó là quy định về tốc độ biểu hiện
nhanh hay chậm, cường độ mạnh hay yếu của hiện tượng tâm lý. Còn nội dung của
hiện tượng tâm lý do hiện thực khách quan, do kinh nghiệm sống, do hoạt động của cá
nhân quy định.
3- Tâm lý là kinh nghiệm xã hội, lịch sử của loài người biến thành cái riêng
của từng người
Tâm lý người bao giờ cũng phản ánh hiện thực khách quan, mang bản chất xã
hội, mang tính lịch sử của những điều kiện mà con người là một thành viên sống và
hoạt động. Do đó, tâm lý người bao giờ cũng mang bản chất xã hội và mang tính lịch
sử.
3


 Bản chất xã hội của hiện tượng tâm lý

Bản chất xã hội của hiện tượng tâm lý thể hiện ở nội dung xã hội và nguồn gốc xã
hội.
- Nội dung xã hội: Tâm lý người là sản phẩm của hoạt động và giao lưu của
con người trong các quan hệ xã hội. Vì thế, tâm lý người mang đầy đủ dấu ấn xã hội lịch sử của loài người mà họ là một thành viên sống và hoạt động trong xã hội đó.
- Nguồn gốc xã hội: Tâm lý người có nguồn gốc là hiện thực khách quan (thế
giới tự nhiên, thế giới xã hội), trong đó, nguồn gốc xã hội là cái quyết định tâm lý con
người, thể hiện qua các mối quan hệ xã hội: đó là quan hệ đạo đức, pháp quyền, quan
hệ giữa con người với con người, quan hệ gia đình, làng xóm, cộng đồng,... Các quan
hệ này quyết định bản chất tâm lý người. Nếu thoát ly khỏi các quan hệ này thì tâm lý
con người sẽ mất bản tính con người, hoặc rối loạn, hoặc phát triển không bình thường.
Trong thực tế, người ta đã tìm được những đứa trẻ bị thú nuôi. Ở những đứa trẻ
này, về cấu tạo, hình hài là một con người, nhưng không có các phẩm chất tâm lý

người. Chúng không có dáng đứng thẳng và không đi bằng hai chân, không có khả
năng tư duy bằng ngôn ngữ, không có khả năng lao động sáng tạo...
 Tính lịch sử của hiện tượng tâm lý

Tâm lý của mỗi cá nhân là kết quả của quá trình tiếp thu và lĩnh hội vốn kinh
nghiệm xã hội, nền văn hóa xã hội thông qua hoạt động và giao tiếp mà ở đó giáo dục
giữ vai trò chủ đạo. Trong tất cả các yếu tố trên, hoạt động của con người và mối quan
hệ giao tiếp của con người trong xã hội có tính quyết định.
Chính vì thế, tâm lý của mỗi cá nhân vừa mang những nét chung, đặc trưng lịch
sử - xã hội, vừa mang nét riêng tạo nên bản sắc của mỗi cá nhân. Bởi vậy:
- Trong quan hệ cuộc sống, đặc biệt trong công tác giáo dục, chúng ta nên đến
với đối tượng bằng con mắt khả quan, đừng đến với đối tượng bằng con mắt định kiến.
- Để mở rộng thế giới tâm lý, tinh thần của con người phong phú, cần mở rộng
các mối quan hệ trong xã hội. Tục ngữ, ca dao có câu rằng: Có đi thì mới tới nơi/ Ở
nhà với mẹ biết ngày nào khôn.
Kết luận: Ba luận điểm trên giúp chúng ta hiểu một cách khoa học về bản chất
hiện tượng tâm lý người.
Tâm lý người là hiện tượng tinh thần do hiện thực khách quan tác động vào giác
quan và não một con người cụ thể gây ra, có tính xã hội - lịch sử, tính giai cấp, tính dân
tộc, mang màu sắc riêng của bản thân mỗi người.
2-

Phân loại hiện tượng tâm lý

4


Có nhiều cách phân loại hiện tượng tâm lý. Song, cách phân loại phổ biến là dựa
theo thời gian tồn tại của chúng và vị trí tương đối của chúng trong nhân cách. Theo
cách này, người ta chia ra ba loại chính.

a) Quá trình tâm lý
Là những hiện tượng tâm lý diễn ra có mở đầu, có diễn biến và có kết thúc.
Quá trình tâm lý thường diễn ra trong một thời gian ngắn, kết thúc tương đối rõ
ràng, bao gồm:


Quá trình nhận thức
Là quá trình phản ánh bản thân các sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách
quan.
Dựa vào lý luận nhận thức của triết học Mark, người ta chia ra ở con người có các
quá trình nhận thức sau:
- Nhận thức cảm tính: là quá trình phản ánh những thuộc tính bên ngoài không
bản chất của sự vật, hiện tượng khi chúng trực tiếp tác động vào các giác quan. Nhờ có
nhận thức cảm tính mà con người hiểu biết về thế giới khách quan. Nó diễn ra với hai
giai đoạn nhận thức: Cảm giác và Tri giác.
- Nhận thức trung gian: phản ánh thuộc tính khái quát bên ngoài không bản
chất của một nhóm sự vật, hiện tượng cùng loại; giúp con người lưu giữ được hình ảnh
của sự vật, hiện tượng khi chúng thôi không còn trực tiếp tác động. Đó là quá trình Trí
nhớ.
- Nhận thức lý tính: phản ánh những thuộc tính bản chất, những mối liên hệ,
quan hệ có tính quy luật của sự vật, hiện tượng mà trước đó, con người chưa biết. Nhờ
có nhận thức lý tính mà con người cải tạo được thế giới khách quan. Nó diễn ra với hai
giai đoạn nhận thức: Tư duy và Tưởng tượng.

 Quá trình xúc cảm
Là sự biểu thị thái độ của con người đối với đối tượng mà con người nhận thức
được như: sự hài lòng, phấn khởi, buồn phiền, thất vọng, lo âu, chán nản
 Ý chí và hành động ý chí

Là quá trình con người tác động vào thế giới khách quan nhằm cải tạo thế giới

khách quan.
b) Trạng thái tâm lý
Là hiện tượng tâm lý diễn ra trong một thời gian dài, việc mở đầu và kết thúc
thường không rõ ràng, ví như: Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao
tôi buồn (Xuân Diệu)
5


Các trạng thái tâm lý thường gặp: bâng khuâng, do dự, hồi hộp, lo lắng, chú ý…
c) Thuộc tính tâm lý
Là những hiện tượng tâm lý tương đối ổn định, khó hình thành và khó mất đi, tạo
thành những nét riêng của nhân cách, chi phối các quá trình tâm lý và trạng thái tâm lý
của con người. Bao gồm các thuộc tính sau:
- Xu hướng: mặt chỉ đạo của nhân cách.
- Tính cách: mặt bản chất của nhân cách.
- Khí chất: sắc thái biểu hiện của nhân cách.
- Năng lực: khả năng hiện thực của một nhân cách.

Bài 2
MỘT SỐ VẤN ĐỀ TÂM LÝ CỦA HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC
Khái niệm chung

I-

1-

Qúa trình dạy học là gì?

Là quá trình tổ chức điều khiển hoạt động nhận thức của người học nhằm đạt
được mục đích dạy học

2-

Xét về mục đích quá trình dạy học
Là quá trình truyền thụ (phía giáo viên) và lĩnh hội (phía người học) những yếu tố
tích cực trong nền văn hóa của dân tộc và nhân loại nhằm “tái tạo ở người học những
năng lực bản chất người” để phát triển thành con người thực sự.

3-

Xét về mặt thực hiện
Để đạt được mục đích của quá trình dạy học, nó được thực hiện thông qua 2 con
đường, đó là: Hoạt động (gồm hoạt động của người giáo viên và hoạt động của người
học) và hoạt động giao lưu ( gồm giao lưu giữa người dạy và người học, giữa người
học với người học)
Các quy luật tâm lý của quá trình dạy học

II1.

Quy luật về sự thống nhất giữa nhận thức cảm tính và lý tính trong dạy học
Một trong những nhiệm vụ cơ bản của quá trình dạy học là tổ chức và điều khiển
học sinh lĩnh hội một hệ thống các khái niệm khoa học ( tức thông qua việc truyền thụ
6


người học phải nắm được thuộc tính bản chất, những mối liên hệ và quan hệ có tính qui
luật của sự vật hiện tượng)
Bản chất của sự lĩnh hội là quá trình nhận thức. Vì vậy, để đạt đến chất lượng của
dạy học, giáo viên phải tính toán và áp dụng đúng quy luật này vào việc điều khiển quá
trình nhận thức của học sinh.
Quá trình nhận thức hệ thống các khái niệm khoa học là một quá trình phức tạp.

Nó đi từ nhận thức cảm tính đến nhận thức lý tính, qua hoạt động của các giác quan.
Học sinh thu thập tài liệu dưới dạng các hình ảnh, các sự kiện, sự mô tả… Sau đó, bằng
các thao tác phân tích, tổng hợp, khái quát … đi đến những khái niệm, những hiểu biết.
Hai giai đoạn nhận thức có đặc điểm, vai trò, ý nghĩa tương đối độc lập, song nó
có mối quan hệ mật thiết, xen kẽ và ảnh hưởng lẫn nhau.
Để đạt đến sự nhận thức đầy đủ, chính xác, phải là sự hoạt động phối hợp và
thống nhất của cả hai giai đoạn trên. Vì vậy, người thầy cần coi trọng cả hai giai đoạn
nhận thức trong quá trình dạy học. Nếu trong dạy học, giáo viên chỉ coi trọng và nặng
về nhận thức cảm tính, chỉ có thể hình thành những khái niệm đời sống, hoặc rơi vào
kinh nghiệm chủ nghĩa. Còn nếu trong dạy học, giáo viên chỉ coi trọng và nặng về nhận
thức lý tính, sẽ làm cho học sinh khó hiểu hoặc rơi vào lý thuyết suông.
Ngoài ra, muốn nhận thức cảm tính thật sự trở thành tài liệu của tư duy để hình
thành khái niệm, giáo viên phải hướng dẫn học sinh thu thập các tài liệu cần thiết cho
việc hình thành khái niệm đó.
2. Quy luật về sự thống nhất giữa năng lực của giáo viên với sự phát triển
năng lực của học sinh.
Một trong những nhiệm vụ cơ bản nữa của dạy học là hình thành và phát triển
năng lực cho học sinh. Đó là năng lực nhận thức và năng lực hành động. Nhiệm vụ này
được thực hiện thông qua việc giảng dạy các môn học trong nhà trường.
Các công trình nghiên cứu về tâm lý học dạy học đã chỉ ra rằng, sự phát triển
năng lực của học sinh, diễn ra trong nhà trường, chịu sự quy định một cách tương đối
bởi năng lực của giáo viên.
Vậy những năng lực cần hình thành và phát triển ở học sinh phụ thuộc vào
những năng lực nào của giáo viên?
Thứ nhất, đó là phụ thuộc vào năng lực chuyên môn của giáo viên. Cụ thể là sự
hiểu biết sâu sắc về tri thức bộ môn mình dạy, những hiểu biết cần thiết những bộ môn
liên quan, và những hiểu biết nhất định của thực tiễn, liên quan tới chuyên môn của
7



giáo viên. Năng lực này của giáo viên ảnh hưởng trực tiếp đến độ sâu, rộng, tính thực
tiễn của những khái niệm và tri thức khoa học mà học sinh lĩnh hội được.
Vì thế, người giáo viên cần không ngừng tự học hỏi lý thuyết, tiếp cận những tri
thức khoa học hiện đại, nghiên cứu khoa học, tìm hiểu thực tiễn …
Thứ hai, đó là phụ thuộc vào năng lực sư phạm và nhất là phương pháp giảng dạy
bộ môn, vì phương pháp giảng dạy của giáo viên phần nào ảnh hưởng trực tiếp đến
phương pháp học của học sinh, ảnh hưởng cách nhìn và cách suy nghĩ của họ.
Thực tế, cũng như các công trình nghiên cứu cho thấy, nhiều giáo viên rất vững
vàng về tri thức chuyên môn, nhưng không có phương pháp thích hợp nên hiệu quả dạy
học không cao, không phát huy được tính tích cực của học sinh.
3. Quy luật về sự thống nhất giữa tính tích cực nhận thức với động cơ nhận
thức.
Tính tích cực nhận thức của người học biểu hiện ở sự tập trung chú ý, tích cực
tìm tòi, động não với sự tự giác và hứng thú cao… Đây là điều kiện tâm lý có vai trò
quan trọng trong dạy học. Đối với hoạt động giảng dạy của giáo viên, nó là cơ sở để
xây dựng các phương pháp dạy học tích cực. Đối với hoạt động học của người học, nó
có ảnh hưởng quyết định đến kết quả lĩnh hội tri thức. Vì vậy, hình thành tính tích cực
nhận thức của người học có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao chất lượng của quá
trình dạy học.
Vậy tính tích cực nhận thức của người học phụ thuộc vào yếu tố nào và được
hình thành ra sao?
Các kết quả nghiên cứu cho thấy, tính tích cực nhận thức phụ thuộc một cách
tương ứng vào động cơ nhận thức. Cho nên, trong dạy học, để hình thành tính tích cực
nhận thức ở người học, chủ yếu phải xuất phát từ việc hình thành các động cơ nhận
thức.
Động cơ nhận thức được hiểu là các yếu tố thúc đẩy hoạt động nhận thức. Có hai
loại động cơ nhận thức:
- Thứ nhất, động cơ hoàn thiện tri thức: trong học tập, cái thúc đẩy học sinh
tích cực học tập là ở bản thân tri thức, ở nhu cầu muốn được hoàn thiện tri thức. Việc
học tập được thúc đẩy bởi động cơ này là lý tưởng về mặt sư phạm, khi đó việc học

không gặp trở ngại bởi những mâu thuẫn bên trong bản thân người học.
- Thứ hai, động cơ quan hệ xã hội: cái thúc đẩy học sinh tích cực học tập ở bên
ngoài tri thức, nhưng muốn đạt được phải thông qua tri thức. Ví dụ như thích điểm cao,
mong đợi ở tương lai, vì thương cha mẹ, do sĩ diện, vì thi đua …
8


Thứ bậc của hai loại động cơ trên có thể hoán đổi tùy theo từng trường hợp cụ
thể. Tuy nhiên, về mặt sư phạm, động cơ hoàn thiện tri thức vẫn ở thứ bậc cao hơn cả.
Hoạt động giảng dạy của giáo viên

III1-

Khái niệm hoạt động giảng dạy
Là hoạt động của giáo viên bao gồm việc tổ chức và điều khiển hoạt động học
của học sinh, giúp học sinh lĩnh hội nền văn hóa xã hội, tạo ra sự phát triển tâm lý và
hoàn thiện nhân cách của họ.

2- Mục đích của hoạt động giảng dạy

Nhằm giúp người học lĩnh hội nền văn hóa xã hội, tạo ra sự phát triển tâm lý và
hoàn thiện nhân cách.
3- Bằng cách nào để đạt mục đích?

Để đạt được mục đích trên, phải thông qua hoạt động dạy. Trong hoạt động này,
giáo viên là chủ thể của hoạt động. Chức năng của giáo viên trong hoạt động dạy
không nhằm sáng tạo ra tri thức mới cho nhân loại, cũng không tái tạo tri thức cũ cho
bản thân, mà chủ yếu là tổ chức quá trình tái tạo này ở học sinh. Muốn vậy, điều quan
trọng trong hoạt động dạy là phải tạo ra được tính tích cực trong hoạt động học của
người học, nghĩa là làm cho người học vừa ý thức được đối tượng cần lĩnh hội, vừa biết

cách lĩnh hội đối tượng đó. Chính tính tích cực của học sinh trong hoạt động học quyết
định chất lượng học tập. Do vậy, trong lý luận dạy học, người ta khẳng định chất lượng
học tập phụ thuộc vào trình độ tổ chức và điều khiển hoạt động học của người thầy.
Như thế, hai hoạt động dạy và học được tiến hành do hai chủ thể khác nhau (thầy
và trò) thực hiện hai chức năng khác nhau (tổ chức và lĩnh hội), nhưng gắn bó chặt chẽ
với nhau. Hoạt động dạy diễn ra là để tổ chức và điều khiển hoạt động học, còn hoạt
động học là cơ sở để hoạt động dạy được diễn ra đúng mục đích ban đầu.
4-

Các yếu tố tâm lý của hoạt động giảng dạy
Hoạt động dạy nếu xét riêng nó được cấu trúc bởi 3 thành tố:

a.

Thành tố thiết kế (giai đoạn chuẩn bị)
Hoạt động dạy của giáo viên được bắt đầu từ việc thiết kế những giờ học trong
và ngoài lớp (phòng thí nghiệm, xưởng thực tập, ngoài vườn trường…), bao gồm
những việc như lựa chọn tài liệu học tập, chế biến tài liệu và xây dựng phương pháp
dạy cho phù hợp với nội dung, chương trình và đặc điểm đối tượng người học.

9


Tất cả những công việc trên, cuối cùng, được thể hiện ở giáo án chi tiết gồm có
nội dung, phương pháp, phương tiện, hệ thống hoạt động có tính nhất quán của giáo
viên và học sinh.
Như vậy, thiết kế một giờ học (trong và ngoài lớp) là giai đoạn chuẩn bị của hoạt
động dạy. Nếu chuẩn bị tích cực và chu đáo, sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sự thành
công của hoạt động dạy nói riêng, và của quá trình dạy học nói chung.
Để thiết kế một giáo án chi tiết, chu đáo, qui định rõ hoạt động của thầy, qui định

rõ hoạt động của trò, đòi hỏi người giáo viên cần phải có:
+ Lương tâm, trách nhiệm với công việc, với học sinh của mình như những đặc
điểm nhân cách của người giáo viên. Có như vậy người giáo viên mới lựa chọn, chế
biến nội dung tài liệu học tập dù khó đến mấy cũng trở nên dễ và vừa với người học.
+ Người giáo viên phải có chuyên môn sâu, có nghiệp vụ giỏi. Có như vậy, người
giáo viên mới lựa chọn, chế biến tài liệu mang tính vừa sức phù hợp với khả năng nhận
thức của người học.
+ Để đảm bảo chất lượng lĩnh hội khái niệm khoa học ở người học, đòi hỏi người
giáo viên phải tìm kiếm nhiều con đường ( phương pháp) để tác động vào tư duy tích
cực nhận thức ở người học.
b.

Thành tố tổ chức
Thành tố tổ chức là một thành tố quan trọng trong cấu trúc của hoạt động dạy.
Yếu tố này không tách rời thành tố thiết kế ở giai đoạn chuẩn bị. Chúng tạo nên một
chỉnh thể thống nhất. Những gì giáo viên chuẩn bị để tiến hành trong quá trình dạy học,
cần phải gắn bó chặt chẽ với kỹ năng tổ chức toàn bộ quá trình đó. Nếu thiếu sự gắn bó
này, không thể truyền thụ tri thức cho học sinh được.
Thực tiễn dạy học đã chứng minh, có những giáo viên mới đứng lớp, soạn giáo án
và chuẩn bị bài rất tốt, chu đáo, nhưng giờ học không thu được kết quả như mong
muốn, vì bản thân giáo viên không có kỹ năng thực hiện giờ dạy trên lớp. Ngược lại,
có những giáo viên trước khi lên lớp soạn bài đại khái qua loa, thậm chí có những nội
dung giáo viên trình bày còn nắm không rõ, nhưng khi ra trình bày thành công ở mức
độ nhất định. Vậy để tạo nên chất lượng trọn vẹn của giờ dạy nó phụ thuộc vào những
kỹ năng cơ bản nào ?
Để tổ chức tốt một giờ học trên lớp, giáo viên cần có các kỹ năng cơ bản sau:
- Kỹ năng trình bày tài liệu: Để có kỹ năng này, giáo viên phải luyện tập ngôn
ngữ nói, ngôn ngữ viết, tập sử dụng các phương tiện dạy học như tranh ảnh, mô hình,
vật thật,… Biểu hiện cụ thể của kỹ năng này là sự nói năng lưu loát, ngắn gọn, rõ ràng;
10



trình bày bảng khoa học; tranh ảnh, mô hình, vật thật…được sử dụng, khai thác để tổ
chức hoạt động học cho học sinh một cách tích cực và hiệu quả.
- Kỹ năng làm chủ hành vi của bản thân: Đây cũng là một kỹ năng quan trọng
của giáo viên để tổ chức tốt một giờ lên lớp. Những lúng túng trong ngôn ngữ và cử
chỉ, dáng điệu, đi đứng, nét mặt…của giáo viên, việc không biết kiềm chế những trạng
thái tâm lý bất lợi như nổi nóng, bực dọc…đều gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đến
học sinh và có thể là nguyên nhân làm cho giờ học không đạt được kết quả mong
muốn.
- Kỹ năng điều khiển hoạt động nhận thức của học sinh: Thực chất của quá trình
lĩnh hội tri thức là quá trình nhận thức. Vì vậy, để giúp học sinh đạt đến sự lĩnh hội sâu
sắc, giáo viên phải có kỹ năng điều khiển hoạt động nhận thức của họ trong quá trình
dạy học. Kỹ năng này thể hiện ở khả năng định hướng và điều khiển các hoạt động như
quan sát, gợi nhớ, suy nghĩ; khả năng tổ chức, hướng dẫn học sinh thu thập các thông
tin cần thiết cho việc hình thành các khái niệm, lĩnh hội tri thức.
- Kỹ năng kiểm tra và đánh giá tiến trình dạy học: thể hiện ở khả năng kiểm soát
và đánh giá từng giai đoạn của quá trình lên lớp; đánh giá hành vi và ngôn ngữ của
mình; các phản ứng (tích cực và tiêu cực) ở học sinh cũng như kết quả học tập của họ.
Việc đánh giá này giúp giáo viên điều chỉnh kịp thời hoạt động dạy và học, làm cho giờ
học đi đúng hướng và nhờ đó mà có thể điều khiển toàn bộ quá trình dạy học đạt được
những mục tiêu đặt ra.
Các kỹ năng cụ thể trên có liên hệ chặt chẽ với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau và tổng
hợp chúng lại sẽ góp phần tạo nên chất lượng trọn vẹn của giờ lên lớp. Do đó, để có thể
tổ chức tốt giờ lên lớp, giáo viên cần phải có đầy đủ các kỹ năng trên.
c.

Thành tố giao lưu
Đây là mối quan hệ giao lưu giữa giáo viên với học sinh và giữa học sinh với học
sinh. Các quan hệ giao lưu này là yếu tố quan trọng của hoạt động dạy và có ảnh hưởng

đến hai yếu tố trên.
- Giao lưu giữa giáo viên và học sinh
Thực tiễn cho thấy, nếu quan hệ giao lưu thầy trò tốt đẹp (thầy yêu mến trò, trò
kính trọng thầy) thì điều đó sẽ động viên người thầy toàn tâm toàn ý trong việc chuẩn
bị và tạo sự hứng thú khi đứng lớp. Đồng thời điều đó cũng tạo những xúc cảm tích cực
cho học sinh trong quá trình lĩnh hội. Đôi khi chỉ vì quan hệ thầy - trò chưa tốt (lỗi là ở
thầy) mà học sinh trở nên bất kính, bất phục và bất tuân. Việc làm này khiến cho học
sinh uể oải, chán nản trong giờ học, gây trở ngại rất lớn cho sự lĩnh hội.
Trong mối quan hệ giao lưu này, ngoài việc giáo viên cần có thái độ đối xử tích
cực với tập thể lớp, còn phải lưu ý đến việc đối xử với từng học sinh. Nhận biết và tính
đến những đặc điểm tâm sinh lý, hoàn cảnh…của từng em, biết được những khó khăn

11


và thuận lợi trong học tập của từng học sinh để có những biện pháp giúp đỡ và đối xử
thích hợp.
- Giao lưu giữa học sinh với học sinh
Trong quá trình dạy học, người thầy không chỉ tác động đến một hay vài học sinh
mà đến cả một tập thể học sinh. Do vậy, chất lượng của quá trình dạy học còn phụ
thuộc vào mối quan hệ giao lưu giữa các cá nhân học sinh trong tập thể đó với nhau.
Ngoài ra, ngay cả tác phong của giáo viên đối với học sinh trong rất nhiều trường
hợp cũng ảnh hưởng đến quan hệ giao lưu giữa học sinh với học sinh. Ví dụ, nếu giáo
viên có thái độ tích cực đối với học sinh (thể hiện thiện chí của mình, thấy rõ những ưu
điểm và những khó khăn của học sinh, động viên học sinh giúp đỡ lẫn nhau...) thì học
sinh sẽ thân thiện với nhau hơn, đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau và tạo nên bầu không khí
tâm lý thuận lợi cho hoạt động dạy nói riêng và giáo dục nói chung.
Như vậy, các quan hệ giao lưu nói trên phụ thuộc rất nhiều vào thái độ của giáo
viên đối với học sinh. Đây là thành tố quan trọng và có quan hệ mật thiết với các thành
tố khác để tạo nên cấu trúc trọn vẹn của hoạt động

IV-

Hoạt động học và các vấn đề cơ bản của hoạt học
Sự học là gì ?
Con người từ khi sinh ra đến lúc nhắm mắt xuôi tay, để lĩnh hội kinh nghiệm
xã hội đảm bảo sự tồn tại và phát triển, người ta có rất nhiều cách học khác nhau:
+ Học 1 cách ngẫu nhiên trong cuộc sống đời thường: thông qua một hoạt
động nào đó thì rút kinh nghiệm.
+ Học bất cứ lúc nào, ở bất cứ đâu, thông qua lao động sản xuất, giao tiếp, đọc
sách báo, qua các phương tiện truyền thống ...
Như vậy, trong quá trình tồn tại và phát triển bất cứ lúc nào con người cũng
học được một cái gì đó. Việc học như vậy người ta gọi là học một cách ngẫu nhiên
(học không chủ định) hay còn gọi là sự học.
“ Sự học là khái niệm dùng để chỉ việc học diễn ra theo phương thức thường
ngày, tức là: Việc nắm được tri thức, kinh nghiệm, hình thành kỹ năng, kỹ xảo, cũng
như các phương thức hành vi khác thông qua việc thực hiện một hoạt động khác trong
cuộc sống hàng ngày”. Điều đó có nghĩa là, những kinh nghiệm con người tiếp thu
được không phải là mục đích mà chỉ là kết quả phụ thu được trong hoạt động.
Kết quả của sự học chỉ mang lại: những tri thức tiền khoa học, có tính chất
ngẫu nhiên, rời rạc không hệ thống; chỉ lĩnh hội những gì liên quan trực tiếp tới nhu
cầu, hứng thú, nhiệm vụ trước mắt, còn cái gì không liên quan bỏ qua; sự học chỉ hình
thành những năng lực thực tiễn do kinh nghiệm hàng ngày trực tiếp mang lại; những
kinh nghiệm lĩnh hội qua cách học này không phù hợp với những mục tiêu trực tiếp
của chính hoạt động hay hành vi
1-

12


Song thực tiễn lại đòi hỏi con người phải có những tri thức khoa học thực sự,

phải hình thành những năng lực thực tiến mới mà cách học “ ngẫu nhiên” dựa trên cơ
sở hoạt động sống “tự nhiên” không thể mang lại
Để đạt được điều này, cần phải có một hoạt động đặc biệt- mục đích cơ bản
của nó chính là học – Mục đích cơ bản của hoạt động chính là học – được gọi là hoạt
động học ( hay còn gọi là học có chủ đích)
2-

Khái niệm về hoạt động học tập
Hoạt động học là hoạt động đặc thù của con người, được điều khiển bởi mục
đích tự giác, là lĩnh hội những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo mới, những hình thức hành vi
và những dạng hoạt động nhất định.

3-

Bản chất của hoạt động học tập
Hoạt động học khác với các hoạt động khác được thể hiện ở các bản chất sau:
a) Đối tượng của hoạt động học là tri thức và những kỹ năng, kỹ xảo tương

ứng với nó.
Hoạt động học nhằm hướng tới mục đích là chiếm lĩnh tri thức xã hội, thông qua
sự tái tạo ở mỗi cá nhân.
Sự tái tạo này sẽ không thực hiện được, nếu người học chỉ là khách thể bị động
của những tác động sư phạm; hoặc, nếu những tri thức này chỉ được truyền cho người
học theo cơ chế một chiều, kiểu máy phát và máy thu (người dạy - người học).
Muốn học có kết quả, người học phải tích cực tiến hành các hành động học tập,
bằng chính ý thức tự giác và khả năng, kinh nghiệm của bản thân, có nghĩa học sinh
phải thực sự là chủ thể của hoạt động học, còn tri thức, kỹ năng, kỹ xảo là đối tượng
của hoạt động học.
b) Hoạt động học là hoạt động hướng vào làm thay đổi chính mình.


Thông thường, các hoạt động khác đều hướng vào làm thay đổi đối tượng của
hoạt động, trong khi đó hoạt động học lại làm thay đổi chính chủ thể hoạt động.
Sở dĩ như vậy, vì tri thức mà loài người tích lũy được là đối tượng của hoạt động
học. Nội dung của tri thức này không hề bị thay đổi sau khi chủ thể học sinh chiếm lĩnh
nó, và nhờ sự chiếm lĩnh này, tâm lý chủ thể học sinh biến đổi và phát triển.
Do vậy, người học càng ý thức được mục đích học tập sâu sắc bao nhiêu, thì sự
thay đổi và phát triển tâm lý diễn ra càng mạnh mẽ bấy nhiêu.
c) Hoạt động học là hoạt động được điều khiển một cách có ý thức, nhằm tiếp

thu tri thức, kỹ năng, kỹ xảo.
13


Trước hết, sự tiếp thu này có thể diễn ra trong hoạt động thực tiễn như lao động,
vui chơi, giao lưu… Đó là sự tiếp thu diễn ra sau khi chủ thể hoạt động trong một tình
huống cụ thể. Những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo tiếp thu trong các tình huống này thường
mang tính chất kinh nghiệm, chỉ giúp học sinh hoạt động có kết quả trong tình huống
xác định giống như tình huống đã gặp. Kinh nghiệm được hình thành như vậy không có
tính hệ thống, chưa được khái quát và khó có thể giúp cho cá nhân giải quyết những
nhiệm vụ đa dạng của thực tiễn.
Trái lại, sự tiếp thu tri thức, kỹ năng, kỹ xảo trong hoạt động học được điều khiển
bởi mục đích tự giác là mục tiêu đào tạo. Đối tượng tiếp thu chính là mục đích của hoạt
động học tập. Hay nói khác đi, những tri thức học sinh cần phải tiếp thu là những tri
thức được chọn lọc, tinh chế và được tổ chức lại trong một hệ thống nhất định, được cụ
thể hóa trong chương trình đào tạo. Những tri thức này không chỉ cần thiết và thích hợp
cho việc giải quyết một tình huống cụ thể nào đó, mà còn cần thiết và thích hợp để giải
quyết những nhiệm vụ đa dạng của cuộc sống.
d) Hoạt động học không chỉ hướng vào việc tiếp thu tri thức, kỹ năng, kỹ xảo mới , mà còn

hướng vào tiếp thu cả những tri thức của chính bản thân hoạt động, nói cách khác là

tiếp thu được cả phương pháp giành tri thức đó (cách học).
Muốn cho hoạt động học đạt được hiệu quả, người học phải biết cách học, nghĩa
là phải có những tri thức về bản thân hoạt động học. Tuy vậy, sự tiếp thu loại tri thức
này không thể diễn ra một cách độc lập, tách rời với tiếp thu tri thức, mà diễn ra đồng
thời với việc tiếp thu tri thức.
Do đó, khi tổ chức hoạt động học cho học sinh, người dạy vừa phải ý thức được
những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo nào cần hình thành ở học sinh; vừa phải ý thức được
con đường, cách thức mà học sinh thực hiện để chiếm lĩnh tri thức đó, để thông qua
việc tổ chức sự lĩnh hội cho học sinh mà hình thành cách học ở họ.
4-

Các vấn đề cơ bản của hoạt động học

a. Đối tượng của hoạt động học là tri thức - kỹ năng - kỹ xảo,

Những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo mà học sinh học trong nhà trường, được lựa
chọn từ những khoa học khác nhau, theo logic nhận thức và lôgíc sư phạm, có nghĩa là,
từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp và phục vụ cho mục tiêu đào tạo, làm thành
những môn học khác nhau.
Như vậy, đối tượng của hoạt động học được thể hiện ở chương trình các môn học
mà trong đó, cụ thể là hệ thống các khái niệm - kỹ năng - kỹ xảo. Do đó, đối tượng của
hoạt động học, có liên quan chặt chẽ với đối tượng của khoa học.

14


Ta thấy giữa hoạt động học (lĩnh hội) của học sinh và hoạt động nghiên cứu (phát
hiện) của nhà khoa học vừa có sự giống nhau, lại vừa khác nhau. Giống nhau, vì đều là
hoạt động nhận thức, khác nhau, vì hoạt động nhận thức của học sinh có tính độc đáo
so với hoạt động nhận thức của nhà khoa học. Học sinh nhận thức trong những điều

kiện sư phạm nhất định.
- Nếu quá trình nghiên cứu của nhà khoa học diễn ra theo con đường tự tìm
tòi, theo nguyên tắc thử và sai, thì hoạt động học của học sinh diễn ra theo
con đường đã được khám phá. Do vậy, trong một thời gian ngắn, học sinh có
thể lĩnh hội một hệ thống tri thức mà các nhà khoa học đã mất nhiều thời
gian mới khám phá được.
- Nếu nhà khoa học phải đảm đương nhiệm vụ khó khăn là độc lập, đi vào
những bí ẩn của thế giới, để phát hiện và chứng minh những cái mà loài
người chưa hề biết trong tự nhiên, xã hội và tư duy để tìm ra những chân lý
mới cho nhân loại, thì hoạt động học của học sinh là để tái tạo những tri
thức đó cho bản thân.
- Tính độc đáo của hoạt động học của học sinh còn thể hiện ở chỗ được củng
cố, kiểm tra và đánh giá.
b. Nhiệm vụ của hoạt động học
Trong học tập, mục đích bao trùm là chiếm lĩnh đối tượng của hoạt động học, đó
là hệ thống tri thức - kỹ năng - kỹ xảo trong chương trình đào tạo.
Trong thực tế, học sinh chiếm lĩnh hệ thống tri thức này, bằng cách thực hiện các
nhiệm vụ học tập tương ứng, do giáo viên giao cho. Vậy làm cách nào để thiết lập hệ
thống các nhiệm vụ học tập đó?
Vì đối tượng của học tập được cụ thể hóa ở hệ thống các khái niệm - kỹ năng kỹ xảo, nên việc thiết lập hệ thống các nhiệm vụ học tập không thể tùy tiện. Nó phải
tuân theo logic chặt chẽ của đối tượng học tập. Có nghĩa là, các nhiệm vụ học tập phải
được làm thành một hệ thống đúng theo logic của hệ thống khái niệm - kỹ năng - kỹ
xảo có trong chương trình. Hay nói khác đi, đối tượng tiến triển tới đâu, thì nhiệm vụ
giao cho tới đó.
Trong thực tế, hệ thống các nhiệm vụ học tập thường được đưa đến cho học sinh
dưới nhiều hình thức, như hệ thống các câu hỏi, các yêu cầu, các bài tập, bài toán hoặc
các thao tác,...
c. Phương tiện của hoạt động học
Với mọi hoạt động, để tác động vào đối tượng thì chủ thể cần có phương tiện,
công cụ nhất định. Nếu phương tiện hoạt động tốt, thích hợp, thì việc tác động đến đối

tượng sẽ thuận lợi và đạt kết quả cao.
15


Vậy để hoạt động học đạt hiệu quả, cần có các phương tiện nào?
- Thứ nhất: là các hành động học tập
Các hành động học tập như phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát hóa, cụ thể
hóa... là công cụ của hoạt động học, đồng thời lại được củng cố và phát triển trong quá
trình diễn ra hoạt động học. Để lĩnh hội tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, học sinh phải sử dụng
các thao tác phân tích, tổng hợp, khái quát… Vì vậy, khi thiết kế hoạt động học, giáo
viên cần phải định hướng được các hành động nào học sinh phải thực hiện, để thiết kế
và tổ chức cho học sinh thực hiện các hành động đó, nhằm lĩnh hội tri thức.
Loại hành động học tập nào cần tiến hành, tính chất và sự phát triển của hành
động đó như thế nào, tùy thuộc rất nhiều vào khả năng của giáo viên, trong việc định
hướng và tổ chức các hành động đó. Đây chính là yếu tố ảnh hưởng quan trọng đến sự
lĩnh hội tri thức, phát triển tâm lý của học sinh.
- Thứ hai: Các khái niệm khoa học
Trong học tập, các khái niệm khoa học vừa là đối tượng cần tác động, vừa là mục
đích mà học sinh cần đạt được. Khái niệm sau khi đã lĩnh hội, lại trở thành công cụ,
phương tiện để lĩnh hội khái niệm tiếp theo. Như vậy, trong quá trình học tập, luôn luôn
có sự chuyển hóa giữa đối tượng, mục đích với phương tiện, công cụ. Ban đầu các khái
niệm, kỹ năng, kỹ xảo là đối tượng cần tác động, là mục đích cần đạt được trong học
tập. Nhưng khi đã đạt được, thì nó trở thành công cụ, phương tiện để tác động đến đối
tượng tiếp theo.
Do vậy, để giúp học sinh có được phương tiện hữu hiệu cho hoạt động học tập,
điều quan trọng, cần phải quan tâm đến việc củng cố các kiến thức nền tảng trước đó,
hoặc các kiến thức liên quan.
- Thứ ba: Tư duy
Với tư cách là sản phẩm của tư duy, khái niệm chính là kết quả của quá trình tư
duy của học sinh. Vì vậy, quá trình hình thành khái niệm, thực chất cũng chính là quá

trình học sinh tiến hành tư duy, để giải quyết các nhiệm vụ học tập. Hiệu quả của việc
giải quyết các nhiệm vụ này, tùy thuộc trực tiếp vào quá trình tư duy của học sinh,
nhằm phân tích và xử lý các dữ liệu đã có, để đi đến các kết luận, phán đoán. Như thế,
để cho tư duy thực sự trở thành phương tiện, công cụ của hoạt động học, giáo viên cần
thiết phải quan tâm đến việc định hướng và tổ chức hoạt động tư duy của học sinh,
trong suốt quá trình diễn ra hoạt động học.

16



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×