Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

Tiểu luận Tố tụng hành chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (62.07 KB, 9 trang )

A.LỜI MỞ ĐẦU
Trong pháp luật tố tụng hành chính, quy định về nghĩa vụ chứng minh cũng
chiếm một vị trí quan trọng không kém so với trong pháp luật tố tụng hình sự và
dân sự. Đây là những quy định thể hiện bản chất của tố tụng hành chính và tính
dân chủ trong hoạt động tố tụng hành chính. Không những vậy, quy định về
nghĩa vụ chứng minh còn là cơ sở cho mọi hoạt động tố tụng để giải quyết vụ án
hành chính có hiệu quả và công bằng. Nội dung của các quy định về nghĩa vụ
chứng minh thể hiện ý chí của nhà làm luật, dựa trên quy luật khách quan của sự
phát triển xã hội và bị chi phối bởi nguyên tắc chung về chứng minh. Năm
1996, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính ra đời lần đầu tiên ghi
nhận các quy định về chứng minh trong tố tụng hành chính và sau đó tiếp tục
được sửa đổi bổ sung năm 1998 và năm 2006. Năm 2010 Luật tố tụng hành
chính ra đời đã giải quyết một số vấn đề mà Pháp lệnh chưa làm được. Tuy
nhiên việc áp dụng các quy định để giải quyết vụ án hành chính trong thời gian
qua còn tuỳ tiện, thiếu thống nhất. Chính vì vậy các quy định này tiếp tục được
sửa đổi, bổ sung trong Luật tố tụng hành chính năm 2015. Việc pháp điển các
quy định về chứng minh trong Luật tố tụng mới là hết sức cần thiết bởi đây là
văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực cao, điều chỉnh một cách đầy đủ, toàn
diện các quan hệ tố tụng trong giải quyết khiếu kiện hành chính, đáp ứng yêu
cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quản lý xã hội,
quản lý nhà nước bằng pháp luật và tăng cường bảo vệ các quyền, lợi ích hợp
pháp của công dân.
Với mong muốn nghiên cứu và đánh giá một cách đầy đủ về cả lý luận và thực
tiễn về chứng minh trong tố tụng hành chính nên em đã chọn đề tài: “Đánh giá
quy định pháp luật về nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng hành chính” để
làm bài tập cá nhân học kì lần này.


B.NỘI DUNG
I. Khái niệm chứng minh và nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng hành
chính


1. Chứng minh
Chứng minh là một hoạt động cơ bản trong tố tụng hành chính và kết quả giải
quyết vụ án hành chính phần lớn phụ thuộc vào kết quả của hoạt động chứng
minh. Chứng minh được hiểu là dùng lí lẽ lập luận logic hoặc sử dụng tài liệu,
sự việc cụ thể nhằm mục đích khẳng định một điều gì đó là có thật, là đúng.
Trong khoa học pháp lý, khái niệm chứng minh được hiểu là quá trình làm rõ sự
thật khách quan của vụ án do Toà án và những người tham gia tố tụng thực hiện
thông qua các hoạt động cung cấp, thu thập, nghiên cứu, đánh giá và sử dụng
chứng cứ. Trong tố tụng hành chính chứng minh cũng được hiểu theo nghĩa này.
Đó chính là quá trình làm rõ sự thật khách quan vụ án hành chính, được thực
hiện bởi các chủ thể tiến hành tố tụng và chủ thể tham gia tố tụng hành chính
nhằm giải quyết vụ án hành chính được khách quan, công bằng, đúng pháp luật,
để từ đó bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức.
2. Nghĩa vụ chứng minh
Chứng minh là hoạt động của các chủ thể tố tụng trong việc làm rõ các tình tiết
sự kiện của vụ án. Xác định rõ nghĩa vụ chứng minh của các chủ thể góp phần
đảm bảo giải quyết đúng đắn vụ án. Trong vụ án hành chính, đương sự có nghĩa
vụ cung cấp chứng cứ, đồng nghĩa với việc xác định nghĩa vụ chứng minh thuộc
về đương sự bởi đương sự là người có quyền lợi thiết thực.
Khoản 1 Điều 9 Luật tố tụng hành chính năm 2015 quy định: “các đương sự có
quyền và nghĩa vụ chủ động thu thập, giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Toà án và
chứng minh yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Cá nhân khởi kiện, yêu
cầu để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người khác có quyền và nghĩa vụ thu
thập, cung cấp tài liệu, chứng cứ, chứng minh như đương sự”.


Tuy nhiên không phải tài liệu hoặc lập luận nào của đương sự cũng đều có gía
trị chứng minh yêu cầu hay phản đối của đương sự là đúng. Ở đây, quyền đánh
giá chứng cứ và xác định giá trị chứng cứ của các tài liệu trong hồ sơ vụ án
thuộc về Toà án mà trên hết là Hội đồng xét xử.

Luật tố tụng hành chính đã quy định rõ đương sự có nghĩa vụ chứng minh, nếu
đương sự không nộp hoặc nộp không đầy đủ chứng cứ, chứng minh thì Toà án
chỉ căn cứ vào những tài liệu, chứng cứ mà đương sự đã giao và những tài liệu,
chứng cứ mà Toà án đã thu thập được để giải quyết vụ án. Song, với các quy
định về việc Toà án sẽ xác minh, thu thập chứng cứ khi đương sự yêu cầu do họ
không thể tự mình thu thập được chứng cứ hoặc Toà án cũng có thể tự thực hiện
xác minh thu thập chứng cứ khi xét thấy cần thiết thì nghĩa vụ chứng minh của
đương sự trong tố tụng hành chính cũng chỉ là tương đối giống như nghĩa vụ
cung cấp chứng cứ của đương sự.
3. Đối tượng chứng minh trong vụ án hành chính
Trong vụ án hành chính, đối tượng chứng minh là những tình tiết, sự kiện, vấn
đề trong vụ án cần phải được làm rõ để có thể giải quyết vụ án. Nhìn chung đối
tượng chứng minh trong vụ án hành chính bao giờ cũng là các yêu cầu hoặc
phản đối của đương sự. Tuy nhiên, để có thể giải quyết vụ án hành chính thì Toà
án cần phải xác định được những tình tiết nào là đối tượng chứng minh cụ thể
của vụ án. Vấn đề xác định chính xác đối tượng chứng minh là điều đặc biệt
quan trọng trong việc giải quyết vụ án, quyết định hướng giải quyết cụ thể của
vụ án.
Đối tượng chứng minh của vụ án cụ thể sẽ phụ thuộc vào các chi tiết diễn biến
xảy ra tranh chấp hành chính đang được yêu cầu Toà án giải quyết . Tuy nhiên,
với đặc trưng về đối tượng khởi kiện chủ yếu là quyết định hành chính, hành vi
hành chính trong các lĩnh vực quản lí hành chính nhà nước hoặc quyết định kỉ
luật buộc thôi việc hay quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lí vụ
việc cạnh tranh thì những tình tiết là đối tượng chứng minh thường liên quan


đến tính hợp pháp hay không hợp pháp của định hay hành vi là đối tượng khởi
kiện.
Điều 79 Luật tố tụng hành chính năm 2015 cũng đã thừa nhận một số tình tiết
sự kiện không thuộc đối tượng chứng minh, gồm:

Thứ nhất, những tình tiết, sự kiện rõ ràng mà mọi người đều biết và được Toà án
thừa nhận.
Thứ hai, những tình tiết, sự kiện đã được xác định trong bản án, quyết định của
Toà án đã có hiệu lực pháp luật.
Thứ ba, những tình tiết, sự kiện đã được ghi trong văn bản và được công chứng,
chứng thực hợp pháp; trường hợp có nghi ngờ về tính xác thực của những tình
tiết, sự kiện này thì Thẩm phán có thể yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đã
cung cấp, giao nộp văn bản xuất trình bản gốc, bản chính.
Thứ tư, một bên đương sự thừa nhận hoặc không phản đối những tình tiết, sự
kiện mà bên đương sự kia đưa ra thì bên đương sự đưa ra tình tiết, sự kiện
không phải chứng minh.
II.

Đánh giá quy định pháp luật về nghĩa vụ chứng minh trong tố
tụng hành chính

Khoản 1 Điều 9 Luật tố tụng hành chính năm 2015 quy định về cung cấp tài
liệu, chứng cứ, chứng minh như sau: “Các đương sự có quyền và nghĩa vụ chủ
động thu thập, giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Toà án và chứng minh yêu cầu
của mình là có căn cứ và hợp pháp.
Cá nhân khởi kiện, yêu cầu để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác
có quyền và nghĩa vụ thu thập, cung cấp tài liệu, chứng cứ, chứng minh như
đương sự.”.
Ở đây điều luật quy định các đương sự vừa có quyền, vừa có nghĩa vụ chủ động
thu thập tài liệu, chứng cứ và chứng minh yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp
pháp. Có thể hiểu rằng, quy định quyền của đương sự nghĩa là quyền đó có thể
được sử dụng hay không tuỳ thuộc vào ý chí chủ quan của đương sự đó. Còn
quy định nghĩa vụ của đương sự là việc ấn định cách thức xử sự của đương sự



trong các mối quan hệ xác định. Như vậy, về mặt kỹ thuật pháp lý, quy định
việc thu thập, giao nộp tài liệu chứng cứ cho Toà án, chứng minh yêu cầu của
đương sự vừa là quyền vừa là nghĩa vụ có phần không hợp lý. Cần có quy định
hướng dẫn cụ thể, tách biệt rõ ràng các trường hợp nào là quyền, trường hợp
nào là nghĩa vụ đối với đương sự.
Bên cạnh đó, nghĩa vụ chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ, là cần
thiết thuộc về các đương sự. Việc không giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Toà án
để chứng minh cho yêu cầu của mình thuộc về nghĩa vụ của người yêu cầu, Toà
án không làm thay việc này cho đương sự. Tuy nhiên, một thực tế đang tồn tại
hiện nay, đó là, người yêu cầu dù rất mong muốn thu thập tài liệu, chứng cứ
nhưng có nhiều điều kiện khách quan cản trở họ không thể thực hiện được nghĩa
vụ của mình. Chẳng hạn như hầu hết các giao dịch dân sự của người có quyền
sử dụng đất hiện nay đều không buộc phải đăng tải trên các phương tiện truyền
thông của địa phương, cũng không phải giao dịch qua sàn, nên việc thu thập
chứng cứ liên quan đến giao dịch chuyển nhượng, chuyển đổi,…quyền sử dụng
đất của người có liên quan trong vụ kiện hành chính là điều thật sự khó khăn đối
với người khởi kiện, nếu thông tin họ có được thì cũng là những thông tin có
tính chất “truyền tai” nhau mà thôi. Nếu như vậy, Tòa án không thể chấp nhận,
vì thông tin đó không chính thống, không có bằng chứng xác thực. Hơn nữa,
phía người có liên quan cũng không “dại dột” gì công khai hoặc để lộ ý định
của mình về giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất. Từ đó cho thấy, pháp
luật tố tụng hành chính hiện hành cũng chưa có quy định đầy đủ nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện, gây khó khăn thật sự của người
có yêu cầu trong vụ án hành chính. Vấn đề là làm sao và bằng cách nào để
đương sự có thể kiểm soát, phát hiện kịp thời giao dịch dân sự diễn ra mà đối
tượng là bất động sản liên quan vụ kiện? Trong khi đó, pháp luật hiện hành
không quy định hợp đồng dân sự liên quan đến quyền của người sử dụng đất
(quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, …) phải thông báo công khai trên phương
tiện thông tin đại chúng, cũng không quy định phải niêm yết giao dịch dân sự đó



tại Tòa án (nếu có liên quan). Chính vì vậy, dù rất muốn thu thập tài liệu, chứng
cứ để nhờ Tòa án bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình, nhưng thực tế vô vàn
khó khăn.
Khoản 5 Điều 55 Luật tố tụng hành chính cũng quy định rõ về quyền, nghĩa vụ
của đương sự: “Cung cấp tài liệu, chứng cứ, chứng minh để bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình”. Quy định này giúp cho đương sự hiểu rõ quyền và
nghĩa vụ của mình trong việc thực hiện nghĩa vụ chứng minh, tạo điều kiện cho
đương sự chủ động thu thập được tài liệu cần thiết để xuất trình cho Toà án, loại
trừ tình trạng ỷ lại Toà án và đảm bảo tính minh bạch trong hoạt động chứng
minh của các chủ thể tố tụng. Mặt khác, quy định này xác định rõ tài liệu trong
hồ sơ vụ án sẽ bao gồm: tài liệu từ nguồn có sẵn đối với mỗi bên đương sự; tài
liệu thuộc sở hữu của bên đương sự đối lập; tài liệu do Toà án thu thập. Điều
này mang lại lợi ích không chỉ cho các bên đương sự mà cho cả Toà án trong
việc dễ dàng phát hiện chứng cứ bổ sung, bảo quản, đánh giá sử dụng chứng cứ
một cách hiệu quả và khoa học.
Pháp luật tố tụng nói chung và Luật tố tụng hành chính nói riêng đang có xu
hướng ngày càng hoàn thiện hơn các quy định về cơ chế hoạt động bổ trợ tư
pháp. Trong đó người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có vai trò
quan trọng. Quyền và nghĩa vụ chứng minh của người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự được xác lập trên cơ sở quyền và nghĩa vụ chứng minh
của đương sự. Để người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực
hiện đúng chức năng của mình là trợ giúp các đương sự trong việc chứng minh
quyền lợi, Điều 61, khoản 6, điểm b Luật tố tụng hành chính năm 2015 quy định
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có các quyền và nghĩa vụ:
“thu thập tài liệu, chứng cứ và cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Toà án, nghiên
cứu hồ sơ vụ án và được ghi chép, sao chụp những tài liệu cần thiết có trong hồ
sơ vụ án để thực hiện việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, trừ
tài liệu, chứng cứ không được công khai theo quy định tại khoản 2 Điều 96 của
Luật này”.



Với tư cách là chủ thể đưa ra các phán quyết về vụ án, Toà án phải làm sáng tỏ
các nội dung cần chứng minh của vụ án trên cơ sở tài liệu, chứng cứ do các bên
đương sự cung cấp và do tự mình thu thập. Hoạt động chứng minh của Toà án
thực chất là việc kiểm tra xác minh tính xác thực của các tài liệu, chứng cứ do
các bên đương sự xuất trình thông qua việc áp dụng các biện pháp thu thập
chứng cứ.
Luật tố tụng hành chính năm 2015 quy định về nghĩa vụ cung cấp chứng cứ,
chứng minh trong tố tụng hành chính tại Điều 78, cụ thể:
“1. Người khởi kiện có nghĩa vụ cung cấp bản sao quyết định hành chính hoặc
quyết định kỉ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định
xử lý vụ việc canh tranh, bản sao quyết định giải quyết khiếu nại (nếu có), cung
cấp chứng cứ khác để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình; trường hợp
không cung cấp được thì phải nêu rõ lý do.
2. Người bị kiện có nghĩa vụ cung cấp cho Toà án hồ sơ giải quyết khiếu nại
(nếu có) và bản sao các văn bản, tài liệu mà căn cứ vào đó để ra quyết định hành
chính, quyết định kỉ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nị về quyết
định xử lý vụ việc cạnh tranh hoặc có hành vi hành chính.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình”.
Như vậy, tại Điều 9 đã quy định việc cung cấp tài liệu, chứng cứ và chứng minh
cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp vừa là quyền nhưng cũng đồng
thời là nghĩa vụ của đương sự. Và ở Điều 78 lại một lần nữa quy định về nghĩa
vụ cung cấp chứng cứ, chứng minh, cụ thể như sau: Các đương sự được giao
nộp bất kỳ tài liệu, chứng cứ nào mà họ muốn sử dụng như là chứng cứ của vụ
án để chứng minh cho yêu cầu của họ là có căn cứ và hợp pháp. Toà án có trách
nhiệm tiếp nhận tất cả các tài liệu do đương sự giao nộp theo đúng quy định của
Luật Tố tụng hành chính. Nếu đương sự nào đang quản lý, lưu giữ chứng cứ mà
không nộp hoặc nộp không đầy đủ chứng cứ thì phải chịu hậu quả của việc



không nộp hoặc nộp không đầy đủ chứng cứ đó, trừ trường hợp pháp luật có
quy định khác.
Tuy nhiên, không phải những tình tiết nào của vụ án hành chính cũng cần phải
chứng minh mà có những tình tiết, sự kiện không phải chứng minh được quy
định cụ thể tại Điều 79 Luật tố tụng hành chính năm 2015.
“1. Những tình tiết, sự kiện sau đây không phải chứng minh:
a. Những tình tiết, sự kiện rõ ràng mà mọi người đều biết và được Toà án
thừa nhận;
b. Những tình tiết, sự kiện đã được xác định trong bản án, quyết định của
Toà án đã có hiệu lực pháp luật;
c. Những tình tiết, sự kiện đã được ghi trong văn bản và được công chứng,
chứng thực hợp pháp; trường hợp có nghi ngờ về tính xác thực của tình
tiết, sự kiện trong văn bản này thì Thẩm phán có thể yêu cầu cơ quan, tổ
chức, cá nhân đã cung cấp, giao nộp văn bản xuất trình văn bản gốc, bản
chính.
2. Một bên đương sự thừa nhận hoặc không phản đối những tình tiết, sự
kiện, tài liệu, văn bản mà bên đương sự kiaa đưa ra thì bên đương sự đưa ra
tình tiết, sự kiện, tài liệu, văn bản đó không phải chứng minh. Đương sự có
người đại diện tham gia tố tụng thì sự thừa nhận hoặc không phản đối của
người đại diện được coi là sự thừa nhận hoặc không phản đối của đương sự
nếu không vượt quá phạm vi đại diện.”.
Tóm lại, không phải bất kỳ những tình tiết, sự kiện nào đương sự cũng có
nghĩa vụ phải chứng minh. Mà chỉ có những tình tiết, sự kiện không thuộc
một trong các trường hợp quy định tại Điều 79 mới cần phải chứng minh.


C.KẾT LUẬN
Như vậy, cũng như trong lĩnh vực tố tụng hình sự và tố tụng dân sự, quy định về

nghĩa vụ chứng minh trong hệ thống các quy định về tố tụng hành chính là một
nội dung phức tạp và chiếm một vị trí quan trọng, bởi đây là những quy định thể
hiện bản chất của tố tụng hành chính và tính dân chủ trong hoạt động tố tụng
hành chính, là cơ sở để giải quyết vụ án hành chính có hiệu quả. Nhận thấy tầm
quan trọng đó, Luật tố tụng hành chính năm 2015 đã phát triển và hoàn thiện
quy định về nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng hành chính. Mặc dù còn tồn tại
một số vướng mắc cũng như bất cập trong việc thực hiện trên thực tế nhưng qua
đó cho thấy nhà lập pháp đã quan tâm đúng mức hơn đến yêu cầu đảm bảo hiệu
lực, hiệu quả của công tác giám sát hoạt động hành chính và tính thực chất của
công tác bảo vệ quyền, lợi ích của người dân.



×