Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng học sinh giỏi cấp tỉnh môn ngữ văn ở trường thpt có điểm đầu vào thấp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.27 KB, 19 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

TRƯỜNG THPT YÊN ĐỊNH 3

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG HỌC SINH GIỎI CẤP TỈNH MÔN NGỮ VĂN
Ở TRƯỜNG THPT CÓ ĐIỂM ĐẦU VÀO THẤP.

Người thực hiện : Lê Thị Thanh Hương
Chức vụ
: Giáo viên
SKKN thuộc môn : Ngữ văn

THANH HOÁ NĂM 2019


MỤC LỤC
1. PHẦN MỞ ĐẦU………………………………………………………..
1.1. Lí do chọn đề tài…………………………………………………….….
1.2. Mục đích nghiên cứu…………………………………………………...
1.3. Đối tượng nghiên cứu……………………………………………….….
1.4. Phương pháp nghiên cứu…………………………………………….....
2. PHẦN NỘI DUNG……………………………………………………..
2.1. Cơ sở lý luận……………………………………………………….…...
2. 2. Thực trạng của vấn đề……………………………………………...….
2.3. Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng học sinh giỏi môn Ngữ văn……..
2.3.1.
Đối
với


người
học.................................................................................
2.3.2. Đối với người dạy.................................................................................
2.3. 2.1 Chọn sát đối tượng học sinh giỏi theo tiêu chí “Nhất tố chất – nhì
đam mê”……………………………………………………………………..
2.3.2.2. Bám sát cấu trúc chương trình của Sở Giáo dục, xây dựng kế
hoạch ôn tập trọng tâm……………………………………………………...
2.3.2.3. Tổ chức dạy bồi dưỡng theo tiêu chí “Kiến thức đúng - đủ - rộng sâu”………………………………………………………………………….
2.3.2.4. Rèn luyện tốc độ viết nhanh và sạch đẹp…………………………..
2.3.2.5. Tạo rung cảm thẩm mĩ để học sinh “nếm trải nghệ thuật”…………
2.3.2.6. Đa dạng hóa đề kiểm tra kết hợp với chấm chữa thường xuyên…...
2.3.2.7. Tổ chức thi cọ xát giữa các trường THPT trong địa bàn huyện…...
2.3.2.8. Trang bị sổ tay văn học…………………………………………….
2.3.2.9.Tổ chức cho học sinh nhận xét văn người và sửa văn mình………...
2.3.2.10. Dạy trò bằng cả ĐỨC - TÂM trọn vẹn nơi người Thầy…………..
2.3.2.11. Phối hợp với các đoàn thể nhà trường và phụ huynh học sinh……
2.4. Kết quả …………………………………………………………………
2. 3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ…………………………………………..
3.1. Kết luận………………………………………………………………...
3.2. Kiến nghị……………………………………………………………….

1
1
1
2
2
3
3
3
4

4
4
4
6
6
8
9
9
11
12
12
12
13
13
16
16
16

1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài:
Thân Nhân Trung đã từng viết: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia.
Nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh rồi lên cao. Nguyên khí suy thì thế nước


yếu rồi xuống thấp. Vì vậy, các bậc thánh đế minh vương không ai không
xem việc kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí là việc làm đầu tiên”. Xã hội
càng phát triển thì nhân tài càng có vai trò hết sức quan trọng trong việc phát
triển kinh tế – xã hội. Bước sang thế kỉ XXI đất nước ta bước vào thời kì đẩy
mạnh nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước. Trong đường lối
đổi mới toàn diện của nước ta về giáo dục và đào tạo, Đảng ta xác định: “Cùng

với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm
nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài...”. Việc bồi dưỡng học
sinh giỏi, ươm trồng những hạt giống nhân tài cho đất nước là một nhiệm vụ rất
quan trọng và cần thiết. Bởi vì người tài bao giờ cũng là nhân tố quan trọng
để thúc đẩy xã hội phát triển.
Để đánh giá chất lượng giáo dục của một nhà trường, Sở Giáo dục căn cứ vào
hai tiêu chí: “chất lượng đại trà” và “chất lượng mũi nhọn”. Đã từ lâu việc phát
hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi là nhiệm vụ trọng tâm của một nhà trường
THPT. Trong vài năm gần đây, chất lượng mũi nhọn của trường THPT Yên Định
3 có nhiều tiến bộ. Số giải học sinh giỏi cấp tỉnh được tăng lên. Song nhà trường
cũng gặp những khó khăn nhất định, kết quả thực sự chưa đáp ứng với mục tiêu
đề ra. Số lượng học sinh giỏi cấp tỉnh hàng năm không ổn định, chất lượng các
giải không cao. Đặc biệt, riêng lẻ ở vài môn số lượng giải còn ít hơn so với một
số trường trong khu vực. Thậm chí ở một vài môn, đội tuyển học sinh giỏi
không đủ số lượng và không có giải. Mặt khác, một số phụ huynh không muốn
cho con em mình học bồi dưỡng vì chiếm quá nhiều thời gian dẫn tới học lệch
các môn. Đó là những vấn đề trăn trở mang tính cấp thiết đối với người dạy.
Giáo viên phải suy nghĩ tìm ra biện pháp tháo gỡ để bảo đảm sao cho phong trào
học tập của học sinh được duy trì tốt nhất và việc bồi dưỡng học sinh giỏi phong trào mũi nhọn của nhà trường đạt được kết quả tốt. Đây cũng là lĩnh vực
được nghiên cứu một cách nghiêm túc và đề xuất các biện pháp hữu hiệu, khả
thi để đạt kết quả cao hơn. Xuất phát từ những vấn đề trên, bản thân tôi mạnh
dạn chọn vấn đề: “Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả bồi dưỡng học
sinh giỏi cấp tỉnh môn Ngữ văn ở trường THPT có điểm đầu vào thấp”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Tôi nghiên cứu đề tài này nhằm:
- Hệ thống hoá và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng bồi
dưỡng học sinh giỏi cấp tỉnh môn ngữ văn ở những trường THPT có điểm đầu
vào thấp.
- Nâng cao chất lượng học tập và giáo dục của bộ môn, góp phần nhỏ bé vào
công cuộc CNH – HĐH đất nước.



- Được nghe lời nhận xét góp ý từ đồng nghiệp, đồng môn.
- Mong muốn được hội đồng khoa học các cấp nhận xét, đánh giá, ghi nhận
kết qủa nỗ lực của bản thân giúp cho tôi có nhiều động lực mới hoàn thành tốt
nhiệm vụ được giao.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
- Là học sinh khối C,D lớp 11B5, 11B6, 11B7 tại trường THPT Yên Định 3.
* Thuận lợi:
- Học sinh có ý thức, chăm ngoạn, lễ phép, có mục tiêu phấn đấu rõ ràng.
- Học sinh nông thôn, ít tệ nạn xã hội, có ý thức vươn lên để thoát khỏi đói
nghèo.
- Học sinh có nguyện vọng tham gia cuộc thi HSG do trường, tỉnh tổ chức.
* Khó khăn:
- Điểm tuyển sinh vào 10 THPT môn Ngữ văn không cao, chỉ duy nhất một
em điểm 8.0. Cụ thể: Nguyễn Thị Thùy Linh (8.0đ), Lê Thị Thảo (7.0), Trịnh
Thu Thủy (7.5), Nguyễn Thị Hương Ly (7.0), Phan Thị Vân Anh (6.5đ).
- Nhà ở xa, có hai em hoàn cảnh gia đình đặc biệt.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp nghiên cứu lí thuyết:
-Nghiên cứu các tài liệu, nghị quyết của Đảng.
- Nghiên cứu các chỉ thị của ngành, các tạp chí, các tài liệu có liên quan
* Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
- Phương pháp khảo sát và phân loại
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp so sánh, đối chiếu
- Phương pháp phân tích
- Phương pháp tổng hợp.

2. PHẦN NỘI DUNG

2.1. Cơ sở lí luận:
Năm học 2018 – 2019, ngành Giáo dục tiếp tục tập trung thực hiện Nghị
quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Hội nghị lần 8 của Ban chấp hành
Trung ương khóa XI về “Đổi mới căn bản toàn diện giáo dục - đào tạo đáp ứng


yêu cầu công nghiệp hóa – hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”. Trong đó có nêu: Đối với giáo dục
phổ thông, tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực
công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho học
sinh. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lý tưởng,
truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kỹ năng thực
hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Phát triển khả năng sáng tạo, tự học,
khuyến khích học tập suốt đời.
Trong quá trình dạy học thì việc chú ý tới sự phát triển của từng học sinh
luôn là yêu cầu cơ bản. Bởi vậy việc bồi dưỡng học sinh giỏi bao giờ cũng là
nhiệm vụ trọng tâm. Việc tổ chức bồi dưỡng học sinh giỏi ở trường THPT không
chỉ phát huy khả năng phát triển của học sinh. Mặt khác, kết quả bồi dưỡng học
sinh giỏi là một tiêu chí không thể thiếu để đánh giá sự phát triển của nhà
trường. Thành tích giáo dục mũi nhọn khẳng định uy tín của nhà trường. Mỗi
học sinh giỏi không những là niềm tự hào của cha mẹ, thầy cô giáo mà còn của
cả cộng đồng.
2. 2. Thực trạng của vấn đề
a. Thuận lợi
- Qua nghiên cứu thực tế cho thấy việc tổ chức bồi dưỡng học sinh giỏi được
nhà trường quan tâm chỉ đạo, động viên, khích lệ kịp thời ngay từ đầu năm học.
Hơn nữa, bản thân người đứng chốt đội tuyển cũng không ngừng học hỏi, nâng
cao trình độ, phẩm chất và năng lực.
- Học sinh đều chăm ngoan, có ý thức tự giác, vươn lên trong học tập và đặt ra
mục tiêu phấn đấu rõ ràng.

b. Khó khăn:
Bên cạnh những thuận lợi, công tác chỉ đạo bồi dưỡng học sinh giỏi ở
trường THPT Yên Định 3 còn một số hạn chế:
- Việc phát hiện và tuyển chọn học sinh có năng khiếu, có tài năng còn
thiếu cơ sở khoa học nên chưa chính xác và triệt để.
- Chưa có nội dung chương trình chuẩn mực để bồi dưỡng học sinh giỏi.
- Sự quan tâm, đầu tư của phụ huynh học sinh còn ít, nhiều phụ huynh đi
làm ăn xa.
- Trách nhiệm và quyền lợi của giáo viên bồi dưỡng học sinh giỏi còn
chưa nhiều, chưa động viên được người dạy một cách kịp thời.
- Chất lượng và số lượng học sinh giỏi chưa ổn định.
- Học sinh có tố chất thực sự tại trường THPT có điểm đầu vào thấp hầu như
không có. Đa phần đều là học sinh có học lực Khá.
2.3. Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng học sinh giỏi môn Ngữ văn:


Ông cha ta thường nói: “Có bột mới gột nên hồ”, “Không thầy đố mày làm
nên”. Như vậy, yếu tố tạo nên chất lượng học sinh giỏi nằm ở cả hai phía:
người học lẫn người dạy.
2.3.1. Đối với người học
Để tự tin và học giỏi môn Ngữ văn trong nhà trường, học sinh cần có
phương pháp học tập sao cho khoa học, hợp lý:
- Đọc và soạn bài kỹ trước khi đến lớp. Chú ý ghi lại những từ ngữ quan
trọng, những vấn đề còn chưa rõ trong bài để khi đến lớp khi nghe thầy cô giảng
bài học sinh sẽ tiếp thu nhanh hơn. Phải mạnh dạn hỏi ngay những gì còn chưa
hiểu với thầy cô, bạn bè.
- Cần có lòng đam mê, yêu thích môn học. Bởi học sinh có yêu thích mới có
hứng thú trong học tập. Đây là một trong những yếu tố rất cần thiết để học tốt
môn này. Vậy bằng cách nào? Phải thường xuyên rèn luyện thói quen đọc sách,
tham gia các hoạt động trải nghiệm…

- Rèn luyện một trí nhớ tốt để nắm bắt được bài mới ở lớp cũng như các kiến
thức đã học trước đó.
- Luôn tìm tòi mở rộng kiến thức. Chương trình trong sách giáo khoa vốn là
kiến thức chuẩn, căn bản nhưng không thể giải thích cặn kẽ hết mọi vấn đề vì
thời lượng chương trình không cho phép. Cho nên, để hiểu rõ và nắm chắc kiến
thức trong sách giáo khoa chúng ta cũng cần tìm đọc thêm sách tham khảo,
những bài văn hay chọn lọc, những bài văn đạt giải cao trong các kì thi... Đồng
thời, nên luyện viết thật nhiều, bắt đầu từ những vấn đề đơn giản rồi đến những
vấn đề khó hơn…Việc luyện viết nhiều sẽ giúp rèn luyện tư duy nhanh, tích luỹ
thêm kiến thức, vốn từ, hình thành kĩ năng kĩ xảo.
- Cần có ý thức tốt, có ý chí quyết tâm, vươn lên trong học tập và đặt ra cho
bản thân mục tiêu phấn đấu rõ ràng.
2.3.2. Đối với người dạy
2.3. 2.1 Chọn sát đối tượng học sinh giỏi theo tiêu chí “Nhất tố chất – nhì
đam mê”:
- Không giống như trường chuyên và trường THPT số 1,2 của các huyện
trong địa bàn tỉnh, đối tượng để lựa chọn ở các trường THPT số 3,4 gặp nhiều
khó khăn. Hầu hết, rất hiếm học sinh có tố chất tốt thực sự. Bởi vậy, việc lựa
chọn học sinh là khâu đầu tiên mang tính chất quyết định đến sự thành bại trong
công tác bồi dưỡng sau này.
- Khi lựa chọn đối tượng học sinh giỏi, giáo viên cần căn cứ vào những cơ
sở như sau:


+ Căn cứ vào đối tượng học sinh đã từng tham gia các kỳ thi chọn học sinh
giỏi cấp huyện, tỉnh (nếu có) ở cấp THCS: Bởi vì đối tượng học sinh này đã
được cọ xát và tiếp cận trực tiếp với cách thức ôn tập và giải đề. Điều này sẽ tạo
nền tảng cho học sinh dễ dàng tiếp cận kiến thức mới. Tuy nhiên, tại trường
THPT Yên Định 3, số học sinh đạt giải cấp tỉnh ở cấp THCS hầu như rất hiếm,
chỉ một bộ phận tham gia thi cấp huyện, một số ít được lựa chọn tham gia thi

cấp tỉnh hầu như không đạt giải hoặc có giải thấp (khuyến khích).
+ Căn cứ vào kết quả môn học cấp THCS: Đó là cơ sở cho cả một quá trình
phấn đấu dài của học sinh. Từ đó, giáo viên có cơ sở để nắm bắt tình hình thực
tế.
+ Căn cứ điểm tuyển sinh vào 10 THPT: Đây không hẳn là yếu tố quyết định
nhưng nó là một kênh tốt để giáo viên theo dõi, lựa chọn học sinh.
+ Căn cứ vào bài viết đầu tiên vì đó là dấu ấn đặc biệt, là cơ sở đề giáo viên
phát hiện tố chất học sinh, “chất người” ngay ở nét bút đầu cấp THPT.
+ Căn cứ vào thái độ, ý thức, sự tập trung, niềm đam mê của học sinh đối
với môn học: Đây là căn cứ cơ bản để lựa chọn học sinh. Bởi trên thực tế, số học
sinh có tố chất và năng lực tốt đều tham gia học ở những trường THPT số 1, 2
của huyện, còn lại đa phần học sinh có học lực trung bình, khá, năng lực cảm
thụ văn chương kém. Vậy nên, có thể là phi thực tế nhưng lại vô cùng hợp lí đối
với những trường THPT có đầu vào thấp. Đối tượng để lựa chọn tham gia đội
tuyển học sinh giỏi phải có niềm đam mê và ý thức tốt trong học tập. Đó cũng là
khó khăn chung của giáo viên đứng chốt đội tuyển. Khuyến khích lựa chọn
những học sinh yêu văn, đam mê văn học.
- Đặc biệt, giáo viên chỉ nên chọn số lượng học sinh tham gia ôn tập vừa
phải và hợp lí: Nên chọn thừa từ 1-2 em, không nên chọn đủ số lượng tham gia
thi chính thức, cũng không nên chọn thừa quá nhiều. Nếu chọn đủ thì ta sẽ đánh
mất cơ hội, nhân tài mà ta chưa khai thác hết, nó sẽ tạo độ ì lớn mà không có sức
phấn đấu để cạnh tranh, loại bỏ. Ngược lại, nếu chọn thừa nhiều thì đội tuyển sẽ
loãng, tạo tâm lí chán nản, tự ti cho học sinh. Vậy nên, ta chỉ chọn số lượng học
sinh vừa phải và phù hợp để tạo môi trường thi đua, tạo cơ hội cho học sinh biết
vươn lên chiếm lĩnh kiến thức. Nó sẽ là động lực để nâng cao chất lượng.
2.3.2.2. Bám sát cấu trúc chương trình của Sở Giáo dục, xây dựng kế hoạch
ôn tập trọng tâm:
- Mỗi năm trước khi kì thi học sinh giỏi được tổ chức, Sở Gíao dục và Đào
tạo đều soạn thảo khung chương trình gửi tới các nhà trường về nội dung, cấu
trúc, phạm vi…ôn tập. Giáo viên cần lấy đó làm căn cứ để xây dựng kế hoạch,

định hướng nội dung ôn tập.


` Z #!@"# &2B ?B 7#E* ]8G 98( C)! "D/ (?V" &' (#* #$" 9*%# ,*I* "AB :W
(?8%# ]I 9k(W (> "Ž( ,*EG %a* /%, Z #!@"# 7#E* "+ (#j C' (#N* ,*B%W %a* /%,
C) "8"# (#." (#>" #*d% k ;) "#*Z" Q
;)G "6 9: &j (?*j% Y#B* #!@(
&a%, @O #$" Ga( "8"# "H% &1*W #*d/ t/E

v YZ #!@"# &u XHO >%,W ,*8! C*-% (\ @O ]^* 2_%, "#! #$" 9*%# ,*I*
(#P! (v%, ]2M" "+ (#j %#2 9B/w
`
w 5#E* "/%, "D7 Ga( "8"# "# %# X8" C) &sO &A %#K%, Y*Z% (#." "6
]E%W (?$%, (HG "AB %a* /%, ])* @O
w U8G 98( C)! Q #/h% Y*Z% (#." C) Yi %L%,T (?!%, t/8
(?S%# (?*j% Y#B* #!@( &a%, @O #$" 1* CM* G•* ])* "+ (#jW ,*8! C*-% "s% "#y ?B
"#! #$" 9*%# (#DO &23" %#K%, %a* /%, "6 ]E% C' (8" ,*E (8" 7#hGW #!)% "E%#
98%, (8"W Y#/O%# #2M%,W (?)! ;2/W &' ()*W "#A &'
*8! C*-% "k (#j 92/ (sG
%#K%, &!@% (2 ;*d/ t/< C' (8" 7#hGW C' "/a" &N* (8" ,*E k 9Π;) Y#! (2 ;*d/
91%, &a%, C) "#H% (#>" &j Y#6* =O (?!%, "8" PG 9> #*j/ ]*Z(W &^%, "EGW (#D/
#*j/ %#K%, (HG 9> G) (8" ,*E &k ,o* ,ŽG t/B &.B "!% &} (*%# (#s% "AB GS%#W (@!
"6 #a* &j "8" PG %ZG (?E* %,#d (#/=( #Š%, #@%w

k "z%, ;) "6 9: t/B% (?$%, &j #$" 9*%# #.%, (#V (?!%, C*d" (*Z7 %#=%
%a* /%, (8" 7#hG
B! C*-% "z%, "s% Y#8( t/8( ;@* 2M* @%, 96 &^ (2 /O "/1* G•* ])* #$" C'
%a* /%, "# %# "s% %ŽG CK%, HO 9Œ ;) "6 9: &s/ (*-% &j #$" 9*%# "k (#j (> (*Z7
"=% CM* %#*'/ Y*Z% (#." ;*-% t/B% &Z% ])* #$" t/B "8" ()* ;*d/ 98"# ]8!W G@%,
*%(P?%P(

v &kW ,*V7 #$" 9*%# "k (#j (> ;>B "#$% Y*Z% (#." &V%, &j G: ?a%,
C1% #*j/ ]*Z( C' %a* /%, (8" 7#hG Z/ Y#J%, ;)G (1( ]2M" %)OW #$" 9*%# 9Œ
G6 #^ (?!%, C*d" (*Z7 "=% %a* /%, (8" 7#hG |" ]*d(W "/%, "D7 "#! #$" 9*%#
%#K%, %#=% &m%# #BO C' (8" ,*E`(8" 7#hG HO 9Π;) "6 9: &j #$" 9*%# ;>B "#$%
&j (@! 2/ (#Z "#! ])* C*Z(


+ Đối với kiến thức Đọc – hiểu phần Tiếng Việt: Thông thường một đề thi
học sinh giỏi văn có hai phần: Phần Đọc – hiểu và phần Làm văn. Vì vậy trong
quá trình bồi dưỡng giáo viên không được bỏ qua ôn luyện giảng dạy tiếng Việt.
Giáo viên cần chỉ rõ và khắc sâu những kiến thức trọng tâm cơ bản, có kèm theo
ví dụ chứng minh cụ thể về: các biện pháp tu từ, các phương thức biểu đạt,
phong cách ngôn ngữ, thao tác lập luận, cách xác định câu chốt, đặt nhan đề, rút
ra thông điệp…qua văn bản để học sinh rèn luyện và hình thành kĩ năng…Đặc
biệt, giáo viên dạy cách nhận biết kiến thức thông qua những dấu hiệu đặc trưng.
Đối với từng loại đơn vị kiến thức giáo viên hứng dẫn học sinh ôn tập và
phải có hệ thống bài tập ứng dụng với từng loại. Thường thì học sinh có thói
quen khi làm bài tiếng việt hay trả lời vắn tắt, nhưng đối với học sinh giỏi thì
phải trình bày rõ ràng, mạch lạc khoa học cho nên giáo viên phải hướng dẫn cụ
thể cho học sinh từ cách trình bày, cách phân tích giá trị của từ, biện pháp tu từ...
+ Đối với kiến thức lí luận: Cung cấp thật đầy đủ và sắc nét về những kiến
thức liên quan đến lí luận văn học như: Hiện thực- Nhà văn- Bạn đọc; phong
cách sáng tác; Quan điểm nghệ thuật; Những vấn đề liên quan đến nội dung và
hình thức tác phẩm; Đặc trưng cơ bản của thơ, truyện…Mỗi vấn đề lí luận cần
cung cấp một hệ thống kiến thức trọng tâm kết hợp những vấn đề nhận định liên
quan đến kiến thức lý luận, yêu cầu học sinh nắm vững và ghi nhớ để sử dụng
trong quá trình làm bài.
- Bước 2: Mở rộng và đào sâu kiến thức liên quan đến bài học. Từ kiến
thức cơ bản trọng tâm ban đầu, người dạy cần có những hướng tiếp cận kiến
thức ở mức độ cao hơn. Đặc biệt, trong quá trình giảng dạy, giáo viên cần khắc

sâu cho học sinh những chi tiết, những hình ảnh…đặc sắc. Chỉ ra được triết lí
sống, thông điệp tác giả muốn gửi gắm. Đối sánh với những tác phẩm cùng thời,
cùng đề tài để làm nổi bật cái mới mẻ và độc đáo của vấn đề đang triển khai.
Chẳng hạn, khi dạy “Đây thôn Vĩ Dạ” (Hàn Mặc Tử). Đây là tác phẩm
“có vấn đề”. Tác phẩm này không đơn thuần là một bài thơ tả cảnh. Cảnh chỉ là
cái cớ, cái nền để nói tình. Sau khi phân tích 3 khổ thơ theo nội dung trong
“chuẩn kiến thức kĩ năng”, giáo viên phân tích dưới nhiều góc độ khác nhau.
- Dùng thi pháp ánh sáng để làm nổi bật dụng ý nghệ thuật và bi kịch
của Hàn Mặc Tử:
+ Khổ 1: Có ánh sáng của “nắng”: Đây là ánh sáng của thế giới thực. Đây
còn là hình ảnh của quá khứ tươi đẹp với ngưỡng vọng được trở về.
+ Khổ 2: Có ánh sáng của “trăng”: Đây là ánh sáng của cõi mộng. Bất lực
trước hiện tại mù mịt, tác giả tìm đến cõi mộng mong nhập thế.


+ Khổ 3: Có ánh sáng toát ra từ tà “Áo em trắng quá” và “sương khói”: Đây
là ánh sáng của cõi hư ảo, mộng mị. Đây còn là hình ảnh của một tương lai u
ám, lạnh lẽo. Như vậy, nhà thơ đi từ cõi thật đến cõi mộng, từ cõi mộng đến cõi
mơ. Cả bài thơ là một giấc mơ.
- Dùng cấu trúc nội tại để làm nổi bật nỗi hoài nghi đau đáu, khao khát
tình người của Hàn Mặc Tử: Cả bài thơ có tổng 12 câu thơ chia thành 3 khổ
nhưng câu mở đầu và câu cuối cùng đều sử dụng câu hỏi tu từ. Bên cạnh đó, đại
từ phiếm chỉ “ai” xuất hiện phân bố đều ở ba khổ thơ:
+ Khổ 1: Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
+ Khổ 2: Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
+ Khổ 3: Ai biết tình ai có đậm đà?
Nó như một lời hoài nghi của tác giả trước tình đời và tình người.
2.3.2.4. Rèn luyện tốc độ viết nhanh và sạch đẹp:
Trong bài thi học sinh giỏi, yêu cầu về mặt dung lượng là một trong những
tiêu chí quan trọng. Để bài viết đạt kết quả cao thì dung lượng là yếu tố đầu tiên

góp phần tạo nên kết quả cuối cùng. Trên thực tế khảo sát, sau khi cho học sinh
thử sức ở bài viết đầu, tôi nhận thấy các em chỉ dừng lại hơn 4 trang giấy (một
tờ). Trong khi đó, yêu cầu đối với học sinh giỏi cấp tình phải từ 12 trang giấy trở
lên. Đây là một vấn đề cần được giáo viên dạy đội tuyển quan tâm. Trước hết,
giáo viên xác định được hai nguyên nhân chủ yếu sau để có giải pháp khắc phục:
+ Nguyên nhân 1: Do đặc điểm viết chậm của học sinh. Để khắc phục được
nhược điểm này, giáo viên có thể yêu cầu học sinh viết tăng tốc để rèn luyện kĩ
năng viết. Tôi thường đưa ra một bài hát mà học sinh thuộc lòng, sau đó yêu cầu
các em viết lại trong khoảng thời gian một tiếng cố định qua lần 1, lần 2, lần 3…
mỗi ngày buộc các em phải tăng tốc, phải rèn luyện cơ tay. Đây là cách làm đơn
giản nhưng vô cùng hiệu quả.
+ Nguyên nhân 2: Do học sinh thiếu kiến thức. Để khắc phục nguyên nhân
này, giáo viên cần phải cung cấp kiến thức thêm về những vấn đề mà học sinh
còn thiếu hụt, còn chưa hiểu rõ. Tìm kiếm và photo tài liệu liên quan đến vấn đề
học sinh còn hoang mang để củng cố và mở rộng, giúp các em có “vốn” văn
chương. Đây là cơ sở để học sinh triển khai vấn đề nhằm đáp ứng dung lượng.
Bên cạnh đó, giáo viên cần dạy cho học sinh cách trình bày logic, khoa
học. Có nhiều học sinh có năng lực nhưng trình bày cẩu thả, thiếu tính khoa học
gây mất điểm không đáng có. Đặc biệt, đối với môn ngữ văn, chữ viết và cách
trình bày là vấn đề cần quan tâm hết sức. Giáo viên yêu cầu học sinh triển khai
vấn đề tanhfh nhiều đoạn văn, mỗi đoạn phải triển khai trọn vẹn một ý trọn vẹn.
Ý lớn, luận điểm lớn phải được đặt ở đầu đoạn. Đồng thời, uốn nắn cho học


sinh cách triển khai bài viết theo từng dòng một cách hợp lí (mỗi dòng chỉ viết
10-11 chữ), không viết quá to, cũng không quá nhỏ, không quá thưa, không quá
dày. Đặc biệt, tùy từng học sinh khác nhau mà lựa chọn sử dụng từng loại bút
khác nhau để các em phát huy sức viết tối đa của mình.
2.3.2.5. Tạo rung cảm thẩm mĩ để học sinh “nếm trải nghệ thuật”:
Trên thực tế, đối với học sinh các trường THPT số 3, 4…thì tố chất văn

chương tiềm ẩn thực sự quả thật không nhiều. Thậm chí, có nhiều học sinh hiểu
vấn đề nhưng diễn đạt vô cùng khô khan. Đối với một học sinh giỏi văn, thì bài
viết hay, giàu cảm xúc, có “chất người” là yêu cầu không thể thiếu. Tôi nhận
thấy có hai kiểu học sinh thực sự làm văn tạo rung cảm lớn:
+ Kiểu 1: Học sinh có tố chất văn chương thực sự. Đối với kiểu học sinh
này, trường chúng tôi hầu như không hề có. Nếu có thì các em tập trung tại các
trường thị trấn trong huyện.
+ Kiểu 2: Học sinh có hoàn cảnh gia đình đặc biệt, trải qua nhiều nỗi đau.
Có lẽ, cũng vì từng trải, nên bài viết của học sinh đọc lên, ta cảm nhận thấy
trong đó nước mắt, có “chất người” Với đối tượng học sinh này, giáo viên chỉ
cần cung cấp kiến thức tốt, đúng, đủ, rộng và sâu.
Tuy nhiên, hai kiểu đối tượng học sinh như trên tại những trường có đầu
vào thấp khá ít. Bởi vậy, để tăng rung cảm thẩm mĩ cho học sinh, giáo viên cần
cho các em trải nghiệm nghệ thuật, xem phim tư liệu về cuộc đời tác giả, tác
phẩm để đồng cảm với nỗi đau của họ. Đặc biệt trong những giờ giải lao, người
dạy có thể cho học sinh mình bồi dưỡng xem những chương trình truyền hình bổ
ích như : “Như chưa hề có cuộc chia ly”, “Điều ước thứ bảy”…để học sinh
được thấu hiểu, cảm thông, rung động trước những cảnh đời nghiệt ngã. Chính
những rung động này sẽ theo các em đi vào các tác phẩm văn chương thực sự.
Đồng thời, nó tôn tạo ước mơ, nuôi dưỡng nghị lực cố gắng nơi học sinh.
2.3.2.6. Đa dạng hóa đề kiểm tra kết hợp với chấm chữa thường xuyên
Sau khi trang bị kiến thức đầy đủ cho học sinh, đã đến lúc giáo viên cho
học sinh bước vào thời kì thực hành. Từ hệ thống lý thuyết đã được học, học
sinh cần vận dụng kiến thức và kĩ năng làm văn để giải quyết tình huống cụ thể.
Tuy nhiên, khâu ra đề, chấm chữa có thể nói là khâu quan trọng mang tính chất
quyết định đến kết quả bồi dưỡng học sinh giỏi. Thực tế qua bồi dưỡng tôi nhận
thấy, giáo viên càng cho học sinh viết bài nhiều thì hiệu quả càng cao. Thế
nhưng, việc ra đề cho đội tuyển học sinh giỏi cần lưu ý:
a. Đối với khâu ra đề:
- Việc ra đề ban đầu cần được giáo viên khoanh vùng trong giới hạn cụ

thể, từng tác phẩm cụ thể: Kiến thức các em được trang bị chưa được thông suốt


trong lòng bàn tay. Nếu giáo viên ra đề trong một phạm vi rộng, học sinh sẽ dễ
hoang mang, tạo tâm lý chán nản. Trước khi ra đề, giáo viên cần yêu cầu học
sinh về đọc tác phẩm cụ thể trong giới hạn đề, tìm hiểu tất cả những kiến thức
liên quan đến tác phẩm. Sau đó, mới cho học sinh làm đề. Mỗi tác phẩm, giáo
viên cần giao từ 5 đề trở lên, khai thác tất cả các góc cạnh nội dung và nghệ
thuật. Từ đó, các em một lần nữa sẽ được củng cố lại nội dung tác phẩm. Đồng
thời, chúng được tiếp cận với những kiến thức nâng cao mới liên quan đến tác
phẩm, được rèn luyện kĩ năng viết bài. Sau khi làm hết các đề liên quan đến
từng tác phẩm cụ thể, có chấm chữa đánh giá. Giáo viên mới tiến hành cho học
sinh làm những dạng đề bất kì, dạng đề tổng hợp đòi hỏi khả năng nhạy bén của
người học.
- Đề ra phải tuân theo mức độ từ dễ đến khó: Nếu giáo viên không làm
được điều này thì những học sinh ở vạch xuất phát thấp sẽ dễ dàng bỏ cuộc vì
không theo kịp kiến thức. Đề phải đi từ dễ đến khó, phải kích thích được hứng
thú, niềm đam mê của người học. Nếu ngay ban đầu mới nhập cuộc, giáo viên
cho dạng đề chìm nhằm đánh đố học sinh thì sẽ tạo tâm lý hoang mang, rút lui.
Tuy nhiên, thời gian cuối gần lịch thi, giáo viên đừng ra quá nhiều đề khó liên
tục, mà hãy đan xen giữa những dạng đề bình thường và khó để các em không
chán nản mà vững tâm trong thời gian còn lại.
- Đa dạng hóa các dạng đề nhưng cần bám sát vào dạng đề thi của Sở:
Giáo viên không nên cho học sinh làm một dạng đề mang tính chất hàn lâm mà
cần cho các em thử sức ở nhiều dạng đề khác nhau. Điều này sẽ phát huy trí
tưởng tượng và sáng tạo của học sinh. Cùng một vấn đề lý luận, giáo viên có thể
đánh đố bằng cách gọi những tên gọi khác nhau. Chẳng hạn, bàn về phong cách
nghệ thuật, giáo viên có thể sử dụng những thuật ngữ như: “tiếng nói riêng”,
“người nghệ sĩ tự kiến tạo gương mặt mình”, “cách cảm thụ mang tính chất
khám phá”, “giọng điệu riêng không tìm thấy trong cổ họng của bất kì ai”…mỗi

vấn đề lý luận đưa ra cần yêu cầu học sinh phát hiện đúng, rõ ràng. Đặc biệt,
giáo viên cần bám sát vào những dạng đề trong cấu trúc thi của Sở giáo dục. Đó
là cho một vấn đề nhận định, sử dụng kiến thức lý luận và dùng tác phẩm để làm
sáng tỏ.
- Đề cần phải hay, khơi gợi “chất người” và phát huy trí sáng tạo: Một đề
văn hay không phải là đề mà học sinh đọc xong, chúng bó tay và bỏ cuộc.
Ngược lại, một đề văn hay có khả năng kích thích trí tò mò, sáng tạo, học sinh
thể hiện được tiếng nói cá nhân, được “chất người” ngay trong bài viết. Đó mới
là cơ sở để phát hiện và lựa chọn học sinh giỏi. Sau khoảng 10 đề thực hành,


giáo viên dựa vào kết quả từng bài viết của học sinh để lựa chọn đội tuyển tham
gia thi chính thức.
- Ra đề phải đảm bảo tính thường xuyên, liên tục: Theo kế hoạch của nhà
trường, mỗi tuần dành một buổi chiều cho công tác bồi dưỡng học sinh giỏi. Nếu
căn cứ vào thời gian như vậy sẽ không đảm bảo hiệu quả. Bởi vậy, mỗi tuần giáo
viên cần có một bài kiểm tra trên lớp và một bài kiểm tra giao về nhà nhằm
luyện viết và kiểm tra ý thức làm bài ở nhà của học sinh. Qua luyện viết, học
sinh sẽ có thêm vốn kiến thức lẫn ngôn ngữ, kĩ năng hành văn tiến bộ hơn.
- Giáo viên cần thường xuyên cập nhật dạng đề thi học sinh giỏi ở các tỉnh
bạn. Đây là một nguồn tư liệu quan trọng trong quá trình ôn thi.
b. Đối với khâu chấm chữa:
- Cần chấm chữa khách quan, nghiêm túc, kịp thời: Nếu giáo viên chỉ chú ý
coi trọng khâu ra đề mà xem nhẹ khâu chấm chữa là một việc sai lầm. Kể cả
việc chấm qua loa cũng vậy. Bài viết học sinh mới chỉ là một “công trình sơ
khai”, cần bàn tay “đẽo gọt” của người dạy thì mới làm nên “một công trình kiến
trúc có giá trị”. Gíao viên cần chú ý đến những tiểu tiết nhỏ nhặt kể cả về kĩ
năng và kiến thức, chú ý lỗi chính tả, dùng từ, lỗi diễn đạt, lỗi sai về kiến thức…
để kịp thời chỉ ra cho học sinh.Từ đó, giúp học sinh rút kinh nghiệm ở những bài
viết sau.

- Dùng bút đỏ gạch chân dưới những ý đã đạt, tốt. Đồng thời, chỉ ra ý đúng
bên cạnh ý sai để học sinh thấy rõ. Nhận xét cặn kẽ ưu điểm, nhược điểm…của
từng bài viết. Nếu bài viết quá kém, giáo viên có thể yêu cầu học sinh viết lại
dựa theo những hướng dẫn và gợi ý của giáo viên với phương châm “chậm
nhưng chắc”. Kịp thời động viên những bài viết tiến bộ, chỉ ra những hạn chế
của những bài viết kém nhẹ nhàng, nghiêm túc
Tuy nhiên do khoảng thời gian bồi dưỡng ít nên việc chấm chữa, trả bài,
nhận xét…sẽ được giáo viên thực hiện sau các buổi dạy thêm. Mỗi tuần cần huy
động 3-4 buổi (khoảng hơn 1,5 tiếng/buổi) để thực hiện trả bài và nhận xét.
2.3.2.7. Tổ chức thi cọ xát giữa các trường THPT trong địa bàn huyện
Công việc này được thực hiện ở gia đoạn sau khi đã luyện đề thành thạo.
Để tạo môi trường cạnh tranh và thi đua, giáo viên dạy đội tuyển có thể liên hệ
với các trường bạn trong địa bàn huyện hoặc những huyện lân cận để tổ chức thi
khảo sát. Điều này mang lại một hiệu quả rất lớn. Nó giúp học sinh tôi luyện bản
lĩnh tự tin trong phòng thi. Đồng thời, các em nhận ra mình đang ở vị trí nào và
cần cố gắng hơn nữa. Mỗi tháng, người dạy cần tổ chức thi ít nhất là một lần đều
đặn. Đề thi được các trường luân phiên ra đề tạo tính khách quan, chính xác.
2.3.2.8. Trang bị sổ tay văn học:


Mỗi học sinh cần trang bị cho mình một cuốn sổ tay văn học. Mỗi vấn đề lý
luận được ghi riêng theo từng đề mục, mỗi tác giả - tác phẩm cũng tương tự.
Qua những đề bài đã làm và chấm chữa, học sinh sẽ ghi lại những vấn đề cùng
nội dung nhưng khai thác ở nhiều góc cạnh khác nhau vào đề mục cụ thể. Nó sẽ
là nguồn tư liệu quý báu nhất đúc kết từ những kiến thức chính xác, khoa học và
nghệ thuật. Để khi cần về một vấn đề thuộc phạm vi kiến thức liên quan, học
sinh không cần phải tìm kiếm xa xôi mà nó đã tồn tại ngay trong trí nhớ. Cách
này nó sẽ tiết kiệm thời gian nhưng hiệu quả rất cao.
2.3.2.9.Tổ chức cho học sinh nhận xét văn người và sửa văn mình.
Song song với việc tổ chức cho học sinh luyện tập thực hành, giáo viên cho

học sinh tự đọc văn bạn để sửa văn mình. Thông qua cách làm này học sinh có
thể tìm ra được những nhược điểm của nhau và sửa chữa cho nhau, ngoài ra còn
có thể học tập ở nhau những điểm tốt. Hoặc học sinh có thể sửa bài của mình
sau khi thầy cô đã chấm. Chú ý những thiếu sót mà người dạy đã phát hiện, viết
lại theo chỉ dẫn. Ngoài ra giáo viên dành ít thời gian để hướng dẫn học sinh đọc
tài liệu tham khảo, nhất là đọc các bài văn đạt giải để giúp học sinh học tập thêm
ở văn người hoặc có thể tham khảo những bài làm tốt của học sinh ở ngay trong
đội tuyển.
Với những hình thức này đòi hỏi giáo viên phải nghiên cứu nhiều tài liệu,
năng sưu tầm mới có thể cung cấp được nhiều tài liệu cho học sinh. Đồng thời
cũng yêu cầu học sinh phải có sổ tích luỹ văn học mới học tập được ở bạn và có
thêm nhiều vốn văn học.
- Thảo luận trao đổi, giải đáp thắc mắc: Sau khi đã sử dụng các hình thức
trên, giáo viên dành một thời gian nhất định một đến hai buổi học cho học sinh
thảo luận những kiến thức đã được học .Tập hợp những ý kiến thắc mắc, băn
khoăn, vướng mắc để giải đáp bổ sung củng cố lại giúp các em có một lượng
kiến thức vững vàng trước kỳ thi.
2.3.2.10. Dạy trò bằng cả ĐỨC - TÂM trọn vẹn nơi người Thầy
Trong quá trình giảng dạy, cái TÂM của người thầy có sức lan tỏa lớn. Nó
tác động đến trái tim học sinh. Chữ TÂM có một sức mạnh vô hình gắn kết giữa
người dạy và người học để cùng nhau cố gắng. Đôi khi, những lời động viên, sự
quan tâm của người thầy khiến học sinh thấy bản thân mình được trân trọng, yêu
thương. Từ đó, tình yêu thương nơi học sinh sẽ trở thành tình yêu với môn học.
Nó hóa rễ thành niềm tin, nghị lực và quyết tâm vươn lên.
Đối với giáo viên đứng đội tuyển, mỗi đồng chí đừng tách biệt và đứng
ngoài cuộc đời các em. Đừng chỉ dừng lại ở việc truyền thụ kiến thức mà hãy
cúi xuống để thấu hiểu tâm tư của trò. Giáo viên hãy xem học trò mình như


những đứa con và yêu thương, bảo ban chúng. Người dạy cũng cần hiểu xem

các em đang đối diện với vấn đề gì, khó khăn như thế nào? Trong một tiết trả bài
đầy căng thẳng, trong đó có nước mắt của người học bị điểm thấp, đôi khi một
cái vỗ vai thay lời nói, một nụ cười và lời động viên sẽ tác động sâu sắc đến học
sinh khiến các em tự cảm thấy mình phải nỗ lực và trách nhiệm hơn nữa chứ
không phải là bỏ cuộc. Động lực duy nhất để đốt lửa đam mê trong học sinh
chính là tình yêu dành cho người thầy đủ “Tâm” và “Đức”. Ta gọi đó là
TÌNH NGƯỜI. Đây là nơi khởi nguồn sức mạnh của ý chí và nghị lực, của
quyết tâm vươn lên. Bởi vậy, nười thầy hãy trân trọng và yêu thương học sinh
như chính sinh mệnh của mình.
Mỗi giáo viên hãy là một “trang nhật kí sống” chứ không đơn thuần là một
người thầy gieo chữ để học sinh có thể tâm sự những điều mà các em cất giữ,
giúp các em cảm nhận được tình thầy như tình cảm gia đình ruột thịt. Để mỗi
khi học sinh gặp những vẫn đề khó khăn trong cuộc sống, các em luôn nghĩ về
Thầy để vững tin và cố gắng hết mình, tự giác, tự nguyện trong học tập mà
không cần thày phải răn đe, nhắc nhở. Chữ TÂM kiến tạo sức mạnh, niềm tin,
nghị lực phấn đấu và đốt lửa đam mê nơi trò. Nếu giáo viên có TÂM, sẽ không
có những học sinh thờ ơ, chán nản môn học. Đó cũng là yếu thố quan trọng nhất
để tạo nên những sản phẩm sư phạm tốt đẹp trong sự nghiệp “trồng người”.
2.3.2.11. Phối hợp với các đoàn thể nhà trường và phụ huynh học sinh
Không chỉ giảng dạy học sinh, người dạy cần phải phối hợp với các đoàn
thể nhà trường trong việc gặp gỡ, động viên kịp thời các em. Tạo cho học sinh
một tâm thế thoải mái và ổn định. Từ đó, các em thấy mình được quan tâm thực
sự. Nó sẽ kích thích ý chí phấn đấu nơi trò.
Ở những trường THPT có đầu vào thấp, đa phần hoàn cảnh gia đình học
sinh còn nhiều khó khăn. Hơn nữa, việc học sinh dành quỹ thời gian để ôn thi là
khá lớn. Bởi vậy, giáo viên cần liên hệ thường xuyên với gia đình phụ huynh
học sinh để tâm sự, trao đổi về điều kiện học tập cho các em. Đồng thời, động
viên phụ huynh học sinh luôn quan tâm và tạo điều kiện để các em có môi
trường và thời gian ôn luyện tốt nhất.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, bản

thân, đồng nghiệp và nhà trường
* Đối với hoạt động giáo dục
- Năm học 2014 – 2015: Không có giải môn Ngữ văn
- Năm học 2015 – 2016: Có một giải khuyến khích môn Ngữ văn.
- Năm học 2017-2018: Đội tuyển tham gia thi chính thức là 5 em. Kết quả cụ
thể như sau:


SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VIỆT NAM
Kỳ thi chọn học sinh giỏi cấp
tỉnh năm học 2017-2018

Môn
S
TT

Họ tên

1Phan Thị
1 Vân Anh

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

BẢNG KẾT QUẢ HỌC SINH DỰ THI
Trường THPT Yên Định 3
Ngữ văn
Ngày sinh


Môn
Lớp
thi

Giáo viên
Điểm Xếp giải
dạy

11B7 Ngữ văn 14.000

Nhì

3Nguyễn Thị
05/01/2001
2 Thùy Linh

11B7 Ngữ văn 12.000

Khuyến Lê Thị Thanh
khích
Hương

4Nguyễn Thị
16/11/2001
3 Hương Ly

11B6 Ngữ văn 13.000

Ba


Lê Thị Thanh
Hương

4
Lê Thị Thảo 05/11/2001

11B7 Ngữ văn 13.500

Nhì

Lê Thị Thanh
Hương

11B5 Ngữ văn 13.750

Nhì

Lê Thị Thanh
Hương

4Trịnh Thu
5 Thủy

16/10/2001

Ghi
chú

Lê Thị Thanh
Hương


28/04/2001

4

G

Trong đó, môn văn tại trường THPT Yên Định 3 xếp thứ 4 trên tổng số
các trường THPT trong toàn tỉnh. Đây là kết quả cao nhất của trường từ
trước đến nay.
* Đối với bản thân:
Đây là một hướng triển khai có tính sáng tạo trong thực tiễn giảng dạy và bồi
dưỡng học sinh giỏi. Nó giúp bản thân tôi có thể thấu hiểu tâm tư của học sinh,
yêu thương và gần gũi học sinh. Đồng thời, thông qua việc bồi dưỡng, tôi cảm
thấy có thêm động lực, có uy tín trước đồng nghiệp, yêu nghề, yêu người và ra
sức phấn đấu vì sự nghiệp trồng người.
* Đối với đồng nghiệp và nhà trường:
Đây là một đề tài sáng tạo có thể áp dụng trong phạm vi bộ môn nói riêng và
các môn học khác nói chung. Nó sẽ là một hướng tiếp cận gần gũi nhằm góp
phần nâng cao công tác bồi dưỡng học sinh giỏi. Đây là một đề tài tôi nghĩ có lợi
ích rất lớn hỗ trợ hoạt động dạy học và giáo dục của nhà trường. Góp phần đổi


mới và nâng cao trình độ chuyên môn của nhà giáo, thay đổi thứ hạng và vị trí
nhà trường với các trường THPT trong tỉnh.

3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận:
Trong cấp học THPT: Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi luôn được coi trọng
vì nó phản ánh được hiệu quả chất lượng giáo dục của một nhà trường. Nhiệm

vụ của mỗi giáo viên là phải nâng cao được chất lượng giảng dạy, bồi dưỡng học
sinh giỏi, để phát hiện và bồi dưỡng đạt kết quả tốt người giáo viên là yếu tố cơ
bản. Giáo viên thật sự phải có năng lực, năng khiếu sư phạm, đồng thời phải có
tâm huyết với nghề nghiệp, biết tôn trọng tài năng .Chất lượng học sinh giỏi
không chỉ thể hiện đánh giá năng lực, năng khiếu văn chương của học sinh mà
còn thể hiện năng lực bồi dưỡng của mỗi giáo viên nói riêng và chất lượng giáo


dục của nhà trường nói chung. Nó còn là thước đo để đánh giá sự nỗ lực, phấn
đấu của thầy và trò.
Muốn có sản phẩm của hoạt động sư phạm tốt phải bắt đầu từ người thầy
trước. Trong quá trình giảng dạy người thầy phải biết bắt đầu từ những kỹ năng
đơn giản nhất để hướng học sinh đến một mục đích cao hơn. Kiến thức, sự hiểu
biết về kỹ năng sống, kinh nghiệm và tư cách của người thầy có sức lan tỏa lớn
đối với học sinh.
Đề tài của tôi không bắt nguồn từ những ý tưởng lớn lao mà xuất phát từ
thực tế mà tôi đã được trải nghiệm trong quá trình giảng dạy. Nội dung của để
tài giúp cho học sinh rèn luyện, giáo viên có thêm cơ sở để bồi dưỡng đội tuyển
học sinh giỏi được tốt. Vì vậy tôi cũng tin tưởng rằng: Đề tài của tôi sẽ được áp
dụng rộng rãi cho các đối tượng học sinh tham gia thi chọn học sinh giỏi –
những học sinh đang đứng trước ngưỡng cửa tương lai với ước mơ xây dựng
một xã hội tốt đẹp.
Tôi mong muốn nhận được sự đóng góp ý kiến từ phía đồng nghiệp, các tổ
chức chuyên môn để tôi làm được tốt hơn trong những năm tới.
3.2. Kiến nghị:
Tôi mong muốn nhà trường sẽ tạo điều kiện hơn nữa về cơ sở vật chất, kĩ
thuật và các loại tài liệu tham khảo liên quan đến công tác bồi dưỡng học sinh
giỏi.
Tôi hi vọng đề tài này sẽ được các bạn đồng chí, đồng nghiệp tham khảo và
có thể triển khai một cách rộng rãi trong công tác giảng dạy và giáo dục.

Tôi mong muốn Hội đồng khoa học đánh giá công bằng, khách quan, trung
thực và ghi nhận đóng góp của bản thân tôi để tôi tiếp tục cống hiến nhiều hơn
nữa cho sự nghiệp giáo dục.

XÁC NHẬN CỦA THỦ
TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
tôi không sao chép của người khác
Thanh Hóa, ngày 15 tháng 5 năm 2019
Người viết

Lê Thị Thanh Hương
.




×