Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Một số phương pháp tiếp cậnbài học nhằm tạo hứng thú cho học sinh khi học môn ngữ văn bậc THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.72 KB, 24 trang )

PHẦN I : ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
Thời gian qua, Ngành giáo dục đã thực hiện đổi mới phương pháp dạy học ở tất
cả các môn học trong đó có môn Ngữ văn. Tuy nhiên, điều khiến cho những giáo viên
dạy văn băn khoăn, trăn trở hơn hết đó là học sinh thường lựa chọn các môn học tự
nhiên với mục tiêu chọn trường, ngành, nghề sau này dễ dàng và thuận lợi hơn. Nhiều
học sinh cho rằng Ngữ văn là môn khoa học xã hội, tính ứng dụng không cao, không
thiết thực với cuộc sống, công việc. Từ đó, dẫn đến tình trạng chán học văn, hoặc học
mang tính đối phó. Học sinh thích học văn ngày càng ít đi.
Trong khi đó, đổi mới căn bản, toàn diện là yêu cầu của giáo dục hiện nay. Việc
xây dựng, áp dụng những hướng tiếp cận, phương pháp mới trong dạy học bộ môn để
nâng cao hiệu quả dạy và học là yêu cầu phải được giải quyết. Đặc biệt, với xu hướng
học lệch, học theo ban, chọn ngành nghề theo khối hiện nay tạo ra rất nhiều bất cập
trong việc lựa chọn môn học. Các môn xã hội có xu hướng bị coi nhẹ. Môn Ngữ văn
cũng không nằm ngoài xu hướng ấy.
Vì vậy, việc đổi mới phương pháp dạy học, trong đó có đổi mới phương pháp,
tìm hướng tiếp cận mới trong dạy học môn Ngữ văn, tạo hứng thú, nâng cao năng lực
học tập cho học sinh, giúp học sinh cảm nhận được cái hay, cái đẹp, biết cảm thông,
yêu thương chia sẻ với những số phận, cuộc đời thông qua mỗi trang sách, thông qua
từng tác phẩm là điều rất cần thiết. “Văn học là nhân học” học văn là để hình thành
nhân cách con người. Và Ngữ văn là môn học quan trọng giúp học sinh có kỹ năng giao
tiếp ứng xử trong cuộc sống. Tìm hướng tiếp cận, đổi mới phương pháp, từ đó tạo hứng
thú trong học tập cho học sinh, khơi gợi, đánh thức niềm đam mê với văn học, tìm về
với giá trị đời sống tâm hồn của con người là vấn đề được đặt ra và cần phải giải quyết.
Luận ngữ có câu: “Biết mà học không bằng thích mà học, thích mà học không
bằng say mà học”. Yếu tố cảm xúc, say mê chính là động lực lớn thúc đẩy, nuôi dưỡng
sự cố gắng, nỗ lực học tập không ngừng của mỗi chúng ta. Với vai trò là người tổ chức,
hướng dẫn và điều khiển quá trình học tập của học sinh, hơn ai hết giáo viên phải tìm,
xây dựng hướng tiếp cận mới, phương pháp mới để phát tính tích cực sáng tạo của
người học, tạo hứng thú, hưng phấn, khơi dậy đam mê học tập ở học sinh.
Ngày nay, với xu thế, tác động của cơ chế thị trường, nhiều giá trị nhân văn,


nhiều yếu tố văn hóa đang trở nên bị coi nhẹ, bị lai tạp, giao thoa, mai một. Từ thực tế
ấy, đòi hỏi giáo viên nói chung và đặc biệt là các thầy cô - giáo viên dạy Ngữ văn nói
riêng phải nhận thức rõ vai trò và trách nhiệm của mình - những người nghệ sĩ tâm hồn
là vô cùng quan trọng và nhiều thử thách. Thực tế ấy cũng khiến cho việc tổ chức, dẫn
dắt học sinh tiếp cận tác phẩm văn chương, tìm hiểu các giá trị nhân văn, đạo lí truyền
thống càng trở nên nhọc nhằn hơn. Nó đòi hỏi người giáo viên Ngữ văn ngoài chuyên
môn vững vàng cần có tâm thế tốt, luôn nhiệt huyết, yêu nghề, luôn trau dồi đổi mới
phương pháp để tạo được hứng thú học tập, nâng cao chất lượng giáo dục.
Có thể nói, cốt lõi của việc tạo hứng thú, tạo tâm thế hưng phấn, tích cực cho học
sinh trong học tập bộ môn nói chung và môn Ngữ văn nói riêng là đổi mới phương
pháp dạy học, dạy học theo hướng lấy hoạt động học tập của học sinh làm trung tâm,
1


học trò là người chủ động khám phá, lĩnh hội kiến thức, người thầy đóng vai trò là
người tổ chức, chỉ đạo. Vì vậy, việc nghiên cứu tìm những hướng tiếp cận bài học linh
hoạt, khoa học, hợp lí nhằm tạo hứng thú học tập của học sinh trong dạy học Ngữ văn
là rất cần thiết.
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, kết hợp kinh nghiệm giảng dạy thực tiễn của
bản thân, với mong muốn, trong từng bài dạy, trong từng giờ học văn, học sinh luôn
hứng thú, chủ động, yêu thích môn học, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả dạy và học
tôi chọn đề tài: “Một số phương pháp tiếp cậnbài học nhằm tạo hứng thú cho học
sinh khi học môn Ngữ văn bậc THPT ”.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của tôi khi nghiên cứu vấn đề này là tìm được những phương pháp tiếp
cận bài học, phương pháp dạy học tích cực nhằm tạo được hứng thú học tập môn Ngữ
văn của học sinh khi học môn Ngữ văn nói chung và Ngữ văn THPT nói riêng. Đồng
thời, qua thực trạng, tìm hiểu được nguyên nhân, các yếu tố ảnh hưởng tới việc học văn
của học sinh, từ đó đề xuất một số biện pháp tạo hứng thú học tập môn Ngữ văn, góp
phần nâng cao hơn nữa chất lượng học tập môn Văn cho học sinh THPT. Hơn nữa, qua

đề tài này tôi mong rằng có thể góp phần nào đó trong việc bồi dưỡng tâm hồn người
học, như Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh từng nói: “Học văn là làm cho tâm hồn mỗi con
người phong phú thanh cao và yêu đời hơn, người học văn sẽ ý thức được và không
bao giờ là người thô lỗ, cục cằn”.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu, tìm hiểu một số phương pháp tiếp cận bài học nhằm tạo sự hứng thú
học tập cho học sinh.
Đề xuất giải pháp tiếp cận bài học nhằm tạo được hứng thú trong học tập. Từ đó
nâng cao hiệu quả dạy và học.
4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
Tìm hiểu một số phương pháp tiếp cận bài học nhằm tạo hứng thú trong việc dạy
và học môn Ngữ văn ở THPT.
5. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi kiến thức: Chương trình Ngữ văn bậc THPT.
Phạm vi địa bàn nghiên cứu: Học sinh các lớp được phân công giảng dạy tại nhà
trường đang công tác.
Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 09 năm 2018 đến tháng 05 năm 2019.
6. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp điều tra (Phỏng vấn, phiếu điều tra).
Phương pháp đối chứng.
Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
Phương pháp kiểm tra.
7. Lịch sử đề tài
Vấn đề nghiên cứu phương pháp tiếp cận bài học nhằm tạo hứng thú cho học sinh
khi học môn Ngữ văn bậc THPT đã được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu như :
Các phương pháp dạy học hiệu quả”. NXB trẻ, 2001.
2


M. Iacoplep. “Phương pháp và kỹ thuật lên lớp ở trường phổ thông”. NXB Giáo

dục, 1975 – 1978.
Tuy nhiên các tác giả chỉ chỉ đề cập ở mức độ khái quát, có tính chất lí luận, chứ
chưa đi sâu tìm hiểu phương pháp tiếp cận bài học nhằm tạo hứng thú cho học sinh khi
học môn Ngữ văn bậc THPT một cách cụ thể.
8. Cấu trúc của SKKN
Gồm : 3 phần
Phần I : Đặt vấn đề
Phần II : Nội dung
Phần III : Kết luận, kiến nghị

3


PHẦN II : NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Cơ sở lí luận chung
Như Jacques Delors đã nói : “Giáo dục là một trong những công cụ mạnh nhất
mà chúng ta có trong tay để đào tạo nên tương lai”. Bác Hồ đã từng căn dặn các thế hệ
học sinh : “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp được hay không, dân tộc Việt Nam
có bước tới đài vinh quanh để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không,
chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em.” . Đảng và Nhà nước ta đã luôn
xác định “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”.
Chúng ta đang trên đà đổi mới, hội nhập cùng xu thế chung của thời đại. Cùng
với sự đổi mới đó, đòi hỏi nền giáo dục nước ta có sự đổi mới, đổi mới toàn diện để bắt
kịp thời đại.
Văn kiện Đại hội XI của Đảng xác định: “Phát triển giáo dục là quốc sách hàng
đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện
đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý

giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt. Tập trung
nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực
sáng tạo, kỹ năng thực hành, khả năng lập nghiệp. Đổi mới cơ chế tài chính giáo dục.
Thực hiện kiểm định chất lượng giáo dục, đào tạo ở tất cả các bậc học. Xây dựng môi
trường giáo dục lành mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường với gia đình và xã hội”.
Đảng ta đã khẳng định: “Giáo dục là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân và giáo viên
là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục” (Nghị quyết TW II – Khóa VIII).
Luật Giáo dục đã ghi: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tích tích
cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm từng lớp học, môn
học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm, rèn kỹ năng vận
dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học
tập cho học sinh”.
Và như vậy, vai trò của giáo dục là cực kì quan trọng, liên quan đến sự phát triển
bền vững của một quốc gia. Đảng, Nhà nước và nhân dân ta luôn nhận thức rất rõ điều
đó. Trong xu thế mới, điều kiện phát triển mới, thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước giáo dục càng được ưu tiên hàng đầu. Để đáp ứng nhu cầu mới, nhất thiết phải
đẩy mạnh đổi mới, đổi mới toàn diện giáo dục. Trong đó, việc đổi mới phương pháp
dạy học, đặc biệt là với môn Ngữ văn là điều rất cần thiết. Trong đó nhiệm vụ đầu tiên
là làm cách nào để người học luôn sẵn tâm thế và yêu thích môn học, từ đó say mê, chủ
động tích cực coi học tập là nhiệm vụ hàng đầu.
1.1.2. Các khái niệm cơ bản.
Từ những năm 90 của thế kỉ trước, khi so sánh quốc tế về thiết kế chương trình
giáo dục, người ta thường nêu lên hai phương pháp tiếp cận chính:

4


+ Thứ nhất là phương pháp tiếp cận dựa vào nội dung hoặc chủ đề và thứ hai là
phương pháp tiếp cận dựa vào kết quả đầu ra. Để ngắn gọn xin gọi cách 1 là phương
pháp tiếp cận nội dung và cách 2 là phương pháptiếp cận kết quả đầu ra.

+ Phương pháp tiếp cận nội dung là cách nêu ra một danh mục đề tài, chủ đề của
một lĩnh vực/môn học nào đó. Tức là tập trung xác định và trả lời câu hỏi: Chúng ta
muốn học sinh cần biết cái gì? Cách tiếp cận này chủ yếu dựa vào yêu cầu nội dung
học vấn của một khoa học bộ môn nên thường mang tính “hàn lâm”, nặng về lý thuyết
và tính hệ thống, nhất là khi người thiết kế ít chú đến tiềm năng, các giai đoạn phát
triển, nhu cầu, hứng thú và điều kiện của người học.
+ Thứ hai là phương pháp tiếp cận kết quả đầu ra, là cách tiếp cận nêu rõ kết quả
những khả năng hoặc kĩ năng mà học sinh mong muốn đạt được vào cuối mỗi giai đoạn
học tập trong nhà trường ở một môn học cụ thể. Nói cách khác, phương pháp tiếp cận
này nhằm trả lời câu hỏi: chúng ta muốn học sinh biết và có thể làm được những gì?
Như vậy, có thể hiểu phương pháp tiếp cận là phương pháp, cách thức, góc độ tìm hiểu
làm rõ một vấn đề, nội dung nào đó và hướng đến đạt được mục đích đề ra. Ở đây
chúng ta có thể hiểu đó là phương pháp tiếp cận bài học, phương pháp tìm hiểu nội
dung nhằm tạo hứng thú, say mê kích thích khả năng học tập của học sinh.
Theo Đại từ điển Tiếng Việt-Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin năm 1998, hứng
thú có hai nghĩa, đó là “Biểu hiện của một nhu cầu, làm cho chủ thể tìm cách thỏa mãn,
tạo ra khoái cảm, thích thú và huy động sinh lực để cố gắng thực hiện” và “hứng thú là
sự ham thích”.
Qua khái niệm trên ta thấy rằng: hứng thú có nghĩa là tâm trạng vui vẻ, thích thú,
hào hứng của con người đối với một hoạt động nào đó. Ở đây là hứng thú, chủ động
tích cực học tập nói chung và với môn Ngữ văn nói riêng. Khi có được sự say mê, thích
thú con người sẽ làm việc có hiệu quả hơn, dễ thành công và thành công nhanh hơn, bởi
lẽ hứng thú còn chính là động lực thúc đẩy hoạt động của con người đi sâu vào bản chất
của đối tượng nhận thức mà không dừng lại ở bề ngoài của hiện tượng, nó đòi hỏi con
người phải hoạt động tích cực, chịu khó tìm tòi hoặc sáng tạo. Hứng thú có nhiều tác
dụng trong cuộc sống nói chung và trong dạy học nói riêng.
1.1.3. Các góc độ tác động của sự hứng thú
1.1.3.1. Tác động của hứng thú trong cuộc sống
Hứng thú có tác dụng chống lại sự mệt nhọc và những cảm xúc tiêu cực, duy trì
trạng thái tỉnh táo ở con người.

Hứng thú định hướng và duy trì tính tích cực của con người, làm con người chịu
khó tìm tòi và sáng tạo.
Hứng thú đóng vai trò chủ đạo trong sự phát triển và hình thành nhân cách con
người, nó tạo nên khả năng cho hoạt động trí tuệ, thẩm mỹ và các dạng hoạt động khác.
Hứng thú làm cho con người xích lại gần nhau hơn.
1.1.3.2. Tác động của hứng thú trong dạy học
Dạy học là một nghệ thuật, người dạy - giáo viên là những “kỹ sư tâm hồn”, sản
phẩm tạo ra của quá trình dạy học là sản phẩm đặc biệt - con người (nhân cách).
5


Nó không hề giống với bất kỳ một ngành nghề nào. Điều đó đặt ra những yêu
cầu khắt khe đối với giáo viên. Theo William A. Ward thì:“ Người thầy trung bình chỉ
biết nói, Người thầy giỏi biết giải thích, Người thầy xuất chúng biết minh họa,Người
thầy vĩ đại biết cách truyền cảm hứng”
Từ đó ta thấy việc truyền cảm hứng (gây hứng thú) học tập cho học sinh, người
học là điều cực kì quan trọng và cần thiết. Bởi lẽ: “Chúng ta không thể dạy ai làm bất
cứ điều gì, chúng ta chỉ có thể giúp họ khám phá điều đó” (Theo Galileo Galilei). Cho
nên, nếu khơi dậy được sự hứng thú, say mê cho học sinh thì sẽ tạo ra động cơ học tập
tích cực, giúp các em hăng say, nỗ lực vượt qua mọi khó khăn, trở ngại để đạt kết quả
học tập tốt nhất, và từ đó người học sẽ tiếp nhận tri thức một cách chủ động và tự giác,
không bị ép buộc,…
Khi hứng thú học tập, người học sẽ:
Hăng hái trả lời các câu hỏi của giáo viên, bổ sung câu trả lời của bạn, thích phát
biểu ý kiến của mình trước những vấn đề nêu ra.
Hay nêu thắc mắc, đòi hỏi giải thích cặn kẽ những vấn đề chưa hiểu rõ ràng.
Chủ động vận dụng kiến thức kĩ năng đã học để nhận thức vấn đề mới, tập trung
chú ý vào vấn đề đang học.
Kiên trì hoàn thành bài tập, không nản chí trước những tình huống khó khăn…
Hứng thú còn giúp học sinh tích cực học tập qua những cấp độ từ thấp đến cao. Bắt

chước: gắng sức làm theo các mẫu hành động của thầy, của bạn…
Tìm tòi: độc lập giải quyết vấn đề nêu ra, tìm kiếm những cách giải quyết khác nhau về
một vấn đề…
Sáng tạo: tìm ra cách giải quyết mới, độc đáo, hữu hiệu.
Tóm lại, khi học sinh hứng thú với bài học, với môn học sẽ tạo không khí thi đua
học tập sôi nổi, tích cực, say mê học hỏi, tìm tòi, nghiên cứu… đây chính là một trong
những tiền đề dẫn đến sáng tạo và tài năng. Và tôi tin rằng quá trình dạy học nhất định
sẽ đạt được kết quả cao.
“Hứng thú, ham mê học tập là một trong những nguồn gốc chủ yếu nhất của việc
học tập có kết quả cao, là con đường dẫn đến sáng tạo và tài năng.”(Viện KHGD –
“ Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”.)
1.2. Cơ sở thực tiễn đề tài
Với xu thế đổi mới phương pháp giáo dục hiện nay của bộ giáo dục, trong quá
trình dạy học để thu được hiệu quả cao đòi hỏi người thầy phải nghiên cứu tìm hiểu kỹ
chương trình, đối tượng học sinh; đưa ra các phương pháp phù hợp với kiến thức, với
các đối tượng học sinh cần truyền thụ. Như luật giáo dục có viết: ”Phương pháp GD
phổ thông cần phát huy tính tích cực, tự gác , chủ động sáng tạo của học sinh, phù hợp
với đặc điểm của từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn ruyện kỹ
năng vận dụng kiến thức, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập
cho học sinh”.
Trong thời gian dạy, tôi luôn nghiên cứu tìm tòi các phương pháp mới phù hợp
với từng bài dạy và các đối tượng học sinh để truyền thụ các kiến thức, đặc biệt là trong
việc dạy học văn. Đó là tôi luôn đưa ra kiến thức một cách tự nhiên, bằng cách dẫn dắt
6


từng bước cho học sinh tự tìm lấy; hướng dẫn các em thấy ý nghĩa, tầm quan trọng của
việc học văn, sau đó đưa ra các cách tiếp cận nội dung bài học. Với phương pháp
truyền thụ như trên tôi thấy rằng: Trước hết người dạy luôn luôn thoãi mái, nhẹ nhàng,
say sưa, qua mỗi tiết dạy thấy đạt được tốt mục đích của mình. Đối với học sinh, thay

cho việc ngại học văn, các em tiếp thu kiến thức theo các phương pháp mới một cách
say mê, hứng thú; các kiến thức được các em nhớ lâu và vận dụng tốt trong quá trình
giải và khai thác các bài tập.
Việc đổi mới phương pháp dạy học là một nhiệm vụ, yêu cầu bắt buộc đối với
giáo dục nước ta hiện nay, đặc biệt đối với hệ thống giáo dục phổ thông, trong đó có
việc dạy và học môn Ngữ văn. Những năm gần đây, việc tích cực đổi mới, đổi mới căn
bản, toàn diện trong giáo dục của chúng ta đã đem lại nhiều kết quả khả quan. Tuy
nhiên, vẫn còn đó nhiều khó khăn, bất cập và cần tích cực đổi mới hơn nữa. Dạy và học
môn Ngữ văn ở các trường THPT chưa đạt được yêu cầu chất lượng và hiệu quả như
mong muốn. Đặc biệt, sự mến mộ yếu thích của người học đối với môn học không còn
nhiều mặn mà.
1.2.1. Khảo sát số liệu
Bảng 1: Khảo sát số liệu học sinh yêu thích hứng thú với môn học đầu năm học
2018 – 2019 lớp 10 A5
Mức độ hứng thú
Đối tượng khảo sát
Thích
Không thích
Bình thường
Sĩ số

Số lượng

%

Số lượng

43
10
23.

10
Bảng 2: Khảo sát chất lượng môn học đầu năm
Giỏi
Khá
Trung bình
Khảo sát điểm
TS
%
TS
%
TS
%

%

Số lượng

%

23

23

54.

Yếu
TS

Kém
%


TS

%

43
0
0
7
16
16
37
17 40.
3
7.
Số liệu được khảo sát đầu năm học 2018 – 2019, trên tổng số 43 học sinh, lớp
10A5, với 34 nữ, 9 nam.
Nhận thấy, tỷ lệ học sinh yêu thích và hứng thú với môn học là không cao, chỉ
chiếm 23%. Kết quả khảo sát qua bài kiểm tra đánh giá kiến thức môn học của học
sinh cũng cho thấy số lượng học sinh có điểm môn học yếu, kém cao chiếm gần
50%..Theo tôi, Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó, cả nguyên nhân chủ quan
lẫn khách quan.
1.2.2. Về phía giáo viên
Theo tôi, có rất nhiều nguyên nhân làm ảnh hưởng đến chất lượng dạy học bộ
môn Ngữ văn hiện nay trong các trường THPT, từ việc thiết kế chương trình chưa hợp
lý: nặng về lý thuyết thiếu thực hành đã gây nhàm chán và lãng phí thời gian mà lại
không phát huy sự tìm tòi khám phá những điều mới mẻ của học sinh; việc thiếu thốn
về trang thiết bị dạy học như tranh ảnh minh họa, đồ dùng trực quan, dụng cụ nghe
7



nhìn, tài liệu tham khảo… cho giáo viên cũng như học sinh khiến cho việc áp dụng dạy
học theo phương pháp mới gặp nhiều khó khăn.
Một trong những nguyên nhân cơ bản nữa là việc vận dụng đổi mới phương pháp
vào giảng dạy ở môn Ngữ văn chưa đáp ứng yêu cầu. Chính vì thế, dẫn đến việc dạy –
học chay tràn lan, đơn điệu, nặng về thuyết giảng một chiều, để trò ghi chép rồi học
thuộc ý của thầy. Cách học theo lối thụ động đó sẽ không gây được sự hào hứng tìm tòi,
khám phá những điều mới mẻ trong mỗi giờ học. Do đó, những kiến thức học sinh thu
nhận được thiếu sâu sắc, không để lại những ấn tượng lâu dài.
1.2.3. Về phía người học:
Phải thừa nhận một thực tế là đa số học sinh hiện nay không thích học môn Ngữ
văn, không có hứng thú trong việc tiếp thu kiến thức văn chương. Do tính đặc thù môn
học, là một môn học mang tính cảm xúc, tư duy trừu tượng, chịu chi phối rất nhiều bởi
yếu tố văn hóa, tâm lí, cảm xúc, đòi hỏi người học phải có trí tưởng tượng phong phú.
Đây cũng là môn học mà nội dung không chỉ hiện ra trên dạng câu từ mà nó còn bao
hàm, ẩn chứa nhiều tầng nghĩa sâu xa (đặc biệt phần văn học), vì thế việc tiếp nhận
môn học này đối với học sinh là rất khó khăn. Mà học sinh nhiều em rất thiếu lòng
quyết tâm học tập, cứ khó khăn là nản, bỏ…không học, dẫn đến yếu kém rồi chán môn
học đó.
1.3. Tiểu kết chương 1
Như vậy, dạy học theo hướng tiếp cận bài học nhằm tạo hứng thú cho học sinh
khi học môn Ngữ văn bậc THPT có tác dụng bồi dưỡng, nâng cao kiến thức và tạo
hứng thú cho học sinh trong quá trình học môn Ngữ văn ở bậc THPT. Điều quan trọng
là dạy học nhằm tạo hứng thú cho học sinh đòi hỏi phải tổ chức hoạt động học tích
cực,và sáng tạo làm cho học sinh say mê học tập. Dạy học theo hướng tiếp cận bài học
nhằm tạo hứng thú cho học sinh khi học môn Ngữ văn bậc THPT, có ưu thế trong việc
tạo ra động cơ, hứng thú học tập cho học sinh. tăng cường khả năng vận dụng kiến thức
tổng hợp vào giải quyết các tình huống thực tiễn, ít phải ghi nhớ kiến thức bài học một
cách máy móc. Qua nghiên cứu cơ sở thực tiễn, nghiên cứu đội ngũ GV, HS và cơ sở
thiết bị dạy học Ngữ văn, cùng với yêu cầu đổi mới nội dung và phương pháp dạy học

Ngữ văn tôi nhận thấy đề tài hoàn toàn có khả năng thực thi ở trường THPT.

8


Chương 2
PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN BÀI HỌC NHẰM TẠO HỨNG THÚ
CHO HỌC SINH KHI HỌC MÔN NGỮ VĂN Ở BẬC THPT
Trước đây, phương pháp dạy học thường thiên về truyền thụ, học ghi nhớ nhiều,
gây áp lực đối với người học. Từ đó tạo ra tâm lí sợ học, sợ học thuộc.
Với phương pháp dạy học thường áp dụng trước đây, học sinh luôn thụ động,
quen nghe, quen chép, ghi nhớ rồi sẽ tái hiện một cách máy móc những gì giáo viên
truyền đạt. Điều này phần nào đã thủ tiêu khả năng sáng tạo, tư duy của người học, biến
người học thành những người quen suy nghĩ và diễn đạt bằng những ý thuộc lòng, bằng
những lời có sẵn của thầy cô, sách vở. Do đó, học sinh luôn lệ thuộc vào sách vở, học
sinh không hào hứng chủ động, thiếu sáng tạo và thiếu tự tin.
Những trăn trở làm sao học sinh của mình luôn yêu thích môn Ngữ văn; làm thế
nào để chất lượng học tập môn Ngữ văn được nâng cao và điều quan trọng là làm sao
để người học luôn chủ động tích cực, say mê, tự tin trong học tập; biết vận dụng kiến
thức vào thực tế; chủ động khám phá, phát hiện những cái hay, cái đẹp, các giá trị tác
phẩm văn chương; bồi dưỡng tình yêu đối với văn học, bồi dưỡng tâm hồn, giá trị nhân
văn… luôn là điều trăn trở mà tôi tin rằng không chỉ bản thân tôi mà có lẽ là của tất cả
những thầy cô, đồng nghiệp của tôi luôn đau đáu. Xuất phát từ thực trạng ấy, từ thực tế
giảng dạy của bản thân, qua trao đổi học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp tôi mạnh
dạn đề xuất một số giải pháp, mong góp phần nào sẽ cải thiện được thực trạng dạy và
học Ngữ văn hiện nay, cải thiện được quan điểm tình cảm, ý thức học tâp của học sinh
đối với môn Ngữ văn, đặc biệt đối với học sinh ở bậc THPT.
2.1. Tạo tâm thế học tập
2.1.1. Tác động bằng tình cảm
Đồng chí Lê Duẩn từng nói: “Thầy giáo không chỉ dạy cho học trò bằng những

công thức, bằng những câu, những từ có sẵn mà phải dạy bằng tất cả tâm hồn mình”.
Để học sinh luôn chủ động, tích cực, tự giác đặc biệt có hứng thú với môn học,
trước hết, giáo viên phải truyền dạy tri thức bằng tất cả trái tim và lòng tâm huyết của
mình, phải để người học cảm nhận được tâm hồn mình trong mỗi bài giảng. Thực sự
quan tâm đến học trò, biết lắng nghe, chia sẻ với những suy nghĩ, tâm tư của học trò.
Sẵn sàng là người bạn chia sẻ. Từ đó tạo được niềm tin, xóa bớt được khoảng cách giữa
giáo viên với học sinh (tâm lí, tuổi tác…), tạo ra không khí học tập thân thiết, gần gũi…
Theo quy luật lây lan tình cảm, từ chỗ yêu quí, trân trọng thầy cô đến thích học môn
học đó là một khoảng cách rất ngắn. Từ đó học sinh yêu thích, say mê học môn học mà
mình dạy.
2.1.2. Xây dựng không khí lớp học
Học tập căng thẳng thường làm chúng ta mệt mỏi về tinh thần. Chỉ có sự tận tình,
tổ chức giờ học một cách khoa học, sinh động mới kích thích sự hứng thú học tập
trong học sinh. Tạo ra bầu không khí học thoải mái, tích cực, có tính thi đua giữa các
học sinh là rất cần thiết.
9


Như vậy, không khí lớp học có ý nghĩa quyết định đối với việc nâng cao chất
lượng dạy học, cảm xúc tích cực sẽ làm tăng hiệu suất của hoạt động nhận thức trong
học sinh. Có nhà giáo dục đã từng nói “Một ông thầy mà không dạy được cho học trò
ham muốn học tập thì chỉ là đập búa trên sắt nguội mà thôi.” Cho nên, giáo viên phải
biết cách tạo không khí thoải mái khi vào lớp học. Giáo viên có thể tạo không khí lớp
học bằng dẫn các chuyện vui, các câu thơ, câu văn hay, bằng cách đặt vấn đề bất ngờ,
gợi được sự chú ý, bằng các tranh ảnh, sơ đồ… để gợi hứng thú, kích thích trí tò mò
muốn khám phá bài học cho học sinh. Trong tiết dạy, chỉ cần một ví dụ thực tế gắn với
bài giảng, một mẩu truyện về nhà văn… sẽ làm cho bầu không khí học tập thay đổi tích
cực; học sinh sẽ bị cuốn hút vào những giai thoại, hay những liên hệ mà giáo viên kể.
Từ đó học sinh sẽ hứng thú và tiếp thu bài tốt hơn.
Chính sự chú ý, hứng thú do không khí lớp mang lại sẽ kích thích các học sinh

tích cực làm việc hơn, tư duy sẽ được thúc đẩy. Học sinh sẽ chủ động đi sâu tìm hiểu
bản chất, ý nghĩa của vự việc, hiện tượng; kết quả là học sinh nhanh hiểu bài và nhớ bài
lâu hơn.
2.2. Linh hoạt, đa dạng trong phương pháp
2.2.1. Linh hoạt trong phương pháp
Giáo viên luôn vận dụng nhiều phương pháp và các hình thức tổ chức dạy học,
tạo nên sự phong phú đa dạng trong các hoạt động của quá trình dạy học sẽ làm cho
học sinh cảm thấy thoải mái, không bị ức chế về mặt tâm lí bởi sự nhàm chán, mệt mỏi
vì sự đơn điệu tẻ nhạt.
Ví dụ: Khi dạy phần Tiểu dẫn giáo viên cho học sinh điền thông tin vào phiếu, hoặc ghi sẵn trên bảng
và để trống phần thông tin cần điền:

1. Tác giả:
a. Cuộc đời:
– Năm sinh: ……………., năm mất……..
– Tên khai sinh:………………………….
– Quê quán:………………………….
– Xuất thân trong gia đình:……….
– Sự kiện tiêu biểu trong cuộc đời:……
b. Sự nghiệp sáng tác:
– Các tác phẩm chính:…………….
– Phong cách nghệ thuật:……
2. Tác phẩm:
– Xuất xứ:…
– Thể loại : ….
Giáo viên yêu cầu học sinh điền vào chỗ còn trống. Học sinh thay nhau làm, có thể
phân theo nhóm thực hiện theo yêu cầu của giáo viên. Lớp học sẽ sinh động và học
sinh hứng thú học tập hơn. Từ đó, ta thấy rằng các học sinh sẽ tiếp thu kiến thức tốt hơn
nếu trong giờ học có sự xen kẽ nhau giữa các hoạt động dạy học.
2.2.2. Đưa ra các tình huống có vấn đề.

10


Dạy học theo tình huống là giáo viên không trình bày đơn thuần nội dung bài học
mà sắp xếp lại tài liệu sao cho toàn bộ bài giảng là vấn đề lớn được chia thành một số
vấn đề nhỏ có liên quan chặt chẽ với nhau, rồi kích thích hứng thú cho học sinh và khéo
léo đưa các học sinh vào những tình huống có vấn đề. Từ đó mà bắt đầu những phần
của bài giảng. Và như thế, hứng thú sẽ được duy trì đến khi nào chưa tìm ra được câu
trả lời.
Ví dụ 1: Khi dạy tác phẩm “Chuyện chức phán sự đền Tản viên ” – sách Ngữ văn 10,
tập II, giáo viên đặt ra những tình huống có vấn đề:
– Tại sao Ngô Tử Văn lại đốt đền ?
– Tại sao tác giả lại để cho Ngô Tử Văn tắm gội sạch sẽ, khấn trời rồi mới châm lửa đốt
đền
– Tại sao cuối cùng Ngô Tử Văn lại được giữ chức quan phán sự?
Ví dụ 2: Khi dạy bài Độc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du, giáo viên cũng đặt học sinh
vào tình huống có vấn đề:
- Tại sao Nguyễn Du lại khóc thương cho Tiểu Thanh?
- Tại sao lại dùng con số “ba trăm năm lẻ nữa”? …
Giáo viên, từng bước hướng dẫn học sinh giải quyết các vấn đề, từ đơn giản đến
phức tạp, từ dễ đến khó. Từng bước chiếm lĩnh kiến thức, không những tạo nên sự
hưng phấn mà động lực thúc đẩy khả năng tự học, hiểu và sáng tạo, giải quyết các vấn
đề trong thực tế cuộc sống.
2.2.3. Liên hệ với thực tế
Việc gắn nội dung bài giảng với thực tế cuộc sống là một trong những biện pháp gây
hứng thú học tập môn Ngữ văn. Bởi lẽ, nếu chỉ sa đà với những lí thuyết khô khan mà
xa rời thực tế thì bài học sẽ thiếu tính thực tiễn, mất đi tính thuyết phục và sự lôi cuốn,
không kích thích được hứng thú học tập của học sinh. Ngữ văn là môn học đặc thù,
phản ánh thực tế cuộc sống qua những hoàn cảnh, tính cách, số phận xuất phát từ ngoài
đời sống. Nhiều kỹ năng, kiến thức các em học được sẽ được vận dụng vào rất nhiều

tình huống của cuộc sống. Vì vậy, gắn dạy học với thực tế cuộc sống không những có
tính chất bắt buộc trong dạy học Ngữ văn mà còn rất cần thiết để gây hứng thú học tập
cho học sinh.
Ví dụ:
– Khi dạy bài Viết quảng cáo – Ngữ văn 10 – tập 2; cần lưu ý cho học sinh đặc điểm,
yêu cầu, mục đích, tầm quan trọng của quảng cáo, viết được bài quảng cáo về một mặt
hàng, một sản phẩm nào đó và ứng dụng vào cuộc sống… sẽ tạo cho học sinh sự tự tin,
hứng thú yêu thích môn học.
2.3. Ứng dụng công nghệ thông tin
Tích cực ứng dụng công nghệ thông tin, phát huy khả năng hỗ trợ của phương
tiện, công nghệ vào các bài giảng: lồng ghép những đoạn phim, những tranh ảnh,
những khúc ngâm, bài thơ được phổ nhạc… vào quá trình giảng dạy, không những tạo
không khí hứng thú học tập, mà đó là một kênh thông tin hữu hình, trực quan để học
sinh nhận biết, hiểu bài sâu sắc.
11


Với việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học đòi hỏi mỗi giáo viên cần
nắm vững các quy trình về soạn bài giáo án điện tử. Qua quá trình soạn giảng và giảng
dạy, bản thân tôi rút ra một số kinh nghiệm khi thiết kế bài giảng điện tử, giáo viên cần
đạt được những yêu cầu cơ bản sau:
*Yêu cầu về nội dung: Bài giảng điện tử khi trình bày nội dung lí thuyết cần cô
đọng và được minh hoạ sinh động có tính tương tác cao mà các phương pháp giảng
bằng lời khó diễn tả.
*Yêu cầu về phần câu hỏi giải đáp: Câu hỏi nêu ra nhằm để cho học sinh có thể
vừa nghe, (hoặc nhìn); giáo viên có thể đưa hệ thống câu hỏi trên màn trình chiếu. Các
câu hỏi nêu ra theo nhiều cấp độ (câu hỏi từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp có
tác dụng gợi mở, dẫn dắt học sinh nhằm hình thành kiến thức mới. Có thể dùng nhiều
câu hỏi: tái hiện, gợi mở, nêu vấn đề, thảo luận nhóm, dùng phiếu học tập …) nhằm
phân loại được đối tượng. Có như vậy mới kích thích sự học tập của học sinh. (Lưu ý

tránh những câu hỏi quá dễ hay quá khó). Hệ thống câu hỏi thể hiện rõ tính chất đổi
mới phương pháp dạy học nêu vấn đề. Với câu trả lời trắc nghiệm khách quan: Trong
thiết kế, giáo viên cần kết hợp hiệu ứng của màu chữ, âm thanh, hình ảnh để thể hiện sự
tán thưởng, cổ vũ nồng nhiệt đối với học sinh cho câu trả lời đúng. Với những câu trả
lời chưa chính xác thì thông báo lỗi và gợi ý tìm chỗ sai bằng cách nhắc nhở, đưa ra
một gợi ý hoặc chỉ ra chỗ sai để học sinh suy nghĩ tìm câu trả lời.
*Yêu cầu về phần trình bày khi thiết kế bài giảng điện tử: Mỗi bài giảng điện tử
phần thiết kế phải đảm bảo các yêu cầu sau:
Đầy đủ: Giáo viên phải chuyển tải đủ yêu cầu về nội dung của bài học. (Đối với
một bài đọc hiểu, tiếng Việt hay Làm văn thì phần trình chiếu có thể chỉ giới thiệu hình
ảnh, xem như đó là bảng phụ còn phần trình bày nội dung chính ở bảng đen)
Chính xác: Khi giáo viên chuyển tải hình ảnh, âm thanh, video hay một số ví dụ
và các phần nội dung của bài học phải đảm bảo không có thông tin sai sót.
Trực quan: Màu chữ, cỡ chữ, hình ảnh, âm thanh, bảng biểu, video clip phải sinh động
hấp dẫn, phù hợp với nội dung bài học.
Khi ứng dụng công nghệ thông tin trong bài học thì việc sử dụng phương tiện
băng đĩa hình trong việc dạy và học môn Ngữ văn hiện nay rất cần thiết. Đây cũng là
một nguồn tri thức rất sinh động, vì vậy băng đĩa hình cũng có nhiều điều kiện thuận lợi
cho HS khai thác kiến thức trong từng bài học. Ngoài ra băng hình còn mang tính chất
minh họa và hỗ trợ cho bài giảng để tạo hứng thú cho HS. Việc sử dụng băng đĩa hình
cần phải tuân thủ một số quy tắc sau:
– Phải căn cứ vào nội dung và mục đích của bài học để chọn ra những hình ảnh thật đắt
sao cho sát với nội dung bài học.

GV phải xem băng thử ở nhà cho thành thạo các thao tác để tránh mất thời gian
nhiều ở lớp.

Phải đảm bảo cho tất cả các HS đều được quan sát băng.

Không nên lạm dụng băng hình quá tải làm giảm đặc trưng bộ môn.


Phải có phòng bộ môn.
12


Từ những thực tế trên trong quá trình dạy và học nếu như GV mà đưa thêm băng
đĩa hình vào bài giảng thì kết quả đạt được là rất tốt và còn gây hứng thú cho HS tốt
hơn. Mặt khác còn phát huy khả năng sáng tạo độc lập suy nghĩ của từng HS. HS tự
giác chủ động tìm tòi những kiến thức mới và giải quyết vấn đề trong mỗi bài học, có ý
thức vận dụng những kiến thức đó vào cuộc sống hàng ngày
2.4. Lồng ghép các trò chơi trong dạy học Ngữ văn
Trò chơi vừa là một hoạt động giải trí vừa là một phương pháp giáo dục: giáo
dục bằng trò chơi – một phương pháp đã được nhiều nền giáo dục tiên tiến trên thế giới
vận dụng. Lồng ghép trò chơi trong dạy và học môn Ngữ văn, kết hợp với phương pháp
dạy học khác sẽ có ý nghĩa tích cực đối với yêu cầu đổi mới hiện nay. Giải pháp này sẽ
thay đổi không khí căng thẳng trong các giờ học, tăng thêm hứng thú cho người học,
học sinh sẽ chú ý hơn, chủ động hơn trong chuẩn bị, mạnh dạn hơn trong đề xuất của
mình, phát huy tư duy sáng tạo..
Hứng thú và chủ động trong học tập là sự khởi đầu tốt cho việc nắm bắt kiến
thức, hình thành kĩ năng và phát triển nhân cách ở học sinh qua bộ môn Ngữ văn.
2.4.1. Một số hình thức lồng ghép trò chơi trong dạy học Ngữ văn.
2.4.1.1. Nguyên tắc:
Giáo viên cần chú ý đến đặc thù của từng phân môn; lưu ý mối quan hệ giữa trò
chơi và hệ thống câu hỏi; vận dụng linh hoạt, hợp lý, đúng mức và đúng lúc để không
xáo trộn nhiều không gian lớp học, nhanh chóng ổn định lớp học khi trò chơi kết thúc;
trò chơi phải phù hợp với nội dung, mục tiêu cần đạt, không vận dụng cho tất cả các tiết
học; trò chơi bao giờ cũng kết thúc bằng thưởng cho người (đội) thắng hoặc xử phạt
nhẹ nhàng cho vui đối với người (đội) thua cuộc từ đó tạo nên sự dí dỏm, hứng thú.
2.4.1.2. Một số hình thức lồng ghép trò chơi:
Xem trò chơi là một hình thức tổ chức cho một đơn vị kiến thức nhỏ trong giờ

học, để triển khai ở các bước khác nhau của bài giảng (phần tìm hiểu chung, tìm hiểu
ngữ liệu, phần đọc – hiểu văn bản, phần luyện tập, củng cố bài…).
Tổ chức tiết học thành một trò chơi lớn đối với một số tiết ôn tập hoặc khái quát.
2.4.1.3. Một số trò chơi có thể vận dụng lồng ghép trong dạy học Ngữ văn:
Giáo viên có thể tự sáng tác ra những trò chơi phù hợp với tiết học theo nguyên
tắc vừa phù hợp, vừa kích thích sự tò mò của các em. Ví dụ: Ô chữ, Hùng biện, Tiếp
sức, Điền bảng, Rung chuông vàng…
Do đặc thù của mỗi phân môn, việc vận dụng lồng ghép trò chơi có những điểm
khác nhau.
* Văn học: Tùy thuộc dạng bài (bài khái quát, ôn tập, đọc – hiểu văn bản…), lượng
kiến thức, mục tiêu bài học, thời lượng để áp dụng hình thức trò chơi: trò chơi nhỏ dành
cho một hoạt động dạy học hay trò chơi lớn cho cả tiết học. Do đặc thù của phân môn
với mục đích cảm thụ cái hay, cái đẹp của tác phẩm văn chương, đòi hỏi những cảm
xúc tinh tế, nên mức độ vận dụng trò chơi chỉ vừa phải.
* Tiếng Việt: Lồng ghép trò chơi đối với phân môn này là khá phù hợp, đặc biệt là đối
với những tiết thực hành, luyện tập. Trò chơi cần phải gắn với các bài tập hoặc các hình
thức thực hành, luyện tập khác mà giáo viên nghĩ ra. Vận dụng tốt giải pháp này, giờ
13


học Tiếng Việt sẽ không còn khô cứng, học sinh cảm thấy thoải mái, hứng thú, kích
thích hoạt động tư duy của các em, quan trọng hơn là góp phần phát triển năng lực sử
dụng ngôn ngữ ở học sinh. Qua trò chơi, tư duy và khả năng ngôn ngữ của học sinh sẽ
được bộc lộ tự nhiên, giáo viên có thể phát hiện và uốn nắn kịp thời những mặt còn hạn
chế.
* Làm văn: Chính là phần thực hành Văn học và Tiếng Việt. Có thể vận dụng trò chơi
trong một số tiết học và không nên thực hiện hình thức này trong cả tiết. Với phân môn
này, việc lồng ghép hình thức trò chơi không thể thay thế được các phương pháp cũng
như hình thức tổ chức lớp học đặc thù như thực hành, luyện tập,…hoạt động theo nhóm
hay cá nhân tự luyện tập các kĩ năng…Do đó không nên gượng ép để cố tình đưa trò

chơi vào tất cả các giờ học làm văn.
2.4.2. Quy trình thực hiện:
* Chuẩn bị: Tùy theo mỗi trò chơi cụ thể sẽ có những phần chuẩn bị khác nhau.
* Bước 1: Giáo viên dự kiến chọn trò chơi cho phù hợp với nội dung của từng bài học.
* Bước 2: Giáo viên nêu thể lệ trò chơi
* Bước 3: Học sinh tiến hành chơi trò chơi (với tư cách một cá nhân hoặc một nhóm),
dưới sự kiểm soát của giáo viên.
* Bước 4: Giáo viên đánh giá, cho điểm hoặc phát thưởng tùy theo sự đóng góp của
mỗi cá nhân hoặc mỗi nhóm.
2.4.3. Cách thức tổ chức:
Có rất nhiều trò chơi có thể gây hứng thú cho học sinh trong việc dạy và học
môn Ngữ văn. Tuy nhiên trong phạm vi của một sáng kiến kinh nghiệm, tôi chỉ xin nêu
một số trò chơi sau:
2.4.3.1. Trò chơi điền bảng (kết hợp với thảo luận nhóm):
* Đặc điểm:
Trò chơi này dùng trong những giờ ôn tập, thay vì cho học sinh lập bảng thống
kê kiến thức bình thường, ta có thể chia lớp thành các nhóm khác nhau và cho đại diện
các nhóm lên bốc thăm để tìm công việc cho nhóm mình. Sau đó, các nhóm sẽ thay
phiên nhau giải quyết công việc của nhóm mình.
* Chuẩn bị:
– Về phía giáo viên:
+ Kẻ sẵn một bảng tổng kết bao gồm các đơn vị kiến thức, trong đó chỉ có đề mục và
các tiêu chí thống kê.
+ Các phiếu bốc thăm ứng với các nhóm.
+ Các thẻ kiến thức trắng đều nhau được cắt ra từ giấy Ao.
+ Keo dán, bút viết bảng (4 màu ứng với 4 nhóm).
– Về phía học sinh: dựa vào SGK và soạn kĩ bài theo yêu cầu của giáo viên.
2.4.3.2.Trò chơi ô chữ (nhóm hoặc cá nhân)
* Đặc điểm:
Đây là cách thức mô phỏng theo các sân chơi phổ biến hiện nay như: Đường lên

đỉnh Ôlympia, Chiếc nón kỳ diệu… Nó có thể sử dụng linh hoạt trong các tiết dạy hay
trong các tiết ôn tập, thực hành. Trò chơi này khá quen thuộc và đã được áp dụng nhiều
14


nhưng nó lại được sự đón nhận rất nhiệt tình của các em học sinh. Chính vì thế nó
mang lại hiệu quả rất cao.
* Chuẩn bị:
Giáo viên soạn ra một bảng ô chữ cùng các câu hỏi đi kèm tương ứng với kiến
thức của các ô hàng ngang cần thực hiện. Từ gợi ý của các ô hàng ngang, học sinh dần
dần tìm ra nội dung của ô hàng dọc. Đây là ô chính mà nội dung của nó có tầm quan
trọng đối với bài học mà học sinh cần nắm chắc và ghi nhớ.
Bảng ô chữ này có thể chuẩn bị sẵn ở bảng phụ hoặc giáo viên có thể áp dụng
công nghệ thông tin để trò chơi này hấp dẫn và mới lạ hơn.

15


Chương 3
THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM
3.1. Mục đích, nhiệm vụ thực nghiệm
3.1.1. Mục đích thực nghiệm
Thông qua các bài thực nghiệm nhằm kiểm tra tính khả thi của đề tài:
“Hướng tiếp cận bài học nhằm tạo hứng thú cho học sinh khi học môn Ngữ văn bậc
THPT”
Căn cứ vào kết quả thực nghiệm, phân tích xử lý các số liệu thu được để đánh giá
khả năng áp dụng của đề tài.
3.1.2. Nhiệm vụ thực nghiệm
– Chọn lớp và chọn GV thực nghiệm, chọn lớp và GV đối chứng để thực nghiệm
– Chọn các bài thực nghiệm đáp ứng được yêu cầu của đề tài.

– Chuẩn bị các điều kiện cần thiết về các mặt trong công tác thực nghiệm sư
phạm: các giáo án và các phương tiện thiết bị dạy bài thực nghiệm.
– Thống nhất với GV dạy thực nghiệm về nội dung, phương pháp dạy từng bài thực
nghiệm.
– Tổ chức triển khai các bài thực nghiệm đã được chuẩn bị.
– Đánh giá kết quả và rút ra kết luận.
3.2. Nguyên tắc tiến hành thực nghiệm.
– Phải đảm bảo tính khoa học, khách quan về khối lượng kiến thức trong SGK
Ngữ văn do Nhà xuất bản Giáo Dục phát hành.
– Tuân thủ theo chương trình giảng dạy do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định. Đảm
bảo kiến thức cơ bản của bài giảng trong SGK.
– Việc dạy thực nghiệm phải tôn trọng thời khoá biểu của nhà trường không làm
ảnh hưởng tới hoạt động dạy và học của lớp được chọn làm thực nghiệm.
Quá trình thực nghiệm và kết quả thực nghiệm được xử lý theo phương pháp thống
kê toán học.
3.3 Phương pháp thực nghiệm.
Thực nghiệm được tiến hành song song trên 2 lớp (lớp thực nghiệm và đối
chứng) tại trường. Các lớp đối chứng được tiến hành trước, giáo viên giảng dạy theo
nội dung và phương pháp truyền thống. Với các lớp thực nghiệm, GV nghiên cứu kĩ
cách thiết kế bài giảng theo phương pháp mới trong đó đã xác lập các kiến thức
liên môn phù hợp với từng bài. Cả hai lớp đều do một giáo viên tiến hành giảng dạy,
kiểm tra (cùng bài, cùng đề kiểm tra). Sau khi nghiên cứu các thiết kế bài giảng
và dạy thực nghiệm, giáo viên rút ra những kết luận và nhận xét cần thiết.
3.4. Nội dung thực nghiệm
3.4.1. Chọn trường, lớp thực nghiệm.
Để tổ chức thực nghiệm có hiệu quả, tôi đã chọn trường tôi đang công tác và các
lớp tham gia thực nghiệm là lớp thực nghiệm: 10A5, lớp đối chứng: 10A1.
3.4.2. Giáo viên tham gia thực nghiệm
Các GV tôi chọn giảng dạy là các GV đang trực tiếp giảng dạy môn Ngữ văn lớp
10 tại trường. Các GV dạy thực nghiệm đều là những người công tác lâu năm và trình

16


độ chuyên môn khá đồng đều, đó là điều kiện cho việc dạy thực nghiệm sư phạm, thể
hiện được tính khách quan đúng đắn và yêu cầu của quá trình thực nghiệm và kết quả
thực nghiệm.
3.4.3. Chuẩn bị bài thực nghiệm
Các bài soạn dạy thực nghiệm đều được chuẩn bị kỹ và sự tham khảo ý kiến của
đồng nghiệp. Trên cơ sở đó, tác giả của đề tài và GV dạy thực nghiệm trao đổi nhằm
hoàn thiện bài soạn đáp ứng mục đích và yêu cầu của đề tài.
Trước giờ dạy, các bài soạn đều được chuẩn bị đồ dùng, phương tiện thiết bị dạy
học đầy đủ.
Tôi đã chọn các bài trong SGK Ngữ văn lớp 10 để thực nghiệm. Dưới đây là các
phần trong từng bài tôi đã áp dụng thực nghiệm.

17


Câu hỏi:
ÔN TẬP VĂN HỌC
* Ví dụ minh họa trò chơi điền bảng:
Ở bài Ôn tập văn học, sách Ngữ văn 10, tập 2, giáo viên chuẩn bị:
+ Chia lớp thành 4 nhóm.
+ 4 phiếu bốc thăm – mỗi phiếu có 2 đơn vị kiến thức – các đơn vị kiến thức này cách
quãng nhau.
+ 8 thẻ kiến thức trắng, dài.
+ Keo dán, 4 bút lông viết bảng xanh, đỏ, tím, đen ứng với 4 nhóm 1, 2, 3, 4
+ Kẻ sẵn trên bảng 10 đơn vị kiến thức trong đó chỉ có đề mục và các tiêu chí thống kê
bao gồm các ô: Thứ tự – Tên tác phẩm, tác giả – Nghệ thuật và nội dung chủ yếu
TT Tác giả


Tác phẩm

Nội dung và nghệ thuật

1

Phạm Ngũ Lão

Tỏ lòng

Vẻ đẹp con người thời Trần, có lí tưởng,
sức mạnh, khí thế.

2

Nguyễn Trãi

Cảnh ngày hè

Tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu đời, yêu
dân, yêu nước (Thất ngôn xen lục ngôn)

3

Nguyễn Bỉnh Khiêm Nhàn

Quan niệm sống nhàn là hòa hợp tự
nhiên, giữ cốt cách, vượt danh lợi.


4

Nguyễn Du

Độc Tiểu Thanh kí

Suy tư trước số phận bất hạnh người phụ
nữ tài hoa thời phong kiến.

5

Trương Hán Siêu

Phú sông Bạch Đằng Lòng yêu nước, tự hào về chiến công
trên sông Bạch Đằng. Thể phú cổ thể.

6

Nguyễn Trãi

Đại cáo bình Ngô

7

Hoàng Đức Lương

Tựa “Trích diễm thi Niềm tự hào trân trọng và ý thức bảo tồn
tập”
di sản văn học dân tộc.


8

Thân Nhân Trung

Hiền tài là nguyên
khí của quốc gia

Tôn vinh, trân trọng hiền tài của đất
nước.

9

Ngô Sĩ Liên

Hưng Đạo Đại
Vương Trần Quốc
Tuấn

Cảm phục về tài năng, đức độ của anh
hùng dân tộc Trần Quốc Tuấn.

10 Nguyễn Dữ

Chuyện chức phán
sự đền Tản Viên

Ngợi ca nhân cách cương trực của Tử
Văn, đề cao lòng yêu chính nghĩa, yêu
nước.


Tuyên ngôn độc lập, tố cáo tội ác kẻ thù,
ca ngợi khởi nghĩa Lam Sơn.

18


11 Đoàn Thị Điểm

Chinh phụ ngâm

Phê phán chiến tranh phi nghĩa, niềm
khao khát tình yêu, hạnh phúc.

12 Nguyễn Du

Truyện Kiều

Tố cáo xã hội phong kiến, đề cao giá trị
con người, nhất là người phụ nữ tài sắc.

+ Các nhóm học sinh nhận phiếu bốc thăm và tiến hành thảo luận để tìm ra kiến thức
phù hợp với các ô trống – ghi nội dung vào các thẻ kiến thức.
+ Đại diện học sinh lên dán thẻ kiến thức vào ô trống trên bảng ứng với phần mình đã
bốc thăm.
Trò chơi này giúp học sinh thống kê được kiến thức đã học mà không gây nhàm chán.
Cách này nhẹ nhàng mà huy động được sự tham gia của cả lớp. Học sinh sẽ rất hứng
thú khi tham gia bài.
* Ví dụ minh họa trò chơi tích lũy”:
Bước 1: Chuẩn bị:
* Giáo viên:

Chuẩn bị một hệ thống câu hỏi và đáp án về những vấn đề thuộc phạm vi
kiến thức của bài học (số lượng câu hỏi cho mỗi đội chơi tuỳ theo từng bài, chủ
yếu là những câu hỏi ghi nhớ, tái hiện, suy nghĩ và trả lời trong thời gian ngắn).
* Học sinh: Đọc kỹ các nội dung trong sách giáo khoa; Tham khảo thêm các
tài liệu liên quan;Trả lời các câu hỏi phần hướng dẫn học bài.
Bước 2: Thực hiện:
*Cách 1: Giáo viên chia các câu hỏi thành các gói nhỏ (tuỳ theo số đội chơi), rồi
lần lượt mời học sinh lên bắt thăm gói câu hỏi, thảo luận trong nhóm và cử đại diện lên
trả lời. Thời gian suy nghĩ - thảo luận và điểm số cho mỗi câu hỏi do giáo
viên quy định (tuỳ theo đối tượng học sinh và đặc điểm bài học). Kết thúc phần
chơi, giáo viên đánh giá, biểu dương, động viên tinh thần và tổng kết điểm của
các nhóm chơi sau đó chuyển sang phần chơi tiếp theo.
*Cách 2:
Ở phần chơi này người dẫn chương trình sẽ lần lượt đưa ra các câu hỏi
cho các nhóm (bắt đầu từ nhóm 1). Sau một thời gian suy nghĩ - thảo luận nhóm
sẽ đưa ra câu trả lời, mỗi câu trả lời đúng sẽ được điểm. Hết thời gian suy nghĩ thảo
luận, nếu nhóm được hỏi không có câu trả lời hoặc trả lời chưa chính xác
thì các nhóm khác sẽ giành quyền trả lời. Số lượng câu hỏi, thời gian suy nghĩ thảo luận
và điểm số cho mỗi câu hỏi do giáo viên quy định (tuỳ theo đối tượng
học sinh và đặc điểm bài học). Kết thúc phần chơi, giáo viên đánh giá, biểu
dương, động viên tinh thần và tổng kết điểm của các nhóm.
Ví dụ: Khi tổ chức dạy học bài “Tổng quan văn học Việt Nam”, giáo viên có
thể thiết kế các câu hỏi như sau:
- Văn học Việt Nam gồm mấy bộ phận lớn?
- Văn học dân gian do lực lượng nào sáng tác?
19


- Văn học viết từ xưa tới nay về cơ bản được viết bằng những ngôn ngữ nào?
- Văn học trung đại Việt Nam bắt đầu từ thế kỷ thứ mấy?


1.3. Một số lưu ý khi vận dụng:
- Đáp án các câu hỏi phải ngắn gọn, rõ ràng.
- Phạm vi, mức độ kiến thức trong mỗi gói câu hỏi và giữa các gói câu hỏi
phải tương đương nhau; có thể sử dụng cả các câu hỏi trắc nghiệm với nhiều
phương án trả lờ
3.5. Kết quả thực nghiệm
Sau khi áp dụng Phương pháp tiếp cận bài học nhằm tạo hứng thú cho học
sinh khi học môn Ngữ văn lớp 10 THPT kết quả thu được như sau:
3.5.1. Kết quả từ các phiếu hỏi
Với 5 câu hỏi cho một phiếu thăm dò ý kiến được phát đều cho 43 học sinh sau
khi thống kê đã thu được kết quả như sau:
Số phiếu phát ra: 43 phiếu
Số phiếu thu vào: 43 phiếu
Câu hỏi 1: Em yêu thích học môn Văn không ?
Số phiếu yêu thích học môn Văn là: 30 phiếu
Số phiếu trả lời bình thường là: 10 phiếu
Số phiếu trả lời không thích là: Không
Câu hỏi 2: Em cảm thấy học môn Văn có khó không?
Số phiếu trả lời bình thường: 25 phiếu
Số phiếu trả lời môn Văn khó: 15 phiếu
Câu hỏi 3: Em thấy tập thể lớp 10A5 có thích học văn không?
Số phiếu trả lời cả lớp có thích: 30 phiếu
Số phiếu trả lời không biết rõ: 10 phiếu
Số phiếu trả lời không thích lắm: 0 phiếu
Câu hỏi 4: Em sẽ làm gì khi gặp bài văn khó ?
Cố gắng tìm cách phân tích đề, dàn ý, tham khảo sách: 30 phiếu
Học hỏi người khác gợi ý: 10 phiếu
Không hiểu và không làm: Không
Câu hỏi 5: Em có thích đọc thêm sách tham khảo về môn văn không ?

Số người rất thích là: 35 phiếu
Số người không trả lời: 5 phiếu
Theo như kết quả thống kê từ phiếu hỏi, ta thấy học sinh yêu thích môn văn đã
chiếm 75% tổng số học sinh trong lớp, đây là một kết quả phản ánh thái độ tích cực của
học sinh đối với môn học. Tuy nhiên vẫn có tới 25% học sinh trong lớp trả lời bình
thường, và cho rằng môn văn là một môn học khó. Nhưng nhìn chung các học sinh đã
có ý thức tìm tòi, lập dàn ý, tham khảo sách khi gặp bài khó hoặc hỏi người khác gợi
ý… Điều đó chứng tỏ các học sinh đã có thái độ tích cực đối với việc học môn văn.
20


Như vậy là sự hứng thú học tập môn Ngữ văn của các học sinh đã tốt hơn, từ đó góp
phần nâng cao chất lượng học tập bộ môn trong nhà trường.
3.5.2. Kết quả từ quan sát thực tế
Với việc trực tiếp giảng dạy ở lớp 10A5, trong giờ học văn, các học sinh có ý
thức học bài cũ, một số học sinh do nhút nhát nên không xung phong trả lời bài cũ hay
tham gia xây dựng bài mới; nhưng đa số các học sinh đều có khả năng trả lời các câu
hỏi ở những mức độ khác nhau. Một số học sinh còn có khả năng trả lời những câu hỏi
nâng cao kiến thức để bài học được khắc sâu.
Ý thức của học sinh trong việc học tập bộ môn hiện nay khá nghiêm túc, ý thức
đó thể hiện qua việc tích cực trong xây dựng bài, chú ý nghe giảng và chép bài đầy đủ
và được phản ánh qua chất lượng bài kiểm tra của học sinh .
3.5.3 Kết quả kiểm tra
Trong học kì I năm học 2018 – 2019, tôi vận dụng sáng kiến kinh nghiệm này
vào thực tế giảng dạy. Qua điều tra thăm dò lớp 10A5 mà tôi phụ trách giảng dạy, kết
quả như sau:
Kết quả điểm thi từ TB trở
Hứng thú với
Số HS
Hứng thú

lên
Năm học
giải pháp của đề
khảo sát
bộ môn
tài
Đầu năm
HK I
2018 -2019

43

30

35

23

35

Với kết quả khảo sát như trên, qua việc đối chiếu, so sánh kết quả, tôi nhận thấy
rằng việc áp dụng các biện pháp gây hứng thú học tập vào giảng dạy Ngữ văn: tỉ lệ học
sinh thích học văn tăng lên hơn 75%. Từ đó cho thấy việc áp dụng các biện pháp gây
hứng thú học tập hướng vào việc tạo tinh thần hưng phấn, thoải mái, xây dựng không
khí lớp học sôi nổi, học sinh có thiện cảm môn Ngữ văn bước đầu đạt hiệu quả. Nó đã
góp phần nâng cao hơn chất lượng của các giờ học môn Ngữ văn.

21



PHẦN 3 : KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
I. Kết luận
Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục là yêu cầu cấp thiết của giáo dục nước ta.
Nó được Đảng và Nhà nước ta quan tâm trú trọng. Đó cũng là cơ sở, là tiền đề, yêu cầu,
động lực tạo nên một sự đổi thay toàn diện, cả về chiều sâu và chiều rộng; đổi mới từ
nội dung đến phương pháp giảng dạy… Vấn đề nghiên cứu của đề tài này này chính là
hệ quả tất yếu của quá trình ấy.
Sau khi thực hiện đề tài: “Hướng tiếp cận bài học nhằm tạo hứng thú cho học
sinh khi học môn Ngữ văn lớp 11 THPT ”, tuy gặp nhiều khó khăn về thời gian, kinh
nghiệm tổ chức thực hiện nghiên cứu… nhưng so với mục đích và nhiệm vụ của đề tài
đặt ra, về cơ bản đề tài cũng đã giải quyết được một số nhiệm vụ sau: Bước đầu xác
định được các hướng tiếp cận bài học :
Nội dung - kết quả. Góp phần xây dựng hệ thống lí luận về hứng thú học tập. Xây dựng
tìm hiểu và vận dụng được một số biện pháp gây hứng thú học tập môn Ngữ văn cho
người học.
Đó là những kinh nghiệm của cá nhân, những vấn đề của đề tài đặt ra cũng mới
chỉ là bước khởi đầu có tính định hướng, gợi ý; việc thực hiện nó như thế nào, hiệu quả
ra sao còn tùy thuộc rất nhiều vào nghệ thuật vận dụng của thầy cô giáo và môi trường,
cũng như hoàn cảnh, đối tượng học sinh….
Tôi mong rằng, những kinh nghiệm này góp phần giúp người học có được sự
hứng thú trong việc học tập môn Ngữ văn. Qua đó góp phần nâng cao chất lượng học
tập bộ môn và hơn nữa là góp phần “đánh thức” tình yêu của người học đối với môn
Ngữ văn.
2. Khuyến nghị
* Đối với nhà trường:
Thường xuyên tổ chức học tập, trao đổi kinh nghiệm giảng dạy với nhau, nhất là
phương pháp giảng dạy theo tinh thần đổi mới sách giáo khoa.
Cần đầu tư thêm tài liệu tham khảo về môn Ngữ văn để giáo viên và học sinh dễ
dàng tiếp cận với tri thức mới.
* Đối với tổ chuyên môn:

Thay đổi hình thức sinh hoạt tổ chuyên môn sao cho đa dạng hơn không đơn
thuần chỉ là dự giờ – góp ý, mà tổ chức hội thảo bằng những chuyên đề cụ thể.
Tổ chức các buổi sinh hoạt ngoại khóa sinh động, hấp dẫn, đa dạng nhằm gây hứng thú
cho học sinh đối với bộ môn Ngữ văn.
* Đối với giáo viên Ngữ văn
Việc nắm vững chuyên môn là diều cần thiết. Tuy nhiên còn phải rèn luyện,
nghiên cứu thêm về nghệ thuật sư phạm, tìm tòi các biện pháp gây hứng thú học tập,
tạo một không khí học tập vui vẻ, thoải mái giúp học sinh ngày càng yêu thích bộ môn
Ngữ văn. Bên cạnh đó, phải thường xuyên học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp, phát
huy thế mạnh của công nghệ thông tin vào dạy học bằng cách tìm các thông tin mới,
hấp dẫn trên mạng internet, đưa vào giáo án điện tử làm cho các tiết học sinh động,
22


lượng thông tin học sinh thu được nhiều và chính xác hơn so với phương pháp dạy học
truyền thống.
Trong quá trình xây dựng, thực hiện đề tài, do sự hạn chế về năng lực, tư liệu và
kinh nghiệm, Dù tác giả đã đầu tư, tìm tòi song không tránh khỏi những thiếu sót, hạn
chế ; tác giả hi vọng đề tài này sẽ góp phần làm thay đổi không khí lớp học, làm cho
học sinh của mình ngày càng yêu mến và hứng thú học tập môn Ngữ văn hơn. Đồng
thời, người viết rất mong nhận được sự đóng góp của các thầy cô giáo, bạn bè đồng
nghiệp để đề tài có tính thực tiễn, có thể áp dụng có hiệu quả trong quá trình dạy và học
môn Ngữ văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
Thanh Hóa, ngày 20 tháng 05 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.

23



MỤC LỤC

1.
TÀI LIỆU THAM KHẢO

24



×