Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Rèn luyện kỹ năng viết đoạn văn nghị luận xã hội cho học sinh THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (461.82 KB, 16 trang )

1. Mở đầu
1.1. Lý do chọn đề tài
Nhận định về vai trò to lớn của người thầy, cố thủ tướng Phạm Văn Đồng
khẳng định: “Nghề dạy học là nghề cao quý nhất trong các nghề cao quý, nghề
sáng tạo nhất trong các nghề sáng tạo. Các thầy cô không những dạy chữ mà còn
dạy người, họ cứ như cây thông trên sườn núi, cây quế giữa rừng sâu thầm lặng
tỏa hương dâng hiến sức lực trí tuệ cho đời”. Và nhà giáo dục lừng danh
Xukhomlinxki cũng đồng quan điểm khi cho rằng: “Đối với người giáo viên, cần
phải có kiến thức, có hiểu biết sư phạm về quy luật xã hội, có khả năng dùng lời
nói để tác động đến tâm hồn học sinh, có kỹ năng đặc sắc nhìn nhận con người và
cảm thấy những rung động tinh tế nhất của trái tim con người”.Trên những kiến
giải sâu sắc này, tôi cho rằng giáo viên dạy Ngữ văn có những lợi thế nhất định
trong việc thẩm thấu thế giới tâm hồn, lý tưởng sống hướng học sinh đến Chân
-Thiện - Mỹ không chỉ thông qua những bài giảng mà còn thông qua việc truyền tải
những kiến thức xã hội rộng lớn đa diện và đa chiều.
Hiện nay dưới sức mạnh của truyền thông, mọi tin tức xã hội trong nước và
thế giới được cập nhật và lan truyền với tốc độ nhanh, độ bao phủ lớn. Song truyền
thông cũng như con dao 2 lưỡi: nó có thể khiến người ta đồng tình cũng có thể
khiến người ta phản đối; nó có thể khiến người ta yêu thương lại cũng có thể khiến
người ta căm phẫn; nó có thể khiến người ta cảnh giác nhưng nó cũng có thể khiến
người ta học tập biến thành một trào lưu; nó có thể khiến chúng ta khát vọng hòa
bình, yên ổn nhưng nó cũng có thể khiến người ta reo rắc thù hận…trong biển tin
tức ấy nhiệm vụ của người thầy phải luôn là người dẫn đường, là người định
hướng, là người gieo hạt để các em học sinh có cái nhìn đúng đắn, tin yêu, lạc quan
về cuộc đời.
200 năm trước trong bức thư gửi thầy Hiệu trưởng ngôi trường nơi con trai
theo học, tổng thống Mỹ Abraham Linconln đã có những mong mỏi vô cùng chính
đáng nhưng cũng đặt trọng trách lớn lao trên đôi vai người thầy và đến hôm nay nó
vẫn giữ nguyên tính thời sự - đó là nhà trường không chỉ dạy chữ mà còn phải dạy
kĩ năng sống, những nhận thức làm người thông qua hiểu biết xã hội: “Xin thầy
hãy dạy cho cháu biết thà bị điểm kém vẫn hơn là gian lận trong thi cử, biết chấp


nhận thất bại và cách tận hưởng niềm vui chiến thắng, xin hãy dạy cháu biết mỉm
cười ngay cả khi buồn bã, rằng không có sự xấu hổ nào trong những giọt nước mắt
- Xin hãy dạy cháu tránh xa sự đố kị và hung hăng, đó là những điều làm người ta
dễ bị đánh bại nhất - Hãy dạy cháu biết cách đối xử dịu dàng với những người hòa
nhã và cứng rắn với những kẻ thô bạo - biết chế giễu những kẻ yếm thế và cẩn
trọng trước những sự ngọt ngào đầy cạm bẫy - xin hãy dạy cho cháu có sức mạnh
ngoảnh mặt làm ngơ trước đám đông đang gào thét và không chạy theo thời thế,
nhưng đứng thẳng người bảo vệ những gì cháu cho là đúng và đi đến cùng con
đường của mình…”.
1


Cũng trong Nghị quyết Trung ương 2 (Khóa 8) về “Phương hướng phát triển
giáo dục đào tạo đến năm 2020” đã nhấn mạnh: “ Nâng cao chất lượng giáo dục
toàn diện, coi trọng giáo dục nhân cách, đạo đức lối sống cho học sinh, sinh viên.
Cần coi trọng cả 3 mặt giáo dục: dạy làm người, dạy chữ, dạy nghề; đặc biệt chú ý
giáo dục, lý tưởng, phẩm chất đạo đức, lối sống, lịch sử, truyền thống văn hóa của
dân tộc, của Đảng. Ngăn chặn xu hướng mờ nhạt tư tưởng chính trị, xa rời định
hướng XHCN. Quan tâm hơn nữa đến việc giáo dục nhân cách đạo đức, kỹ năng
và phương pháp làm việc, làm cho thế hệ trẻ có đủ khả năng và bản lĩnh thích ứng
với những biến đổi nhanh chóng. Bồi dưỡng cho thanh thiếu niên khát vọng mãnh
liệt về xây dựng Đất nước giàu mạnh”. Đến Nghị quyết số 29 – NQ/TW Hội nghị
lần thứ 8, BCH TW khóa XI Giáo dục và đào tạo vẫn được quan tâm và trở thành
quốc sách hàng đầu: “ Phát triển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo
nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị
kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi
với hành; lý luận gắng với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia
đình và giáo dục xã hội”. Cả 2 nghị quyết của Đảng đều là những định hướng rõ
ràng, cụ thể, sâu sắc cho những người làm công tác giáo dục, trong đó nhấn mạnh
đến kĩ năng nhận thức và những hiểu biết xã hội.

Trong quá trình giảng dạy tôi nhận thấy học sinh khi viết đoạn văn Nghị luận
xã hội còn nhiều lúng túng: chưa đảm bảo về mặt cấu trúc, kiến thức xã hội còn
mỏng, cách hành văn còn gặp nhiều lỗi về câu từ về cấu trúc ngữ pháp, cách kiến
giải, cách lập luận chưa đủ độ sâu, chưa thuyết phục người đọc người nghe. Và
cũng bắt đầu từ kì thi THPT QG năm 2017 việc viết đoạn văn nghị luận xã hội
chiếm 2 điểm trong cấu trúc đề thi. Vì thế vô hình chung việc rèn luyện kỹ năng
viết đoạn văn nghị luận xã hội là vô cùng cần thiết.
Từ những lý do trên tôi mạnh dạn tìm đến đề tài “ Rèn luyện kĩ năng viết
đoạn văn nghị luận xã hội cho học sinh THPT”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Thực hiện đề tài này nhằm đạt được một số mục đích sau:
Giúp học sinh hứng thú với môn học, chủ động trong việc tìm hiểu và lĩnh hội
tri thức.
Giúp học sinh nâng cao những hiểu biết xã hội, nhìn nhận và thẩm định và
đánh giá một vấn đề bằng sự khách quan, tinh tế. Đồng thời nâng cao khả năng biện
luận xã hội, bảo vệ quan điểm của mình.
Giúp học sinh bắt kịp xu thế của thời đại, cập nhật với tin tức, tình hình trong
nước và thế giới.
Rút ra những kinh nghiệm cho bản thân trong quá trình giảng dạy. Qua khảo
sát thực tế về việc rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn nghị luận xã hội cho học sinh
THPT, từ đó có cái nhìn tổng thể về việc dạy và học, để có thể đề xuất đóng góp ý
kiến.
2


1.3. Đối tượng nghiên cứu
- Nghị luận về một tư tưởng, đạo lý.
- Nghị luận về một hiện tượng đời sống.
Những đối tượng nghiên cứu này được xâu chuỗi từ hệ thống các bài giảng
trong chương trình sách giáo khoa Ngữ văn THPT:

+ Tiết 98: Luyện tập viết đoạn văn nghị luận (SGK lớp 10, tập 2, Nhà xuất
bản Giáo dục)
+ Tiết 8: Phân tích đề lập dàn ý bài văn nghị luận (SGK lớp 11, tập 1, Nhà
xuất bản Giáo dục)
+ Tiết 113: Tóm tắt văn bản nghị luận (SGK Ngữ văn 11, tập 2, Nhà xuất bản
Giáo dục)
+ Tiết 116: Luyện tập tóm tắt văn bản nghị luận (SGK Ngữ văn 11, tập 2, Nhà
xuất bản Giáo dục)
+ Tiết 13: Nghị luận về một hiện tượng đời sống (SGK Ngữ văn 12, tập 1,
Nhà xuất bản Giáo dục)
+ Tiết 46: Chữa lỗi lập luận trong văn nghị luận (SGK Ngữ văn 12, tập 1,
Nhà xuất bản Giáo dục)
+ Tiết 78: Rèn luyện kĩ năng mở bài, kết bài trong văn nghị luận (SGK Ngữ
văn 12, tập 2, Nhà xuất bản Giáo dục)
Tiết 84, 87: Diễn đạt trong văn nghị luận (SGK Ngữ văn 12, tập 2, Nhà xuất
bản Giáo dục)
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
- Phương pháp phân tích
- Phương pháp khảo sát, thống kê
- Phương pháp trao đổi thực nghiệm
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
Khái niệm về đoạn văn hiện nay cũng hình thành nhiều cách hiểu khác nhau:
Cách hiểu thứ nhất: Đoạn văn được dùng với ý nghĩa để chỉ sự phân đoạn nội
dung, phân đoạn ý của văn bản. Mỗi văn bản bao gồm nhiều đoạn văn: Đoạn mở
đầu văn bản, những đoạn khai triển văn bản, đoạn kết thúc văn bản. Mỗi đoạn văn
phải có sự hoàn chỉnh nhất định nào đó về mặt ý, về mặt nội dung. Nhưng thế nào
là một nội dung, một ý hoàn chỉnh thì không có tiêu chí để xác định rõ ràng. Một
văn bản tùy theo người đọc cảm nhận mà phân chia ra thành các đoạn, sự phân chia

có thể không thống nhất giữa người đọc: Có người chia theo ý lớn, có người chia
theo ý nhỏ. Ý lớn là đoạn bài có hai hoặc ba ý nhỏ được triển khai từ ý lớn, bao
gồm hai hoặc ba đoạn văn ngắn, mỗi đoạn văn ngắn là một ý nhỏ, các đoạn này hợp
ý với nhau thành một ý lớn; ý nhỏ là ý được triển khai từ ý lớn, về mặt nội dung chỉ
triển khai theo một phương diện, một hướng cụ thể, mỗi ý nhỏ là một đoạn. [3]
3


Cách hiểu thứ hai: Đoạn văn là sự phân chia văn bản thành những phần nhỏ,
hoàn toàn dựa vào dấu hiệu hình thức: Một đoạn văn bao gồm những câu văn nằm
giữa hai dấu chấm xuống dòng.[4]
Cách hiểu thứ ba: là đơn vị trực tiếp tạo nên văn bản, được quy ước bắt đầu
từ chỗ viết hoa lùi đầu dòng đến chỗ chấm xuống dòng và thường biểu đạt một ý
tương đối hoàn chỉnh gồm có mở đoạn, thân đoạn và kết đoạn. Đoạn văn thường do
nhiều câu tạo thành.[1]
Trong ba cách hiểu trên thì cách hiểu thứ ba được người viết xem là cơ sở để
triển khai hoạt động dạy và học. Và cũng từ đây hình thành một khái niệm về Đoạn
văn nghị luận xã hội: Là đoạn văn bàn về các vấn đề xã hội, chính trị, đời sống.
Qua đó người viết luận bàn về đúng, sai, phải, trái, khẳng định điều này, bác bỏ
điều kia để người ta nhận ra chân lý đồng tình với mình, chia sẻ quan điểm và niềm
tin của mình. Sức mạnh của văn nghị luận xã hội là ở sự sâu sắc của tư tưởng, tình
cảm, tính mạch lạc, chặt chẽ của suy nghĩ và trình bày, sự thuyết phục của lập luận.
Vận dụng linh hoạt các thao tác như giải thích, phân tích, chứng minh, bác bỏ, so
sánh…Rõ ràng để viết đoạn văn nghị luận xã hội (khoảng 200 chữ) thành công
không phải là một điều đơn giản đối với học sinh THPT, nó đòi hỏi quá trình rèn
luyện, tiếp thu kiến thức vững vàng, sự chiêm nghiệm và suy tư… và đó chính là
các em đã và đang hình thành kĩ năng.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Thực tiễn trong quá trình giảng dạy Đoạn văn nghị luận xã hội ở trường
THPT, giáo viên và học sinh gặp một số thuận lợi và khó khăn sau:

Trước hết đây là kiểu bài mở, học sinh có thể tự tin bày tỏ quan điểm của
mình, thể hiện vốn hiểu biết xã hội. Và người dạy truyền cảm hứng bằng việc hỏi
đáp, kể những câu chuyện bên lề cuốc sống để hướng học sinh đến nhận thức, chia
sẻ một vấn đề. Có thể nói rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn nghị luận xã hội là giữa
người học và người dạy có sự tương tác sôi nổi. Từ bài viết của cá nhân học sinh,
người dạy có thể hiểu được phần nào tâm sinh lý độ tuổi, lý tưởng, quan niệm sống,
ước mơ, hoài bão để kịp thời động viên, khích lệ, uốn nắn với mục tiêu cao cả là
tạo ra một thế hệ thanh niên của thời đại mới: Luôn tự trọng, tự tin, hướng thiện,
yêu thương và trách nhiệm với tất cả công việc mình làm.
Tuy vậy cũng tiềm tàng không ít những khó khăn. Cụ thể, nhiều học sinh chưa
nắm được khái niệm về đoạn văn nghị luận xã hội, các em thường mắc một lỗi
chung đó là triển khai thành một bài văn hoàn chỉnh và dung lượng luôn vượt qua
yêu cầu của đề ra. Vì các em nghĩ rằng viết dài dù không hay thì điểm vẫn sẽ cao
hơn viết ngắn.
Bên cạnh đó, những kiến giải, lập luận chưa đủ sức thuyết phục, dẫn chứng
đưa ra còn nghèo nàn, chưa mang tính toàn dân phổ cập.
Ngoài ra, khi các em nghị luận về những mặt trái trong đời sống xã hội lại thường
có tư tưởng bi quan, tiêu cực, thường vội vàng kết luận cho rằng đó là những hiện
tượng phổ biến, báo động…
4


Mặt khác, những tin tức, hiện tượng trong đời sống xã hội các em lại thường
không lưu tâm, không để ý cho dù các em đang sống trong một thế giới hiện đại với
mạng Internet, mạng xã hội facebook, zalo… cập nhật liên tục hàng ngày, hàng giờ.
Và vô hình chung chúng ta có một thế hệ học sinh đang sống trong một môi trường
sống nghèo tri thức xã hội, bị tụt hậu, sống trong một biển thông tin mà vẫn bị mù
thông tin.
Nếu chúng ta nhìn ra nền giáo dục của các nước tiên tiến trên thế giới, chúng
ta mới cảm nhận sâu sắc nền giáo dục ưu việt của họ: Học sinh rất giàu kĩ năng

sống, bao gồm: kĩ năng đối phó với những thảm họa thiên nhiên, kĩ năng sinh tồn
trong hoàn cảnh nguy hiểm, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng hiểu tiếng nói từ trái tim, kỹ
năng về sức khỏe sinh sản, kĩ năng tranh luận, diễn thuyết trước đám đông…Thiết
nghĩ, đó đều là những hành trang trang bị cần thiết cho học sinh về kiến thức xã
hội. Bởi những câu chuyện tưởng như đơn giản diễn ra quanh ta lại là những bài
học cuộc sống vô cùng hữu ích đối với sự trưởng thành của mỗi chúng ta. Tôi xin
đơn cử những đề thi đại học ở Trung Quốc họ đã ra rất thành công khi đánh thẳng
vào tâm lý nhận tức của người viết, mà nền tảng từ những câu chuyện rất đời
thường: “Một cậu bé lên xe bus và xin tài xế dừng xe chờ mẹ mình một chút, vài
phút sau vẫn chưa thấy bà mẹ đâu, hành khách phàn nàn to tiếng, cậu bé bắt đầu
khóc. Một lúc sau người mẹ xuất hiện, tất cả mọi người đều im bặt - mẹ cậu bé là
người khuyết tật. Hãy viết đoạn văn về chủ đề này.” (Đề thi của tỉnh Phúc Kiến)
[5]. Tương tự như vậy, đề thi dành cho 5 tỉnh thành là Giang Tô, Thiểm Tây, Hồ
Bắc, Hà Nam, Sơn Tây cũng khiến chúng ta phải suy ngẫm: “ Một người cha vừa
lái xe vừa nói chuyện điện thoại trên đường cao tốc. Con gái đã liên tục nhắc nhở
nhưng ông không nghe. Người con liền gọi điện báo cảnh sát. Khi cảnh sát đến
người cha bị khiển trách. Việc này gây ra một cuộc tranh luận sôi nổi trong cộng
đồng. Hãy viết một lá thư cho người cha, con gái hoặc cảnh sát”[5]….Vì vậy, tôi
đã mạnh dạn áp dụng một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả dạy và học, giúp
các em học sinh THPT hình thành kỹ năng viết thành công một đoạn văn nghị luận
xã hội.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.3.1. Giải pháp chung
Muốn đi vào vận dụng, thực hành yêu cầu đầu tiên chính là phải nắm vững lý
thuyết. Và giải pháp chung, đó là: cung cấp hệ thống lý thuyết vững vàng để viết
đoạn văn nghị luận theo trình tự cụ thể sau:
- Căn cứ vào tỷ lệ điểm và thời gian làm bài của môn Ngữ văn, học sinh nên giành
cho câu Nghị luận 30 phút (vì câu trong đề này chiếm 2,0 điểm ở mức độ vận dụng
cao).
- Đoạn văn phải đảm bảo yêu cầu về mặt hình thức: Viết liền mạch, có một đến hai

câu mở đoạn, sau đó là các câu thân đoạn và cuối cùng là một đến hai câu kết đoạn.
- Triển khai viết đoạn:
+ Phần mở đoạn nên chọn cách vào trực tiếp, tránh dài dòng, lan man.
5


+ Phần thân đoạn cũng là phần trọng tâm cần phải đảm bảo yêu cầu; giải thích
vấn đề nghị luận; bàn bạc vấn đề được nêu ra (bằng cách trả lời các câu hỏi: Vấn đề
đó tại sao đúng, tại sao sai? Biểu hiện vấn đề trong thực tế như thế nào?) Đồng thời
lật lại hoặc bổ sung, mở rộng vấn đề; cuối cùng là phần rút ra bài học về nhận thức
và hành động.
+ Phần kết đoạn có thể dùng phần bài học được rút ra
- Vấn đề nghị luận xã hội theo cấu trúc đề thi minh họa là một câu được rút ra từ
ngữ liệu đã cho ở phần Đọc - hiểu, chủ yếu xoay quanh hai dạng thức là: Nghị luận
về một tư tưởng đạo lý và nghị luận về một hiện tượng đời sống. Bởi vậy các em
có thể linh hoạt sử dụng lý lẽ và dẫn chứng ở trong chính bài Đọc - hiểu để viết
đoạn văn nghị luận xã hội thành công. Ngoài kiến thức lý thuyết, yếu tố cần thiết
với các em học sinh là cần trang bị những tri thức cuộc sống đã và đang diễn ra
hàng ngày hàng giờ từ trong nước đến trên thế giới, thông qua các phương tiện
thông tin truyền thông.
2.3.2. Giải pháp cụ thể
a/ Giải pháp 1: Thông qua mỗi một bài giảng Ngữ văn trong chương trình
THPT, giáo viên luôn hướng các em khái quát thành các vấn đề xã hội vừa khắc sâu
bài học, vừa thể hiện được cái nhìn của người học khi đánh giá một vấn đề, một
hiện tượng và đây cũng chính là một nguồn dẫn chứng phong phú khi các em tiến
hành thao tác bình luận và chứng minh trong đoạn văn Nghị luận xã hội.
Ví dụ:
- Kết thúc những trích đoạn “Trao duyên”, “Chí khí anh hùng”, “Nỗi thương
mình” trong tác phẩm “Truyện Kiều” của Nguyễn Du các em đều cảm nhận sâu sắc
trái tim nhân đạo thống thiết của nhà thơ, bênh vực và bảo vệ quyền sống chính

đáng của con người, đặc biệt là người phụ nữ. Thấy được nhãn quan tiến bộ của tác
giả, từ hơn 200 năm trước đã vượt lên những quan niệm phong kiến khắt khe để
viết về cô gái làm nghề kĩ nữ với niềm cảm thông, xót xa và sự trân trọng…
- Kết thúc truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu,
thông điệp mà nhà văn gửi đến là những vấn đề đa diện và đa chiều: Cuốc sống con
người sau chiến tranh, nạn bạo hành gia đình, tấm lòng đức hy sinh của người vợ
người mẹ, những phát hiện của người nghệ sỹ về cuộc đời và nghệ thuật…

6


- Kết thúc truyện ngắn “Ông già và biển cả” của Hê - Minh - Uê, nhà văn
hướng mỗi chúng ta hãy đừng bao giờ từ bỏ ước mơ và khát vọng chính đáng, nhà
văn cũng đặt ra những vấn đề quan thiết trong thời đại ông sống đó là: sự vô tình
của con người với con người, là hành trình của người lao động vô danh, là hành
trình theo đuổi ước mơ cho đến khi nó đạt được có thể cách nhau một khoảng cách
rất xa…

b/ Giải pháp 2: Luôn lồng ghép kể những câu chuyện ngắn gọn từ cổ chí kim
cho các em học sinh nghe, là bài học kinh nghiệm mang tính giáo dục, là đạo lý cần
phải ghi nhớ trong hành trình cuộc đời.
Ví dụ:
- “ Có một người cha mang các con rời khỏi nơi ở thành La Mã tới một thị
trấn nơi ngoại vi thành phố. Ở nơi đó cha con cùng trèo lên chiếc thang lưng
chừng nhà thờ, và người cha lên tiếng: “Các con hãy nhìn xuống dưới kia mà
xem”. Đứa con kiễng chân nhìn xuống chỉ thấy các thôn xóm, trang trại bao quanh
thành La Mã, những con đường chằng chịt như mắt lưới và con đường nào cũng
chạy tới quảng trường La Mã. Người cha tiếp: “Nhìn rõ không con thân yêu của
cha?”. Và ông lại lên tiếng: “Mọi quảng trường đều hướng tới quảng trường La
Mã”. Với cuộc sống của con người cũng vậy. Một khi con đường bản thân đã định

không đạt tới mục đích của mình, con hãy thử bằng con đường khác xem sao!”.
Mỗi khi trước ngã ba đường, gặp những điều khó khăn, chúng ta hãy nhớ tới câu
chuyện này. Để không bao giờ bi quan và tuyệt vọng.”[7]

7


- “ Một đồng chí bộ đội nữa hy sinh. Anh bị một vết thương xuyên đâm thấu
bụng. Sau cuộc mổ tình trạng không tốt mà xấu dần, có lẽ vì một sự chảy máu
trong, do miếng mảnh không tìm thấy cọ xát làm đứt mạch máu nào đó. Sau hội
chẩn, ý kiến chung là không đồng ý mổ lại. Riêng mình vẫn băn khoăn lưỡng lự.
Cuối cùng anh đã chết – cái chết của anh làm mình suy nghĩ đến đau đầu. Anh chết
vì sao? Vì sự thiếu kiên quyết của mình chăng? Rất có thể là như vậy. Nếu mình
kiên quyết, ít ra 100% thì hy vọng sống của anh cũng có thể có 10%. Mình đã theo
đuôi quần chúng, bỏ qua những việc nên làm. Anh chết rồi, trong túi áo trước ngực
anh có một quyển sổ nhỏ trong có nhiều kiểu ảnh của một cô gái với nụ cười duyên
dáng trên môi và lá thư kiên quyết sắt son chờ anh. Trước ngực anh còn có chiếc
khăn nhỏ thêu dòng chứ “Đợi chờ anh”. Ơi người con gái hậu phương kia ơi!
Người cô yêu sẽ không bao giờ về nữa, trên vành khăn đau đớn mà cô sẽ phải cài
lên mái tóc xanh của cô nặng trĩu đau thương, chất đầy tội ác của kẻ giết người là
quân đế quốc Mỹ và có cả niềm ân hận của tôi, một người thầy thuốc đã không cứu
sống được anh trong khi còn có thể cứu được!”. [6]

c/ Giải pháp 3: Giáo viên cho lớp học chia theo nhóm để tìm những dẫn
chứng minh họa về các chủ đề cụ thể:
- Dẫn chứng minh họa về chủ đề sự giản dị làm nên cốt cách: trích thơ của
Khương Hữu Dụng viết về Bác: “ Đi làm cách mạng hai tay trắng/ Mẩu bánh mì
đen, chiếc áo sờn/ Về làm chủ tịch chòm râu bạc/ Vẫn áo ka ki, dép lối mòn.”

- Dẫn chứng minh họa về tinh thần vượt khó, sự lạc quan, có khả năng truyền

lửa cho những người khác: Người khuyết tật không tay không chân anh Nick
8


Vujicic đã tốt nghiệp một trường đại học danh giá của nước Mỹ, trở thành nhà diễn
thuyết lay động hàng triệu con tim người nghe.

- Dẫn chứng minh họa về lối sống đẹp, cho đi mà chẳng màng nhận lại, xem
tình thương là hạnh phúc của con người: Tỷ phú Bill Gates đã lập một quỹ tài chính
lớn nhất hành tinh nhằm đẩy lùi và giúp đỡ người bị bệnh HIV/AIDS, ông đã viết
di chúc sớm để lại 90% tài sản để giành cho các hoạt động thiện nguyện. Đó là di
chúc của nhà thơ Tố Hữu : “Xin tạm biệt bạn đời yêu quý/ Chỉ có thơ thôi, một nắm
tro/ Thơ tặng bạn đường, tro bón đất/ sống là cho, chết cũng là cho”.

- Dẫn chứng minh họa về tinh thần tình nguyện của thế hệ thanh niên Việt
Nam: Trong chiến tranh họ đã hi sinh tuổi thanh xuân, tình nguyện viết đơn bằng
máu để được ra chiến trường, họ treo mình trên những vách đá cheo leo hiểm trở để
có những con đường mang tên Hạnh Phúc đến với vùng cao nguyên đá Hà Giang.
Trong thời bình hôm nay họ đang nỗ lực học tập, đưa trí tuệ và bản lĩnh người Việt
vươn ra trường quốc tế, tham gia hiến máu nhân đạo, tham gia chiến dịch “Mùa hè
xanh”, khởi nghiệp….

9


d/ Giải pháp 4: Giáo viên cho các em hệ thống lại những sự kiện xã hội tiêu
biểu trong nước và quốc tế trong một năm.
- Ví dụ: Những sự kiện xã hội tiêu biểu trong nước và quốc tế năm 2018 và
nửa đầu năm 2019:
+ Lễ hội pháo hoa quốc tế Đà Nẵng.

+ Công viên địa chất Non Nước Cao Bằng được UNESCO công nhận là công
viên địa chất toàn cầu UNESCO.

+ Nhan sắc Việt Nam khẳng định vị thế trên bản đồ thế giới.
+ Việt Nam đón 15 triệu khách du lịch quốc tế.
+ Thể thao đạt nhiều thành tựu: Bóng đá nam xếp hạng 98 trên thế giới, phá
vỡ nhiều kỉ lục thể thao trong khu vực.
+Tổng Bí thư được bầu làm Chủ tịch nước và công cuộc chống tham nhũng
làm trong sạch bộ máy được đẩy mạnh trong toàn Đảng toàn dân.

10


+ Gian lận chưa từng có trong kì thi THPT Quốc gia tại Hà Giang và Hòa
Bình.
+ Cháy nhà thờ Đức Bà Paris.
+ Hội nghị thưởng đỉnh Mỹ - Triều được tổ chức tại Hà Nội.
e/ Giải pháp 5: Ra bài tập cụ thể, theo chủ đề hàng tuần vì kĩ năng của các em
học sinh chỉ có thể thành thạo khi các em được luyện viết nhiều, trên cơ sở giáo
viên hướng dẫn bằng ví dụ minh họa cụ thể: Viết đoạn văn (Khoảng 200 chữ) trình
bày suy nghĩ về câu nói: “Leo lên đỉnh cao là để các em có thể nhìn ngắm thế giới
chứ không phải để thế giới nhận ra các em”.[9]
Mở đoạn: Giới thiệu vấn đề
(Thầy hiệu trưởng.. đã có câu nói: “Leo lên..các em”)
Phát triển đoạn:
+ Giải thích câu nói: (câu nói khẳng định điều gì?)
(“Leo lên đỉnh núi cao” có thể hiểu là sự chinh phục những thử thách, chiếm lĩnh
những tầm cao của con người chúng ta. Còn “ Nhìn ngắm thế giới” là sự quan sát,
phát hiện lớn lao cũng như tận hưởng những vẻ đẹp của thế giới, của cuộc sống
xung quanh. “Thế giới nhận ra các em” nghĩa là sự ghi nhận của mọi người. Câu

nói của thầy Hiệu trưởng đã khẳng định thái độ đúng đắn của con người khi vươn
tới tầm cao, đạt được mục đích lớn lao: Không phải để khẳng định thành tích mà là
phải xem đó là cơ hội để trải nghiệm, nhìn ngắm thế giới ở tầm cao hơn, rộng hơn,
khái quát hơn.)
Bàn luận: Phân tích, lý giải, chứng minh ý nghĩa câu nói: Vì sao ta phải “leo
lên đỉnh núi cao”? Chinh phục những đỉnh cao trong cuộc sống - dù không dễ
dàng, nhưng là khát vọng cao cả, cách thể hiện bản thân, thể hiện bản lĩnh mỗi
người. Khi lên tới đỉnh cao, ta sẽ nhìn lại được khả năng của chính mình, có thêm
nhiều kinh nghiệm mới.
Vì sao “Leo lên đỉnh núi cao” là ta có thể “Ngắm nhìn thế giới”?. Mỗi hành
trình vươn đến đỉnh cao đều chứ đựng những bí ẩn thú vị, mà đi đến tận cùng,
người ta mới thấu hiểu. Ở tầm cao, người ta sẽ ngắm nhìn thế giới rộng hơn, khái
quát hơn và chính xác hơn. Cuộc sống không ngừng vận đông, nên muốn tiến bộ,
phát triển phải nhìn ngắm thế giới hàng ngày. Đây là cái đích của sự chinh phục
những đỉnh cao trong cuộc đời.
Vì sao leo lên đỉnh núi cao” là “Không phải để thế giới nhận ra” mình?
Nếu coi việc chinh phục đỉnh cao là để được mọi người ghi nhận là cái đích tối cao,
con người dễ bằng lòng, thỏa mãn với những gì mình có mà không còn ý thức vươn
lên nữa.
Ai đã làm được điều đó - Xem việc chinh phục đỉnh cao là để “Nhìn ngắm thế
giới”?
Rất nhiều những nhà khoa học, những nhà kinh tế mà mục tiêu của họ đặt ra
để phấn đấu đạt được chứ hoàn toàn không phải để người khác nhìn thấy vai trò, tài
năng của họ. Như nhà bác học Ê - Đi - Xơn, mục tiêu của ông là thắp sáng cho cả
11


thế giới. Ông đặt ra mục tiêu này để theo đuổi, cống hiến hết mình cho những điều
cao đẹp của cuộc đời chứ không nhằm khẳng định tên tuổi.
+ Cần phê phán những hiện tượng nào?

Thật đáng chê trách những người không biết đặt ra nhưng “Đỉnh cao”, những mục
tiêu cho bản thân mình. Những con người ấy sống cuộc sống vô nghĩa, không chút
cầu tiến, không chút tương lai. Cũng thật đáng phê phán những ai xem việc chinh
phục đỉnh cao chỉ nhằm để khẳng định mình trước thiên hạ mà không vì mục tiêu
chung cho mọi người.
Kết đoạn: Bài học với bản thân (Câu nói của thầy Hiệu trưởng đã cho tôi một
bài học vô cùng sâu sắc. Bản thân tôi phải đặt ra mục tiêu cho chính mình và tôi
cũng nghĩ rằng, chỉ có bản thân mình mới có thể hiểu được giá trị của những mục
tiêu đó. Tôi không cần người khác đánh giá mà chỉ cần tôi hiểu được giá trị của
chính mình - những điều tôi đang theo đuổi. Tất cả những điều đó cho tôi và cho tất
cả chúng ta một cuộc sống tuyệt vời.)
* Minh họa 2: Viết đoạn văn khoảng 200 chữ trình bày suy nghĩ của anh/chị
về câu nói của tổng thống Mỹ gửi thầy Hiểu trưởng ngôi trường nơi con trai đang
theo học “Xin thầy hãy dạy cho cháu biết chấp nhận thi rớt còn hơn gian lận trong
thi cử”.[8]
Học sinh sẽ triển khai bài viết theo bố cục sau:
Ý 1: Nêu và giải thích ý kiến, câu hỏi đề thi
Ý 2: Bàn luận, mở rộng về ý kiến, câu hỏi đề thi
Ý 3: Rút ra bài học nhận thức và hành động cho bản thân và cho mọi người
“Cách đây hơn 200 năm, Tổng Thống Mỹ A.Lin Côn đã viết bức thư đầy tâm
huyết, đặt nhiều kì vọng vào sứ mệnh cao cả, thiêng liêng của ngành giáo dục cho
thầy Hiệu trưởng ngôi trường nơi con trai ông theo học, bức thư có đoạn viết :
“Xin thầy hãy dạy cho cháu biết chấp nhận thi rớt con hơn gian lận trong thi cử”.
Cho đến hôm nay lời nhắn nhủ của ngài tổng thống vẫn còn nguyên giá trị, ngành
giáo dục vẫn đang nỗ lực trong hành trình dạy chữ và dạy người, với mục tiêu
chúng ta phải có một thế hệ học sinh tự trọng, trung thực. Một thế hệ học tập bằng
chất xám, bằng tư duy cá nhân chứ rất khoát không chạy đua theo thành tích, sao
chép, và gian lận kết quả trong thi cử là một hành vi không thể chấp nhận được vì
đó là sự dối trá, là bằng chứng về sự tuột dốc đạo đức, phẩm chất. Năm 2018 cả
nước chấn động vì sai phạm sửa điểm thi tại Hà Giang và Hòa Bình, vết nhơ ấy là

nỗi buồn nhưng cũng là một động lực để chúng ta quyết tâm chấn chỉnh toàn
ngành. Câu nói của A. Lin Côn tuy ngắn gọn nhưng nó trở thành kim chỉ nam: Một
nền giáo dục nghiêm trị sẽ có những học sinh giàu phẩm chất đạo đức, tài năng và
xa hơn đó là nội lực cho sự phát triển thịnh vượng, lâu dài của một dân tộc, một
quốc gia.”
* Minh họa 3: Viết đoạn văn 200 chữ bàn luận về câu nói “Tình thương là
hạnh phúc của con người”.[4]
12


“ Nhà thơ Tố Hữu cho rằng “Còn gì đẹp trên đời hơn thế/ Người với người
sống để yêu nhau”. Quả thật từ bao đời nay, từ thuở hồng hoang, từ thuở khai
thiên lập địa chúng ta đã luôn xem “Tình thương là hạnh phúc của con người”.
“Tình thương” chính là tình cảm chân thành, ấm nóng, có sự quan tâm, sẻ chia và
“Hạnh phúc” chính là cảm xúc vui sướng, nó có thể biểu hiện bằng tiếng cười, hay
bằng cả giọt nước mắt. Vậy có thể hiểu có tình yêu thương chân thành con người
luôn cảm thấy hạnh phúc, trái tim đập những nhịp vui tươi, ấp áp và nó có khả
năng lan tỏa. Quả thật con người chúng ta tài sản lớn lao nhất không phải đo bằng
thế giới vật chất mà thước đo đến từ việc chúng ta được yêu thương và chúng ta có
sẵn tình yêu thương với đồng loại. Vì thế nơi lạnh giá nhất không phải là Nam cực
mà là nơi thiếu vắng tình yêu thương. Bởi có tình yêu thương của giám mục nhân
từ Misyen mà Giăng Văn Giang trong tiểu thuyết “Những người khốn khổ” của
Victor Huy - Gô đã quyết tâm từ bỏ con người với những thói hư tật xấu của mình
vươn lên thành một thị trưởng nhân từ , gửi thông điệp về sức mạnh của tình
thương trước khi đi về cát bụi: “Trên đời chỉ có một điều ấy thôi, đó là sống để yêu
thương”. Và dĩ nhiên để được yêu thương chúng ta cũng phải học cách yêu
thương. Hãy xem câu nói này là hành trang trong cuộc đời của bạn và của tôi.”
* Minh họa 4: em hãy viết đoạn văn(Khoảng 200 chữ) trình bày say nghĩ về
câu nói “An toàn giao thông cho nụ cười ngày mai”.[1]
“ An toàn giao thông đã trở thành một từ khóa quan trọng trên mạng iternet,

trong vòng 0,41 giây cho ta 257.000.000 kết quả. Điều đó chứng tỏ niềm mong
mỏi, khát vọng của toàn xã hội là: an toàn tính mạng khi tham gia giao thông. Ở
Việt Nam theo số liệu thống kê mỗi năm có hơn 8.000.000 người chết vì tai nạn
giao thông và hàng nghìn người thương tật vĩnh viễn, để lại những gánh nặng và
nỗi đau cho xã hội và cho các gia đình. Nguyên nhân dẫn đến tai nạn giao thông
có rất nhiều, song quan trọng nhất vẫn là ý thức tuân thủ luật pháp và coi trọng
tính mạng của con người khi chúng ta điều khiển phương tiện. Hãng Honda đã
phối hợp cùng Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức cuộc thi bổ ích, thiết thực với tên
gọi “An toàn giao thông cho nụ cười ngày mai”.Quả thật! nụ cười của ngày mai,
niềm vui cắp sách tới trường, ước mơ và khát vọng chỉ có thể lan tỏa khi ngay thời
điểm hiện tai, ngay hôm nay bạn và tôi đều trách nhiệm với tay lái của mình.”
2.4. Hiệu quả của Sáng kiến kinh nghiệm đã thực hiện
Trên đây là những giải pháp của tôi đã áp dụng trong quá trình giảng dạy và
tôi đã tiến hành so sánh qua các bài kiểm tra của học sinh hai lớp có phần nghị luận
xã hội và thu thập được kết quả như sau:

13


 Lớp khi chưa áp dụng SKKN
Lớp

Sĩ số

Giỏi
SL
%

B2


36

2

A2

46

6

Khá
SL
%
47,2
5,6%
17
%
13%

23

50%

Trung bình
SL
%
38,9
14
%
26,1

12
%

Yếu
SL
%
3

8,3%

5

10,9
%

 Lớp khi áp dụng SKKN
Lớp

Sĩ số

B2

36

A2

46

Giỏi
SL

%
16,7
06
%
21,7
10
%

SL
23
28

Khá
%
63,9
%
60,9
%

Trung bình
SL
%
19,4
07
%
17,4
08
%

Yếu

SL
%
0

0%

0

0%

Qua 2 bảng kết quả trên đây cho thấy sự tiến bộ rất lớn của học sinh trong quá
trình học tập môn Ngữ văn khi được tiếp cần đề tài SKKN này. Đây là một minh
chứng cho thấy chất lượng dạy và học sẽ được cải thiện và nâng cao trong thời gian
tới, giúp các em, đặc biệt là học sinh khối 12 chuẩn bị hành trang tri thức, kĩ năng
với tâm thế tự tin để bước vào kì thi THPT Quốc gia năm 2019 đang tới gần.
Tuy nhiên việc nghiên cứu áp dụng ở mức độ ban đầu nên kết quả còn nhiều
hạn chế. Đòi hỏi phải tiếp tục đầu tư thời gian và trí tuệ trong thời gian dài để bổ
sung, vận dụng linh hoạt, sáng tạo các phương pháp giảng dạy nhằm nâng cao chất
lượng của cả người dạy và người học hướng tới mục tiêu nâng cao chất lượng giáo
dục của đơn vị nơi tôi công tác.
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận
“Dạy học là chạm vào tương lai”, ý thức được trọng trách, nhiệm vụ thiêng
liêng của nghề trồng người, tôi nghĩ rằng mỗi một giáo viên khi đứng trước một bài
giảng, một phân môn đều cần miệt mài, say sưa không ngừng tìm tòi các phương
pháp để thể nghiệm. Từ đó tìm ra cách giảng phù hợp với từng đối tượng học sinh,
phù hợp với mục tiêu của ngành trong thời đại mới. Qua SKKN này, tôi mạnh dạn
kết luận một số kết quả sau:
Thứ nhất: Học sinh có kỹ năng nhận biết một vấn đề xã hội và triển khai
thành thạo, khoa học trong bài viết.

Thứ hai: Các em đã thường xuyên cập nhật các tin tức xã hội trong nước và
quốc tế (dành 30 xem chuyên mục thời sự được phát sóng trên kênh truyền hình
14


Quốc gia từ19h mỗi ngày). Từ đây các em mở rộng biên độ nhận thức, tầm nhìn
trước mỗi vấn đề xã hội nóng hổi.
Thứ ba: Các em học sinh luôn lạc quan, thể hiện niềm tin tưởng, thái độ vui
vẻ, bình tĩnh trước mọi biến động của đời sống. Biết cho đi mà không màng nhận
lại, biết khát vọng sống đẹp chứ không phải là lời sáo rỗng.
Thứ tư: Với người dạy cũng phải câp nhật thông tin trên cơ sở khách quan,
sưu tầm những câu chuyện mang tính giáo dục cao qua hệ thống sách thư viện nhà
trường như: Các bài giảng đạo đức về Bác, Cổ học tinh hoa, Quà tặng cuộc sống,
Hạt giống tâm hồn… Từ đây tích hợp các kiến thức để có thể truyền tải cho học
sinh ngắn gọn mà sâu sắc, bằng con đường đi uyển chuyển đến thế giới tâm hồn các
em.
Thứ năm: Thông qua các sản phẩm bài viết của học sinh, giáo viên kịp thời
nắm bắt tâm tư nguyện vọng, hoàn cảnh gia đình, lý tưởng sống, quan niệm xã hội
của từng học sinh để kịp thời động viên khích lệ, uốn nắn, định hướng để hoàn
thiện nhân cách của học trò. Một điều rất cần thiết trong chiến lược xây dựng con
người Việt Nam trong thời đại công nghệ 4.0
3.2. Kiến Nghị
Với nhà trường: Tăng cường những tiết học ngoại khóa bằng những hình thức
phong phú nhằm nâng cao những hiểu biết xã hội của học sinh.
Với sở GD&ĐT: Cung cấp những tài liệu văn nghị luận xã hội, các bộ sách
tham khảo về các thư viện Trường.
Phổ biến rộng rãi các SKKN đạt giải cao để các giáo viên trong tỉnh tham
khảo, học tập và mạnh dạn áp dụng nếu thấy phù hợp, tiện ích.
Trên đây là những cố gắng của tôi khi nghiên cứu đề tài này và đã được vận
dụng trong quá trình giảng dạy. Tuy nhiên, để hoàn thiện hơn, hiệu quả giáo dục

cao hơn, đạt chất lượng giáo dục tốt hơn, tôi rất mong được sự góp ý của các thầy
cô, của các đồng nghiệp và bạn đọc để nội dung đề tài hoàn thiện và phong phú.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Trung, ngày 21 tháng 5 năm 2019

XÁC NHẬN CỦA BGH
HIỆU TRƯỞNG

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
Người viết SKKN

Nguyễn Văn Xuân

Lê Thị Huệ

15


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Lã Nhâm Thìn - Nguyễn Thị Nương, Ôn luyện thi THPT Quốc gia năm 2018,
môn Ngữ văn, Nxb ĐH sư phạm.
[2]. Nguyễn Đức Hùng, Hướng dẫn và minh họa viết đoạn văn nghị luận xã hội
200 từ, Nxb ĐH Quốc gia Hà Nội.
[3]. Nguyễn Văn Lạc, Để làm tốt bài văn nghị luận xã hội, Nxb Giáo dục Việt
Nam.
[4]. Phạm Thị Thu Hiền, Những bài làm văn nghị luận xã hội theo hướng mở và
tích hợp liên môn, Nxb ĐH sư phạm.
[5]. Các đề thi minh họa, đề thi THPT Quốc gia từ năm 2017 đến 2019.

[6]. Nhật kí Đặng thùy Trâm, Nxb Hội nhà văn
[7]. Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc - Từ An Trần Lê Nhân, Cổ học tinh hoa, Nxb
Phương Đông.
[8]. Nhiều tác giả, Hạt giống tâm hồn cho lòng dũng cảm và tình yêu cuộc sống,
Nxb Thành phố Hồ chí Minh.
[9]. Chuyên đề tập huấn thi THPT quốc gia.

16



×