Tải bản đầy đủ (.docx) (69 trang)

Đánh giá kết quả sử dụng vạt trục mạch ngực ngoài mang QNV trong phẫu thuật thu gọn vú phì đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.81 MB, 69 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

NGUYỄN MẠNH CƯỜNG

Chuyên ngành: Phẫu thuật tạo hình
Mã số:

ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC

Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. ...........

HÀ NỘI - 2019

BỘ Y TẾ




BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

NGUYỄN MẠNH CƯỜNG

Chuyên ngành: Phẫu thuật tạo hình
Mã số:

ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC

Người hướng dẫn khoa học:


PGS.TS. ...........

HÀ NỘI - 2019

BỘ Y TẾ


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

BN :
BV :
PTTH:
QNV:
MSBA:
ĐM
ĐMNN

Bệnh nhân
Bệnh viện
Phẫu thuật tạo hình
Quầng núm vú
Mã số bệnh án
Động mạch
Động mạch ngực
ngoài


MỤC LỤC

DANH MỤC BẢNG



DANH MỤC HÌNH


DANH MỤC BIỂU ĐỒ


ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ trước đến nay, vú đóng vai trò rất quan trọng trong đời sống người
phụ nữ và được coi là biếu tượng cho nét đẹp, thiên chức làm mẹ cao quý.
Các chuyên gia tình dục học còn gọi vú là “cơ quan sinh dục thứ hai”.
Vú cũng là cơ quan hay gặp phải những thay đổi bệnh lý, trong đó có
phì đại vú. Phì đại vú là bệnh lý đặc trưng bởi tình trạng tăng thế tích vú trên
mức bình thường do sự phát triến của tuyến vú kèm theo sự thâm nhiễm của
tO chức mỡ. Phì đại vú được thế hiện bởi sự thay đOi hình dạng và thế tích
vú đặc biệt là sự chuyến dịch xuống thấp của phức hợp QNV. Thay đOi này
gây ảnh hưởng đến mọi mặt đời sống của người phụ nữ. Ngoài việc gây mất
cân đối ve tham mỹ, phì đại vú còn là nguyên nhân của các di chứng lâu dài
như các chứng đau cO, vùng ngực và vùng xương đòn do sức nặng ở bầu vú,
trở ngại khi mặc áo, vân động hay những biến đOi ve tư thế [1], [2].
Phì đại tuyến vú cần phải đieu trị đế mang lại cho bệnh nhân chất lượng
cuộc sống tốt hơn. Có rất nhieu phương pháp đieu trị phì đại vú. Điều trị nội
khoa với việc sử dụng hormon, vật lý trị liệu thường không mang lại kết quả
như mong muốn. Phẫu thuật thu gọn vú là phương pháp giải quyết triệt đế
tình trạng phì đại vú [1], [2], [3].
Hơn nửa thế kỷ qua đã có rất nhieu phương pháp phẫu thuật thu gọn vú
nham tạo sự cân đối của hai bầu vú, tạo lại hình dạng bầu vú và chuyến dịch
phức hợp QNV đến vị trí giải phẫu bình thường [4].
Sự thay đOi, phát triến của các phương pháp là ở cách chuyến dịch

phức hợp QNV, bảo tồn hay không bảo tồn QNV trong quá trình chuyến dịch.
Kỹ thuật thu gọn vú phì đại không bảo tồn QNV được thực hiện năm
1922, lần đầu tiên tác giả Thorek mô tả phương pháp thu gọn vú và chuyến
QNV đến vị trí mới như một mảnh ghép da rời [5].


Các kỹ thuật thu gọn vú có bảo tồn QNV được sự chú ý của các phẫu
thuật viên tạo hình nhờ những ưu điếm vượt trội cả ve chức năng và tham mỹ.
Vì vậy những tiến bộ đạt được trong phẫu thuật thu gọn vú cho đến nay chỉ
tập trung theo xu hướng này. Vào năm 1930, Schwartzmann đã đề xuất kỹ
thuật phẫu thuật thu gọn vú phì đại sử dụng vạt có mang QNV đế chuyến dịch
QNV đến vị trí mới [6]. Từ đó đến nay đã có rất nhiều phương pháp phẫu
thuật tạo hình thu gọn vú ra đời với nhiều loại cuống vạt mang đơn vị QNV
khác nhau: Cuống kép dọc, cuống trên, cuống dưới, cuống kép ngoài, cuống
trong cuống ngoài, cuống trên ngoài, cuống trung tâm.
Các vạt mang phức hợp QNV này đều là vạt trung bì, trung bì - tuyến
được cấp máu dưới dạng cuống mạch ngẫu nhiên. Riêng vạt cuống trên ngoài
có thế là loại ngẫu nhiên hay vạt trục mạch.
Từ việc nghiên cứu giải phẫu cấp máu vùng ngực và vú, các phẫu thuật
viên đưa ra kỹ thuật sử dụng vạt trục mạch ngực ngoài. Vạt này được sử dụng
dưới dạng cuống liền hay vạt tự do. Vào những năm 80 của thế kỷ trước, một
số tác giả điến hình là Claude. Le-Quang [7] đề nghị sử dụng vạt ngực ngoài
có mang phức hợp
QNV này dưới dạng vạt tự do trong tạo hình vú. Trên cơ sở đó, kỹ
thuật sử dụng vạt trục mạch ngực ngoài mang phức hợp QNV cuống mạch
liền được thực hiện trong phẫu thuật thu gọn vú phì đại.
Ớ Việt Nam nói chung và tại BV Xanh Pôn nói riêng đã áp dụng nhiều
kỹ thuật thu gọn vú, trong đó kỹ thuật thu gọn vú phì đại sử dụng vạt trục
mạch ngực ngoài mang phức hợp QNV từ năm 1997 đến nay đã được áp
dụng thường xuyên. Tuy nhiên, trong các công trình đã công bố, chưa có một

đánh giá chuyên biệt nào về sức sống của vạt trục mạch ngực ngoài mang
phức hợp QNV trong tạo hình thu gọn vú phì đại.


Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Đanh gia kết quả sử
dụng vạt trục mạch ngực ngoài mang QNV trong phẫu thuật thu gọn vú
phì đại ” với mục tiêu :
1. Đanh gia sức sống của phức hợp QNV trong tạo hình



phì

đại.
2.

Xắc định chỉ định cho kỹ thuật sử dụng vạt trục mạch ngực ở

ngoài trong phẫu thuật thu gọn vú phì đại.


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Sinh lý - bệnh học của vú
1.1.1. Phôi thai học vú
Tuyến vú được coi là tuyến phụ thuộc da, đặc biệt ở động vật có vú
và chỉ phát trien mạnh, đầy đủ ở giống cái đe nuôi con. Nguồn gốc của
tuyến vú là hai dải ngoại bì, chạy theo một đường gọi là đường vú, kéo dài
từ nách đến bẹn. Tuyến vú bắt đầu hình thành từ tuần lễ thứ 6 dưới dạng các
mào bieu bì đi xuống và tiến vào các trung mô ở bên dưới. Các mào này trở

thành các mào vú (mammary ridge, milk ridge) có dạng dây bieu bì dày
hơn và chia nhánh tạo thành m ột cặp, các mào vú chạy theo đường vú kéo
dài từ nách đến bẹn. Các mào vú xuất hiện vào tuần lễ thứ 6, sẽ tạo ra các
nụ vú, sau sinh chỉ tồn tại duy nhất ở vùng ngực, nơi hình thành vú [8], [9].

Hình 1.1. Đường vú
Các nụ vú phân chia cho ra nhiều nụ nhỏ hơn (mầm vú) và phát trien
thành các ống sữa và các nhánh của ống sữa (có khoảng 16 - 25 mầm của
những ống dẫn sữa). Mô liên kết và mô mỡ xung quanh các ống sữa có xuất
nguồn từ trung mô.


Cuối thai kỳ, nơi tuyến vú xuất phát, bieu bì hơi lõm xuống tạo nên
miệng tuyến vú (mammary pit). Tuyến vú ở nam và nữ khá giống nhau lúc
mới sinh. Ớ nữ giới, vú bắt đầu phát trien nhanh khi tới tuOi dây thì và hoàn
tất trong quá trình mang thai và cho con bú [10], [11].
Dị tât bam sinh của tuyến vú được hình thành trong giai đoạn phôi thai,
bao gồm hai loại là dị tât không có vú và bất thường về số lượng vú. Dị tât
không có vú do ngừng phát trien mào vú được bieu hiện trên lâm sàng bang
việc không tồn tại tuyến vú cũng như QNV. Nhiều vú do rối loạn của quá
trình thoái hoá bình thường xuất hiện thêm từ 01 đến 04 cặp vú trên thành
ngực ở một hoặc cả hai bên. Hội chứng Poland bieu hiện bang thieu sản vú
kèm theo thieu sản thành ngực cùng bên [12].
1.1.2. Sự phát trien của vú qua các thời kỳ
- Thời kỳ sơ sinh: Ớ sơ sinh, núm vú phát trien kém và hơi bị lõm

xuống. Ngay sau sinh, vú bé trai và bé gái khá giống nhau, và thường to thêm
sau đó một ít, có the có một ít sữa. Sự tiết sữa nhất thời này là do ảnh hưởng
của nội tiết tố từ người mẹ (nồng độ estrogen cao) trong thai kỳ truyền qua
bánh nhau đến máu của thai nhi, sẽ biến mất trongvài


tuần sau

sinh.

Khi trẻ sinh ra chỉ các ống sữa chính được hình thành, và vúvẫn còntrong tình
trạng chưa phát trien cho tới sau tuOi dây thì [9].
-

Dây thì: Ớ người nữ, các tuyến vú tăng trưởng nhanh chóng trong suốt
thời kỳ dây thì, chủ yếu là mô mỡ và mô liên kết. Sự tăng trưởng của
các ống sữa là do nồng độ estrogen máu tăng. Kích thích đầu tiên đe vú
phát triển là các nội tiết tố buồng trứng, nội tiết tố này sau đó sẽ dẫn
đến sự phát triến của vú. Đáp ứng với estradiol, tế bào biếu mô ống
tuyến tăng sinh và các nhánh ống phát triến. Estrogen, progesterone,
prolactin, insulin, cortisol, thyroxine và nội tiết tăng trưởng cần cho sự
biệt hóa đầy đủ của vú bao gồm cả quá trình tiết sữa.


-

Những thay đoi theo chu kỳ kinh nguyệt: ngay sau khi vú bắt đầu phát
triến, chu kỳ kinh nguyệt cũng được thiết lập và cơ thế người con gái
chuan bị đế sinh sản. Vú ở người trưởng thành đáp ứng với các thay đổi
nồng độ nội tiết tố xảy ra trong chu kỳ kinh nguyệt. Trong giai đoạn
nang noãn, các ống và nhu mô vú tăng sinh. Trong giai đoạn hoàng thế,
sự giãn rộng của các ống, sự gia tăng hoạt động tiết dịch trong ống và
sự phù ne giữa các tiếu thùy dưới ảnh hưởng
dẫn đến


của

progesteron

sự gia tăng thế tích vú. Điều này thay rõ trong chu kỳ

kinh nguyệt, vú căng, đau, nhạy cảm đau,...
-

Thai kỳ và thời kỳ cho con bú: như đã mô tả ở trên, mặc dù vú đã
trưởng thành nhưng vẫn chưa hoạt động cho đến khi có thai, đây là lúc
xảy ra sự biệt hóa hoàn toàn của các tế bào nang tận cùng trong các tế
bào tạo sữa. Vú to ra là một trong những dau hiệu gián tiếp đầu tiên
của có thai, đây là kết quả của sự tăng sinh tuyến. Nồng độ prolactin
tăng từ lúc mang thai 08 tuần cho đến khi thai đủ tháng. Estrogen từ
nhau kích thích tuyến yên sản xuất và giải phóng prolactin.
Vú sẽ không trưởng thành hoàn toàn cho đến khi sinh con và bắt đầu

tiết sữa, vú của phụ nữ chưa sinh đẻ vẫn duy trì mức phát triến ở giai đoạn
đầu cho đến khi mãn kinh.
-

Sự thay đOi của vú trong thời kỳ mãn kinh: ở thời kỳ mãn kinh, mô vú
cũng được nghỉ ngơi do giảm kích thích từ các hormone buồng trứng.
Sau
mãn kinh, mô tuyến teo nhỏ dần và được thay thế bởi mô mỡ [8], [13],
[11].

1.1.3. Đặc điếm giải phẫu của vú
1.1.3.1. Cấu tạo của tuyến vú



Ớ phụ nữ trưởng thành, vú được giới hạn ở phía trên là xương sườn thứ
hai, phía dưới là xương sườn thứ sáu, phía trong là bờ ngoài xương ức, phía
ngoài là đường nách trước ra hai bên. Khi đứng núm vú ngang với khoang
gian sườn thứ bốn. Vú nam trên cân ngực, ở dưới là cơ ngực lớn, trên các cơ
răng trước ở hai bên và được bao quanh bởi lớp nông và sâu của cân dưới da.
Từ nông đến sâu vú được cấu tạo bởi da, nhu mô mỡ, mô tuyến và to chức
liên kết. Tỷ lệ các thành phần này phụ thuộc vào tuOi, tình trạng hormone,
cân nặng của từng cá thể [14], [2], [15].

Hình 1.2. Cấu tạo tuyến vú
1.1.3.2 Hệ thống cấp máu cho vú
* Động mạch:


Hình 1.3. Các nguồn cấp máu chủ yểu cho vú [16]
-

Tuyến vú: Tuyến vú được cấp máu bởi một hệ thống mạch máu rất
phong phú từ bahệ

mạngmạch:

mạng mạch da - tuyến,mạng

mạch trong
tuyến, mạng mạch sau tuyến. Các mạng mạch trên được tạo nên bởi

sáu


nguồn động mạch cấp máu cho vú, cụ the: động mạch vú trong, động mạch
ngực trên, nhánh trước và sau của các động mạch liên sườn (liên sườn 3 - 6),
động mạch cùng vai ngực, động mạch ngực nông, động mạch ngực ngoài và
động mạch ngực ngoài phụ. Trong đó 3 nguồn chính là động mạch vú trong,
động mạch liên sườn và hệ động mạch ngực ngoài.
-

Phức hợp quầng - núm vú: bốn nguồn mạch cung cấp máu cho tuyến
vú bao gồm: nhánh trung tâm, vú trong, vú ngoài và liên sườn, từ đây
các
mạng mạch cho các nhánh thông nối với nhau tạo nên sự cấp máu dồi
dào cho phức hợp quầng - núm vú. Từ mạng mạch sâu, đi theo các ống
tuyến sữa đến cấp máu cho phức hợp quầng - núm vú, và từ mạng


mạch dưới da nam rất nông, dày đặc xung quanh phức hợp QNV [17],
[18].

Hình 1.4. Cấp máu cho phức hợp QNV [19]
* Tĩnh mạch:

Tĩnh mạch dẫn lưu máu cho tuyến vú hoàn toàn không có van và có 03
hệ thống hồi lưu tĩnh mạch là hệ thống nông, sâu và nối tiếp.
+ Hệ thống tĩnh mạch nông: phong phú, nam ngay dưới da, đặc biệt là
phần trên của vú. Hệ thống này được chia làm hai nhóm, nhóm những tĩnh
mạch dẫn lưu máu đo vào các tĩnh mạch nông vùng co ở phía trên, các tĩnh
mạch nông vùng bụng phía dưới.
+ Hệ thống tĩnh mạch sâu: Các tĩnh mạch đi tùy hành với các động mạch,
mỗi động mạch thường có 02 tĩnh mạch đi kèm. Ớ phía ngoài dẫn lưu máu đo

vào tĩnh mạch vú ngoài rồi đo vào tĩnh mạch nách, còn ở phía trong sau khi đó
vào tĩnh mạch vú trong thì đo vào thân tĩnh mạch vô danh. Ngoài ra, còn có các
tĩnh mạch đi kèm với các nhánh xiên của động mạch liên sườn trước đo vào quai
Azygos và sau đó đo vào tĩnh mạch chủ trên [2], [20], [21], [22].
+ Hệ thống tĩnh mạch nối tiếp: nằm gần như vuông góc giữa hai hệ
thống tĩnh mạch nông và sâu, đi qua tuyến chếch từ trong ra ngoài.
* Bạch mạch: gồm 02 hệ bạch huyết

+ Hệ bạch huyết da: ở nông, dày đặc quanh quầng vú tạo thành mạng
bạch huyết quanh quầng vú.
+ Hệ bạch huyết tuyến: ở sâu.


Hai hệ này dẫn bạch huyết ve hai nhóm hạch chủ yếu là nhóm hạch
nách và nhóm hạch ngực trong, sau đó đo ve các hạch dưới đòn. Đôi khi có
đường dẫn lưu bạch huyết trực tiếp từ vú ve các hạch dưới đòn [15].

Hình 1.5. Hệ bạch mạch của vú [21]
1.3.1.4 Thần kinh chi phối cảm giác cho vú
Phần trên tuyến vú do dây thần kinh trên đòn chi phối. Dây này được
tạo thành do sự kết hợp của nhánh thứ ba và thứ bốn của đám rối cO. Phần
giữa vú bao gồm cả phức hợp QNV do các nhánh bì trước của các dây thần
kinh liên sườn từ hai đến bảy chi phối, đặc biệt cảm giác cho núm vú do các
dây liên sườn trước ba, bốn, năm chi phối.
Phần ngoài của vú do các nhánh bì ngoài của các dây thần kinh liên
sườn từ ba đến sáu chi phối, đặc biệt chi phối cho núm vú do nhánh bì ngoài
của dây thần kinh liên sườn thứ bốn [23], [24].


Hình 1.6. Sự phân bố thần kinh [21]

1.1.4. Các bất thường của vú
Các bất thường hay gặp trong sự phát trien của vú được xếp thành hai
nhóm là những bất thường thấy rõ từ khi mới sinh (nhiều núm vú, không vú,
và các bệnh lý bam sinh khác) và những bất thường chỉ thấy rõ ở tuOi dây thì
(thieu sản tuyến vú, vú phì đại, sa trễ vú), nhóm này phO biến hơn [9], [11].
1.1.4.1. Không có vú
Hiếm gặp, có the xảy ra một bên hay hai bên, nguyên nhân có the do
không có mào vú hay mào vú phát trien bất hoàn. Từ lúc sinh ra đã không có
núm vú. Tât không có núm vú thường liên quan đến vẹo cột sống và biến
dạng xương sườn, đặc biệt một số phụ nữ hoàn toàn không có mô tuyến vú
gọi là hội chứng Poland. Hội chứng này không những liên quan đến vú mà
còn liên quan đến cả cơ ngực, xương sườn và trong một số trường hợp còn có
bất thường ở cánh tay [8], [11].J t
1.1.4. Nhiều núm vú, núm vú phụ
- Tạt nhiều núm vú thường gặp hơn tạt không có núm vú. Những núm

vú này có thể xuất hiện bat cứ nơi nào dọc theo đường vú. Khoảng 5 - 10%
tạt đa vú gặp ở phụ nữ có mẹ cũng bị đa vú. Thường các núm vú ở dưới vú và
người phụ nữ không biết là chúng ở đó vì trông giọng những nốt ruồi. Một
biến the của tạt đa vú là thừa mô vú (tuyến vú phụ) không có núm vú và
thường hay gặp ở dưới nách.


Hình 1.7. Tật nhiều vú [ZG]
Hình l.8. Tuyển vú phụ [ZS]
Ngực không phát triển do hai nhóm nguyên nhân chính:
+ Bam sinh: như teo tuyến vú, thiểu sản tuyến vú, rối loạn cân bang nội
tiết sinh dục nữ,... [27].
+ Mắc phải: thiểu sản tuyến vú sau sinh đẻ, do chiếu xạ hoặc dùng hóa
chất, hoặc sau phẫu thuật tim đi đường ngực,...[11], [24].


Hình 1.9. Thiểu sản vú sau sinh [28]

Hình 1.10. Thiểu sản vú sau
xạ trị [29]

1.1.4.3. Vú thể củ
Vú thể củ được đặc trưng bởi chức năng bình thường cũng như sinh lý
học của mô ngực, nhưng hình dạng thuộc giải phẫu không bình thường. Vú
thể củ có thể chỉ bị một bên hoặc hai bên và đặc trưng cO điển bao gồm một
số hoặc toàn bộ bệnh nhân sẽ có triệu chứng như: thiếu da ngực, giảm sản
ngực và tuyến vú, ngực hai bên không đối xứng, ngực hình nón, thoát vị đầu
vú, phức hợp quầng vú lớn bầu vú bị thắt [25].


Hình 1.11. Vú thể củ [ZS]
1.1.4.5. Phì đại vú
Phì đại vú là tình trạng bệnh lý đặc trưng bởi tình trạng tăng the tích
của vú trên mức bình thường, gây ra bởi sự phát trien của tuyến vú kèm theo
sự thâm nhập tO chức mỡ. Tuy nhiên, khái niệm vú bình thường rat khác
nhau theo chủng tộc, địa lý và quan niệm tham mỹ. Theo nhieu nhà nghiên
cứu, vú được coi là bình thường khi the tích vú nam trong khoảng 200 250ml. Khi thể tích vú tăng trên 300ml thì được coi là vú phì đại.
Theo phân loại của Lalardrie [30], phì đại vú được chia làm các mức độ
như sau:
+ Phì đại vừa phải: the tích vú từ 350 - 500ml.
+ Phì đại nhiều: the tích vú từ 500 - 1000 ml.
+ Phì đại rat nhieu: the tích vú từ 1000 - 1500ml.
+ Phì đại khổng lồ: the tích vú lớn hơn 1500ml.
Phì đại vú có the xảy ra ở tuổi dạy thì hay sau thời kỳ chửa đẻ. Tình
trạng vú quá khổ gây cho bệnh nhân những khó chịu tại chỗ như loét nếp vú,

trở ngại khi mặc áo, vạn động, hay những biến đổi ve tư thế (gù do gạp vai đe
cố giau ngực... ) [1].


Hình 1.12. Vú phì đại mức độ khổng lồ [3l]
1.1.4.6. Vú sa trễ
Vú sa trễ không phải là tình trạng bệnh lý, đó chỉ là hâu quả về hình
thái của một số quá trình bệnh lý (vú phì đại) hay quá trình sinh lý (sau chửa
đẻ, mat tính chun giãn của tO chức nâng đỡ, quá trình lão hóa da,... ).
Vú được coi là sa trễ khi vị trí của núm vú di chuyen xuống dưới thap
và vào trong so với vị trí bình thường. Phân độ sa trễ theo Lalardrie và cộng
sự [1], [3], [3G].
+ Độ 1: núm vú hạ thap từ G2 - G5cm.
+ Độ 2: núm vú hạ thap từ G5 - lGcm.
+ Độ 3 : núm vú hạ thap hơn lGcm.

Hình 1.13. Phân độ sa trễ vú [32]

Mối liên quan chặt chẽ giữa da và tố chức tuyến vú quyết định hình thế
vú. Khi có sự biến đối của một trong hai yếu này sẽ dẫn đến tình trạng sa trễ
vú. Có hai loại nguyên nhân gây sa trễ vú:


+ Sa trễ vú do tuyến: teo nhỏ các tuyến vú và có sự thay đối da vùng
vú, QNV sát lồng ngực và hạ thấp xuống phía dưới ở mức độ vừa phải.
+ Sa trễ vú do da: mất tính chun giãn của da và tố chức nâng đỡ (dây
chang Cooper) da vùng vú giãn dài xuống phía dưới, kéo theo sự thay đối vị
trí rõ ràng của núm vú.
1.2. Lịch sử phát triển phẳu thuật thu gọn vú
1.2.1. Lịch sử phẫu thuật thu gọn vú

Paulus Aegina (625 - 690) được coi là người thực hiện sớm nhất phẫu
thuật cắt bỏ vú ở nam giới, nhưng phẫu thuật thu gọn vú ở phụ nữ chỉ được
công nhận vào những năm đầu thế kỷ IX. Trong giai đoạn này, phẫu thuật chỉ
đơn giản là cắt bỏ một phần vú và ít chú ý đến việc tái tạo lại hình dạng tự
nhiên của bầu vú. Đến cuối thế kỷ này, Galliard - Thomas đe xuất đường rạch
da nam ở nếp lan vú đế loại bỏ một phần da và tuyến vú. Czerny sau đó đã
biết cách chuyến QNV đến vị trí mới của bầu vú sau khi cắt bỏ một phần bầu
vú. Đây là một bước quan trọng trong quá trình hình thành kỹ thuật thu gọn
vú ve sau này. Những năm đầu thế kỷ XX, Morestin và Hollander tiến hành
thu gọn vú với đường rạch da và đường đóng da hình chữ L. Năm 1921,
Lexer kết hợp việc chuyến núm vú và cắt bỏ tuyến ở cực dưới bầu vú và
Kraske đã hoàn thiện kỹ thuật này. Axhausen tiến thêm một bước dài trong
hoàn thiện kỹ thuật thu gọn vú bang cách bóc tách dưới da rộng ở vú nham
cắt bỏ một phần tuyến vú, sau đó chuyến núm vú sang vị trí mới và tạo hình
dạng cho bầu vú [33], [2], [34].
1.2.2. Các xu hướng phát triến đường rạch da
1.2.2.1. Kỹ thuật rạch da của Thorek
Thực ra đây là phương pháp không bảo tồn phức hợp QNV. Lần đầu
tiên được Thorek [5] áp dụng vào năm 1922 cho một trường hợp vú phì đại
l ớn, thực chất kỹ thuật bao gồm hai phần: cắt bỏ vú bán phần và ghép
lại phức hợp QNV vào vị trí mới của bầu vú. Kỹ thuật này trước đây
được áp dụng cho những bệnh nhân có vú phì đại khOng lồ và không
the áp dụng được các kỹ thuật có vạt mang QNV. Việc cắt bỏ bán phần


vú được thực hiện theo dạng kim tự tháp hay giống như đường rạch da
dạng mỏ neo. QNV được cắt bỏ như một mảnh da dày toàn bộ, giới
hạn của mảnh ghép được xác định theo đúng kích thước của quầng vú
hay nhỏ hơn và được tái ghép vào vị trí mới trên bầu vú. Chính vì vậy,
kỹ thuật này không bảo tồn được chức năng của vú (cảm giác quầng

vú, khả năng tiết sữa...) và nguy cơ hoại tử mảnh ghép cao.

Hình 1.14. Minh họa kỹ thuật Thorek [35]
1.2.22. Đường rạch da chữ T ngược hay hình mỏ neo (inverted T resection)
Kraske (1923) là người đầu tiên gợi ý đóng vết mO hình chữ T ngược,
ve sau Wise (1956) đã giới thiệu phương pháp vẽ trước mO, nó đã được coi
là cơ sở của các phương pháp đóng vết mo hình chữ T ngược sau này. Đây là
đường rạch da được áp dụng pho biến nhất và thích hợp với những trường
hợp vú phì đại lớn hay sa trễ nhiều. Đường rạch da này gồm hai phần chính,
đường cắt thang đứng đe giảm chiều rộng của bầu vú và đường cắt ngang đe
giảm chiều cao của bầu vú. Các đường rạch da này tương ứng với việc cắt bỏ
một phần da và tuyến vú phía dưới sẽ đem lại hình dạng mới của bầu vú. Sẹo
thu được sau khi cắt bỏ da và tuyến vú có hình dạng một mỏ neo với đường


sẹo quanh quầng vú, sẹo thang đứng ở cực dưới vú và một đường sẹo ngang
nằm trên nếp lằn dưới vú [36, 37], [38], [39].

Hình 1.17. Đường rạch da sẹo hình chữ Tngược [40]
1.2.2.3. Đường rạch da sẹo chữ L hay chữ J
Năm 1974, kỹ thuật B do Regnault đề xuất, trong đó bản chất
của đường rạch da này dựa trên nguyên tắc của đường rạch da chữ T
ngược, nhưng thay vào đó đường rạch da nằm ngang đã được rút ngắn và
đường rạch da ngang nằm phía trong bầu vú được loại bỏ nhằm rút ngắn
chiều dài đường sẹo này. Nhờ khả năng chun giãn da bầu vú và việc sắp
xếp lại tuyến vú sau cắt bỏ, đường sẹo cuối cùng sẽ là chữ L với vú bên trái
hay chữ J ở vú bên phải [41], [42], [32].


Hình 1.18. Đường rạch da sẹo hình chữ J [43]

1.2.2.4. Đường rạch da tròn quanh quầng vú (Round blook):
Benelli đe xuất vào năm 1988. Đường rạch da này thích hợp với vú
sa trễ hơn là vú phì đại. Da xung quanh QNV được cắt bỏ theo hình elip
sao cho đường sẹo cuối cùng sẽ trùng với quầng vú [32].

Hình 1.19. Đường rạch da tròn quanh quầng vú [44]
1.2.2.5. Đường rạch da sẹo dọc (vertical scar):
Kỹ thuật tạo đường sẹo thang, loại bỏ đường sẹo ngang hoàn toàn
nham giảm đến mức tối đa sẹo nam trên nếp lan vú, thực sự được đóng góp
công sức của Arie, Lassus, đặc biệt là Lejour mô tả lần đầu vào năm 1989.
Sau đó vào khoảng 1990, chính tác giả đe nghị thu gọn vú với đường sẹo dọc
kết hợp với hút mỡ [45], [46].

Hình 1.20. Đường rạch da sẹo dọc [40]


1.2.2.6. Đường rạch da nằm ngang:
N ăm 1996, Savaci báo cáo đây là đường rạch da đặc biệt không bao
gồm đường rạch thang đứng và chỉ áp dụng cho trường hợp sử dụng vạt
mang QNV cuống nuôi trên.

Hình 1.21. Đường sẹo ngang [47]
1.2.3. Các xu hướng vạt mang QNV
1.2.3.1. Cuống nuôi kép dọc (vertical bipedicle):
Năm 1972, vạt do McKissock đe xuất được thiết kế bởi vạt nuôi cả trên
và dưới quầng vú. Nguồn cấp máu chủ yếu từ các nhánh của động mạch
ngực trên và động mạch liên sườn. Sức sống của QNV cao hơn và khả năng
dịch chuyến vạt cùng QNV dễ dàng hơn so với cuống nuôi kép ngang. Tuy
nhiên, hiện tượng gập cuống vạt khi chuyến quầng vú tới vị trí mới, không
tạo cho hình thế của bầu vú tự nhiên và dễ bị hoại tử trung tâm vạt.


Hình 1.22. Cuống nuôi kép dọc [48]
1.2.3.2. Cuống nuôi trên (superiorpedicle):
Năm 1961 - 1962 được đe xuất bởi Pitaguy, nguồn cấp máu là động
mạch cùng vai ngực, với ưu điếm là vạt dễ xoay khi di chuyến QNV đến
vị trí mới. Tuy nhiên, vạt này có cuống nuôi trung bì nên khó có thế bảo
tồn


×