Tải bản đầy đủ (.doc) (122 trang)

ĐỊNH HƯỚNG GIÁ TRỊ CỦA SINH VIÊN HỌC VIỆN CẢNH SÁT NHÂN DÂN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (898.36 KB, 122 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------

BÙI QUANG LONG

ĐỊNH HƯỚNG GIÁ TRỊ CỦA SINH VIÊN
HỌC VIỆN CẢNH SÁT NHÂN DÂN

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH TÂM LÝ HỌC

HÀ NỘI - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------

BÙI QUANG LONG

ĐỊNH HƯỚNG GIÁ TRỊ CỦA SINH VIÊN
HỌC VIỆN CẢNH SÁT NHÂN DÂN

Chuyên ngành: Tâm lý học
Mã số: 60 31 04 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS TRƯƠNG THỊ KHÁNH HÀ

HÀ NỘI – 2015




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng
dẫn của PGS.TS. Trương Thị Khánh Hà. Các số liệu và kết quả nêu trong luận văn là
trung thực và chưa được ai công bố trong luận văn, luận án khoa học nào khác.
Hà Nội, ngày tháng năm 2015
Tác giả

Bùi Quang Long


LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian làm việc tích cực và nghiêm túc dưới sự hướng dẫn tận tình
của PGS,TS Trương Thị Khánh Hà. Luận văn thạc sĩ “Định hướng giá trị của sinh
viên học viện Cảnh sát Nhân dân” đã được hoàn thành theo tiến độ.
Lời đầu tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất tới PGS.TS.
Trương Thị Khánh Hà, người đã tận tình chỉ bảo và hướng dẫn tôi trong suốt quá
trình thực hiện luận văn này.
Tôi cũng xin cảm ơn các thầy cô giáo trong Khoa Tâm lý học, các thầy cô giáo
bộ môn đã dạy dỗ và truyền đạt những tri thức quý báu trong suốt những năm qua, để
tôi có thể hoàn thành tốt khóa đào tạo cũng như hoàn thành luận văn của mình.
Với sự nỗ lực và cố gắng cao nhất, ngày hôm nay tôi đã hoàn thành được Luận
văn này, song do thời gian có hạn, trình độ năng lực của bản thân còn nhiều hạn chế
nên Luận văn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Với tinh thần cầu thị, tôi rất mong
nhận được những góp ý, nhận xét của các thầy cô giáo để tôi có thể rút ra những kinh
nghiệm và bài học trong những nghiên cứu sau đạt kết quả tốt hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày tháng


năm 2015

Học viên

Bùi Quang Long


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1
2. Mục đích nghiên cứu
2
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
2
4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3
5. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
3
6. Giả thuyết nghiên cứu
4
7. Phương pháp nghiên cứu
4
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
5
1.1.


Tổng quan các nghiên cứu về định hướng giá trị

5
1.1.1. Các nghiên cứu ở nước ngoài
5
1.1.2. Các nghiên cứu trong nước
1.2.

7
Một số khái niệm cơ bản

11
1.2.1. Giá trị
11


1.2.2. Định hướng giá trị
15
1.2.2.1. Khái niệm
1.2.2.2.

15
Đặc điểm

1.2.2.3.

17
Quá trình hình thành định hướng giá trị


1.2.2.4.

18
Lý thuyết giá trị thúc đẩy của Schwartz

19
1.2.3. Định hướng giá trị của sinh viên học viện Cảnh sát Nhân dân
25
1.2.3.1. Sinh viên học viện Cảnh sát Nhân dân
1.2.3.2.

25
Định hướng giá trị của sinh viên học viện Cảnh sát Nhân dân

30
1.2.4. Một số yếu tố ảnh hưởng đến định hướng giá trị của sinh viên học viện Cảnh
sát Nhân dân
31
Chương 2: TỔ CHỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
35
2.1. Tổ chức nghiên cứu
35
2.2.

Phương pháp nghiên cứu

37
Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN
45
3.1. Thực trạng định hướng giá trị của sinh viên học viện Cảnh sát Nhân dân

45
3.1.1. Những giá trị sinh viên cho là quan trọng nhất hiện nay
45


3.1.2. Thứ bậc ưu tiên các giá trị của sinh viên theo thang đo giá trị của Schwartz
49
3.1.3. So sánh các giá trị của sinh viên CQ và VHVL
57
3.1.4. So sánh các giá trị của sinh viên nông thôn và thành thị
68
3.2. Một số yếu tố ảnh hưởng đến định hướng giá trị của sinh viên học viện
Cảnh sát Nhân dân
77
3.2.1. Thâm niên công tác thực tiễn
77
3.2.2. Thành phần gia đình
79
3.2.3. Mức sống gia đình
83
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
90
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
96
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT

STT

1
2
3
4
5
6
7
8

Danh mục các chữ viết tắt
CQ
VHVL
CAND
CSND
ĐTB
ĐTBC
ANQG
TTATXH

Xin đọc là
Chính quy
Vừa học vừa làm
Công an nhân dân
Cảnh sát nhân dân
Điểm trung bình
Điểm trung bình chung
An ninh quốc gia
Trật tự an toàn xã hội



DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng

Tên

Trang

Bảng 1.

10 giá trị cũ theo lý thuyết của Shalom H. Schwartz (1992)

19

Bảng 3.1.

10 giá trị sắp xếp theo thứ bậc mong muốn của sinh viên

45

Bảng 3.2.

Bảng điểm trung bình và thứ bậc ưu tiên các giá trị

50

Bảng 3.3.

Thứ bậc ưu tiên các giá trị của sinh viên hệ ĐT và VHVL

61


Bảng 3.4.

So sánh những giá trị mong muốn nhất của sinh viên nông thôn
và thành thị

68

Bảng 3.5.

So sánh ĐTB giữa sinh viên thành thị và sinh viên nông thôn

72

Bảng 3.6.

Mối tương quan giữa giá trị quan tâm chăm sóc với các giá trị
khác

74

Bảng 3.7.

Mối tương quan giữa giá trị an ninh xã hội với các giá trị khác

74

Bảng 3.8.

Mối tương quan giữa giá trị an ninh cá nhân với các giá trị khác


75

Bảng 3.9.

Mối tương quan giữa giá trị phổ quát con người với các giá trị
khác

76

Bảng 3.10. Mối tương quan giữa giá trị thành đạt với các giá trị khác

77

Bảng 3.11. Thứ bậc ưu tiên các giá trị qua yếu tố thâm niên công tác

78

Bảng 3.12. ĐTB các giá trị giữa các sinh viên có thành phần gia đình khác
nhau

79

Bảng 3.13. ĐTB các giá trị giữa các sinh viên có mức sống gia đình khác
nhau

83


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ

Tên

Trang

Biểu 1.

Các giá trị cơ bản của Schwartz

7

Biểu 2.

So sánh nhóm giá trị mà sinh viên mà sinh viên mong muốn
nhất giữa sinh viên CQ và VHVL

57

Biểu 3.

So sánh 07 giá trị có thứ bậc ưu tiên cao nhất giữa sinh viên CQ
và VHVL

62


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong giai đoạn hiện nay, cả nước ta đang chuyển mình để mở cửa và hội nhập

một cách toàn diện với các nước trên toàn thế giới. Hội nhập về kinh tế, có sự giao
lưu tiếp biến về văn hóa, các giá trị sống giữa nước ta với các nước trong khu vực và
trên thế giới ngày càng diễn ra mạnh mẽ. Xu thế này đang có những ảnh hưởng tới tất
cả các giai tầng trong xã hội Việt Nam. Đặc biệt với thế hệ trẻ thì xu thế này lại càng
có ảnh hưởng quan trọng. Học sinh, sinh viên là một tầng lớp tri thức, năng động, một
tầng lớp tích cực nhất trong công cuộc đổi mới, giao lưu với các nền văn hóa bên
ngoài. Tuy nhiên, tầng lớp học sinh, sinh viên cũng đang phải đối mặt với nhiều khó
khăn thách thức trong việc lựa chọn chân giá trị của thời đại mới, sự định hướng giá
trị sống, giá trị truyền thống, giá trị gia đình, giá trị thời đại. Bởi vì, bên cạnh những
giá trị tích cực do làn gió hội nhập đem lại thì cũng có những giá trị không phù hợp
cũng có những tác động tiêu cực đến tầng lớp học sinh, sinh viên. Vậy để thích ứng
với xu thế chung, nhưng vẫn đảm bảo sự hài hòa giữa các giá trị truyền thống với giá
trị hiện đại thì định hướng giá trị hiện nay của tầng lớp học sinh, sinh viên là một vấn
đề hết sức cần đáng lưu tâm hiện nay.
Học viện CSND là một trong những trường trọng điểm của Bộ Công an trong
việc đào tạo, huấn luyện các chiến sĩ Cảnh sát phục vụ trực tiếp cho công cuộc xây
dựng, bảo vệ Tổ quốc chống lại những loại tội phạm xâm phạm an ninh, trật tự xã
hội. Sinh viên Học viện CSND cũng chính là nòng cốt, thế hệ kế cận, tiếp bước
những chiến công hiển hách của cha anh trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Nhà
nước xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, việc định hướng giá trị cho sinh viên Học viện CSND
trong giai đoạn hiện nay có ý nghĩa rất quan trọng để các em có thể làm tốt được công
tác chuyên môn của mình và trở thành lực lượng nòng cốt trong việc tuyên truyền,
ngăn chặn, đấu tranh với những giá trị không phù hợp ảnh hưởng đến các giai tầng xã
hội khác, đặc biệt là ở thế hệ trẻ.
Có thể khẳng định rằng, việc tìm hiểu định hướng giá trị qua đó có những biện
pháp giáo dục định hướng giá trị cho sinh viên Học viện CSND là do xuất phát từ yêu
cầu thực tế khách quan của xã hội, yêu cầu về giữ gìn ANQG và đảm bảo TTATXH,

1



phát triển nhân cách người chiến sĩ CAND trong thời kỳ mới. Xây dựng người chiến
sĩ CAND vừa hồng vừa chuyên như lời của chủ tịch Hồ Chí Minh đã huấn thị.
Giá trị quy định chiều hướng, tính chất, sự bộc lộ của hành vi của cá nhân. Giá
trị là cơ sở để cá nhân tự đánh giá và điều chỉnh hành vi ứng xử trong cuộc sống. Vì
thế, sự lựa chọn những giá trị phù hợp hay không phù hợp có ảnh hưởng rất lớn đến
những hành vi hợp chuẩn hay không hợp chuẩn của mỗi cá nhân. Đặc biệt, đối với
những sinh viên Học viện CSND – những người ngày đêm gác cho dân chơi, canh
cho dân ngủ thì lựa chọn những giá trị phù hợp rất quan trọng.
Định hướng giá trị là một vấn đề đã được nghiên cứu từ lâu cả ở trong và
ngoài nước. Các nghiên cứu cũng đã đạt được những kết quả nhất định góp phần nâng
cao vị thế của tâm lý học trong xã hội. Tại Học viện CSND cũng có một số nghiên
cứu về định hướng giá trị của sinh viên. Tuy nhiên, các nghiên cứu chủ yếu tập trung
tìm hiểu định hướng giá trị nghề, động cơ, hứng thú lựa chọn nghề của sinh viên.
Chưa có công trình nghiên cứu nào về định hướng giá trị cơ bản của sinh viên Học
viện Cảnh sát theo khung lý thuyết các giá trị thúc đẩy của Schwartz.
Chính từ những vấn đề thực tiễn và lý luận trên, tôi đã chọn vấn đề“Tìm hiểu
định hướng giá trị của sinh viên học viện Cảnh sát Nhân dân” làm đề tài luận văn
của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu thực trạng định hướng giá trị của sinh viên Học viện CSND,
trên cơ sở đó đưa ra các kiến nghị nhằm giúp Ban Giám Đốc và các phòng chức năng
thực hiện tốt hơn việc giáo dục giá trị cho sinh viên Học viện CSND.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
-

Tổng quan các nghiên cứu về định hướng giá trị của các tác giả trong và

ngoài nước nhằm xây dựng cơ sở lý luận và các khái niệm cơ bản cho đề tài
- Làm rõ thực trạng và một số yếu tố ảnh hưởng đến định hướng giá trị của

sinh viên Học viện CSND dựa trên đánh giá của sinh viên.
- Đề xuất một số kiến nghị với Ban Giám Đốc và các phòng chức năng trong
việc giáo dục định hướng giá trị cho sinh viên Học viện CSND
2


4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Những giá trị mà sinh viên Học viện CSND hướng tới nhiều nhất và hệ giá trị
của sinh viên sắp xếp theo thứ tự ưu tiên.
Khách thể nghiên cứu
300 sinh viên nam đang theo học bậc đào tạo đại học tại Học viện CSND.
Trong đó:
 150 sinh viên năm thứ 2 đang theo học hệ đào tạo chính quy tại Học
viện CSND
 150 sinh viên năm thứ 2 đang theo học hệ đạo tạo vừa học vừa làm tại Học
viện CSND
5. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
5.1.

Giới hạn về địa bàn và khách thể nghiên cứu

Học viện Cảnh sát Nhân dân – Phường Cổ Nhuế 2 – Quận Bắc Từ Liêm –
Thành phố Hà Nội
Chúng tôi lựa chọn khách thể là 300 sinh viên nam đang học tại Học viện
CSND thuộc 2 hệ đào tạo: sinh viên chính quy và sinh viên hệ vừa học vừa làm.
5.2. Giới hạn về nội dung nghiên cứu
Vấn đề định hướng giá trị là một vấn đề rộng, vì vậy trong phạm vi nghiên cứu
chúng tôi chỉ tìm hiểu những giá trị mà sinh viên Học viện CSND hướng tới nhiều
nhất và hệ giá trị của sinh viên sắp xếp theo thứ bậc theo thang đo của Schwartz.

Định hướng giá trị của sinh viên Học viện CSND có thể chịu sự chi phối của
nhiều yếu tố khác nhau. Nghiên cứu những yếu tố ảnh hưởng đến định hướng giá trị
của con người là một vấn đề khó và cần nhiều thời gian tìm hiểu. Nên trong phạm vi
đề tài này chúng tôi chỉ tiến hành so sánh định hướng giá trị của sinh viên dựa trên
các yếu tố như: Thâm niên công tác thực tế; Xuất thân gia đình; Thành phần gia đình;
Mức sống của gia đình để phần nào thấy được các yếu tố có thể có những ảnh hưởng
nhất định đến định hướng giá trị của sinh viên.
3


 Thời gian nghiên cứu
-

Chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài từ tháng 11/2014 đến tháng

10/2015.
6.

Giả thuyết nghiên cứu

6.1. Các giá trị mà sinh viên Học viện Cảnh sát Nhân dân hướng tới cao
nhất là gia đình hạnh phúc; Đất nước vững mạnh; Sức khỏe.
6.2. Trong thang đo giá trị của Schwartz, chúng tôi cho rằng sinh viên Học
viện CSND hướng tới các giá trị an ninh cá nhân, an ninh xã hội, quan tâm chăm sóc
6.3. Có sự khác biệt về định hướng giá trị của sinh viên theo yếu tố thâm
niên công tác
7.

Phương pháp nghiên cứu


7.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu
7.2. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
7.3. Phương pháp thang đo
7.4. Phương pháp phỏng vấn sâu
7.5. Phương pháp xử lý số liệu bằng thống kê toán học

CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
4


1.1.

Tổng quan các nghiên cứu về định hướng giá trị

1.1.1. Các nghiên cứu ở nước ngoài
Nghiên cứu về định hướng giá trị đã có từ khá lâu và được nhiều tác giả, tổ
chức ngoài nước quan tâm và nghiên cứu.
Ngay từ những năm 70 của thế kỷ 20, viện nghiên cứu thanh thiếu niên ở
Đức đã nghiên cứu sự định hướng giá trị của 1000 học sinh phổ thông và 2000 sinh
viên đại học, cho thấy sự khác nhau về định hướng giá trị giữa học sinh trung học và
sinh viên.[48]
Năm 1973, Milton Rokeach đã nghiên cứu các giá trị con người và đề cập đến
các lý thuyết về hệ thống niềm tin. Ông nêu ra sự khác biệt giữa các giá trị và các khái
niệm khác nhau như: nhu cầu, đặc điểm tính cách, sở thích, chuẩn mực xã hội và thái
độ. Ông đã đưa ra mô hình khảo sát Giá trị Rokeach (RSV) để tiến hành đánh giá hệ
thống giá trị của cá nhân. Rokeach cho rằng, mỗi cá nhân có hai hệ thống giá trị là giá
trị đích và giá trị công cụ. Trong đó, giá trị đích là những giá trị mà cá nhân hướng tới
trong cuộc sống; Giá trị công cụ là giá trị cần có để đạt được giá trị đích. [38]
Các tác giả Volkova.N.A, Rưbalko, Saiko…Khi nghiên cứu sự hình thành và
phát triển định hướng giá trị trong cấu trúc tâm lý cá nhân ở từng giai đoạn lứa tuổi đã

cho rằng: Định hướng giá trị là một đặc điểm xuyên suốt trong đời sống cá nhân, mỗi
giai đoạn lứa tuổi diễn ra sự biến đổi nhất định về hệ thống giá trị. Định hướng giá trị
là một trong những yếu tố điều chỉnh hành vi, hoạt động đến các giá trị phù hợp với
các đặc điểm tâm lý riêng biệt ở từng cá nhân. Việc phân tích định tính và định lượng
về định hướng giá trị theo các đặc điểm tâm lý, tính cách và nhận thức ở từng giai
đoạn lứa tuổi là cơ sở tâm lý cần thiết để các nhà sư phạm tiến hành hoạt động giáo
dục có hiệu quả. [16].
Các tác giả Ronald Inglehart, A.G.Zđravomomuxlov, B.I.Đônxôv đã nghiên
cứu định hướng giá trị trong mối tương quan với những biến đổi xã hội – chính trị đã
chỉ ra rằng, ở mỗi một xã hội có một hệ thống giá trị đặc trưng. Khi xã hội có sự
chuyển dịch từ một hình thái này sang một hình thái khác, định hướng giá trị của cá
nhân sẽ có những chuyển dịch nhất định. Những nghiên cứu gần đây đã cho thấy về
sự tồn tại của những mô hình biến đổi xã hội (sự biến đổi giá trị dẫn đến sự biến đổi
5


thái độ và hành vi chính trị) theo hướng từ những giá trị truyền thống sang những giá
trị thế tục – duy lý và từ các giá trị sống còn sang các giá trị biểu đạt [37. Tr 10]; rõ
nhất là xu hướng chuyển dịch từ “tập thể” sang “cá thể”, tán thành mạnh mẽ các giá
trị chung của thế giới, hưởng ứng đường lối xây dựng xã hội hài hòa (Trung Quốc); từ
chủ nghĩa tập thể sang chủ nghĩa cá thể (Hàn Quốc), quan niệm về lao động được
nhấn mạnh trong cuộc sống của con người, sự phát triển con người… [21. Tr 236]
Nghiên cứu về định hướng giá trị của nhóm tác giả V.I.Ginijetsinxki,
R.V.Alisanskenje, L.E.Komarova, N.A.Suleimanova, S.Kitayama nghiên cứu vai trò
của định hướng giá trị đối với quá trình hình thành và phát triển các quan hệ xã hội
của nhóm đã chỉ ra rằng: Định hướng giá trị là một trong những yếu tố quan trọng
trong quá trình hình thành và phát triển các mối quan hệ của nhóm, đây là một nhân
tố để đánh giá sự phát triển của nhóm. Định hướng giá trị điều chỉnh quan hệ của các
thành viên trong nhóm, phản ánh nhu cầu tiếp thu các quy tắc, chuẩn mực nhóm, khả
năng hòa nhập và địa vị của từng cá nhân trong nhóm. Và nhóm là nơi duy trì hoặc

phá vỡ định hướng giá trị. [37]
Schwartz (1992) đã sử dụng thang đo đa chiều để kiểm tra mối tương quan
của các giá trị qua những nền văn hóa khác nhau. Ông đưa ra 10 giá trị đích là: Quyền
lực; thành đạt; chủ nghĩa khoái lạc; năng động; tự quyết định; tính phổ quát; lòng
nhân từ; truyền thống; đúng mực; an ninh.
Mười giá trị này có quan hệ qua lại với nhau tạo thành một cấu trúc hoàn
chỉnh, trong đó mỗi giá trị tương quan thuận với giá trị liền kề, và tương quan nghịch
với giá trị đối diện trong vòng tròn. Cơ sở lý luận cho nhận định về các mối quan hệ
nêu trên nằm ở chỗ, người ta có thể dễ dàng theo đuổi các giá trị liền kề trong vòng
tròn với cùng một hành động, trong khi không thể đồng thời theo đuổi các giá trị nằm
đối diện trong vòng tròn. Tuy nhiên theo Schwartzm con người cũng có thể theo đuổi
cùng lúc những giá trị nằm đối diện trong vòng tròn trong những hoàn cảnh đặc biệt.
Cụ thể xem biểu đồ 1:

6


Biểu đồ 1: Các giá trị cơ bản của Schwartz

(Chú thích: Quyền lực (PO), Thành đạt (AC), Hưởng thụ (HE), Năng động, sáng
tạo (ST), Tự quyết định (SD), Giá trị phổ quát (UN), Lòng nhân từ (BE), Truyền thống
(TD), Đúng mực (CO), An ninh (SE)).(Dẫn theo Trương Thị Khánh Hà, 2013) [17]
Tóm lại, các công trình nghiên cứu ở nước ngoài đã được thực hiện từ khá lâu,
trong đó đặc biệt nghiên cứu giá trị và định hướng giá trị của thanh niên. Các nghiên
cứu này đã xây dựng được các bộ công cụ để đo đạc, kiểm chứng cho nghiên cứu
thực tế. Trong đó, đặc biệt là nghiên cứu của Schwartz đã được kiểm chứng qua nhiều
nền văn hóa khác nhau và đạt được độ tin cậy cao.
1.1.2. Các nghiên cứu trong nước
Đề tài nghiên cứu cấp bộ mã số B98 – 49 – 57 (1998 – 2000): “Xác định
mức độ tác động định hướng của một số giá trị đối với hoạt động ở học sinh THPT

thuộc hai thành phố Hà Nội và Hải Phòng” do trung tâm nghiên cứu tâm lý học –
sinh học lứa tuổi thực hiện. Nghiên cứu này đã chỉ ra mức độ tác động định hướng
của một số giá trị theo nhóm giá trị vật chất và giá trị tinh thần đối với hoạt động học
tập và lựa chọn nghề nghiệp của học sinh THPT [11]
Các tác giả: Đào Duy Anh, Trần Văn Giàu, Trần Ngọc Thêm, Phan Huy Lê…
đã phân tích sâu sắc sự vận động của các giá trị truyền thống qua từng giai đoạn phát
triển lịch sử của Việt Nam dưới góc độ văn hóa, từ đó đi đến xây dựng hệ giá trị đặc

7


trưng của con người Việt Nam, văn hóa Việt Nam nhằm tìm kiếm giải pháp cho mối
quan hệ giữa truyền thống và hiện đại. [25]
Nhóm tác giả: Đặng Quang Thành, Chế Anh (2000), Huỳnh Khái Vinh
(2001), Ngô Văn Giá (2006), Hồ Sĩ Quý (2006), Nguyễn Duy Bắc (2008) trên cơ sở
nghiên cứu lối sống hiện nay ở các đô thị Việt nam đã chỉ ra những biến đổi giá trị
văn hóa truyền thống với sự biến đổi về lối sống dưới sự ảnh hưởng của đô thị hóa.
Trên cơ sở nghiên cứu các tác giả đã đưa ra các giải pháp cho việc giải quyết các vấn
đề như: lối sống, đạo đức, chuẩn mực giá trị xã hội, mối quan hệ giữa lối sống, đạo
đức với phát triển văn hóa con người, sự bất cập giữa lý luận và thực tiễn xã hội, mâu
thuẫn giữa truyền thống và hiện đại, giữa lý trí và tình cảm… [36]
Đề tài KX.07.10 do tác giả Thái Duy Tuyên là chủ nhiệm mang tên “Nghiên
cứu con người Việt Nam trong kinh tế thị trường: các quan điểm về phương pháp tiếp
cận” Đề tài đã điều tra 7 nhóm xã hội gồm: học sinh, sinh viên, thanh niên, người
nông thôn, công nhân, viên chức, cán bộ khoa học kỹ thuật tuổi từ 15 đến 45 trên
khắp cả nước với tổng số khách thể lên đến gần 5000. Đề tài đã chỉ ra vấn đề giáo
dục, niềm tin cho thế hệ trẻ có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong thời kỳ đổi mới kinh
tế đất nước. [42]
Trong cuốn “Về phát triển văn hoá và xây dựng con người trong thời kỳ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá” của tác giả Phạm Minh Hạc và Nguyễn Khoa Điềm

đã đề cập đến thực trạng đạo đức, lối sống, tư tưởng chính trị của thanh niên hiện nay.
Các tác giả đã sử dụng số liệu của một cuộc khảo sát xã hội học về “Lối sống, đạo
đức và chuẩn giá trị xã hội mới”. Tại đây, các tác giả đã đi sâu vào phân tích vai trò
của các yếu tố như: lối sống, đạo đức, các chuẩn mực giá trị và các biểu hiện của các
yếu tố đó trong thanh niên hiện nay thông qua thái độ của thanh niên với một số giá
trị cơ bản như: sự tương thân tương ái, giữ chữ tín, yêu lao động, tự hào về truyền
thống dân tộc. [15]
Đề tài mã số KX - 07 - 04 do Nguyễn Quang Uẩn làm chủ nhiệm, nghiên
cứu: “Giá trị - Định hướng giá trị nhân cách và giáo dục giá trị”. Dựa trên những giá
trị được người Việt Nam quan tâm, các tác giả đã chỉ ra xu hướng phát triển nhân
cách người Việt nam trong thời kỳ đổi mới. [49]. Đề tài nhấn mạnh vai trò đặc biệt
của sự giáo dục gia đình đối với định hướng giá trị của con người. Nghiên cứu khẳng
8


định “ trong xã hội kinh tế thị trường, gia đình không chỉ là một đơn vị sản xuất kinh
tế đơn thuần mà gia đình còn là chỗ dựa cả về vật chất và tinh thần của mỗi cá nhân.
Tình nghĩa gia đình, họ hàng, dòng họ được củng cố, tình thương, lòng nhân đạo, từ
thiện là xu thế phát triển để chống chọi lại với tính tàn nhẫn trong cạnh tranh có thể
có của cơ chế thị trường”. [49]
Kết quả nghiên cứu “giá trị và định hướng giá trị” được đăng trên tạp chí
Nghiên cứu giáo dục số 12 năm 1992 của tác giả Lê Đức Phúc đã chỉ ra: sự phấn đấu
đạt được những yêu cầu của xã hội hiện đại về học vấn phổ thông, tri thức nghề
nghiệp và khả năng phát triển liên tục, thành đạt dưới ảnh hưởng của cơ chế thị
trường… là những biểu hiện của định hướng giá trị của thế hệ trẻ. [34]
Trong bài viết của tác giả Lã Thị Thu Thủy đã bàn luận về thực trạng việc
làm, thu nhập của người dân, định hướng giá trị việc làm của họ và mối tương quan
giữa định hướng giá trị việc làm với một số đặc điểm cá nhân như: giới tính, học vấn,
mức độ hài lòng với công việc trong cuộc sống. Bài viết đã chỉ ra rằng: định hướng
giá trị việc làm của người dân một số vùng được khảo sát chưa hướng tới sự năng

động trong nghề nghiệp theo yêu cầu của phát triển đô thị. Những giá trị ổn định, an
nhàn, gần nhà dù thu nhập thấp vẫn được đa số người dân lựa chọn. [45].


Các nghiên cứu về giá trị và định hướng giá trị của con người Việt

Nam trong thời kỳ đổi mới, các công trình nghiên cứu tập trung chủ yếu đến định
hướng giá trị của các nhóm xã hội khác nhau. Các nghiên cứu này chỉ ra những điểm
khác biệt trong định hướng giá trị của các tầng lớp trong xã hội; sự khác biệt về thứ
bậc các giá trị trong định hướng giá trị của các cặp vợ chồng trẻ giữa các nhóm trí
thức, viên chức và công nhân [47]; Sự khác biệt về định hướng giá trị giữa các nhóm
sinh viên, học sinh, thanh niên nông thôn, công nhân viên chức, cán bộ khoa học kỹ
thuật, lực lượng vũ trang và các nhà doanh nghiệp; sự khác biệt về giá trị giữa các
nhóm xã hội thanh niên, trung niên và người già chính là cơ sở hình thành những
nguyên tắc sống khác nhau giữa các thế hệ; sự khác biệt trong hệ thống định hướng
giá trị về chất lượng cuộc sống gia đình của nữ tri thức Việt Nam theo độ tuổi, theo
lĩnh vực khoa học. Bên cạnh sự chỉ ra khác biệt trong định hướng giá trị thì nghiên
cứu này còn chỉ ra sự biến đổi trong định hướng giá trị của các tầng lớp cư dân trong
quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Sự biến động phức tạp của một số giá trị trong
9


nhân cách con người dưới ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường và quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế được tác giả Phạm Minh Hạc (2010) đề cập theo 5 hướng biến động
với 5 xu hướng mâu thuẫn chủ yếu là: 1. Giá trị vật chất – Giá trị tinh thần; 2. Lợi ích
xã hội – lợi ích cá nhân; 3. Lợi ích lâu dài – Lợi ích trước mắt; 4. Tâm lý bao cấp –
Tâm lý bươn trải; 5. Tâm lý cào bằng – Tâm lý phân hóa. [21]
Các nghiên cứu về định hướng giá trị của thanh niên Việt Nam được thực
hiện từ năm 1990. Các nghiên cứu này chỉ ra cho thấy vấn đề định hướng giá trị của
thanh niên mới chỉ được đề cập ở một mức độ chung nhất trên một số khía cạnh cơ

bản của định hướng giá trị cuộc sống như các vấn đề niềm tin, lý tưởng, sự quan tâm,
hứng thú, thái độ chính trị, động cơ và thái độ nghề nghiệp, hệ thống thái độ nhân
cách… sự khác biệt trong định hướng giá trị của thanh niên thuộc nhiều tầng lớp
trong xã hội, sự biến đổi về định hướng giá trị của thanh niên trong điều kiện kinh tế
thị trường, ảnh hưởng của quá trình biến đổi kinh tế - chính trị trong và ngoài nước
đối với nhu cầu, lợi ích và định hướng giá trị của thanh niên sinh viên. [16]


Đỗ Long (1999), Đặng Cảnh Khanh (2006), Đỗ Ngọc Hà (2006) đã

nghiên cứu chuyên sâu về định hướng giá trị của thanh niên và đưa ra những cái nhìn
khá đầy đủ về vai trò cũng như những thay đổi về lối sống và định hướng giá trị của
thanh niên trong điều kiện mới. Thanh niên bao giờ cũng là lực lượng đột phá trong
một xã hội trì trệ, là những gì biến động nhiều nhất trong một xã hội đang biến động,
sự phát triển của một xã hội được đo bằng sự phát triển của thanh niên và sự sáng tạo
của thanh niên. Điểm khác biệt giữa định hướng giá trị của thế hệ trẻ Việt Nam với hệ
giá trị truyền thống là tính thiết thực trong định hướng giá trị của thanh niên không
chỉ đảm bảo về vật chất mà cả những tiến bộ về tinh thần. Vấn đề học vấn, nghề
nghiệp, tự do cá nhân, ít lệ thuộc vào gia đình… là những vấn đề được thế hệ thanh
niên coi trọng, thanh niên có xu hướng đề cao các giá trị tinh thần hơn các giá trị vật
chất. Trong hôn nhân thì thanh niên đề cao gia đình cá nhân hơn là gia đình chung và
sống độc lập khỏi gia đình chung. [28]
Qua sự liệt kê và phân tích một số hướng nghiên cứu về định hướng giá trị ở
trên chúng tôi thấy rằng
-

Định hướng giá trị là một vấn đề đã thu hút được sự quan tâm của nhiều

nhà nghiên cứu trong và ngoài nước với các hướng nghiên cứu khác nhau trên nhiều
10



lĩnh vực khác nhau. Tuy nhiên có thể thấy rằng, các nghiên cứu tập trung phản ánh
ảnh hưởng của định hướng giá trị đến sự hình thành và phát triển nhân cách, đồng
thời chỉ ra sự vận động không ngừng của hệ giá trị và định hướng giá trị trong cộng
đồng xã hội.
-

Thanh niên nói chung và sinh viên nói riêng là đối tượng được quan tâm

nhiều nhất trong các nghiên cứu về định hướng giá trị. Sự kế thừa những giá trị
truyền thống của cha ông, và sáng tạo những giá trị mới đã tạo nên những đặc trưng
trong định hướng giá trị của sinh viên trong mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau.
-

Giáo dục giá trị là một nhân tố quan trọng trong việc thúc đẩy quá trình

định hướng giá trị của thanh niên, sinh viên. Qua đó thúc đẩy sự phát triển của xã
hội. Ở nhiều nước trên thế giới, vấn đề giáo dục giá trị được chính phủ đặc biệt quan
tâm và coi đó là chính sách sống còn của quốc gia. Ở nước ta hiện nay, vấn đề giáo
dục giá trị cũng đã và đang phát triển, tuy nhiên còn nhiều tiềm năng chưa được khai
thác và sự nhận thức của mỗi thanh niên trong việc giáo dục định hướng giá trị còn
chưa cao.
1.2.

Một số khái niệm cơ bản

1.2.1. Giá trị
Giá trị là một phạm trù được nhắc đến trong nhiều ngành khoa học khác nhau
như: Đạo đức học; Xã hội học; Kinh tế; Tâm lý học… Mỗi ngành khoa học nghiên cứu

giá trị ở những khía cạnh khác nhau như sự hình thành, sự tồn tại, nội dung và điều
kiện để hình thành. Nhưng tựu chung lại, khi nhắc đến giá trị thì người ta thường sử
dụng hai thuật ngữ tiếng Anh là “value” - giá trị, ý nghĩa, và “worth” - vừa có nghĩa là
giá trị, giá cả, ý nghĩa, vừa có nghĩa là phẩm giá, phẩm chất. Tuy nhiên, trong các tài
liệu hiện nay thuật ngữ “ value” được sử dụng phổ biến hơn thuật ngữ “worth”.


Theo từ điển Bách khoa Toàn Thư Xô Viết, “giá trị là sự khẳng định

hoặc phủ định ý nghĩa của các đối tượng thuộc thế giới xung quanh đối với con
người, giai cấp, nhóm hoặc toàn bộ xã hội nói chung. Giá trị được xác định không
phải bởi bản thân các thuộc tính tự nhiên, mà là bởi tính chất cuốn hút của các thuộc
tính ấy vào phạm vi hoạt động sống của con người, phạm vi hứng thú và nhu cầu, các
mối quan hệ xã hội, các chuẩn mực và phương thức đánh giá ý nghĩa nói trên được
11


biểu hiện trong các nguyên tắc và chuẩn mực đạo đức, trong lý tưởng, tâm thế và
mục đích” [22].


Từ điển Tiếng Việt (Nxb Khoa học xã hội), giá trị là: cái mà con người

dùng làm cơ cở để xem xét một vật có lợi ích đến mức nào đối với con người; cái mà
con người dựa vào dùng để xem xét một người đáng quý đến mức nào về mặt đạo
đức, trí tuệ, tài năng; những quan niệm và thực tại về cái đẹp, sự thật, điều thiện của
xã hội. [33]
Trong mỗi ngành khoa học khái niệm “giá trị” cũng được hiểu theo những
cách khác nhau. Xin nêu ra một vài cách hiểu về khái niệm “giá trị” như sau:



Theo kinh tế học, khái niệm giá trị luôn gắn liền với hàng hóa, giá cả và

sản xuất hàng hóa. Phía sau nó là sức lao động, giá trị lao động của con người làm ra
hàng hoá. C.Mác từng viết: “Lao động có một sức sản xuất đặc biệt, hoạt động của
người làm ra là một lao động được nhân lên cấp số nhân, hay là trong một khoảng
thời gian như nhau, nó tạo ra một giá trị cao hơn so với một giá trị trung bình cùng
loại” [48, Tr.50]. Giá trị sức mạnh của vật chất này khống chế những vật chất khác
khi trao đổi. Để bộc lộ giá trị, vật phẩm phải có ích lợi, nghĩa là có khả năng thỏa mãn
nhu cầu, lòng ham muốn của con người. Do vậy mà khi phân tích, “giá trị” là vị trí
tương đối của hàng hoá trong trật tự ưu tiên, vị trí của nó ngày càng cao thì giá trị của
nó ngày càng lớn.


Trong đạo đức học giá trị luôn gắn liền với những khái niệm trung tâm

như: cái thiện, cái ác, công bằng, bình đẳng, bác ái bởi vì khái niệm giá trị thuộc
phạm vi đời sống đạo đức của con người, các quan hệ xã hội và quá trình hình thành
các chuẩn mực, quy tắc đạo đức của xã hội [43, Tr.19].


Dưới góc độ xã hội học, giá trị được quan tâm ở nội dung, nguyên nhân,

điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể trong quá trình hình thành hệ thống giá trị nhất định
của một xã hội. [50, Tr.74]. Nhà xã hội học Mỹ H.Fichter cho rằng giá trị là “Tất cả
cái gì có lợi, đáng ham chuộng, đáng kính phục đối với cá nhân hoặc xã hội đều có
một giá trị” [14, Tr.175].


Trong tâm lý học

12


-

Tâm lý học xã hội nghiên cứu giá trị và định hướng giá trị trong cộng

đồng, đồng thời giải thích vai trò của chúng trong sự hình thành và phát triển của các
hiện tượng tâm lý xã hội như tâm lý dân tộc, nhu cầu, thị hiếu, tập quán, lối sống của
các nhóm xã hội.
-

Tâm lý học hoạt động đã xác định “giá trị là cái được chủ thể đánh giá

thừa nhận trên cơ sở mối quan hệ với sự vật, hiện tượng đó”. Các nhà Tâm lý học
nghiên cứu khái niệm giá trị nhằm mục đích tìm hiểu hành vi, hoạt động của con
người và dự báo phát triển nhân cách. Trong đó chuyên ngành Tâm lý học nhân cách
đề cập đến giá trị như là một bộ phận cấu thành nên tâm lý – nhân cách con người. Có
thể nói giá trị là một phạm trù không thể thiếu được khi đề cập đến vấn đề nhân cách:
Hoạt động – Giao tiếp – Giá trị - Nhân cách” [3, Tr.261].
-

Theo Schwartz (1992) cho rằng giá trị là những nguyên tắc dẫn đường

trong cuộc sống hoặc là những mục tiêu tổng thể quy định hành động của con người. [38]
-

Theo tác giả Thái Duy Tuyên, giá trị là cái đáng quý, cái cần thiết, có

ích lợi, có ý nghĩa, thỏa mãn những nhu cầu vật chất và tinh thần của con người, của

giai cấp, nhóm, xã hội nói chung. Giá trị là một phạm trù lịch sử, thay đổi theo thời
gian, là một phạm trù xã hội, phụ thuộc vào tính chất của dân tộc, tôn giáo, cộng
đồng. [42, Tr.106]
-

Theo tác giả Phạm Minh Hạc: “Giá trị là tính có nghĩa tích cực, đáng

quý, có ích của các đối tượng với các chủ thể” [19, Tr.301].
-

Theo Trần Trọng Thủy: “ giá trị là một hiện tượng xã hội điển hình, nó

biểu thị các sự vật, hiện tượng, các thuộc tính và quan hệ của hiện thực, các chuẩn
mực, mục đích lý tưởng các hiện tượng của tự nhiên và xã hội được loài người tạo ra
nhưng đều phục vụ cho sự tiến bộ của xã hội và phát triển của con người” [44, Tr.11]
-

Theo Nguyễn Quang Uẩn, Mạc Văn Trang, Nguyễn Thạc lại cho rằng:

cần phải hiểu khái niệm giá trị trong mối quan hệ với các thuật ngữ liên quan như nhu
cầu, sở thích, động cơ … Song “giá trị không đồng nhất với nhu cầu … các giá trị
không phải là những động cơ … giá trị là những cái cần và có ích cho chủ thể” [49,
Tr. 56-57].

13


-

Tác giả Lê Đức Phúc nêu: “ giá trị là cái có ý nghĩa cho tập thể, xã hội


và cá nhân, phản ánh mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể được đánh giá xuất phát
từ những điều kiện lịch sử xã hội thực tế và phụ thuộc vào trình độ phát triển nhân
cách. Khi đã được nhận thức, đánh giá, lựa chọn, giá trị trở thành động lực thúc đẩy
con người theo một xu hướng nhất định” [34].
Qua tìm hiểu các khái niệm về giá trị của các tác giả trong và ngoài nước,
chúng ta thấy rằng giá trị là một khái niệm hết sức rộng lớn và được sử dụng phổ biến
trong rất nhiều ngành khoa học khác nhau. Tuy nhiên, để phục vụ cho đề tài nghiên
cứu chúng tôi thấy rằng quan điểm về giá trị của Schwartz là phù hợp hơn cả. Trên cơ
sở tham khảo quan điểm của Schwartz chúng tôi đưa ra khái niệm về giá trị như sau:
“Giá trị là những gì chủ thể cho là quan trọng, cần thiết hoặc có ý nghĩa đối
với cuộc sống của họ.”
Vai trò của giá trị
Qua tìm hiểu các nghiên cứu về giá trị chúng ta thấy giá trị có những vai trò sau:
 Giá trị là cái mà mỗi cá nhân đang mong muốn vươn tới, chiếm lĩnh để
thỏa mãn các nhu cầu của mình, vì vậy giá trị có vai trò định hướng, điều khiển, điều
chỉnh hoạt động của cá nhân. Giá trị như những quy tắc, chuẩn mực, luật lệ để điều
chỉnh hoạt động của cá nhân, đồng thời nó cũng là động lực thúc đẩy hoạt động của
cá nhân để đạt được mục tiêu đã đặt ra.
 Giá trị là cơ sở để đánh giá hành vi, thái độ của cá nhân ở những mặt: đúng,
sai; phù hợp hay không phù hợp…Sự ổn định của giá trị xã hội tạo nên sự thống nhất
về tâm lý, đạo đức, chuẩn mực của cá nhân trong cộng đồng. Ngược lại, nếu giá trị
luôn biến đổi (do chế độ chính trị, ảnh hưởng kinh tế…) thì sẽ gây ra những khủng
hoảng xã hội và để lại những thiệt hại nhất định cho xã hội.
 Đối với sự hình thành, phát triển nhân cách của cá nhân, giá trị là cơ sở cho
xu hướng để hình thành nhân cách. Khởi nguồn từ sự định hướng giá trị cho bản thân,
cá nhân hình thành được những lập trường, tư tưởng, xu hướng để phát triển nhân
cách của mình. Bên cạch đó, cá nhân cũng có sự so sánh, phê phán, lựa chọn những
giá trị phù hợp với bản thân, với chuẩn mực của xã hội. Và giá trị trở thành một cấu
14



trúc của nhân cách khi các giá trị này được nhận thức một cách rõ ràng, và cá nhân có
ý thức thực hiện nó.
Tóm lại, giá trị có vai trò rất quan trọng trong sự hình thành và phát triển nhân
cách của cá nhân với hai vai trò cơ bản: Một là, đó là cơ sở để cá nhân so sánh, đánh
giá các hành vi của mình có phù hợp với chuẩn mực xã hội; Hai là, giá trị thúc đẩy
hành vi, hoạt động của cá nhân, định hướng sự phát triển nhân cách của cá nhân.
1.2.2. Định hướng giá trị
1.2.2.1.

Khái niệm

a. Quan điểm của một số tác giả nước ngoài
Theo cách hiểu thông thường, định hướng có nghĩa là sự chọn lựa, xác định
cho bản thân về một vấn đề nào đó có thể là: hành vi, tình cảm, nhận thức, hoạt
động… mà cá nhân cho rằng phù hợp với mình. Theo cách hiểu này thì “định hướng”
có liên quan chặt chẽ với “xu hướng” của Tâm lý học
 Theo từ điển bách khoa toàn thư Xô Viết: “Hệ thống định hướng giá trị tạo
thành nội dung xu hướng của nhân cách và là cơ sở bên trong các mối quan hệ giữa
cá nhân với thực tại” [49, Tr.66]. Hay nói cách khác, định hướng giá trị là cơ sở tư
tưởng, chính trị, đạo đức, thẩm mỹ, giúp chủ thể đánh giá thực tại xung quanh và định
hướng trong thực tại đó. Định hướng giá trị hình thành thông qua chiếm lĩnh kinh
nghiệm xã hội và thể hiện trong các mục đích tư tưởng, chính kiến, và nhu cầu của
nhân cách. Trong cấu trúc hoạt động của con người, định hướng giá trị gắn liền với
các đặc điểm nhận thức và ý chí của nhân cách. Hệ thống định hướng giá trị tạo thành
nội dung xu hướng của nhân cách và là cơ sở bên trong các mối quan hệ giữa cá nhân
với thực tại. Sự phát triển định hướng giá trị là dấu hiệu của sự chín muồi nhân cách,
là chỉ tiêu đo đạc tính xã hội của nhân cách
 Trong cuốn “Từ điển Tâm lý học” của Liên Xô do A.V.Petrovski và

M.G.Iarosevski chủ biên đã nêu ra khái niệm định hướng giá trị như sau: “định hướng
giá trị là phương thức chủ thể sử dụng để phân biệt các sự vật theo ý nghĩa của chúng
đối với chính mình, từ đó hình thành nội dung cơ bản của xu hướng, động cơ hoạt
động”.[31]
15


×