Tải bản đầy đủ (.docx) (79 trang)

ĐỊNH HƯỚNG SƯ PHẠM CỦA SINH VIÊN KHOA TÂM LÝ GIÁO DỤC TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (426.39 KB, 79 trang )

LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành nhất cho phép em được gửi lời cảm ơn tới các
thầy cô giáo trong khoa Tâm lý giáo dục, trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã
nhiệt tình giúp đỡ và đóng góp những ý kiến quý báu cho em trong quá trình
thực hiện khóa luận tốt nghiệp.
Em xin được cảm ơn thầy hướng dẫn TS.Hoàng Trung Học đã tận tình
chỉ bảo, giúp đỡ và động viên em trong suốt quá trình nghiên cứu đề tài.
Cảm ơn các bạn, các em sinh viên trong khoa Tâm lý giáo dục, đã nhiệt
tình cung cấp các thông tin cần thiết trong quá trình tiến hành khảo sát.
Em xin cảm ơn các chị trong cộng đoàn Saint Paul Hàng Bột đã ủng hộ,
giúp đỡ em rất nhiều trong suốt quá trình làm khóa luận.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng để thực hiện đề tài một cách hoàn chỉnh
nhất, song do thời gian cũng như hạn chế về kiến thức và kinh nghiệm nên
không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp
quý báu của quý thầy cô và các bạn!
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 5 tháng 04 năm 2014
Sinh viên
Nguyễn Thị Ngọc Anh
DANH MỤC VIẾT TẮT
ĐHSP Định hướng sư phạm
TLGD Tâm lý giáo dục
GVCN Giáo viên chủ nhiệm
NT Nhà trường
HĐNK Hoạt động ngoại khóa
GV Giáo viên
NTPT Nhà trường phổ thông
SPTL Sư phạm tâm lý
GSTT Giáo sinh thực tập
TN Thiếu niên
ĐTN Đoàn thanh niên


PTTT Phương tiện truyền thông
KNS Kĩ năng sống
GT Giá trị
ĐHN Định hướng nghề
NCKH Nghiên cứu khoa học
VNC Viện nghiên cứu
ĐH Đại học
CĐ Cao đẳng
TC Trung cấp
CV Công việc
KHHT Kế hoạch học tập
MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC BẢNG
Trang
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Trang
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thế kỉ XXI, trong thời đại của khoa học công nghệ, kinh tế hàng hóa
và kinh tế thị trường các ngành nghề trong xã hội cũng trở nên đa dạng và có
nhiều biến đổi. Sự đa dạng của thế giới nghề nghiệp và các chuyên ngành
đào tạo đem lại cho người lao động nhiều cơ hội lựa chọn nghề nghiệp.
Mặc dù hướng nghiệp và định hướng nghề có vai trò quan trọng đối
với việc chọn nghề, chiếm lĩnh nghề của học sinh, nhưng hiện nay tính hiệu
quả của những hoạt động này vẫn còn chưa đạt được kết quả như mong
muốn. Thị trường lao động luôn biến đổi, ngành nghề đa dạng song lựa chọn
nghề sao cho đúng là một vấn đề phức tạp, không phải học sinh nào cũng
làm được. Ngay cả sinh viên khi đã đỗ vào các trường đại học, cao đẳng
nhưng vẫn không có được nhận thức và định hướng đúng trong ngành nghề

của mình. Các em vẫn bị lung lay, lo lắng về ngành học, nơi làm việc sau khi
ra trường… Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình học tập, lĩnh hội
nghề nghiệp. Hơn nữa thực trạng thất nghiệp, làm trái ngành trái nghề khá
phổ biến trong xã hội ngày nay.
Cùng với sự đa dạng của hệ thống nghề nghiệp, mỗi ngành nghề lại có
những đòi hỏi mang tính đặc thù. Do đó việc giáo dục định hướng cho học
sinh là vô cùng cần thiết. Giáo dục hướng nghiệp đúng đắn không những
giúp cho cá nhân có thể chọn được nghề phù hợp với năng lực, hứng thú của
bản thân, mà còn giúp tiết kiệm đáng kể nhân lực, vật lực cho xã hội.
Hiện nay, khoa tâm lý giáo dục trường đại học sư phạm Hà Nội
cũng đang đào tạo mã ngành chính: sư phạm tâm lý giáo dục. Tuy nhiên
việc định hướng nghề sư phạm tâm lý giáo dục chưa thực sự đúng đắn ở
nhiều sinh viên khi đã theo học. Điều này có ảnh hưởng tiêu cực đến định
hướng nghề của sinh viên. Nhưng thực tiễn đang đặt ra những đòi hỏi bức
thiết về những hoạt động cụ thể của các nhà tâm lý. Vì vậy, việc định
hướng nghề sư phạm một cách đúng đắn cho sinh viên để các em có thể
nhận thức đúng, tích cực trong quá trình học tập và rèn luyện trên giảng
đường đại học là vô cùng cần thiết.
Chính vì vậy, chúng tôi đã quyết định lựa chọn đề tài: “Định hướng
sư phạm của sinh viên khoa tâm lý giáo dục trường đại học sư phạm Hà
Nội” làm đề tài cho khóa luận tốt nghiệp của mình. Nghiên cứu kỳ vọng có
thể chỉ rõ thực trạng về định hướng giá trị của sinh viên đối với nghề, trên cơ
sở đó đề xuất một số biện pháp giúp cho những sinh viên khoa tâm lý có cái
nhìn toàn diện về nghề, có những định hướng nghề đúng đắn để sinh viên có
thể lĩnh hội nghề tích cực và sau này là hoạt động nghề nghiệp có hiệu quả.
2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu thực trạng định hướng nghề sư phạm của sinh viên khoa tâm
lý giáo dục Trường đại học sư phạm Hà Nội bao gồm: động cơ chọn nghề,
thái độ đối với nghề và kế hoạch tương lai. Trên cơ sở đó, đề xuất một số
biện pháp nhằm thay đổi nhận thức, thái độ của sinh viên đối với nghề, góp

phần nâng cao tính tích cực của sinh viên trong hoạt động học tập nghề
nghiệp tại trường đại học sư phạm Hà Nội.
3. Đối tượng nghiên cứu
Định hướng sư phạm của sinh viên khoa tâm lý giáo dục Trường đại học
sư phạm Hà Nội.
4. Phạm vi và khách thể nghiên cứu
4.1. Khách thể nghiên cứu
Sinh viên từ năm thứ 1 đến năm thứ 4 khoa Tâm lý giáo dục, thuộc
ngành sư phạm tâm lý
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Định hướng nghề là một lĩnh vực rộng trong tâm lý học. Khóa luận chỉ
tập trung tìm hiểu thực trạng định hướng sư phạm của sinh viên mã ngành sư
phạm TLGD thuộc khoa Tâm lý giáo dục trường đại học sư phạm Hà Nội
trên 3 mặt thành phần cấu trúc chính: động cơ chọn nghề; thái độ đối với
nghề và kế hoạch chiếm lĩnh nghề. Từ những thành phần này, khóa luận tập
trung làm rõ mức độ, loại định hướng, thái độ và kế hoạch của sinh viên.
5. Giả thuyết khoa học
Định hướng nghề của sinh viên sư phạm tâm lý giáo dục, Trường đại
học sư phạm Hà Nội được thúc đẩy bởi nhiều động cơ khác nhau, mức độ
định hướng nghề của sinh viên sư phạm TLGD không cao. Có sự khác biệt
trong trong các thành phần cấu trúc của định hướng sư phạm theo năm học.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài: Lý luận về định hướng, định
hướng nghề và cấu trúc định hướng nghề của sinh viên.
- Tìm hiểu thực trạng định hướng nghề của sinh viên khoa Tâm lý giáo
dục -Trường đại học sư phạm Hà Nội.
- Đề xuất các biện pháp giúp hình thành những định hướng nghề tích
cực cho sinh viên.
7. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện nghiên cứu, tôi sử dụng các phương pháp sau:

- Phương pháp nghiên cứu tài liệu
- Phương pháp thống kê toán học (SPSS)
- Phương pháp pháp điều tra bằng Angket.
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐỊNH HƯỚNG NGHỀ SƯ PHẠM
CỦA SINH VIÊN
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề xu hướng và định hướng sư phạm của
sinh viên.
Xu hướng nói chung và định hướng nghề nói riêng là vấn đề trung tâm
trong tâm lý học, thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà tâm lý học
trong và ngoài nước. Dưới đây, chúng tôi xin điểm qua lịch sử nghiên cứu
này trong và ngoài nước.
1.1.1. Lịch sử nghiên cứu xu hướng nghề trên thế giới
Định hướng nghề là vấn đề vô cùng đa dạng và phong phú. Trong
những năm 60, 70 của thế kỉ trước có khá nhiều nghiên cứu trên thế giới về
vấn đề này đặc biệt ở Liên Xô cũ. Khi nghiên cứu về định hướng nghề các
nhà tâm lý học đã đi theo các hướng nhằm giải quyết các vấn đề:
- Nghiên cứu về nhận thức nghề nghiệp.
- Nghiên cứu về hứng thú nghề nghiệp.
- Nghiên cứu về dự định nghề nghiệp.
Nghiên cứu về động cơ lựa chọn nghề nghiệp có nhiều tác giả như:
I.S. Con, N.D. Levitov, V.A.Cruchetxki,… rất quan tâm.
Theo I.S. Con thì trong số những nguyên nhân hấp dẫn học sinh lựa
chọn một nghề nào đó, nguyên nhân hàng đầu là do tính chất sáng tạo của
lao động, thứ hai là ý nghĩa nghề nghiệp với xã hội thứ ba là quy mô tiền
lương. Đây là những yếu tố quan trọng nhất thúc đẩy học sinh chọn nghề
[23, tr42]. Ông nhận xét học sinh phổ thông quan tâm nhiều nhất đến giá trị
xã hội của nghề nghiệp sau đó mới đến giá trị vật chất.
N.D. Levitov đã đánh giá động cơ có ý nghĩa đối với việc hình thành
nhân cách và việc tự quyết định đường đời của thanh niên. Ông cũng đưa ra
một số động cơ bên trong và bên ngoài có ảnh hưởng đến sự lựa chọn nghề

nghiệp. Học sinh đã chú ý đến năng lực hứng thú, nguyện vọng của mình khi
lựa chọn nghề nghiệp [24, tr 21].
V.A.Cruchetxki cho rằng, nghề được lựa chọn phù hợp với nguyện
vọng cá nhân, khuynh hướng cá nhân đối với một dạng lao động nhất định,
các năng lực đi với dạng lao động ấy và sự đánh giá các ý nghĩa xã hội của
nó được kết hợp nhuần nhuyễn với nhau mang lại sự thỏa mãn về mặt đạo
đức cho con người và lợi ích tối đa cho xã hội. Theo ông sự kết hợp giữa
nguyện vọng, khả năng của cá nhân với ý nghĩa xã hội của nghề nghiệp trong
sự lựa chọn nghề là những yếu tố giúp cho quá trình chọn nghề đạt hiệu quả
tốt.[18]
E.M. Pavliuchenko khẳng định động cơ chiếm vai trò chủ đạo trong
quá trình lựa chọn nghề nghiệp của học sinh có ý nghĩa quan trọng là động
cơ đạo đức và động cơ xã hội. Theo ông cấu trúc động cơ chọn nghề phụ
thuộc vào tính tích cực của học sinh. Cấu trúc động cơ được coi là tối ưu hơn
cả thể hiện ở những học sinh tích cực tham gia nghiên cứu khoa học, cố gắng
làm hết sức mình trong lao động, thể hiện ở việc hoàn thành định mức, có
hứng thú đối với các dạng lao động cụ thể, đọc các tài liệu chuyên ngành,…
1.1.2. Nghiên cứu xu hướng nghề tại Việt Nam
Năm 1986-1987 các công trình nghiên cứu của các tác giả, Nguyễn
Thị Xuân Hòa, Nguyễn Thị Bích Hồng, Phạm Thị Dung đã đề cập đến xu
hướng, nguyện vọng, lý do chọn nghề của học sinh lớp 12 cho thấy định
hướng học lên là định hướng chủ yếu của học sinh sau khi tốt nghiệp. Việc
chọn nghề ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố khác nhau nhưng nguyên nhân chính
là sự phù hợp với khả năng và hứng thú cá nhân.
Tác giả Nguyễn Ánh Tuyết nghiên cứu sự lựa chọn nghề nghiệp của
học sinh lớp 10. Tác giả đã chỉ ra mối quan hệ của đặc điểm phát triển tâm lý
của học sinh lớp 10 với nguyện vọng lựa chọn nghề nghiêp, mối quan hệ của
vấn đề nhận thức vị trí của các nghề trong xã hội, mối quan hệ giữa ước mơ,
lý tưởng với sự hình thành lựa chọn nghề nghiệp [14, tr 20].
Tác giả Phạm Tất Dong và các cộng sự đã nghiên cứu nhiều khía cạnh

khác nhau của xu hướng nghề: nguyện vọng chọn nghề, hứng thú nghề
nghiệp, sự lựa chọn nghề nghiệp, các nhân tố tác động đến sự hình thành xu
hướng nghề của sinh viên cấp 3. Kết quả cho thấy: đa số học sinh muốn có
trình độ học vấn cao ở đại học trước khi vào lao động phục vụ.
Tác giả Nguyễn Quang Uẩn và cộng sự nghiên cứu động cơ và xu
hướng nghề nghiệp học sinh thành phố cho thấy: nhận thức nghề của học
sinh còn yếu, số nghề và các trường chuyên nghiệp được học sinh biết đến
chưa nhiều. Hứng thú nghề nghiệp của học sinh hình thành muộn, chưa tập
trung và chưa rõ nét.
Tác giả Hoàng Trung Học nghiên cứu cấu trúc của định hướng sư
phạm và mối quan hệ của định hướng sư phạm với các thành phần khác
trong cấu trúc của nhân cách. Các công trình nghiên cứu của tác giả này đã
chỉ ra rằng, định hướng sư phạm là một hệ thống cơ động của động cơ chọn
nghề, thúc đẩy học sinh chọn nghề sư phạm, tích cực chiếm lĩnh kỹ năng
nghề và tham gia tích cực vào các hoạt động sư phạm. Căn cứ trên hệ thống
động cơ chọn nghề, thái độ đối với nghề sư phạm và tính tích cực trong các
hoạt động nghiệp vụ, tác giả này chia hoạt động thành 3 loại: định hướng sư
phạm ở mức độ cao, trung bình và thấp với các loại định hướng sư phạm
như: định hướng sư phạm cá nhân; định hướng sư phạm theo môn học và
định hướng sư phạm theo tình huống.
Dựa trên cách tiếp cận định hướng sư phạm theo cấu trúc này, tác giả
đã nghiên cứu mối quan hệ của định hướng sư phạm với các thành phần cấu
trúc của nhân cách. Kết quả nghiên cứu trên sinh viên đã chỉ ra rằng, định
hướng sư phạm có quan hệ tác động qua lại với các thành phần khác nhau
như khí chất, năng lực sư phạm, tự đánh giá về các phẩm chất có ý nghĩa đối
với nghề…
Như vậy, có thể thấy vấn đề về định hướng nghề cho sinh viên được
nghiên cứu khá nhiều nhưng đối với những sinh viên sư phạm cụ thể ở ngành
học tâm lý giáo dục còn khá hạn chế. Chính vì thế đã thôi thúc tôi đi tìm
hiểu, nghiên cứu về định hướng sư phạm của sinh viên khoa tâm lý giáo dục

trường đại học sư phạm Hà Nội.
1.2. Lý luận về xu hướng trong tâm lý học
1.2.1. Khái niệm xu hướng
Khái niệm xu hướng do A. P. Lazursky đưa ra lần đầu tên vào năm
1921 trong cuốn phân loại các nhân cách, theo ông xu hướng thể hiện như
một thái độ. Mỗi thái độ( xu hướng) thể hiện việc con người yêu ghét như
thế nào, say mê hay thờ ơ đối với cái gì?
N. Đ. Levitop cho rằng xu hướng là thái độ có tính lựa chọn của con
người đối với hiện thực và hiện thực có ảnh hưởng đến đời sống và hoạt
động của nó.[ 23,tr16]
Trong các khái niệm về xu hướng có thể nói là khái niệm đầy đủ nhất
là khái niệm của G.L. Smirnov. Tác giả này cho rằng, “xu hướng không phải
là tổng số các định hướng, nó thực sự cấu thành khác hẳn về chất xuyên thấu
các định hướng giá trị khác nhau. Xu hướng thể hiện trong thế giới quan các
nguyên tắc về đạo đức, các quan điểm chính trị” [12, tr12].
Cuốn tâm lý học Phạm Minh Hạc định nghĩa xu hướng nói lên phương
hướng, chiều hướng phát triển của con người[ 19,tr40].
Trong tài liệu đề cương bài giảng tâm lý học đại cương, xu hướng
được hiểu là “ý định hướng tới đối tượng trong một thời gian lâu dài nhằm
thỏa mãn nhu cầu hay hứng thú hoặc vươn tới mục tiêu cao đẹp mà con
người lấy làm lẽ sống [18, tr146]”.
1.2.2. Đặc điểm của xu hướng trong tâm lý học
* Xu hướng với tư cách là thuộc tính của nhân cách
Hoạt động của con người trong cuộc sống luôn hướng đến một mục tiêu
nào đó đồng thời thúc đẩy hoạt động nhằm từng bước chiếm lĩnh chúng. Sự
hướng tới này phản ánh tâm lý của con người là xu hướng của nhân cách.
Xu hướng nhân cách là thành phần quan trọng trong cấu trúc của nhân
cách. Xu hướng còn làm nhiệm vụ điều khiển định hướng, điều chỉnh toàn
bộ các thuộc tính của nhân cách (năng lực, tính cách, khí chất,… ) làm cho
chúng kết hợp hài hòa với nhau tạo thành một chỉnh thể thống nhất. Nói đến

xu hướng là nói đến vai trò chủ đạo trong cuộc sống cá nhân chi phối mọi lối
sống, suy nghĩ hành động của cá nhân quy định đường hướng căn bản của
toàn bộ đời sống con người. Một số quan điểm của các nhà tâm lý học
phương Tây có những quan điểm về xu hướng nhân cách như:
A.V. Pêtơropxki định nghĩa về xu hướng nhân cách như sau: “xu hướng
nhân cách là kết quả của sự nảy sinh những động cơ chiếm ưu thế một cách
ổn định của hành vi, vừa là kết quả của sự nảy sinh các động cơ chiếm ưu thế
một cách ổn định của hành vi” [19,tr 23]. Xu hướng nhân cách vừa là kết quả
vừa là biểu hiện của một cấu trúc có cấp bậc của động cơ. Xu hướng nhân
cách phản ảnh bộ mặt của nhân cách, phản ánh đạo đức của con người.
Nghiên cứu về tâm lý học trẻ em nhà tâm lý học Bôgiơvich đã cho rằng
xu hướng nhân cách xuất hiện trong quá trình sống và giáo dục của con
người có tính bền vững. Những hình thái khác nhau biểu hiện ý muốn phụ
thuộc vào xu hướng của nhân cách. Với quan điểm này ông đã thực sự coi xu
hướng của nhân cách như là một thuộc tính độc lập của nhân cách có vai trò
quan trọng đối với nhân cách.
Khi bàn về những vấn đề tâm lý của tính cách N. Đ. Levitop đưa ra
quan niệm rằng: xu hướng nhân cách là một trong hàng loạt các yếu tố cùng
với ý chí cấu thành tính cách, đó là hệ thống thái độ xác định quan hệ lựa
chọn và tính tích cực của con người. N.Đ. Levitop bước đầu đã xem xét xu
hướng nhân cách trong mối quan hệ với các thuộc tính khác nhau của động
[17, tr16]
Tóm lại những thành tựu của các nhà tâm lý học trong việc nghiên cứu
về xu hướng của nhân cách thể hiện trước hết ở chỗ họ đã từng bước hoàn
thành khái niệm chỉ ra được mối quan hệ giữa xu hướng với các thuộc tính
tâm lý khác trong nhân cách, làm rõ cấu trúc và sự hình thành của nó.
Một số nhà tâm lý học Việt Nam cho rằng:
Theo tác giả Phạm Minh Hạc cho rằng: “xu hướng làm nhiệm vụ định
hướng, điều khiển, điểu chỉnh sự hình thành và phát triển của toàn bộ các
thuộc tính của nhân cách làm chúng kết hợp hài hòa với nhau thành một

chỉnh thể trọn vẹn một khối thống nhất không chia cắt được và đặc biệt xu
hướng có quan hệ chặt chẽ với năng lực [20, tr 315].
Theo Vũ Dũng, “xu hướng của nhân cách là một thuộc tính khái quát và
tích hợp của nhân cách, là tổng hòa các động cơ ổn định định hướng hoạt động
của nhân cách, tương đối độc lập với các tình huống đang diễn ra”[21,tr 1012].
Có thể nói khái niệm đầy đủ nhất là của Nguyễn Quang Uẩn:“ xu
hướng của nhân cách là thuộc tính điển hình cá nhân trong đó bao hàm một
hệ thống những động lực định hướng tính tích cực hoạt động của cá nhân và
quy định sự lựa chọn thái độ của nó ” [22, tr 172].
Trong tâm lý học hiện đại khi phân tích cấu trúc trọn vẹn thống nhất
của nhân cách các nhà tâm lý học khẳng định: xu hướng nhân cách là kết quả
của sự nảy sinh những động cơ chiếm ưu thế một cách ổn định của hành vi
[16, tr169]. Xu hướng nhân cách phản ánh toàn bộ mặt đạo đức của con
người, phản ảnh được giáo dục về trình độ được giáo dục về mặt đạo đức của
nhân cách, phản ánh thế giới quan, quan điểm tiến bộ của con người [16].
Các nhà tâm lý học đều phản ánh xu hướng nhân cách như là một cấu
trúc ổn định của động cơ. Động cơ này định hướng hoạt động của con người.
theo nhà tâm lý học Platônốp cấu trúc tâm lý của nhân cách bao gồm: ý
hướng, ý nguyện, hứng thú, ý tưởng, khuynh hướng, thế giới quan, niềm tin.
Nó được biểu hiện qua nhận thức, thái độ, hành vi.
* Xu hướng mang tính chất tình huống của hành vi
Xu hướng mang tính chất tình huống của hành vi gắn với sự không thỏa
mãn có tính chất chu kì những nhu cầu cấp bách nào đó có tầm quan trọng
đối với với cuộc sống và gắn với tìm tòi phương thức thỏa mãn các nhu
cầu[16, tr169]. Xu hướng có tính chất tình huống của hành vi nảy sinh do
những động cơ ngẫu nhiên mang tính chất tình huống.
* Xu hướng với tư cách là khuynh hướng hoạt động của cá nhân
Xu hướng hoạt động là xu hướng chỉ nhằm vào một số lĩnh vực nhất
định chỉ cho ta biết lĩnh vực hoạt động của cá nhân[19, tr169]. Xu hướng
hoạt động của cá nhân có liên quan chặt chẽ với xu hướng nhân cách với

nhiều đặc điểm tâm lý cá nhân, trước hết là năng lực hoạt động của cá nhân
trong một lĩnh vực nhất định. Xu hướng hoạt động có xu hướng nghề, xu
hướng nghệ thuật, xu hướng văn học, toán học,…
Khi nghiên cứu về xu hướng V.S.Merlin đã cho rằng cần hiểu xu hướng
như thuộc tính tâm lý xác định khuynh hướng chung hoạt động của con
người trong những hoàn cảnh cụ thể của con người. Ở đây ông đã giải thích
làm rõ thêm xu hướng với khuynh hướng là hoạt động của cá nhân.
G.D. Lucop xu hướng là tổng hòa các quan điểm, niềm tin chủ đạo
trong tính tích cực của con người, hướng họ đạt đến những mục đích quan
trọng trong cuộc sống[19]. Trong khái niệm ông đã nêu lên được một số yếu
tố cấu thành nên xu hướng như vai trò chi phối của những yếu tố đó đối với
khuynh hướng hoạt động của cá nhân.
L.Ph. Phedenco lại chỉ ra rằng: xu hướng là thuộc tính chỉ ra cho con
người phấn đấu tới cái gì và hướng cuộc đời mình đến đâu. Xu hướng dựa trên
hoài bão khát vọng của cá nhân, là những động cơ nhu cầu của họ phản ánh
động cơ, mục đích căn bản của con người trong hoạt động sống[11, tr16].
Tóm lại, dù tiếp cận ở góc độ nào chúng ta cũng không thể phủ nhận vai
trò của xu hướng trong việc quy định tính tích cực hoạt động nhằm đạt tới
mục đích sống của con người. Và có thể thấy định hướng nghề hay định
hướng sư phạm là một xu hướng, khuynh hướng hoạt động của cá nhân.
1.3. Đặc điểm của nghề sư phạm và sư phạm tâm lý giáo dục
1.3.1. Đặc điểm của nghề sư phạm
* Mục đích của lao động sư phạm
Lao động sư phạm không nhằm mục đích tạo ra các giá trị vật chất như
các ngành kinh tế hay công nghệ nhưng sản phẩm của lao động sư phạm
hướng đến các giá trị tinh thần của con người nên mục đích của lao động sư
phạm chú ý đến hình thành nhân cách và năng lực của người học.
Trước tiên nghề sư phạm cần chú ý tới sự phát triển nhân cách cho
người học “tiên học lễ hậu học văn” nghĩa là chú ý đến nhân cách của người
học, nhân cách phải được đặt lên trên hàng đầu, hình thành cho họ ý thức đối

với bản thân, gia đình và nhà trường, trách nhiệm đối với cộng đồng. Đối với
nghề sư phạm là hình thành phẩm chất, năng lực của một người giáo viên.
Phẩm chất và năng lực phù hợp sẽ là cơ hội cho sinh viên sau khi ra
trường có thể yên tâm với nghề, đem lại cho họ một tương lai tốt đẹp hơn đảm
bảo một công việc ổn định trong tương lai cho dù kinh tế thị trường có nhiều
biến động. Ngoài ra ngành sư phạm đóng góp cho việc giáo dục, bồi dưỡng
nguồn lao động trong nhiều lĩnh vực cho đất nước. Một đất nước được coi là
phát triển không chỉ là con người được nâng cao về trình độ nhưng còn là
nhân cách của con người ngày càng hoàn thiện theo chiều hướng tích cực đem
đến một xã hội văn minh, con người sống hòa hợp với nhau.
* Đối tượng của lao động sư phạm
Hoạt động của lao động sư phạm chính là quá trình tác động qua lại
giữa người dạy học và người dạy học. Vì thế có thể nói đối tượng của lao
động sư phạm chính là con người - học sinh sinh viên là chủ, họ là nguồn
nhân lực chủ yếu cho đất nước trong tương lai. Đào tạo thế hệ trẻ không chỉ
giúp họ hình thành năng lực, kĩ năng nghề nghiệp nhưng còn là nhằm phát
triển nhân cách cho người học giúp họ hoàn thiện nhân cách, phù hợp với
chuẩn mực xã hội.
Nhân cách của con người không phải sinh ra đã có nhưng là được hình
thành và phát triển thông qua hoạt động. Và giáo dục có vai trò quan trọng là
yếu tố quyết định sự phát triển nhân cách của con người. Vì thế mà người
nhà giáo cần chú ý việc phát triển nhân cách cho người học không chỉ là
cung cấp tri thức nhưng còn là rèn luyện phẩm chất đạo đức cho thế hệ trẻ.
Đối tượng của lao động sư phạm là học sinh. Họ không chỉ chịu tác động
của giáo viên, nhà trường mà còn chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác như:
gia đình, bạn bè, các phương tiện thông tin đại chúng… Tất cả những nhân tố
này có thể tác động đến việc hình thành và phát triển nhân cách của học sinh
một cách tích cực hoặc tiêu cực, tự giác hoặc tự phát… theo nhiều mức độ và
cách thức khác nhau. Mặt khác các mối quan hệ trong cuộc sống của học sinh
cũng rất phong phú. Chúng cũng thường xuyên tác động và ảnh hưởng đến họ.

Vì vậy, lao động sư phạm có nhiệm vụ điều chỉnh mọi tác động từ các nhân tố
đến người học sinh nhằm đạt hiệu quả cao nhất.
Mặt khác, kết quả của lao động sư phạm không chỉ phụ thuộc vào trình
độ được đào tạo của giáo viên mà còn phụ thuộc rất nhiều vào mối quan hệ
giữa người dạy và người học vào thái độ, động cơ, hứng thú người học, đặc
điểm nhân cách của học sinh.Trong quá trình giáo dục, người giáo viên là
chủ thể còn học sinh là khách thể là đối tượng của lao động sư phạm. Vì vậy
quá trình sư phạm chỉ đem lại hiệu quả khi phát huy được tính tích cực chủ
động, sáng tạo của người học.
* Công cụ lao động
Chính là những tri thức, kĩ thuật, kĩ năng, kinh nghiệm nghề nghiệp mà
người dạy tích lũy được trong quá trình học tập, cũng như trong thực tế của
hoạt động nghề nghiệp. Càng ham học hỏi trong quá trình học tập thì càng
giúp người học tích lũy nhiều hiểu biết kinh nghiệm về nghề. Bởi vì các tri
thức, kĩ năng, kĩ thuật của nghề sư phạm với tư cách là công cụ lao động của
con người không phải tự nhiên mà có nên muốn hoạt động trong nghề của
mình các nhà tâm lý cũng phải trau dồi những tri thức, hiểu biết, có kinh
nghiệm về nghề nghiệp để có thể truyền đạt đến đối tượng lao động là người
học. Người giáo viên phải có kiến thức, kinh nghiệm mới có thể truyền đạt
những tri thức cho học sinh.
Công cụ lao động của người thầy giáo không chỉ là tri thức, kinh
nghiệm, trình độ nhưng còn là nhân cách phẩm chất của người nhà giáo.
Giáo viên có một tầm ảnh hưởng lớn đến việc phát triển của người học, một
nhân cách nhà giáo chuẩn mực như là tấm gương cho học sinh noi theo để
hoàn thiện thúc đẩy học sinh vươn lên, trở nên một con người chuẩn mực
như thầy cô. Như vậy thông qua dạy học mà hình thành nhân cách, giáo dục
tư cách đạo đức cho người học. Một giáo viên mẫu mực sẽ hướng học sinh
đến những điều tốt đẹp vừa cuốn hút người học tích cực trong học tập vừa
hướng họ đến những nhân cách chuẩn mực của con người.
Ngoài ra công cụ của người thầy giáo còn là khả năng sử dụng các hình

thức hoạt động. Người thầy giáo làm sao phải thu hút học sinh vào các giờ
học, hăng say, hứng thú với môn học thông qua các hình thức, hoạt động tổ
chức lớp học, học sinh tiếp thu bài học một cách nhanh nhạy, say mê với
môn học mà qua đó yêu thích nghề nghiệp. Vì thế đòi hỏi một sự sáng tạo,
tâm huyết với nghề mới có thể có được những hình thức hoạt động đa dạng,
phong phú gây hứng thú cho người học.
Như vậy người giáo viên cần chú ý cả về mặt năng lực và nhân cách để
tác động đến học sinh, là tấm gương sáng cho học sinh noi theo.
* Sản phẩm lao động sư phạm
Đối tượng của lao động sư phạm là con người vì thế sản phẩm lao động
của sư phạm chính là hình thành nhân cách cho người học để đáp ứng trước
các yêu cầu đặt ra của xã hội. Quá trình giáo dục là một quá trình lâu dài
không phải trong một vài năm mà thấy ngay được kết quả. Sản phẩm của lao
động sư phạm không giống như các ngành kinh tế, kĩ thuật có thể nắm bắt,
thấy ngay được kết quả là cái gì nhưng giáo dục không phải như vậy nhân
cách của người học được hình thành trong suốt quá trình phát triển của mỗi
cá nhân những gì thầy giáo truyền tải đến cho học sinh khi nhỏ không phải
ngay trong thời gian đó họ đã hình thành nhân cách cho mình nhưng đến
trưởng thành họ mới thật sự thấm nhuần lời thầy cô truyền đạt lại khi còn
nhỏ giúp họ có được những nhân cách chuẩn mực trong cuộc sống lúc đó ta
mới thấy được kết quả của quá trình giáo dục.Vì vậy những người giáo viên
trong tương lai cần kiên trì, trung thành trong công tác giáo dục trong sự
nghiệp trồng người không nên vì không thấy ngay được kết quả hay thấy
những điều tiêu cực ngay trước mắt mà bỏ cuộc hay có những đánh giá kết
luận không đúng về người học.
Người dạy học cũng cần thường xuyên trang bị cho mình những tri thức
khoa học, rèn luyện nhân cách để có thể đem lại những sản phẩm tốt. Vì
người thầy có ảnh hưởng lớn đến cuộc đời của mỗi học sinh. Người học là
sản phẩm để đánh giá mỗi nhà giáo trong quá trình giảng dạy.
1.3.2.Đặc điểm lao động của nghề sư phạm tâm lý giáo dục

Ngành sư phạm tân lý đều có những đặc điểm chung của nghề sư phạm.
Bên cạnh đó, ngành sư phạm tâm lý giáo dục cũng có những đặc thù riêng.
* Mục đích của lao động sư phạm tâm lý giáo dục
Mục đích của lao động sư phạm tâm lý giáo dục cũng giống như ngành
sư phạm nói chung là hình thành nhân cách và năng lực của người học.
Sư phạm tâm lý giáo dục giúp cho bản thân mỗi sinh viên trước tiên là
nhận thức về bản thân với những đặc điểm tâm lý, hiểu được bản chất các
quá trình tâm lý và giáo dục trong sự hình thành và phát triển nhân cách.
Nhận thức về sự phát triển của bản thân của tâm lý người nói chung, hiểu
biết những đặc điểm tính chất của quá trình giáo dục,…để hình thành nhân
cách chuẩn mực chuẩn bị cho cuộc sống tương lai, cho hoạt động nghề
nghiệp.
* Đối tượng của lao động sư phạm tâm lý giáo dục
Sư phạm là nghề tiếp xúc giữa con người với con người nên sư phạm
tâm lý giáo dục đào tạo hai lĩnh vực cả về tâm lý và giáo dục nên đối tượng
của tâm lý giáo dục cũng chính là con người, những con người ở độ tuổi
khác nhau đang trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách, cần được
hướng dẫn định hướng để hình thành nhân cách chuẩn mực đáp ứng nhu cầu
của xã hội.
* Mục đích của lao động sư phạm tâm lý
Cũng như mục đích của lao động sư phạm là quá trình tác động qua lại
giữa người dạy học và người học để phát triển nhân cách người học thì nghề
tâm lý cũng vậy là quá trình tác động giữa người với người giúp con người
khám phá, tìm hiểu các vấn đề xung quanh sự phát triển của con người kết quả
cuối cùng là hiểu biết các khía cạnh về mặt tâm lý, sự phát triển của con
người, tính chất của quá trình giáo dục để đem đến sự hoàn thiện về mặt nhân
cách, những ứng xử, cách giải quyết các tình huống một cách hợp lý trong
cuộc sống đem đến sự cân bằng về mặt cảm xúc, hành vi trong cuộc sống.
Như vậy có thể nói mục đích của ngành sư phạm tâm lý giáo dục là
giúp hình thành nhân cách cho người học.

* Phương tiện lao động của sư phạm tâm lý giáo dục
Nhằm giúp cho học sinh hình thành một nhân cách chuẩn mực, nhận
biết được các quá trình phát triển tâm lý của bản thân, người giáo viên sư
phạm tâm lý giáo dục cần sử dụng nhiều phương tiên khác nhau, kết hợp
nhưng phải tạo nên một sự thống nhất trong quá trình giáo dục trẻ.
Hệ thống tri thức, kĩ năng, kĩ xảo nghề nghiệp và các dạng hoạt động
được tổ chức phù hợp với từng lứa tuổi là những phượng tiện cần thiết cho
người giáo viên tâm lý giáo dục.
Người dạy học sử dụng hệ thống tri thức, kĩ năng, kĩ xảo và các hình
thức tổ chức hoạt động một cách có mục đích, tổ chức, kế hoạch, phương
pháp để tác động đến người học. Việc nhận thức, hiểu biết đầy đủ về nghề
nghiệp cùng với việc sử dụng các hình thức hoạt động một cách phong phú
đa dạng nhằm thu hút họ sinh hứng thú không chỉ là phương tiện nhưng còn
là điều kiện đảm bảo sự thành công của người dạy.
Ngoài ra một phương tiện đặc biệt quan trọng của người dạy chính là
ngôn ngữ, họ là những phát ngôn viên trong việc truyền tải nội dung, tri thức
đến cho người học. Ngôn ngữ vừa là phương tiện giao tiếp thiết lập mối quan
hệ nhưng còn là phương tiện hướng dẫn, dẫn dắt người học tham gia và các
hoạt động đồng thời điều chỉnh, định hướng hành vi của người học cho phù
hợp với các chuẩn mực yêu cầu của xã hội.
Ngôn ngữ giọng nói, ngữ điệu của lời nói và việc sử dụng từ ngữ một
cách sâu sắc là phương tiện lôi cuốn học sinh tham gia vào quá trình học tập,
hứng thú say mê hơn với việc học tập, yêu mến hơn với việc tiếp nhận các tri
thức. Vì vậy người dạy phải trau dồi ngôn ngữ, vốn từ, rèn luyện để có một
ngôn ngữ mạch lạc, giọng nói truyền cảm.
Một phương tiện vô cùng quan trọng của người hành nghề tâm lý giáo
dục chính là nhân cách của người giáo viên. Đối với giáo viên trong nghề thì
điều này càng phải được nhấn mạnh, họ thường được coi là những người
hiểu biết tâm lý là nhà tâm lý. Vì thế đò hỏi người hành nghề tâm lý giáo dục
phải có một nhân cách chuẩn mực, hiểu biết sâu sắc các quá trình tâm lý của

con người đồng thời còn phải là những bác sĩ tâm thần để giúp đỡ người
khác vượt qua những khó khăn tâm lý, hiểu biết về tâm lý của chính bản thân
để có những cách ứng xử, đối phó cho phù hợp. Một giáo viên tâm lý giáo
dục nếu không có nhân cách chuẩn mực thì không thể nào có thể dạy giúp
cho người học hình thành một nhân cách chuẩn mực. Nhân cách của người
giáo viên từ lời nói, hành vi, cử chỉ của người giáo viên tâm lý đều có ảnh
hưởng sâu sắc tác động đến học sinh và là phương tiện hay nhất để dạy cho
học sinh mà không cần đến mớ lý thuyết xuông trong sách vở,…
* Môi trường lao động của sư phạm tâm lý giáo dục
Môi trường của lao động sư phạm tâm lý giáo dục không còn là môi
trường như đối với giáo viên mầm non nhưng trình độ càng lên cao thì môi
trường càng phải đảm bảo tính giáo dục cao, chuyên nghiệp là nơi mà sinh
viên học sinh có thể được phát triển cách toàn diện khả năng, năng lực của
bản thân và đảm bảo sự phát triển toàn diện về mặt nhân cách.
* Thời gian lao động của sư phạm tâm lý giáo dục
Cũng giống như các ngành sư phạm khác thời gian lao động của giảng
viên tâm lý không chỉ bó hẹp trong phạm vi 8 tiếng ngoài ra họ còn có thời
gian để chuẩn bị cho mỗi giờ lên lớp: như soạn giáo án, tổ chức tiết học,…
nhưng công việc này đòi hỏi phải chuẩn bị trước khi đến lớp để cho phù hợp
với đối tượng là sinh viên, các tiết dạy đòi hỏi phải có chất lượng, đồng thời
phải tạo được bầu không khí lớp học đẻ không bị nhàm chán trong các tiết
dạy. Vì vậy đòi hỏi giáo viên phải trau dồi, nâng cao trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ.
1.4. Vấn đề định hướng sư phạm của sinh viên
1.4.1.Khái niệm định hướng nghề
Trước sự phát triển mạnh mẽ của thế giới, ngày càng có nhiều chuyển
biến mạnh mẽ trong xã hội loại người và lao động luôn là yếu tố quyết định
sự tồn tại của con người, muốn tồn tại con người phải lao động. Vì vậy mà
nghề nghiệp có một vai trò đặc biệt quan trọng đảm bảo sự phát triển cho cá
nhân và có ý nghĩa đối với sự phát triển của xã hội.

Thế giới nghề nghiệp vô cùng phong phú đa dạng, thị trường lao động
luôn biến đổi, nhiều ngành nghề mới ra đời nhưng cũng nhiều nghề mất đi,
không phải ai cũng có được một nghề nghiệp ổn định. Cánh cửa đại học đã
mở ra cho rất nhiều sinh viên nhưng không phải sinh viên nào sau khi ra
trường cũng có thể làm đúng ngành, đúng nghề mà mình theo học. Có rất
nhiều nguyên nhân có thể ngay từ đầu việc học chỉ là một nghĩa vụ, chọn
một ngành nghể chỉ đơn giản là thấy hứng nhất thời, hay cho rằng nó là một
nghề hot trong xã hội nhưng trong quá trình học sinh viên lại cảm thấy
không thích thú, động cơ không tích cực dẫn đến thái độ tiêu cực đối với
việc học, và trong suốt quá trình học đó họ không thể lĩnh hội các tri thức
của nghề họ theo học, điều đó ảnh hưởng đến tương lai sau này của sinh viên
nhiều sinh viên thất nghiệp có những sinh viên lại phải làm trái ngành trái
nghề do không có khả năng đáp ứng được các yêu cầu của nghề, ảnh hưởng
đến cuộc sống của bản thân, gia đình.
Do đó việc định hướng nghề trong giai đoạn hiện nay có thể thấy là rất
cần thiết. Định hướng nghề đúng đắn là động lực thúc đẩy mạnh mẽ cá nhân
tích cực trong quá trình học tập hình thành nhân cách toàn diện đạt được kết
quả cao hơn, lĩnh hội được nhiều tri thức cũng như kĩ năng, kĩ xảo cho việc
hành nghề sau này mà cá nhân muốn đạt tới. Nói về định hướng nghề có rất
nhiều quan niệm khác nhau:
Định hướng nghề là những hiểu biết và tiếp nhận bên trong các mục
đích và nhiệm vụ của hoạt động nghề nghiệp có liên quan đến hứng thú,
niềm tin, quan điểm và tâm thế đối với hoạt động này[11, tr82].
Theo Nghiêm Thị Đương định hướng nghề là xu hướng hoạt động của
cá nhân, nó được xem như là ý định khuynh hướng, là xu thế hoạt động của
cá nhân trong một lĩnh vực nghề nghiệp nhất định[12, tr32].
Đỗ Ngọc Anh cho rằng định hướng nghề giúp thúc đẩy những thái độ
tích cực và hành vi của con người đối với một lĩnh vực nghề nghiệp nào đó
đảm bảo cho con người đạt hiệu quả cao trong lĩnh vực nghề nghiệp nào đó
[13, tr10].

Định hướng nghề thể hiện xu hướng mà cá nhân mong muốn được
chiếm lĩnh để đạt được công việc mà mình lựa chọn. Từ đó thúc đẩy cá nhân
có những động cơ, nhận thức, thái độ và kế hoạch thực hiện để đạt được
những gì cá nhân mong muốn.
Định hướng nghề chính là một biểu hiện của xu hướng hoạt động, nói
đến định hướng nghề là nói đến các mặt động cơ, thái độ, tình cảm cũng như
kế hoạch chiếm lĩnh nghề hướng đến một nghề nhất định, mà con người lựa
chọn. Nó cũng có thể hiểu là ý định của cá nhân muốn sử dụng những tri
thức, kinh nghiệm, năng lực của mình vào lĩnh vực nghề nghiệp nhất định
mà mình lựa chọn. Định hướng nghề thể hiện những mặt tích cực của nghề
như: có động cơ đúng đắn, thái độ tích cực, niềm đam mê, sự hứng thú với
nghề nghiệp, mong muốn hoàn thiện trang bị kiến thức cho bản thân, thỏa
mãn nhu cầu vật chất và tinh thần, muốn chiếm lĩnh hoạt động trong lĩnh
vực nghề nghiệp của mình.
Định hướng nghề còn là ý định hướng tới nghề nghiệp nào đó trong
thời gian lâu dài, nhằm thỏa mãn những nhu cầu hay hứng thú của cá nhân
với nghề nghiệp hoặc vươn tới mục tiêu cao đẹp mà cá nhân lấy đó làm lẽ
sống cho bản thân. Khi cá nhân đã có cho mình những định hướng nghề nhất
định thì hầu như mọi hoạt động của con người đều hướng vào việc chiếm
lĩnh nghề nghiệp đó. Định hướng nghề là những tiêu chuẩn chỉ ra mức độ
chuẩn bị của cá nhân đối với hoạt động độc lập tương lai, đó là định hướng
học tập, làm việc trong một lĩnh vực nghề nghiệp nhất định.
Như vậy định hướng nghề có thể hiểu là xu hướng hoạt động của cá
nhân, nó được xem như là ý định, khuynh hướng, là xu thế hoạt động của cá
nhân mong muốn được chiếm lĩnh trong một lĩnh vực nghề nghiệp nhất định.
Định hướng nghề được hình thành trong quá trình sống và hoạt động,
khi các em thực sự tham gia vào hoạt động nghề nghiệp.
Định hướng nghề có thể hình thành từ rất nhỏ bằng việc nhận thức
những đặc điểm của cá nhân, sự hứng thú, nguyện vọng, năng lực của bản
thân mà hình thành cho mình xu hướng nghề và khi thi đỗ vào các trường,

các em có những nhận thức đúng đắn về nghề nghiệp, có được sự phù hợp
với tính cách, năng lực của bản thân, thì các em sẽ có động cơ, thái độ học
tập tốt hơn, giúp các em phấn đấu hướng tới những mục tiêu mà các em đặt
ra trong nghề nghiệp mà các em mong muốn.
1.4.2. Định hướng sư phạm của sinh viên
Có thể nói, giáo dục có một vai trò quan trọng trong sự hình thành và phát
triển nhân cách của con người, được các nhà tâm lý giáo dục, xác định giữa
vai trò chủ đạo. Ở cấp độ vĩ mô, giáo dục được Đảng và Nhà nước xác định
là quốc sách hàng đầu, là nhân tố quyết định đối với sự phát triển của xã hội
và sự phát triển bền vững của đất nước.
Nói tới giáo dục không thể không nhắc tới tầm quan trọng của nghề sư
phạm. Nhiệm vụ của nghề sư phạm và người giáo viên trước tiên là phải
hình thành nhân cách đạo đức cho người học, đồng thời tạo ra nguồn nhân
lực chất lượng cho đất nước. Vì thế, dù thị trường lao động ngày càng phát
triển, kinh tế thị trường làm xuất hiện nhiều ngành nghề mới trong xã hội,
đem lại nguồn thu nhập cao, tuy nhiên, ngành sư phạm vẫn thu hút được
nhiều sinh viên bất chấp đây không phải là ngành nghề có thu nhập cao trong
xã hội. Sự thu hút của ngành sư phạm không đến từ thu nhập cao, công việc
ổn định mà đến từ vị trí xã hội đặc biệt của chính nghề này, đặc biệt trong
một xã hội có truyền thống học tập, tôn sư trọng đạo như ở Việt Nam.
Ngành sư phạm tâm lý giáo dục với những đặc thù riêng, hướng đến
việc đào tạo ra các giảng viên tâm lý giáo dục giảng dạy trong hệ thống các
trường đại học và cao đẳng sư phạm trong cả nước. Các giảng viên trong lĩnh
vực này sau khi ra trường không chỉ đáp ứng những tiêu chí chung của các
chuyên gia làm việc trong ngành sư phạm, mà phải thực sự trở thành các
giảng viên giỏi về nghiệp vụ sư phạm, am hiểu sâu sắc về khoa học tâm lý,
giáo dục.
Trong quá trình đào nghề cho các chuyên gia tâm lý giáo dục trong
tương lai, định hướng sư phạm của mỗi cá nhân đóng vai trò đặc biệt quan
trọng. Đây là yếu tố tâm lý nội tại giữa vai trò quyết định trong việc chi phối

tính tích cực cá nhân trong việc lựa chọn nghề, tích cực lĩnh hội tri thức, kỹ
năng nghề và sau cùng là sẵn sàng hành nghề. Định hướng sư phạm không
phải đơn giản tự hình thành, tự xuất hiện. Trong quá hình thành cấu tạo tâm
lý này nhân cách của các nhà giáo, những tấm tương về đạo đức của các thầy
cô trong trường sư phạm và phong cách giảng dạy, truyền cho các thế hệ học
trò giữ vai trò quyết định. Sự tâm huyết với nghề, yêu mến học sinh, đem hết
khả năng của mình để phụ vụ cho học sinh, những ứng xử trong giao tiếp của

×