Tải bản đầy đủ (.doc) (100 trang)

QUYỀN VỀ MÔI TRƯỜNG TRONG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (358.62 KB, 100 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ THU HẰNG

QUYỀN VỀ MÔI TRƯỜNG TRONG PHÁP LUẬT
QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội - 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ THU HẰNG

QUYỀN VỀ MÔI TRƯỜNG TRONG PHÁP LUẬT
QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số

: 60 38 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Tường Duy Kiên

Hà Nội - 2016




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
luận điểm, nội dung nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nghiên cứu nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm
bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa
vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 25 tháng 3 năm 2016
Người cam đoan

Nguyễn Thị Thu Hằng


LỜI CẢM ƠN
Luận văn là kết quả quá trình học tập, nghiên cứu ở nhà trường, kết hợp
với kinh nghiệm trong quá trình thực tiễn công tác, với sự cố gắng nỗ lực của
bản thân.
Lời đầu tiên tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành, sâu sắc tới PGS.TS.
Tường Duy Kiên là người trực tiếp hướng dẫn khoa học, đã tận tình hướng
dẫn cho tôi cả chuyên môn và phương pháp nghiên cứu và chỉ bảo cho tôi
nhiều kinh nghiệm trong thời gian thực hiện đề tài.
Tôi xin chân thành cám ơn các thầy, cô giáo trong Khoa Luật trực thuộc
Đại học Quốc gia Hà Nội và bạn bè đã giúp đỡ tôi trong quá trình học tập
cũng như trong quá trình hoàn thành luận văn này.
Sau cùng, tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến gia đình đã luôn tạo điều

kiện tốt nhất cho tôi trong suốt quá trình học cũng như thực hiện luận văn.
Mặc dù với sự nỗ lực cố gắng của bản thân, luận văn không tránh khỏi
những thiếu sót. Tôi mong nhận được sự góp ý chân thành của các Thầy Cô,
đồng nghiệp và bạn bè để luận văn được hoàn thiện hơn.


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
1.Tính cấp thiết của đề tài..............................................................................1
3.1. Mục tiêu tổng quát..............................................................................5
3.2. Mục tiêu cụ thể...................................................................................5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.............................................................6
5. Tính mới của đề tài....................................................................................6
6. Nội dung, địa điểm và phương pháp nghiên cứu......................................7
6.1. Nội dung.............................................................................................7
6.2. Phương pháp nghiên cứu....................................................................7
7. Kết cấu của luận văn.................................................................................7
CHƯƠNG 1......................................................................................................8
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN QUYỀN VỀ MÔI TRƯỜNG.....................8
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển khái niệm Quyền con người về Môi
trường............................................................................................................8
1.1.1. Nhận thức của cộng đồng quốc tế về Quyền con người đối với Môi
trường........................................................................................................8
1.1.2. Sự phát triển khái niệm Quyền về Môi trường..............................19
1.1.3. Mối quan hệ giữa Quyền con người với Môi trường....................23
1.2. Nội dung Quyền con người về Môi trường..........................................29
CHƯƠNG 2....................................................................................................41
QUYỀN VỀ MÔI TRƯỜNG TRONG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ............41
2.1. Quyền con người về Môi trường trong các văn kiện Quốc tế..............41

2.1.1. Quyền con người về Môi trường trong Tuyên ngôn Thế giới về
Quyền con người năm 1948....................................................................41
2.1.2. Quyền con người về môi trường trong Công ước Quốc tế về các
quyền kinh tế, xã hội, văn hóa năm 1966................................................43


2.1.3. Quyền con người về môi trường trong Tuyến bố Stockholm năm
1972.........................................................................................................44
2.1.4. Quyền con người về môi trường trong Tuyên bố Rio năm 1992. .47
2.1.5. Quyền con người về môi trường trong Chương trình Nghị sự 21.49
2.2. Quyền con người về Môi trường trong pháp luật của một số nước.....51
CHƯƠNG 3....................................................................................................53
QUYỀN VỀ MÔI TRƯỜNG TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM...........53
3.1. Quyền con người về môi trường trong Hiếp pháp năm 2013...............53
3.2. Quyền con người về môi trường trong Luật bảo vệ môi trường năm
2014.............................................................................................................58
3.8. Nhận xét chung các quy định của pháp luật Việt Nam về Quyền con
người về Môi trường...................................................................................84
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................91


MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Môi trường đã, đang và sẽ trở thành một trong những vấn đề nóng bỏng
nhất đối với các nước phát triển cũng như đang phát triển. Vấn đề quyền con
người về môi trường cũng vì thế mà dần trở thành mối quan tâm hàng đầu của
các quốc gia, vì chỉ khi môi trường trong lành, quyền con người về môi
trường nói riêng và quyền con người nói chung mới có thể được đảm bảo một
cách hiệu quả.
Thật vậy, môi trường có sự ảnh hưởng rất lớn đến đời sống của mỗi con

người. Hiểu theo cách thuần túy nhất, môi trường ở đây chính là nguồn nước,
là cây xanh hay chính là không khí mà chúng ta hít thở hàng ngày…Nó chính
là các yếu tố tác động và ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của mỗi con
người. Theo nghiên cứu của các nhà khoa học thế giới, con số 3 là con số
chuẩn để đo ngưỡng giới hạn cuối cùng của con người bình thường trong hoạt
động nhịn thở và nhịn uống. Tức là nếu như không có nước uống trong 3
ngày, không có oxi để thở quá 3 phút thì con người sẽ chết. Chỉ một ví dụ đơn
giản đã có thể chứng minh cho chúng ta thấy được, môi trường chính là yếu tố
quyết định đến chất lượng sống và quyền sống của con người.
Trái đất nóng lên, băng tan, hiệu ứng nhà kính, ô nhiễm môi trường…
đang là những vấn đề vô cùng nghiêm trọng ảnh hưởng từng ngày đến toàn
thế giới. Đứng trước thực trạng đáng báo động của môi trường buộc cộng
đồng quốc tế phải có những cái nhìn đúng đắn về tầm quan trọng của môi
trường, quyền con người về môi trường. Nhận thức được điều đó, rất nhiều
các quốc gia đã ban hành các đạo luật cho riêng mình nhằm bảo vệ môi
trường. Nhiều Công ước quốc tế được ban hành nhằm gắn kết và nâng cao
tính bảo vệ môi trường liên kết và có được những kết quả đáng ghi nhận.
1


Tại Việt Nam, cùng với xu hướng Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa, với
những kết quả đã đạt được của một đất nước đang phát triển như tốc độ phát
triển kinh tế tăng, đời sống của con người được nâng cao, hội nhập quốc tế đạt
nhiều kết quả đáng tự hào…thì cũng kéo theo rất nhiều các vấn đề về môi
trường như ô nhiễm không khí, ô nhiễm môi trường nước, sự suy giảm
nghiêm trọng đa dạng sinh học…và rất nhiều vấn đề khác liên quan đến môi
trường, có những ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống con người. Đặc biệt, đối
với các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng thì nguy cơ môi
trường lại càng nóng bỏng khi có sự xung đột mạnh mẽ giữa nhu cầu cuộc
sống hàng ngày và nhu cầu phát triển của xã hội với sự cần thiết phải bảo vệ

môi trường, đảm bảo quyền con người về môi trường đang là dấu hỏi lớn
được đặt ra, phải làm sao để có được sự cân bằng và phát triển bền vững.
Hiến pháp năm 2013 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
lần đầu tiên quy định về quyền con người về môi trường tại Điều 43 “Mọi
người có quyền được sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ
môi trường". Điều đó cho thấy, quyền được sống trong môi trường trong lành
là quyền căn bản của con người được quy định cụ thể và rõ ràng trong Hiến
pháp bên cạnh các quyền khác như quyền được sống, quyền được học tập,
quyền tự do, quyền được nghiên cứu khoa học…Xuyên suốt chiều dài lịch sử,
đã có rất nhiều các văn bản quy phạm pháp luật về Môi trường được ban hành
như Luật bảo vệ môi trường năm 1993, Luật bảo vệ môi trường sửa đổi bổ
sung năm 2005, Luật bảo vệ môi trường năm 2014, Luật đa dạng sinh học,
Luật bảo vệ và phát triển rừng, Luật đất đai, Luật tài nguyên nước…và rất
nhiều các văn bản dưới luật khác như: Tiêu chuẩn phát thải cho các phương
tiện, tiêu chuẩn môi trường quốc gia, về phí bảo vệ môi trường đối với nước
thải, chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010, định hướng đến
năm 2020…cho thấy tầm quan trọng trong việc bảo vệ môi trường, đảm bảo
quyền con người về môi trường trong các chủ trương chính sách của Đảng và
2


Nhà nước, nhằm đảm bảo con người thực sự được sống trong môi trường
trong lành, với những tiêu chuẩn chất lượng cuộc sống cao nhất.
Tuy nhiên, những giải pháp đề ra vẫn chưa thực sự đạt được hiệu quả rõ
rệt, các quy định của pháp luật vẫn chưa được thực thi một cách triệt để, nhận
thức của người dân chưa thực sự được nâng cao về môi trường, về quyền con
người được sống trong môi trường trong lành.
Có thể thấy rằng, vấn đề quyền con người về môi trường với thế giới
nói chung và Việt Nam nói riêng đang còn rất nhiều vướng mắc, trở ngại buộc
chúng ta phải phân tích, tìm hiểu, nhằm đưa ra những giải pháp tốt nhất, hiệu

quả nhất góp phần giải quyết vấn đề môi trường triệt để theo hướng có lợi và
gắn liền với sự phát triển bền vững. Trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt
Nam có rất nhiều các quy định quyền con người về môi trường. Để có thể đưa
ra hướng đi tối ưu nhằm bảo vệ môi trường, đảm bảo quyền con người về môi
trường thì việc hiểu đủ, đúng và rõ về các quy định trong pháp luật quốc tế và
pháp luật Việt Nam là điều rất cần thiết. Từ đó chúng ta có thể đưa ra những
phân tích từ các Công ước quốc tế về quyền con người về môi trường, sau đó
lĩnh hội, kế thừa sao cho phù hợp với pháp luật Việt Nam - một quốc gia đang
phát triển thực sự quan tâm đến vấn đề Quyền con người về môi trường và
phát triển bền vững, đồng thời làm cơ sở lý luận và thực tiễn phục vụ cho việc
hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người về môi trường, pháp luật
môi trường trong thời gian tới. Chính từ những lý do và vấn đề đã nêu trên,
học viên lựa chọn cho mình đề tài: “ Quyền về môi trường trong pháp luật
Quốc tế và pháp luật Việt Nam” để nghiên cứu luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu
Cùng với thực tiễn xã hội, môi trường đã, đang và sẽ trở thành vấn đề
được nhiều nhà khoa học quan tâm, từng có rất nhiều các công trình nghiên
cứu xoay quanh vấn đề này. Tuy nhiên, nghiên cứu môi trường dưới góc
nhìn quyền con người về môi trường lại là vấn đề mới mẻ, đặc biệt quyền
3


con người về môi trường trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam một vấn đề xoay quanh và tìm hiểu quyền con người về môi trường trong
pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam lại là chủ đề rất mới trong việc tiếp
cận và nghiên cứu. Theo tìm hiểu, chỉ có một số bài viết, tham luận, nghiên
cứu khoa học, tài liệu tập huấn tại một số hội thảo khoa học, trong đó nổi bật
có thể kể đến:
- Tiếp cận quyền trong bảo vệ môi trường, TS. Nguyễn Đức Thùy chủ
biên, Tài liệu tập huấn của IUCN Việt Nam, Hà Nội - 2012
- Một số vấn đề pháp lý về quyền được sống trong môi trường trong

lành ở Việt Nam hiện nay, Th.S Bùi Đức Hiển
- Quyền về môi trường - một quyền con người mới trong thời kì hiện
đại, Lưu Mẫn, Quyền con người ở Trung Quốc và Việt Nam, Nhà xuất bản
Chính trị Quốc gia, Hà Nội - 2003
- Mấy góp ý về quyền được sống trong môi trường trong lành trong dự
thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Th.S Bùi Đức Hiển, Tạp chí Nhà nước và
pháp luật, Viện Nhà nước và Pháp luật, Số 6/2013, tr.12-18.
- Một số vấn đề cơ bản về quyền con người với môi trường và điều kiện
đảm bảo thực thi ở Việt Nam giai đoạn 2011-2020 vì mục tiêu phát triển con
người, Đào Thị Minh Hương, Đề tài khoa học cấp Bộ, Viện nghiên cứu con
người, Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội - 2012
- Pháp luật Quốc tế về quyền tiếp cận thông tin, ThS. Thái Anh Hùng,
Hà Nội - 2015
- Hoàn thiện pháp luật về môi trường để phát triển bền vững, ThS. Bùi
Đức Hiển, Tạp chí Cộng Sản, Hà Nội - 2016
- Môi trường với quyền con người và quyền con người trong bảo vệ
môi trường ở Việt Nam, ThS. Phạm Thị Tính, Tạp chí nghiên cứu Lập pháp số
172, tr.18-25
4


Những công trình nêu trên đã cung cấp một lượng kiến thức căn bản
quyền con người về môi trường. Tuy nhiên, chưa có một công trình nào
nghiên cứu một cách toàn diện từ quy định pháp luật quốc tế và pháp luật Việt
Nam về vấn đề này, đồng thời lồng ghép thực tiễn và đưa ra đánh giá về tính
thực thi của pháp luật quyền về môi trường trong các lĩnh vực liên quan, phân
tích cụ thể nguyên tắc Hiến định, từ đó đưa ra giải pháp khắc phục toàn diện,
giúp cho quyền về môi trường được kế thừa và thực thi một cách hiệu quả. Vì
vậy, việc nghiên cứu quyền về môi trường trong pháp luật quốc tế và pháp
luật Việt Nam là một đề tài mang tính mới, có ý nghĩa nhất định về lý luận và

thực tiễn.
3. Mục tiêu nghiên cứu
3.1. Mục tiêu tổng quát
Làm rõ những vấn đề lý luận quyền về môi trường được quy định trong
pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam hiện nay, từ đó chỉ ra được những
tiến bộ, bất cập, hạn chế, đưa ra những phương hướng, giải pháp nhằm giúp
pháp luật quyền về môi trường đi vào thực tế một cách hiệu quả hơn, góp
phần thực thi nguyên tắc Hiến định quyền con người được sống trong môi
trường trong lành.
3.2. Mục tiêu cụ thể
- Nêu và phân tích những nội dung quyền về môi trường trong pháp
luật quốc tế như: Công ước quốc tế và trong pháp luật của một số quốc gia.
- Nêu và phân tích những nội dung quyền về môi trường trong pháp
luật Việt Nam, đặc biệt đi sâu và làm rõ nguyên tắc Hiến định quyền con
người được sống trong môi trường trong lành.
- Đưa ra những phân tích đánh giá quyền về môi trường trong pháp luật
quốc tế và pháp luật Việt Nam, từ đó làm cơ sở lý luận, giúp hoàn thiện hệ
thống pháp luật quyền con người về môi trường
5


- Nêu lên thực trạng bảo đảm thực thi quyền về môi trường trong pháp
luật Việt Nam, đưa ra những kiến nghị nhằm đảm bảo quyền con người về
môi trường trong pháp luật quốc tế nói chung và pháp luật Việt Nam nói riêng
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Quyền về môi trường là một quyền con người bên cạnh các quyền về
dân sự, kinh tế, xã hội khác… Chính vì vậy, quyền về môi trường trong đề tài
nghiên cứu này được tiếp cận dưới góc độ quyền con người về môi trường.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài chính là các vấn đề lý luận và thực tiễn
quyền con người về môi trường trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt

Nam, đặc biệt chú trọng về vấn đề quyền môi trường lần đầu tiên được quy
định tại Hiến pháp năm 2013.
5. Tính mới của đề tài
Vấn đề môi trường là một trong những vấn đề đã được các nhà khoa
học nghiên cứu từ nhiều góc nhìn và cho ra đời nhiều đề tài khác nhau. Tuy
nhiên, phần lớn mới chỉ dừng lại ở góc độ gắn liền môi trường với pháp luật
và kinh tế. Trong thời gian gần đây, khi nhận thức môi trường có mối quan hệ
mật thiết tới sức khỏe và quyền con người thì hướng tiếp cận quyền về môi
trường dưới góc độ quyền con người về môi trường là khá mới mẻ, hơn thế
nữa, đề tài nghiên cứu còn tiếp cận về quyền môi trường từ cả góc độ pháp
luật quốc tế và pháp luật Việt Nam, từ đó đưa ra cái nhìn tổng quát, nhằm
hoàn thiện, kế thừa có chọn lọc những điểm ưu việt của pháp luật quốc tế đối
với pháp luật quyền con người về môi trường của Việt Nam, với mục tiêu hòa
nhập và bắt kịp xu thế thời đại. Đồng thời, Hiến pháp năm 2013 được Quốc
Hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 6 ngày
28 tháng 11 năm 2013 thông qua, là Hiến pháp mới ban hành, trong đó quyền
con người được sống trong môi trường trong lành cũng là một trong những
nguyên tắc Hiến định mới được đưa ra. Luận văn nghiên cứu góp phần trong
việc thực thi hiệu quả Hiến pháp 2013.
6


6. Nội dung, địa điểm và phương pháp nghiên cứu
6.1. Nội dung
Đưa ra và phân tích quyền về môi trường trong pháp luật quốc tế và
pháp luật Việt Nam dưới góc độ quyền con người về môi trường. Từ đó tìm ra
phương hướng hoàn thiện hệ thống pháp luật quyền về môi trường dưới góc
độ tiếp cận cũng như góp phần thực thi nguyên tắc Hiến định quyền con
người được sống trong môi trường trong lành.
6.2. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa MácLênin (duy vật biện chứng và duy vật lịch sử), tư tưởng Hồ Chí Minh và các
quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về Nhà nước và Pháp luật, về Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đảm bảo quyền con người về môi trường. Việc
nghiên cứu được thực hiện từ góc độ lý luận chung, đặc biệt là vấn đề quyền
con người về môi trường trong đó chú trọng đến nguyên tắc Hiến định quyền
con người được sống trong môi trường trong lành và sử dụng cách tiếp cận
liên ngành. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng là phân tích,
tổng hợp, lịch sử, so sánh, thống kê...
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, cấu trúc luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận Quyền về môi trường
Chương 2: Quyền về Môi trường trong Pháp luật Quốc tế
Chương 3: Quyền về môi trường trong Pháp luật Việt Nam

7


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN QUYỀN VỀ MÔI TRƯỜNG
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển khái niệm Quyền con người
về Môi trường
1.1.1. Nhận thức của cộng đồng quốc tế về Quyền con người đối với
Môi trường
Có thể nói rằng, từ phương Đông đến Phương tây, tư tưởng về quyền
con người đã xuất hiện, hình thành và phát triển trong tất cả các nền văn hóa.
Đây không phải là sản phẩm của một giai cấp, tầng lớp, dân tộc hay nền văn
hóa nào mà chính là sự kết tinh của nền văn minh nhân loại.
Trong thời đại ngày nay, ở bất kì một quốc gia nào, quyền con người
cũng được chú trọng và quan tâm hàng đầu, trong mọi lĩnh vực, từ vấn đề
hoạch định chính sách, pháp luật đến thiết lập quan hệ đối ngoại giữa các

quốc gia.
Quyền con người là một giá trị cao quý, cả thế giới đang hướng tới xây
dựng một xã hội mà ở đó con người được hưởng một cách thực chất nhất các
quyền lợi của mình - một cách trọn vẹn.
Từ thời cổ đại, chúng ta cũng dễ dàng tìm thấy những văn bản pháp
luật chứa đựng, đề cập đến việc bảo vệ các giá trị, nhân phẩm của con người.
Đó chính là các quy định nhằm bảo vệ các quyền của thần dân nhằm chống lại
các vi phạm xâm phạm đến các quyền vốn có như quyền sống, quyền sở hữu,
quyền tự do thân thể…Điển hình là Bộ luật Hammurabi (khoảng năm 1780
TCN) - một trong những bộ luật tiêu biểu nhất cho thời cổ đại với hình phạt
vô cùng nghiêm khắc: tội vu khống người khác, tội xâm phạm quyền sở
hữu…Ngoài ra, có rất nhiều các tác phẩm tôn giáo nổi tiếng thế giới cũng thể
hiện tấm lòng yêu thương con người như: Kinh Ko-ran, Luận ngữ, Kinh phật,
Kinh thánh…
8


Có thể thấy rằng, tư tưởng quyền con người được hình thành từ rất sớm
trong lịch sử nhân loại. Tuy nhiên, đã có rất nhiều quan điểm trái chiều về
quyền con người, rằng nó là quyền tự nhiên hay quyền pháp lý. Trên thế giới
đã đưa ra rất nhiều giả thuyết từ những người theo các trường phái khác nhau.
Cùng với sự phát triển của thời đại, từ cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, tư
tưởng quyền con người đã dần trở thành một vấn đề mang tính chất toàn cầu,
được thể chế hóa một cách toàn diện và có tính hệ thống. Một loạt các tổ chức
Quốc tế ra đời như: Hội chữ thập đỏ và Trăng lưỡi liềm đỏ Quốc tế ra đời năm
1863, Hội Quốc liên và Tổ chức Lao động Quốc tế ra đời ra đời năm 1919. Và
đặc biệt từ sau sự ra đời của Liên hợp Quốc năm 1945 và ban hành Tuyên
ngôn thế giới về Quyền con người năm 1948 thì vấn đề quyền con người đã
trở thành mục tiêu chung của toàn nhân loại.
Mặc dù Tuyên ngôn không đưa ra định nghĩa về quyền con người mà đi

thẳng vào nội hàm của vấn đề, nhưng ngay ở lời nói đầu của Tuyên ngôn: “
Việc thừa nhận phẩm giá vốn có, các quyền bình đẳng và không thể tách rời
của mọi thành viên trong gia đình nhân loại là cơ sở cho tự do, công bằng và
hòa bình thế giới” đủ để cho chúng ta thấy quyền con người là một quyền tự
nhiên, vốn có nhưng phải được pháp luật ghi nhận và bảo vệ.[19]
Ở Việt Nam hiện nay, đã có một số định nghĩa về quyền con người
được đưa ra, nhưng về căn bản không phải định nghĩa nào cũng hoàn toàn
giống nhau, tựu chung lại chúng đều được hiểu theo hướng quyền con người
là “những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có và khách quan của con người
được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý
quốc tế” [18, tr38]
Nói đến quyền về môi trường thực chất để nói tới quyền của con được
sống trong môi trường trong lành. Đây chính là sự phát triển dựa trên những
lý thuyết về quyền con người.
9


Có thể thấy rằng, trong những văn bản pháp luật đầu tiên về quyền con
người, mặc dù đã có rất nhiều các quy định bao hàm tư tưởng nhằm bảo vệ
những quyền căn bản như quyền được sống, quyền được sở hữu, quyền tự do
thân thể… quyền về môi trường lại chưa được các nhà làm luật nghĩ tới, bởi
lẽ, trong thời kì đầu của xã hội nguyên thủy, mục tiêu hướng tới của con
người là khai phá và làm chủ thiên nhiên.
Quyền về môi trường được phát sinh trên cơ sở lợi ích chung của toàn
nhân loại. Không phải chỉ vì lợi ích của một giai cấp, một nền văn hóa, một cá
nhân hay một quốc gia nào đó. Trong quá trình khai thác và làm chủ thiên
nhiên, để phục vụ cho cuộc sống của toàn nhân loại thì sự xung đột với thiên
nhiên lại diễn ra đồng thời. Khi mà nền kinh tế ngày càng phát triển, cùng với
quá trình Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa lại kéo theo sự suy thoái của môi
trường tự nhiên. Trong những năm gần đây, cơn giận dữ của mẹ thiên nhiên

đã cho chúng ta giật mình thấy những hậu quả nặng nề do chính chúng ta gây
ra: biến đổi khí hậu, hiệu ứng nhà kính, trái đất nóng lên…gây ra một loạt
những hậu quả nghiêm trọng mà chúng ta phải gánh chịu.
Con người đang ngày càng nhận thức được những hậu quả nghiệm
trọng mà ô nhiễm môi trường gây ra. Quyền sống căn bản đang bị đe dọa.
Chính vì vậy mà con người đã nảy ra ý tưởng về một môi trường trong lành,
về quyền và nghĩa vụ để giữ môi trường trong lành và phát triển bền vững.
Làm sao để cải thiện và giúp cho môi trường phát triển bền vững, đảm bảo
cho sự phát triển của một thế hệ tương lai. Cũng chính từ đó quyền về môi
trường ra đời.
Như chúng ta đã biết, các khái niệm căn bản liên quan đến quyền con
người chủ yếu gắn với quyền cá nhân và quyền tài sản. Trong đó quyền cá
nhân bao gồm quyền sống, quyền tự do còn quyền tài sản liên quan đến quyền
sở hữu. Ở đây, bản chất của các quyền này thể hiện mối quan liên hệ giữa con
10


người với con người, còn quyền về môi trường lại đề cập đến mối quan hệ
giữa con người với thiên nhiên.
Chỉ khi chúng ta có những vấn đề về môi trường, ảnh hưởng tới đời sống
và các quyền căn bản của con người, chúng ta mới xác lập quyền về môi
trường. Ban đầu, quyền về môi trường không được coi là một quyền con người
độc lập mà nó được coi là một quyền phát sinh từ quyền con người truyền
thống như quyền được sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc…Tức là
quyền về môi trường trước đây không phải là một quyền độc lập.
Thực chất có thể xếp quyền về môi trường vào nhóm quyền con người,
nhưng lại không có quyền nào giống như quyền về môi trường. Quyền về môi
trường có thể rất gần với quyền sống, nhưng lại khác xa quyền sống thông
thường, bởi quyền về môi trường vượt xa quyền sống. Tại sao lại nói vậy, bởi
vì môi trường có ảnh hưởng mật thiết đến chất lượng cuộc sống của con

người. Môi trường có trong lành thì chất lượng cuộc sống của con người mới
được nâng cao, các hoạt động sản xuất nông nghiệp với thuận lợi, thiên tai
dịch bệnh khó có cơ hội bùng phát…Chính vì vậy mà quyền về môi trường
cần thiết được ra đời, nó xuất phát từ chính nhu cầu của thời đại.
Mặc dù vấn đề quyền về môi trường đã được quan tâm nhưng nó được
quan tâm đúng mức hay chưa lại là vấn đề cần lời giải đáp. Tất cả các quốc
gia đều thừa nhận quyền về môi trường , nhưng nó đã được thực hiện hay
chưa lại là một chuyện khác. Hiện nay mới chỉ có rất ít quốc gia thực hiện,
một phần bởi quyền về môi trường là một quyền mới, tuy nhiên với tầm quan
trọng và dài lâu thì các quốc gia nên chú trọng và coi nó là một quyền căn
bản. Hiện tại, quyền về môi trường đã được công nhận trên bình diện quốc tế
nhưng mới chỉ dừng lại ở nguyên tắc chỉ đạo trong các tuyên bố hay nghị
quyết không bắt buộc với tất cả các nước. Quyền về môi trường thực tế nên
được quy định trong pháp luật của từng quốc gia. Bởi lẽ nó xuất phát từ thực
11


tế, quyền có một môi trường trong lành chính là để đáp ứng nhu cầu sống của
con người. Để có thể thỏa mãn những quyền cơ bản thì con người cần đạt
được và duy trì một tiêu chuẩn sống tốt nhất, mà điển hình là vấn đề môi
trường. Hơn nữa, nhu cầu về môi trường trong lành, lành mạnh là vô cùng
quan trọng đối với việc bảo vệ cuộc sống, bảo tồn, nâng cao chất lượng và
điều kiện sống. Những chuẩn mực về sức khỏe và phúc lợi sẽ không thể bền
vững trong một môi trường đã bị vắt kiệt những yếu tố duy trì sự sống. Cần
làm sao để có thể vừa khai thác thiên nhiên phục vụ cho nhu cầu cuộc sống
nhưng vẫn phải đảm bảo sự phát triển bền vững cho tương lai. Sự can thiệp
quá sâu vào môi trường sinh thái có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng,
thậm chí đẩy lùi con người về quá khứ, tước đi môi trường xã hội, trí tuệ và
công nghệ mà con người đã dày công xây dựng những năm qua. Con người
muốn phát triển ổn định thực sự cần có sự hậu thuận của thiên nhiên, muốn

vậy, chúng ta cần có trách nhiệm bảo vệ môi trường sống một cách bền vững.
Tuyên ngôn Quyền con người thế giới năm 1948, Tuyên bố của Liên
hợp Quốc về Môi trường và Phát triển năm 1972, Tuyên bố Rio năm 1992…
là những cơ sở pháp lý quan trọng quyền con người về môi trường trên thế
giới. Trước và sau khi có Dự thảo Tuyên ngôn Quyền con người về môi
trường năm 1994, nhiều nước trên thế giới đã tiếp cận quyền về môi trường
thông qua việc ban hành các quy định, điều luật công nhận quyền con người
đối với môi trường cũng như xây dựng cơ chế thực thi quyền. Bảo vệ môi
trường theo hướng cho phép nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống và tạo cơ
hội bình đẳng cho mọi người tiếp cận môi trường như nguồn lực phát triển và
môi trường sống. Đây chính là cách tiếp cận quyền căn bản và dần trở thành
cơ sở trong việc ban hành các chính sách pháp luật nói chung và các chính
sách, pháp luật về môi trường nói riêng.

12


Việc xây dựng cơ sở pháp lý và thực thi quyền con người với môi
trường căn bản dựa trên ba bước tiếp cận:
- Thứ nhất: Huy động và sử dụng các quyền đang có đã đạt được mục
đích bảo vệ môi trường
- Thứ hai: Giải thích lại các quyền hiện có, tính đến các mối quan tâm
đến môi trường
- Thứ ba: Tạo ra các quyền mới bao gồm đủ các đặc tính về môi trường
Bên cạnh đó còn có rất nhiều cách tiếp cận khác nhau. Bảo vệ môi
trường có thể đạt được kết quả không chỉ thông qua việc khẳng định các
quyền con người hiện tại mà còn có thể qua sự phát triển của quyền con người
mới liên quan đến môi trường hoặc một quyền chung đối với môi trường.
Chính điều đó đòi hỏi quyền con người về môi trường cần được nâng tầm sao
cho bình đẳng với các quyền khác của con người. Không chỉ từ nguồn gốc

của quyền con người phát triển lên mà còn có sự ngang tầm cần thiết đúng với
xu thế phát triển của thời đại ngày nay.
Việc sử dụng một phần các quyền con người sẵn có từ dân sự, chính trị,
kinh tế, xã hội và văn hóa là vô cùng cần thiết. Điều đó đã được quy định cụ
thể trong Tuyên ngôn thế giới về Quyền con người năm 1948, Công ước Quốc
tế về các quyền dân sự, chính trị ( ICCPR) hay Công ước Quốc tế về các
quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966 (ICESCR)
Điều 1 của Công ước Quốc tế về các quyền dân sự, chính trị ( ICCPR)
và Công ước Quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966
(ICESCR) quy định: “ Vì lợi ích của mình, các dân tộc có quyền tự do định
đoạt nguồn tài nguyên thiên nhiên và của cải của mình miễn là không làm
phương hại đến các nghĩa vụ phát sinh từ hợp tác kinh tế, quốc tế mà dựa
trên nguyên tắc các bên cùng có lợi và nguyên tắc của luật pháp quốc tế.
Trong bất kì hoàn cảnh nào cũng không được phép tước đi những phương
tiện sinh tồn của một dân tộc” [20,21]
13


Đây chính là một sự cảnh báo thể hiện tầm quan trọng về vấn đề bảo vệ
môi trường và lên án các quốc gia đang góp phần gây nên tình trạng ô nhiễm
môi trường khi mà vào những năm 1960, các vấn đề môi trường bị xếp vào
hàng thứ yếu, các chính sách về môi trường chủ yếu mang tính nhỏ lẻ nhằm
chống lại những ô nhiễm cục bộ theo thời gian và không gian. Nguyên nhân
của chúng dễ dàng có thể nhận thấy, đó chính là các chất thải, nước thải gây
ra các vấn đề như ô nhiễm khí quyển dẫn đến các rủi ro về nông nghiệp, công
nghệ… hầu như không được xử lý. Điển hình là thảm họa về môi trường do
các hoạt động kinh tế gây nên như: tác động ô nhiễm do thủy ngân ở Nhật
Bản vào những năm 1950 và dẫn đến ảnh hưởng lâu dài tới môi trường. Chính
vì vậy đã dẫn đến nhiều tranh cãi về vấn đề môi trường song song với vấn đề
phát triển kinh tế. Các tranh luận về tình trạng cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên

bắt đầu tạo ra nhận thức rằng với những điều kiện hiện tại của sự tăng trưởng
không thể tiếp tục tồn tại nếu như không có những biện pháp, giải pháp nhằm
tạo sự phát triển bền vững cũng như bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo
vệ môi trường.
Chính vì vậy, từ các quyền con người căn bản, tại hai Công ước trên
chúng ta có thể tận dụng và gắn kết với việc bảo vệ môi trường, đảm bảo
quyền về môi trường. Đơn cử là quyền tham gia chính trị, tham gia hiệp hội,
quyền tự do ngôn luận, tự do cá nhân… sẽ cho phép chúng ta được nói lên các
vấn đề về ô nhiễm môi trường khi mà hàng ngày, hàng giờ họ đang phải đối
mặt. Với Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966
đã đưa ra khuôn khổ pháp lý và đạo đức bảo vệ môi trường thông qua một
loạt các quy định, các quyền về sức khỏe, quyền được hưởng lợi từ các tài
nguyên thiên nhiên, quyền có điều kiện sống tối thiểu…
Có thể thấy Tuyên ngôn về Nhân quyền (UDHR) năm 1948 cùng với
hai Công ước ra đời năm 1966 là Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và
14


chính trị (ICCPR) và Công ước về các quyền kinh tế xã hội và văn hóa
(ICESCR) đã tạo thành một hành lang vững chắc với những quy định về nhân
quyền quốc tế. Đây chính là những quy định, cũng chính là sự đảm bảo cho
một loạt các quyền con người về các vấn đề trên nhiều lĩnh vực như bảo vệ
quyền về sức khỏe, vệ sinh, thực phẩm và tiếp cận nước sạch… Là tiền để
vững chắc để có thể đảm bảo quyền về môi trường sau này.
Tại Stockholm năm 1972, Hội nghị về Môi trường và phát triển của
Liên hợp Quốc đã thừa nhận Quyền được hưởng một cuộc sống với mức sống
đủ cho sức khỏe và hạnh phúc, quyền lương thực, nước sạch…Với Tuyên bố :
“Con người có các quyền cơ bản về tự do, bình đẳng và điều kiện sống đầy
đủ trong môi trường chất lượng, cho phép con người có cuộc sống khỏe
mạnh”. Về căn bản thì với Tuyên bố này, cũng đã có sự xác nhận quyền về

môi trường là một quyền căn bản và cần phải có của nhân loại.
Tiếp sau đó, năm 1986, với Tuyên ngôn về Quyền phát triển cũng đã
đưa ra khẳng định quyền phát triển là quyền phổ biến và không thể chuyển
nhượng, là bộ phận thiết yếu của quyền con người, vì vậy các quốc gia cần áp
dụng các biện pháp cần thiết để hiện thực hóa quyền phát triển, bảo đảm bình
đẳng về cơ hội cho tất cả mọi người trong tiếp cận các nguồn tài nguyên cơ
bản. Và trong Nghị quyết 54/175 cũng đã một lần nữa khẳng định “ Quyền
thực phẩm và nước sạch là các quyền con người cơ bản và thúc đầy các
quyền này là yêu cầu đạo đức bắt buộc cho cả các chính phủ và cộng đồng
quốc tế”. Ở đây có thể thấy rất rõ mối quan hệ giữa quyền phát triển và quyền
về môi trường là một trong những mối quan hệ mật thiết. Con người, muốn
đảm bảo quyền phát triền cần phải có một môi trường trong lành, đảm bảo
tiêu chuẩn sạch đáp ứng những nhu cầu cơ bản nhất như hít thở, nguồn
nước…[41]

15


Sau đó, với kế hoạch Mar de Plata cũng thừa nhận nước là một Quyền
con người: Tất cả mọi người có quyền tiếp cận bình đẳng về nước uống, đủ về
số lượng và chất lượng, đáp ứng nhu cầu cơ bản của con người.
Đến năm 1990 tại Hội nghị thượng đỉnh Thế giới về trẻ em, trong kế
hoạch hành động cũng đã kêu gọi sự hợp tác giữa các Quốc gia và Quốc tế
nhằm đạt được sự tiếp cận toàn cầu đối với nước uống và các phương tiện vệ
sinh vì sự sống còn và phát triển của trẻ em. Cũng trong năm 1990 này, trong
Nghị quyết 45/94, sự cần thiết về môi trường một lần nữa được khẳng định: “
Tất cả các cá nhân có quyền sống trong môi trường được bảo đảm tối thiểu
cho sức khỏe và hạnh phúc”. Như vậy, cùng theo thời gian và các vấn đề phát
sinh thì môi trường đang ngày càng được các quốc gia và toàn thế giới quan
tâm. Họ cũng đã nhận thức được rẳng, để đảm bảo các quyền căn bản của con

người, để con người có thể sống hạnh phúc thì phải đảm bảo một môi trường
trong lành và lành mạnh.
Năm 1992 cũng đánh dấu nhiều sự chuyển biến tích cực trong chính
nhận thức của cộng đồng quốc tế. Với tuyên bố Dublin của Hội nghị về nước
vì sự phát triển bền vững đã tái khẳng định quyền về nước là một quyền căn
bản của con người, quyền được tiếp cận với nước sạch, vệ sinh và giá hợp lý
tại Nguyên tắc thứ tư. Cũng trong năm 1992, trong Hội nghị thượng đỉnh về
Môi trường và Phát triển tại Rio de Janeiro, ở nguyên tắc đầu tiên cũng đưa ra
những quy định thể hiện sự quan tâm và cần thiết đối với quyền về môi
trường. Nguyên tắc 1 có nói: “Con người có quyền có cuộc sống lành mạnh
trong sự hòa hợp với thiên nhiên”. Không chỉ ở Hội nghị Rio năm 1992,
quyền con người được sống trong môi trường lành mạnh và có sự hòa hợp với
thiên nhiên còn được đề cập ở rất nhiều các văn kiện khác nhau như: Công
ước khung về Biến đổi khí hậu, Công ước về Đa dạng sinh học…[42]

16


Bên cạnh đó, tại hội nghị Rio năm 1992 còn nhấn mạnh sự tham gia
của đông đảo các thành phần từ phụ nữ, thanh niên cho đến các cộng đồng địa
phương…Đây là một sự móc nối quan trọng, là yếu tố tiên quyết giúp cho
quyền về môi trường được vững chắc và đạt được hiệu quả nhất định khi có
sự ủng hộ, tham gia thực hiện một cách hiệu quả nhất với đông đảo các giai
cấp, tầng lớp. Đây cũng chính là điều kiện tiên quyết tạo nên sự phát triển bền
vững mà chúng ta đang hướng tới.
Vấn đề môi trường trong thời gian này đã được quan tâm một cách
đúng mức nhất, các quốc gia đã có sự nhìn nhận sâu sắc và lường trước hậu
quả khi bà mẹ thiên nhiên nổi giận, một loạt các văn kiện quốc tế được ban
hành như: Công ước về kiểm soát chất thải nguy hại xuyên biên giới, bảo vệ
tầng ô zôn; Nghị quyết về tiếp cận nước sạch…

Quyền về môi trường trong cộng đồng quốc tế đang ngày càng được
ghi nhận mạnh mẽ. Ở cấp độ khu vực, trong Hiến chương của Châu Phi về
quyền con người; Nghị định thư bổ sung Công ước nhân quyền liên Mỹ về
các quyền kinh tế, văn hóa và xã hội, Công ước Châu Âu về tiếp cận thông
tin, sự tham gia và tiếp cận tư pháp trong các vấn đề môi trường…Ở cấp độ
quốc gia, đã có hơn 100 quốc gia ghi nhận quyền về môi trường hoặc nghĩa
vụ của các quốc gia trong việc ngăn chặn sự tổn hại môi trường.
Tiếp đó năm 2003, Hiến chương Trái đất đã thông qua, bao gồm những
nguyên tắc về việc xây dựng một xã hội công bằng, bền vững và hòa bình.
Trong đó có rất nhiều các quyền liên quan đến vấn đề môi trường như quyền
tiếp cận nước, không khí, nơi ở và đất đai không bị ô nhiễm…
Đến năm 2010, Nghị quyết 64/292 - Nghị quyết về Quyền con người
với nước sạch và vệ sinh môi trường đã được thông qua, nhằm tái khẳng định
tầm quan trọng đối với vấn đề nước sạch và vệ sinh môi trường. Môt trong
những vấn đề đã được khẳng định ở rất nhiều các văn kiện trước đó.
17


Trong những năm tiếp theo, cùng với sự phát triển về kinh tế, xã hội thì
vấn đề môi trường ngày càng được thế giới quan tâm. Một loạt các vấn đề
phát sinh từ môi trường, những hậu quả song song với sự phát triển đòi hỏi
chúng ta làm thế nào để có sự phát triển bền vững, để những thế hệ tương lai
vẫn có thể được sống trong môi trường trong lành? Đó là câu hỏi lớn đặt ra
không chỉ với cá nhân, một quốc gia mà là toàn xã hội, chúng ta cần chung
tay bảo vệ môi trường nhằm đảm bảo quyền con người về môi trường.
Tại Hội nghị Rio+20 vào năm 2012, Liên hợp Quốc vẫn kêu gọi cộng
đồng quốc tế có những hành động quyết liệt hơn nhằm bảo vệ môi trường.
Trong những năm đầu thế kỉ XIX này, một loạt các vấn đề như khan hiếm
nước ngọt, giá lương thực tăng cao, sự khắc nghiệt của các thảm họa thiên
nhiên ngày càng gia tăng, kéo theo đó là chất lượng cuộc sống của con người

cũng dần suy giảm khi mà biến đổi khí hậu, hiệu ứng nhà kính, thủng tầng ô
zôn… gây ra một loạt các thiên tai dịch họa. Số người dưới ngưỡng nghèo
trên thế giới có thể tăng lên rất nhiều lần vào những năm tới nếu như chúng ta
không tập trung giải quyết các vấn đề về môi trường - vấn đề có sự ảnh hưởng
nghiêm trọng và trực tiếp nhất tới sự phát triển của con người.
Suốt những thập kỉ qua, quyền con người nói chung và quyền con
người về môi trường nói riêng đã phát triển và ngày càng được thế giới khẳng
định tầm quan trọng của nó đối với đời sống xã hội cũng như sự phát triển bền
vững. Trong Báo cáo phát triển con người năm 2011 đã khẳng định một cách
rõ ràng “Một môi trường sạch và an toàn là quyền chứ không phải ân huệ”.
Từ đó có thể thấy trong thời kì phát triển ngày nay, chất lượng cuộc sống tốt
là điều mà mỗi cá nhân, mỗi quốc gia và toàn thế giới đang hướng tới. Con
người trong xã hội hiện đại không chỉ hướng tới ăn no, mặc ấm mà còn hướng
tới một xã hội mà chất lượng cuộc sống được nâng cao, cơ sở vật chất, chế độ
giáo dục phát triển và đặc biệt là môi trường sống trong lành, đất, nước,
không khí và thực phẩm sạch cũng là những vấn đề vô cùng cần thiết.
18


1.1.2. Sự phát triển khái niệm Quyền về Môi trường
Quyền về môi trường được xuất phát từ chính thực tại xã hội, khi mà
vấn đề môi trường đang từng ngày từng giờ ảnh hưởng tới đời sống và sự phát
triển của loài người.
Nếu như quyền con người đã được manh nha xuất hiện từ rất sớm thì
quyền về môi trường lại xuất hiện sau đó, khi mà vấn đề môi trường trở
thành mối quan ngại hàng đầu cho toàn xã hội. Mối quan hệ giữa con người
với môi trường xuất hiện từ rất sớm, khi xuất hiện xã hội loài người. Tuy
nhiên trong thời kì sơ khai, con người cần khai thác thiên nhiên để phát
triển, để duy trì sự sống và phục vụ cho chính những nhu cầu thiết yếu của
xã hội loài người, để khẳng định sự “cai trị” của con người đối với thiên

nhiên thì mối quan hệ này vẫn chưa xảy ra xung đột. Cho đến khi môi
trường ô nhiễm, suy thoái và có sự ảnh hưởng nặng nề tới toàn xã hội thì
chúng ta mới bắt đầu quan tâm đến vấn đề phát triển bền vững, mới thấy
rằng để đảm bảo các quyền con người căn bản thì cần phải có một môi
trường sống trong lành và chất lượng, để tài nguyên thiên nhiên còn có thể
bền vững cho tương lai con em chúng ta. Ô nhiễm, suy thoái tài nguyên
thiên nhiên không còn dừng lại là vấn đề của một cá nhân, một địa phương,
một quốc gia mà nó chính là vấn đề của toàn nhân loại. Chúng ta bắt đầu
nhận thấy mối quan hệ hai chiều giữa sự phát triển của con người và môi
trường, để có thể phát triển bền vững, bên cạnh hành lang pháp lý chặt chẽ
đưa vấn đề quyền môi trường vào trong các văn bản pháp luật của từng quốc
gia, các Công ước quốc tế có hiệu lực trên phạm vi toàn cầu, còn do chính
tinh thần, trách nhiệm và nghĩa vụ của mỗi cá nhân, cộng đồng.
Bước sang thế kỉ XXI, chúng ta thấy rõ sự nổi giận của bà mẹ thiên
nhiên, một loạt các thiên tai, thảm họa với tần xuất thường xuyên trên khắp
thế giới: sự tác động của biến đổi khí hậu, hiệu ứng nhà kính, các thiên tai
19


×