Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

Đề cương ôn tập thi tốt nghiệp trung cấp lý luận chính trị b98

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (563.82 KB, 87 trang )

ĐỀ CƯƠNG ÔN THI TỐT NGHIỆP
LỚP TRUNG CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH.
Nội dung ôn tập theo vấn đề
Bài thi thứ nhất
Vấn đề 1; Những vấn đề cơ bản về chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Vấn đề 2: Những vấn đề kinh tế chính trị của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Vấn đề 3: Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
Vấn đề 4: Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
Vấn đề 5: Đảng cộng sản cầm quyền và phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện Đảng cầm
quyền
Vấn đề 6: Đảng lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước (1986 đến nay)

1


Vấn đề 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ
BẢN CỦA CHỦ NGHĨA
DUY VẬT LỊCH SỬ
Câu1 :Trình bày nội dung quy luật QHSX
phù hợp với trình độ phát triển của LLSX?
Liên hệ với quá trình phát triển theo định
hướng XH ở Việt Nam?
Phương thức sx là cách thức con người
thực hiện quá trình sản xuất vật chất trong
từng giai đoạn lịch sử nhất định. Ở 1 giai đoạn
LS, một hình thái KTXH nhất định có 1
phương thức sản xuất riêng. PTSX bao gồm 2
mặt có quan hệ mật thiết với nhau: LLSX và
QHSX
LLSX: là sự thống nhất hữu cơ giữa người
LĐ vói TLSX, trước hết là công cụ LĐ.


LLSX bao gồm người LĐ kết hợp vói
TLSX.
TLSX là sự kết hợp của cơ cấu LĐ, đối
tượng LĐ và các phương tiện sản xuất khác.
Trong các yếu tố của TLSX thì cơ cấu
LĐ là yếu tố quyết định nhất trong quá trình
sản xuất vật chất. Cơ cấu LĐ là khí quan vật
chất “nối dài” nhân lên sức mạnh của con
người trong quá trình biến đổi tự nhiên. Cơ
cấu LĐ là thước đo năng lực thực tiễn của con
người. Trình độ của cơ cấu LĐ thể hiện trình
độ chinh phục tự nhiên của con người và là
yếu tố quyết định năng suất LĐ. Là yếu tố
động nhất trong LLSX.
Ngày nay, khoa học kỹ thuật đã trở thành
LLSX trực tiếp, nó thâm nhập vào các yếu tố
cau thành cửa LLSX tạo ra lượng hàng hóa phi
vật thể so với lao động thủ công.
Trong LLSX, chủ nghĩa duy vật lịch sử
đánh giá cao vai trò của người LĐ và cơ cấu
LĐ. Con người với tư cách là chủ thể của sản
xuất vật chất, luôn sáng tạo ra công cụ tác
động vào đối tượng LĐ để tạo ra của cải vật
chất. Với ý nghĩa đó, người lao động là nhân
tố hàng đầu của LLSX.
QHSX: Là quan hệ giữa người với
người trong sản xuất vật chất
QHSX được cấu thành từ các quan hệ
sở hữu về tư liệu SX, quan hệ tổ chức quản lý
và trao đổi hoạt động với nhau, quan hệ phân

phối sản phấm LĐ, trong đó quan hệ về sở
hữu tư liệu sản xuất giữ vai trò quyết định.
QHSX được hình thành một cách khách quan
trên cơ sở một trình độ phát triển của LLSX.

Trong các yếu tố cấu thành LLSX, quan
hệ sở hữu đóng vai trò quyết định đối với quan
hệ quản lý, quan hệ phân phối. Ngược lại,
quan hệ quản lý, quan hệ phân phối cũng tác
động trở lại to lớn đến quan hệ sở hữu.
Quy luật về sự phù hợp của QHSX với
trình độ phát triển của LLSX:
Đây là một quy luật cơ bản của sự vận
động và phát triển của XH loài ngườỉ. Nội
dung của quy luật được thể hiện trên 3 điểm
chủ yếu sau:
Một là: Biện chứng của LLSX và
QHSX là khách quan, vốn có của mọi quá
trình sản xuất vật chất.
Hai là: Trong mối quan hệ giữa LLSX và
QHSX thì LLSX giữ vai trò quyết định.
Khuynh hướng của sản xuất hàng hóa
là không ngừng biến đổi theo chiều tiến bộ. Sự
biến đổi đó xét cho đến cùng bao giờ cũng bắt
đầu từ sự biến đổi và phát triển của LLSX,
trước hết là cơ cấu lao động.
QHSX phải phù hợp với trình độ phát
triển của LLSX. Đây là sự phù hợp biện
chứng, sự phù hợp bao hàm mâu thuẫn. Đây là
sự phù hợp giữa một yếu tố động (LLSX luôn

biến đổi) với một yếu tố ổn định mang tính
tương đối (QHSX ổn định hơn, ít biến đổi
hơn). Khi LLSX phát triển, biến đổi thi QHSX
trở thành cái không phù hợp, kìm hãm LLSX
phát trien, tạo ra mâu thuẫn trong quá trình đó,
là khách quan, phổ biến của mọi quá trình sx.
Giải quyết mâu thuẫn giữa LLSX và
QHSX: Biện pháp thường xuyên là đổi mới, cải
cách, điều chỉnh QHSX trước mỗi sự phát triển
của LLSX. Khi mâu thuẫn giữa LLSX và
QHSX trở lên gay gắt, không thể giải quyết
được thông qua biện pháp cải cách, điều chỉnh
được nữa thì tất yếu phải xóa bỏ QHSX cũ, thiết
lập QHSX mới cho phù hợp với sự phát triển
của LLSX.
Mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX biểu
hiện trên phương diện XH là mâu thuẫn giai
cấp và đấu tranh giai cấp. Đấu tranh giai cấp
đến đỉnh cao sẽ diễn ra một cuộc cách mạng
XH nhằm thay đổi chế độ xã hội
Ba là: Sự tác động trở lại của quan hệ
sản xuất với lực lượng sản xuất.
QHSX được xây dựng trên cơ sở trình độ
phát triển của LLSX, do LLSX quyết định.
Nhưng sau khi được xác lập, nó có sự tác động
trở lại sự phát triển của LLSX.
2


QHSX quy định mục đích của sx, quy

định tổ chức, quản lý sản xuất và tác động trực
tiếp vào lợi ích các bên tham gia sx, từ đó hình
thành một hệ thống các yếu tố thúc đẩy hoặc
kìm hãm sự phát triển của LLSX.
Khi QHSX phù hợp với LLSX sẽ thúc
đẩy LLSX phát triển và khi QHSX không phù
hợp với tính chất và trình độ của LLSX làm
cho sx kém phát triển, năng suất lao động xã
hội thấp.
Trong xã hội có giai cấp đối kháng mâu
thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất biểu hiện thành mâu thuẫn giai cấp và chỉ
thông qua đấu tranh giai cấp mới giải quyết
được mâu thuẫn đó để đưa xã hội tiến lên.
Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản
xuất với tính chất và trình độ của lực lượng
sản xuất biểu hiện sự vận động nội tại của
phương thức sản xuất và biểu hiện tính tất yếu
của sự thay thế phương thức sản xuất này
bằng phương thức sản xuất khác cao hơn. Quy
luật này là quy luật phổ biến tác động trong
mọi xã hội, làm cho xã hội loài người phát
triển từ thấp đến cao.
- Sự vận dụng quy luật về sự phù hợp
của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ
củạ lực lượng sản xuất ở nước ta.
Trước thời kỳ đổi mới, trong nhận thức
và vận dụng quy luật này ở nước ta đã mắc
phải những lệch lạc sai lầm.
Chủ trương xây dựng sớm một nền

kinh tế XHCN thuần nhất với 2 hình thức sở
hữu là sở hữu tư nhân và sở hữu tập thể trong
khi trình độ LLSX còn thấp kém và phát triển
không đồng đều là một chủ trương nóng vội,
chủ quan, duy ý chí. Đó không phải là sự vận
dụng một cách sáng tạo quy luật như có thời
kỳ ta vẫn lầm tưởng mà là vi phạm quy luật,
làm trái quy luật khách quan.
Từ những sai lầm về nhận thức đã dẫn
tới những sai lầm trong chỉ đạo thực tiễn đó là:
Xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân về TLSX một
cách ồ ạt trong khi chế độ đó đang tạo địa bàn
cho sự phát triển sản xuất. Xây dựng chế độ
công hữu về TLSX một cách tràn lan trong khi
trình độ LLSX còn thấp kém và phát triển
không đồng đều.
Trong xây dựng QHSX mới- QHSX
XHCN, về thực chất chứng ta mới xác lập
dược chế độ sở hữu, còn hình thức tổ chức
quản lý và cách thức phân phối chưa được giải

quyết một cách đúng đắn. Sự tồn tại trong một
thời gian khá dài QHSX thiếu đồng bộ đồ
cũng là hạn chế cần khắc phục.
Những sai lầm chủ quan đã đẩy nền
kinh tế nước ta rơi vào tỉnh trạng trì trệ, khủng
hoảng. Ý thức được điều đó, thời kỳ đổi mới
Đảng ta đã chủ trương chuyển từ một nền kinh
tế thuần nhất XHXN sang nền kinh tế nhiều
thành phàn theo định hướng XHCN.

Chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành
phần ở nước ta là sự vận dụng một cách đúng
đắn và sáng tạo quy luật QHSX phù hợp với
trình độ phát triển LLSX. Chủ trương đó trước
hết bắt nguồn từ thực trạng trình độ phát triển
LLSX còn thấp kém và phát triển không đồng
đều. Để khai thác, phát huy được mọi năng lực,
LLSX phải tạo lập nhiều loại hình QHSX thì
mới phù hợp.
Sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo quy
luật về sự phù hợp giữa QHSX với trình độ
phát triển của LLSX trong thời kỳ đổi mới đã
làm cho nền KT nước ta có những bước phát
triển vượt bậc. Nen KT thoát khỏi tỉnh trạng
khủng hoảng, tạo đà cho sự phát triển, tốc độ
tăng trưởng cao.
Quy luật QHSX phù hợp với trình độ
phát triển của LLSX là quy luật cơ bản của mọi
nền kinh tế. Việc nhận thức đúng và vận dụng
một cách sáng tạo quy luật này có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng đối với các nước đi lên CNXH
bỏ qua chế độ TBCN.
Câu 2 . Trình bày mối quan hệ biện chứng
giữa cơ sở hạ tầng (CSHT) và kiến trúc
thượng tầng (KTTT)? Liên hệ với việc xây
dựng CSHT và KTTT ở Việt Nam hiện
nay?
CSHT là kết cấu kinh tế đa thành phần
trong đó có thành phần kinh tế quốc doanh,
tập thể và nhiều thành kinh tế khác nhau. Đây

là một kết cấu kinh tế năng động, phong phú
được phản chiếu trên nền KTTT và đặt ra đòi
hỏi khách quan là nền KTTT cũng phải đổi
mới để đáp ứng đòi hỏi của cơ sở kinh tế. Do
đó, trong quá trình phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần theo định hướng XH ở nước ta,
cần vận dụng và quán triệt quan hệ biện chứng
giữa CSHT và KTTT. Theo chủ nghĩa MácLê nin, “CSHT và KTTT có quan hệ biện
chứng không tách rời nhau, trong đó có CSHT
giữ vai trò quyết định KTTT. Còn KTTT là
3


phản ánh CSHT, nhưng nó có vai trò tác động
trở lại to lớn đối với CSHT đã sinh ra nó.”
CSHT: Là toàn bộ những quan hệ sản
xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một XH
nhất định. CSHT của một xã hội bao gồm
quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản xuất
tàn dư và quan hệ sản xuất mầm mống của xã
hội tương lai; trong đó quan hệ sản xuất thống
trị chiếm vị trí chủ đạo, chi phối các quan hệ
sản xuất khác, nó quy định xu hướng chung
của đời sống kinh tế - xã hội. Như vậy, nó đã
phản ánh chức năng xã hội của các quan hệ
sản suất đúng tư cách là cơ sở kinh tế của các
hiện tượng xã hội. Đồng thời, quan hệ sản
xuất là hình thức phát triển của lực lượng sản
xuất và hơp thành cơ sở kinh tế của xã hội, tức
là cơ sở hiện thực, trên đó hình thành nên

KTTT tương ứng.
KTTT: Là toàn bộ những quan điểm:
chính trị, pháp quyền, đạo đức, triết học, tôn
giáo, nghệ thuật... cùng với những thiết chế
XH tương ứng như nhà nước, đảng phái, giáo
hội, các đoàn thể xã hội... được hình thành
trên một CSHT nhất định.
Bởi vậy, KTTT là những hiện tượng xã
hội, biểu hiện tập trung đời sống tinh thần của
XH, là bộ mặt tinh thần tư tưởng của hình thái
kinh tế -xã hội. Nó đóng vai trò quan trọng cùng
các bộ phận khác trong xã hội hợp thành cơ cấu
hoàn chỉnh của hình thái kinh tế - xã hội.
Mối quan hệ biện chứng giữa CSHT
và KTTT XH
CSHT và KTTT là hai mặt thống nhất
biện chứng trong một hình thái KTXH.
- Trong sự tác động biện chứng giữa
CSHT và KTTT thì CSHT quyết định của KTTT:
+ Trước hết, vai trò quyết định của
CSHT được thể hiện là ở chỗ: Mỗi CSHT sẽ
hình thành nên một KTTT tương ứng với nó.
CSHT nào sinh ra KTTT ấy, và KTTT bao giờ
cũng phản ánh một CSHT nhất định.
+ Trong XH có giai cấp, giai cấp nào
thống trị về kinh tế thì cũng chiếm địa vị
thống trị về mặt chính trị vả đời sống tinh thần
của XH
+ Vai trò quyết định của CSHT đối với
KTTT còn thể hiện ở chỗ những biến đổi căn

bản trong CSHT dẫn đến sự biến đổi căn bản
trong KTTT. Mác viết: "Cơ sở kinh tế thay đổi
thì tất cả tất cả các KTTT đồ sộ cũng bị thay
đổi ít nhiều nhanh chóng”.Sự biến đổi của

KTTT diễn ra rõ rệt khi CSHT này thay thế
CSHT khác. Đó, xét cho cùng là sự phát triển
của lực lượng sản xuất trong một XH có đối
kháng giai cấp với đỉnh cao là cách mạng xã
hội. Trong sự biến đổi của CSHT và KTTT,
không phải cứ CSHT mới xuất hiện thì KTTT
mới mất đi ngay mà có bộ phận thay đổi dần
dần chậm chạp. Mặt khác cũng có những yếu
tố, những hình thức không cơ bản nào đó của
CSHT và KTTT cũ được giai cấp mới giữ lại,
cải tạo để phục vụ cho yêu cầu phát triển của
CSHT và KTTT mới.
- Vai trò tác động trở lại của KTTT đối
với CSHT:
+ Là một bộ phận cấu thành hình thành
kinh tế xã hội, được sinh ra và phát triển trên
một CSHT nhất định, cho nên sự tác động tích
cực của KTTT đối với CSHT được thể hiện ở
chức năng xã hội của KTTT là luôn luôn bảo vệ
duy trì, củng cố và hoàn thiện CSHT sinh ra nó,
đấu tranh xoá bỏ CSHT và KTTT đã lỗi thời lạc
hậu. Nếu giai cấp thống trị không xác lập được
sự thống trị về chính trị và tư tưởng, cơ sở kinh
tế của nó không thể đứng vững được. Vì vậy,
KTTT thực sự trở thành công cụ, phương tiện

để duy trì, bảo vệ địa vị thống trị về kinh tế của
giai cấp thống trị của xã hội.
+ Khi KTTT phù hợp với CSHT thì
những tư tưởng chính trị phản ánh đúng tính
tất yếu kinh tế, thúc đẩy kinh tế phát triển,
CSHT phát triển.
+ Khi KTTT không phù hợp với CSHT,
sự tác động không phù hợp với các quy luật
kinh tế khách quan sẽ kìm hãm sự phát triển
nền kinh tế (thậm trí thúc đẩy nền KT rơi vào
tình trạng khủng hoảng).
Nói tóm lại, mối quan hệ biện chứng
giữa CSHT và KTTT thực chất là mối quan hệ
giữa kinh tế và chính trị, trong đó kinh tế
quyết định chính trị và chính trị tác động trở
lại đối với kinh tế .
- Sự vận dụng mối quan hệ biện
chứng giữa CSHT và KTTT ở nước ta
Việc xây dựng CSHT và KTTT trong
thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta phải được
tiến hành từng bước với những hình thức,
bước đi thích hợp.
QH giữa CSHT và KTTT thực chất là
mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị và trong
mối quan hệ này thì kinh tế quyết định chính
trị và chính trị là biểu hiện tập trung của kinh
4


tế. Chính vì vậy khi vận dụng quan điểm biện

chứng này phải xuất phát từ kinh tế, từ những
quy luật kinh tế khách quan, đồng thời phải
coi trọng vai trò của chính trị, tính năng động
sáng tạo của chính trị trong việc vạn dụng các
quy luật kinh tế khách quan. Tuyệt đối hóa
mặt nào đó đều dẫn đến sai lầm.
Trong đổi mới, nước ta vận dụng một
cách sáng tạo mối quan hệ biện chứng giữa
CSHT và KTTT, đổi mới một cách đồng bộ
với những bước đi thích hợp giữa kinh tế và
chính trị đã giành được nhiều thành tựu to lớn:
CNXH được giữ vững, kinh tế phát triển, tiến
bộ XH được biểu hiện một cách rõ rệt.
Cơ sở hạ tầng ở nước ta bao gồm các
thành phần kinh tế như: kinh tế nhà nước, kinh
tế họp tác, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế cá
thể, kinh tế tư bản tư nhân, cùng các kiếu quan
hệ sản xuất gắn liền với hình thức sở hữu khác
nhau, thậm chí đối lập nhau cùng tồn tại trong
một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất. Đó là
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Các thành phần đó vừa khác nhau về
vai trò, chức năng, tính chất, lại vừa thống
nhất với nhau trong một cơ cấu kinh tế quốc
dân thống nhất, chúng vừa cạnh tranh nhau,
vừa liên kết với nhau, bổ xung với nhau.
Để định hướng xã hội chủ nghĩa đối với
các thành phần kinh tế này, nhà nước phải sử
dụng tổng thể các biện pháp kinh tế hành

chính và giáo dục. Trong đó biện pháp kinh tế
có vai trò; quan trọng nhất nhằm từng bước xã
hội hoá nền sản xuất với hình thức và bước đi
thích hợp theo hướng: kinh tế quốc doanh
được củng cố và phát triển vươn lên giữ vai
trò chủ đạo, kinh tế tập thể dưới hình thức thu
hút phần lớn những người sản xuất nhỏ trong
các ngành nghề, các hình thức xí nghiệp ,
công ty cổ phần phát triển mạnh, kinh tế tư
nhân và gia đình phát huy được mọi tiềm năng
để phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ
sở kinh tế hợp lý.
Trong văn kiện Hội nghị đại biểu Đảng
giữa nhiệm kỳ khoá VII, Đảng ghi rõ “phải tập
chung nguồn vốn đầu tư nhà nước cho việc
xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội và một
số công trình công nghiệp then chốt đã được
chuẩn bị vốn và công nghệ. Nâng cấp và xây
dựng mới hệ thống giao thông, sân bay, bến
cảng, thông tin liên lạc, giáo dục và đào tạo, y

tế ”. Đồng thời văn kiện Đảng cũng ghi rõ: Từ
nay tới cuối thập kỷ, phải quan tâm tới công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và kinh
tế nông thôn, phát triển toàn diện nông, lâm,
ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến
nông lâm thuỷ sản, công nghiệp sản xuất hàng
tiêu dùng và hàng xuất khẩu”.
Về kiến trúc thượng tầng, Đảng ta
khẳng định: Lấy chủ nghĩa Mác-Lê nin và tư

tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho mọi
hành động của toàn Đảng, toàn dân ta. Nội
dung cốt lõi của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh là tư tưởng về sự giải
phóng con người khỏi chế độ bóc lột thoát
khỏi nỗi nhục của mình là đi làm thuê bị đánh
đập, lương ít.
Bởi vậy, trong sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội của nhân dân ta, việc giáo dục
truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin tư tưởng Hồ
Chí Minh trở thành tư tưởng chủ đạo trong đời
sống tinh thần của xã hội là việc làm thường
xuyên, liên tục của cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa trên lĩnh vực kiến trúc thượng tầng.
Xây dựng hệ thống chính trị, xã hội chủ
nghĩa mang bản chất giai cấp công nhân, do
Đảng cộng sản lãnh đạo đảm bảo cho nhân
dân là người chủ thực sự của xã hội. Toàn bộ
quyền lực của xã hội thuộc về nhân dân thực
hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa đảm bảo phát
huy mọi khả năng sáng tạo, tích cực chủ động
của mọi cá nhân.
Trong cương lĩnh xây dựng đất nước
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ghi
rõ : ”xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà
nước của dân, do dân và vì dân, liên minh giai
cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng
lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng cộng sản
lãnh đạo Như vậy, tất cả các tổ chức, bộ máy
tạo thành hệ thống chính trị - xã hội không tồn

tại như một mục đích tư nhân mà vì phục vụ
con người, thực hiện cho được lợi ích và
quyền lợi thuộc về nhân dân lao động.
Hướng tới mục tiêu dân giàu nước
mạnh, xã hội công bằng văn minh, nắm vững
phép biện chứng giữa CSHT và KTTT, giữa
đổi mới kinh tế và chính trị, vận dụng sáng tạo
những chủ chương, đường lối của Đảng thì
cho dù con đường trước mắt có đầy trông gai
nhưng nhất định chúng ta sẽ giành thắng lợi
trong công cuộc đổi mới của đất nước.
5


Câu 3: Vì sao sự phát triển của các hình thái
kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự
nhiên? Liên hệ với quá trình phát triễn theo
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Khái niệm hình thái kinh tế - xã hội: Hình
thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ
nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ xã hội ở từng
giai đoạn phát triển lịch sử nhất định, với những
quan hệ sản xuất của nó (cơ sở hạ tầng) thích
ứng với lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất
định và với một kiến trúc thượng tầng được xây
dựng trên những quan hệ sản xuất đó.
Hình thái kinh tế - xã hội là một hệ
thống, một chỉnh thể toàn vẹn có cơ cấu phức
tạp, trong đó có những mặt cơ bản nhất là lực
lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc

thượng tầng.
Lực lượng sản xuất - là quan hệ giữa
người với tự nhiên trong quá trình sản xuất - là
nền tảng vật chất - kỹ thuật của mỗi hình thái
kinh tế-xã hội. Xét đến cùng, lực lượng sản
xuất quyết định sự hình thành và phát triển
của mỗi hình thái kinh tế - xã hội. Bản thân
các lực lượng sản xuất không phải là sản phẩm
riêng của một thời đại nào mà là sản phẩm của
cả một quá trình phát triển liên tục từ thấp lên
cao qua các thời đại. là sự tiếp biến không
ngừng của lịch sử.
Quan hệ sản xuất - quan hệ giữa người
và người trong quá trình sản xuất - là những
quan hệ cơ bản, ban đầu và quyết định tất cả các
quan hệ xã hội khác, không có những mối quan
hệ đó thì không thành xã hội và không có quy
luật xã hội. Quan hệ sản xuất là tiêu chuẩn
khách quan để phân biệt xã hội cụ thể này với
xã hội cụ thể khác.
Những quan hệ sản xuất là bộ xương của
cơ thể xã hội hợp thành cơ sở hạ tầng và trên đó
dựng lên một kiến trúc thượng tầng tương ứng
mà chức năng xã hội của nó là bảo vệ, duy trì và
phát triển cơ sở hạ tầng sinh ra nó.
Ngoài các quan hệ cơ bản: lực lượng sản
xuất, quan hệ sản xuất, kiến trúc thượng tầng,
trong mỗi hình thái kinh tế-xã hội còn có những
quan hệ dân tộc, gia đình,..
Quá trình lịch sử - tự nhiên của sự

phát triển các hình thái kinh tế - xã hội.
XH phát triển trải qua nhiều giai đoạn kế
tiếp nhau, ứng với một giai đoạn của sự phát
triển là một hình thái kinh tế xã hội. Đứng trên
lập trường duy vật lịch sử, CN Mác - lenin

khẳng đinh “sự phát triển của những hình thái
KTXH là một quá trình lịch suwe- tự nhiên.
Khẳng định đó dựa trên những căn cứ sau:
Một là, sản xuất vật chất là cơ sở, nền
tảng của sự tồn tại, vận động và phát triển các
hình thái kinh tế - xã hội
Con người làm ra lịch sử của mình, tạo
ra các quan hệ xã hội của mình, nhưng không
phải một cách chủ quan tùy tiện mà trên nền
tảng sản xuất vật chất trong nước và trên thế
giới. Hay nói cách khác, con người không được
tự do lựa chọn hình thái kinh tế xã hội của mình.
Con người được lựa chọn hình thái này hay hình
thái khác nhưng trên cơ sở nền tảng sản xuất vật
chất trong nước và trên thế giới.
VD: VN muốn xây dựng XHCN nhưng
sản xuất vật chất hiện nay của chứng ta chưa
cho phép mà còn phải quá độ một thời gian
lâu dài nữa.
Hai là, sự vận động, phát triển của các
hình thái kinh tế xã hội, sự chuyển biến từ
hình thái này sang hình thái khác bị chi phối
bởi các quy luật khách quan.
Con người không thể sáng tạo ra quy

luật, cũng không thể xóa bỏ quy luật một khi
quy luật còn tồn tại. Vai trò của con người là
nhận thức và vận dụng quy luật khách quan.
Sự vận động, phát triển các hình thái
kinh tế - xã hội chịu sự chi phối của các quy
luật xã hội. Trong đó, quy luật về sự phù hợp
của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất, biện chứng giữa cơ sở
hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là những quy
luật cơ bản nhất.
Loài người đã trải qua năm hĩnh thái
kinh tế - xã hội theo trật tự từ thấp đến cao. Đó
là quá trình phát triển tuần tự của sự phát triển
lịch sử. Song đối vói mỗi nước cụ thể do điều
kiện lịch sử khách quan có thể “bỏ qua” một
hoặc vài hình thái kinh tế - xã hội. Nhân loại
đã chứng kiến nhiều nước do điều kiện lịch sử
của mình đã bỏ qua một, hai hình thái kinh tế xã hội nào đó tiến lên giai đoạn lịch sử cao
hơn dưới hình thức này hay hĩnh thức khác. Ví
dụ Mỹ, Bờraxin tiến thẳng từ chế độ chiếm
hữu nô lệ lên TBCN không qua phong kiến...
Ý nghĩa thời đại của học thuyết hình
thái kinh tế - xã hội
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội
không những chỉ ra được các nấc thang của sự
phát triển lịch sử xã hội với những chế độ xã
6


hội tồn tại như một chỉnh thể, như một cơ thể

sống, mà còn vạch ra những quy luật chi phối
sự tồn tại vận động của các hình thái kinh tế
xã hội. Do vậy, học thuyết mang tính khoa học
và có ý nghĩa thực tiễn to lớn mà chưa có một
học thuyết nào có thế vượt qua.
Vài thập kỷ gần đây xuất hiện một cách
tiếp cận mới của Anvin Tôplơ (Sự đụng độ của
các nền văn minh) - cách tiếp cận thông qua
các nền văn minh, cách tiếp cận này có ý
nghĩa nhất định, nhưng vẫn không thể thay thế
được cách tiếp cận thông qua các hình thái
kinh tế - xã hội.
Liên hệ với quá trình phát triển theo
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Lý luận của chủ nghĩa Mác đã khẳng
định: các quốc gia dân tộc có thể phát triển
tuần tự theo các hình thái kinh tế - xã hội nối
tiếp nhau từ cộng sản nguyên thủy đến cộng
sản chủ nghĩa, song căn cứ vào điều kiện lịch
sử cụ thế mà các quốc gia có thể bỏ qua một
hay một vài hình thái kinh tế - xã hội.
Theo Lê nin, có hai hình thức quá độ:
quá độ trực tiếp và quá độ gián tiếp. Lê nin
cho rằng, những nước mà củ nghĩa tư bản đã
phát triển thì có thể đi lên CNXH bằng quá độ
trực tiếp. Ngược lại, những nước lạc hậu có
thể đi lên CNXH bằng quá độ gián tiếp. Thực
chất, đó là sự bỏ qua TBCN tiến thẳng lên con
đường XHCN.
Việc lựa chọn con đường tiến lên

CNXH bỏ qua chế độ TBCN ở nước ta là một
tất yếu lịch sử. Đảng ta khẳng định con đường
phát triển của nước ta như vậy dựa trên căn cứ
như sau:
Một là, chỉ có CNXH mới giải phóng
được nhân dân lao động thoát khỏi áp bức, bóc
lột, bất công đem lại cuộc sống ấm no, hạnh
phúc cho nhân dân.
Hai là, thắng lợi của Cách mạng tháng
Mười Nga năm 1917 đã mở ra một thời đại
mới, tạo khả năng thực hiện cho các dân tộc
lạc hậu tiến lên con đường XHCN.
Sự lựa chọn con đường phát triển của
nước ta không mâu thuẫn với quá trình phát
triển tự nhiên của CNXH, không mâu thuẫn
với hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa
Mác - Lê nin. Trong điều kiện cụ thể, sự lựa
chọn ấy chính là sự lựa chọn con đường rút
ngắn bỏ qua chế độ TBCN.

Nước ta quá độ lên CNXH trong điều
kiện hết sức khó khăn, thử thách. Dân số TRên
80% sống bằng nông nghiệp, cơ sở vật chất kĩ thuật của CNXH hầu như không có. Vận
dụng chủ nghĩa Mác - Lê nin vào hoàn cảnh
cụ thể của nước ta, Đảng ta khẳng định độc
lập dân tộc phải gắn liền với CNXH. Việc
Đảng ta luôn kiên định con đường tiến lên
CNXH là phù hợp với quy luật tiến hóa của
lịch sử, xu hướng của thời đại và điều kiện cụ
thể của đất nước.

Xã hội mà nhân dân ta xây dựng là một
xã hội của dân, do dân và vì dân, có một nền
kinh tế phát triển dựa trên lực lượng sản xuất
tiến bộ và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất,
có nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, con
người được giải phóng, hưởng cuộc sống hanh
phúc, phát triển về mọi mặt, các dân tộc anh
em chung sống hòa bình, đoàn kết và hơp tác,
hữu nghị với nhân dân các nước trên thế giới.
Bỏ qua chế độ TBCN là bỏ qua quan hệ sản
xuất và kiến trúc thượng tầng của TBCN
nhưng tiếp ứiu những thành tựu đạt được dưới
chế độ TBCN, nhất là khoa học - công nghệ để
phát triển nhanh lực lượng sản xuất và nền
kinh tế hiện đại.
Hiện nay, nước ta vẫn đang trong giai
đoạn quá độ lên XHCN. Do vậy, điều kiện và
hoàn cảnh đó đã đặt ra cho nước ta những
nhiệm vụ hết sức khó khăn.
Nước ta tiến lên CNXH từ một nền kinh
tế phổ biến là sản xuất nhỏ, lao động thủ công là
phổ biến. Muốn thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu
nhanh chóng đạt tới một nước phát triển, tất yếu
phải đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa như là một cuộc cách mạng toàn diện và
sâu sắc. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước
ta nhằm xây dựng và thiết lập cơ sở vật chất - kĩ
thuật cho CNXH. Đó là nhiệm vụ trọng tâm
trong suốt thời kì quá độ tiến lên CNXH ở nước
ta. Có thể nói, những lý luận cơ bản trong học

thuyết của Mác về hình thái kinh tế - xã hội
chính là cơ sở lý luận cho phép chúng ta khẳng
định sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
nước ta hiện nay là phù hợp với quy luật khách
quan trong quá trình phát trien của dân tộc, của
thời đại.
Đại hội VIII của Đảng đã khẳng định:
Xây dựng nước ta thành một nước công
nghiệp có cơ sở vật chất - kĩ thuật hiện đại, có
cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ
7


phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX
của Đảng ta đã ghi rõ: Con đường công nghiệp
hóa, hiện đại hóa của nước ta cần và có thể rút
ngắn thời gian, vừa có tuần tự vừa có nhảy
vọt. Phát huy những lợi thế của đất nước, tận
dụng mọi khả năng để đạt được trình độ tiên
tiến, từng bước phát triển kinh tế tri thức. Phát
huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần
của người Việt Nam, coi phát triển giáo dục và
đào tạo, khoa học và công nghệ là nền tảng và
động lực của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
tạo nên lực lượng sản xuất cần thiết cho chế
độ mới thì chúng ta phải chú trọng xây dựng
quan hệ sản xuất mới cho phù hợp với tính

chất và trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất. Muốn vậy, chúng ta phải chú trọng xây
dựng và phát triển nền kinh tế thị trường theo
định hướng XHCN. Xây dựng và phát ừiển
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN vừa
phù hợp với xu thế phát triển chung của nhân
loại, vừa phù hợp với yêu cầu phát triển của
nước ta, với yêu cầu của quá trình xây dựng
nền kinh tế độc lập, tự chủ kết hợp với chủ
động hội nhập kinh tế thế giới. Điều này đã
được Đảng ta khẳng định: “Mục đích của nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN là phát
triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để
xây dựng cơ sở vật chất - kĩ thuật của CNXH,
nâng cao đời sống nhân dân”.
Câu 4: Phân tích định nghĩa giai cấp của
Lênin? Nguồn gốc của sự xuất hiện giai cấp?
Trong tác phẩm “Sáng kiến vĩ đại”
Lênin đã định nghĩa về giai cấp như sau:
“Người ta gọi là giai cấp, những tập đoàn to
lớn gồm những người khác nhau về địa vị của
họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất
định trong lịch sử; khác nhau về quan hệ của
họ (thường thường những quan hệ này được
pháp luật quy định và thừa nhận) đối với
những tư liệu sản xuất; về vai trò của họ trong
tổ chức lao động xã hội và như vậy là khác
nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của
cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng.
Giai cấp là những tập đoàn người mà tập đoàn

này thì có thể chiếm đoạt lao động của tập
đoàn khác do chỗ các tập đoàn đó có địa vị

khác nhau trong một chế độ kinh tế, xã hội
nhất định”.
Từ định nghĩa của Lênin, ta có thể rút
ra những đặc trưng cơ bản về giai cấp sau đây:
- Giai cấp là những tập đoàn người to
lớn có địa vị khác nhau trong một hệ thống
sản xuất xã hội nhất định.
Điều này có nghĩa là sự phân chia giai
cấp gắn liền vói hệ thống sản xuất xã hội nhất
định. Trong xã hội, có những hệ thống sản
xuất chứa đựng trong lòng nó những yếu tố
làm nảy sinh giai cấp như hệ thống sản xuất xã
hội nô lệ, hệ thống sản xuất xã hội phong kiến,
hệ thống sản xuất tư bản chủ nghĩa. Ngược lại,
có những hệ thống sản xuất xã hội không chứa
đựng trong lòng nó những yếu tố phân chia
giai cấp như hệ thống sản xuất xã hội cộng sản
nguvên thủy, hệ thống sản xuất của xã hội
cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu gọi là
chủ nghĩa xã hội.
Hệ thống sản xuất xã hội quy định địa
vị của các giai cấp, có giai cấp giữ địa vị
thống trị, có giai cấp giữ địa vị bị thống trị.
Trong các xã hội như nô lệ, phong kiến, tư bản
chủ nghĩa thỉ có giai cấp thống trị và giai cấp
bị thống trị. Ngược lại, trong các hệ thống sản
xuất xã hội như cộng sản nguyên thủy, cộng

sản chủ nghĩa thì mọi người bình đẳng, không
có giai cấp nên không có cái gọi là giai cấp
thống tri và giai cấp bị thống trị. Những giai
cấp có địa vị thống trị hay không có địa vị
thống trị nền sản xuất xã hội là do các giai cấp
chiếm đoạt được, hay không chiếm đoạt được
những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội.
Nghĩa là chế độ sỡ hữu về tư liệu sản xuất quy
định địa vị của các giai cấp trong nền sản xuất
xã hội.
- Các giai cấp có quan hệ khác nhau về
quyền sỡ hữu đối với tư liệu sản xuất
Đặc trưng này nói lên rằng trong xã
hội, nếu tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội
chỉ thuộc quyền sở hữu của một giai cấp nào
đó, còn các giai cấp khác không có quyền sở
hữu đó thì quan hệ giữa các giai cấp là hoàn
toàn bất bình đẳng. Nghĩa là giai cấp nào
chiếm đoạt được những tư liệu sản xuất chủ
yếu của xã hội thì giai cấp ấy sẽ giữ quyền
thống trị nền sản xuất xã hội, giữ quyền tổ
chức quản lý sản xuất và cùng giữ quyền phân
phối sản phẩm do xã hội tạo ra. Đây chính là
vấn đề đã được nêu ra là: giai cấp xuất hiện do
8


nguyên nhân kinh tế mà trực tiếp là do chế độ
sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất quy định.
Đây là đặc trưng không chỉ vạch ra nguồn gốc

ra đời của giai cấp mà còn là đặc trưng chi
phối các đặc trưng khác.
- Các giai cấp có vai trò khác nhau
trong việc tổ chức lao động xã hội
Đặc trưng này cũng do đặc trưng thứ
hai nói trên quy đinh. Nghĩa là trong xã hội,
giai cấp nào chiếm đoạt những tư liệu sản xuất
chủ yếu của xã hội thì giai cấp ấy sẽ giữ lây
quyền tổ chức, quản lý nền sản xuất xã hội,
còn những giai cấp không có tư liệu sản xuất
thì chỉ là những giai cấp làm thuê bán sức lao
động mà thôi.
- Các giai cấp có những phương thức
và qui mô thực tiễn nhập khác nhau về của
cải của XH.
Đặc trưng này cũng do đặc trưng thứ
hai quy định. Nghĩa là trong xã hội, giai cấp
nào chiếm đoạt những tư liệu sản xuất chủ yếu
của xã hội thì giai cấp ấy không những giữ địa
vị thống trị hệ thống sản xuất xã hội, giữ lấy
quyền tổ chức, quản lý sản xuất, mà còn giữ
quyền phân phối sản phẩm.
Bốn đặc trưng cơ bản nêu trên có quan
hệ biện chứng với nhau, trong đó đặc trưng
thứ hai là cơ bản nhất. Thiếu một trong bốn
đặc trưng, nhất là đặc trưng hai thì không thể
giải thích đúng về giai cấp
Có thể liên hệ thực tiễn ở Viêt nam...
Ở nước ta hiện nay đang thực hiện sự
quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư

bản chủ nghĩa. Quá trình đó nhất thiết phải
phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần với nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản
xuất khác nhau, trong đó có thành phần kinh tế
tư bản tư nhân mà theo cách nói của Lênin là
sử dụng chủ nghĩa tư bản Nhà nước làm khâu
trung gian để đưa nền sản xuất nhỏ đi lên xã
hội chủ nghĩa. Song cần thấy rằng sở hữu toàn
dân và sở hữu tập thể vẫn là sở hữu cơ bản
chiếm ưu thế so với hình thức sở hữu khác.
Tất cả các thành phần kinh tế quốc doanh,
kinh tế hợp tác, cá thể và tư bản tư nhân,., đều
tồn tại bình đẳng và hoạt động ừong khuôn
khổ chính sách, pháp luật của Nhà nước, theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nguồn gốc giai cấp
Xã hội loài người không phải lúc nào
cũng có các giai cấp đối kháng. Chỉ có những

giai cấp xuất phát từ sự khác nhau căn bản về
lợi ích mới tạo ra những xung đột mang tính
chất đối kháng. Các Mác đã chỉ ra rằng: Sự
tồn tại của các giai cấp chỉ gắn liền với những
giai đoạn phát triển lịch sử nhất định của sản
xuất. Sự phân chia XH thành giai cấp trước
hết là do nguyên nhân kinh tế.
Trong xã hội nguyên thuỷ, khi lực lượng
sản xuất còn thấp kém, công cụ sản xuất thô sơ
như cành cây, hòn đá, cung tên... con người chỉ
sản xuất đủ để tồn tại, duy trì nòi giống, chưa có

sản phẩm dư thừa tương đối thì chưa xuất hiện
khả năng chiếm đoạt, xã hội chưa có giai cấp.
Con người thời kỳ này phải nương tựa vào nhau
theo bầy đàn, quan hệ bình đẳng : cùng hợp tác
sản xuất, cùng hưởng thụ.
Khi công cụ sản xuất phát triển lên một
bước mới - công cụ sản xuất bằng kim loại
xuất hiện làm cho sản xuất phát triển, năng
suất lao động tăng lên. Ngoài việc con người
sản xuất ra một lượng của cải vật chất đủ dùng
(tối thiểu) còn một số dự trữ (gọi là của dư
tương đối), làm xuất hiện khả năng chiếm đoạt
của dư đó, tức là xuất hiện khả năng người
này chiếm đoạt lao động của người khác. Việc
xuất hiện công cụ sản xuất mới cho phép sản
xuất cá thể ở từng gia đình có hiệu quả hơn so
với sản xuất tập trung tập thể nguyên thủy.
Lực lượng sản xuất phát triển dẫn đến sự phân
công lao động xã hội thủ công nghiệp tách
khỏi nông nghiệp. Trao đổi sản phẩm diễn ra
thường xuyên hơn. Quan hệ sản xuất cộng
đồng nguyên thủy không còn phù hợp với
trình độ phát triến của lực lượng sản xuất.
Trong xã hội xuất hiện càng nhiều gia đình có
tài sản riêng, xuất hiện sự chênh lệch về tài
sản. Chế độ công hữu nguyên thủy về tư liệu
sản xuất dần bị thay thế bằng chế độ tư hữu về
tư liệu sản xuất.
Trong điều kiện ấy, những người có
quyền lợi trong thị tộc, bộ lạc chiếm đoạt tài

sản của công xã thành của riêng, nắm quyền
phân công lao động và phân phối sản phẩm,
trở thành giai cấp thống trị đầu tiên : giai cấp
chủ nô.
Do của cải dư thừa, tù binh bắt được
trong các cuộc chiến tranh không bị giết như
trước. Họ được sử dụng phục vụ những người
giàu có và có địa vị trong xã hội. Chế độ có
giai cấp chính thức ra đời từ đó. Lực lượng nô
lệ được bổ sung bằng những người làm ăn
9


thua lỗ, nợ không trả được và họ trở thành giai
cấp bị tri đầu tiên trong lịch sử. Xã hội chiếm
hữu nô lệ là xã hội có giai cấp đầu tiên trong
lịch sử. Chủ nô và nô lệ là hai giai cấp đối
kháng trong xã hội này.
Như vậy, sự xuất hiện giai cấp gắn liền
với nguồn gốc kinh tế của dư tương đối là khả
năng khách quan, chế độ tư hữu tư liệu sản
xuất là cơ sở trực tiếp của xuất hiện giai cấp.
Sự tồn tại các giai cấp đối kháng gắn liền với
chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến và
ché độ tư bản chủ nghĩa. Chế độ tư hữu tồn tại
hàng ngàn năm trong điều kiện cơ bản: lực
lượng sản xuât phát triên cao, đã tạo ra sản
phâm thặng dư nhưng chưa đạt tới mức thoả
mãn nhu cầu vật chất của con người. Sự phát
triển rất cao của lực lượng sản xuất sẽ làm cho

mất đi của giai cấp mang tính tất yếu nhưng
lực lượng sản xuất không là điều kiện duy
nhất cho sự mất đi của giai cấp mà còn phải có
sự phát triển cao và toàn diện của con người.
Câu 5: Thực chất của đấu tranh giai cấp?
vấn đề đấu tranh giai cấp trong thời kì quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay?
* Đấu tranh giai cấp:
Trong xã hội có giai cấp, giai cấp thống
tri tiến hành chiếm đoạt lao động của các giai
cấp và tầng lóp bị trị, chiếm đoạt của cải xã
hội vào tay giai cấp mình. Ngược lại, các giai
cấp và tầng lớp bị trị không những bị chiếm
đoạt lao động mà còn bị áp bức về chính tri xã
hội và tinh thần. Sự bất bình đẳng giữa giai
cấp thống trị và giai cấp bị trị phát triển cao.
Sự bất bình đẳng đó tất yếu dẫn đến đấu tranh
giai cap. V.I Lênin đã định nghĩa đấu tranh
giai cấp: “là cuộc đấu tranh của một bộ phận
nhân dân này chống lại một bộ phận nhân dân
khác, cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước
hết quyền bị áp bức và lao động chống lại bọn
có đặc quyền, đặc lợi, bọn áp bức và bọn ăn
bám, cuộc đấu tranh của những người công
nhân làm thuê hay những người vô sản chống
những người hữu sản hay giai cấp tư sản”.
Thực chất của đấu tranh giai cấp: Là
cuộc đấu tranh để giải quyết mâu thuẫn về mặt
lợi ích giữa quần chúng bị áp bức, vô sản làm
thuê chống lại giai cấp thống trị, bóc lột đế

giải phóng lao động, làm cho SX phát triển.
Vai trò của đấu tranh giai cấp: Đấu
tranh giai cấp là một trong những động lực

phát triển của XH có giai cấp. Đấu tranh giai
cấp có tác dụng cải tạo XH, xóa bỏ các lực
lượng XH phản động, kìm hãm XH phát triển
và cải tạo bản thân giai cấp cách mạng. Theo
Mác- Angghen, cuộc đấu tranh giữa giai cấp
vô sản và tư sản là đòn bẩy vĩ đại của cuộc
CMXH hiện đại
* Đấu tranh giai cấp trong thời kỳ
quá độ lên CNXH ở Việt Nam hiện nay
Ở Việt Nam, đấu tranh giai cấp trong
giai đoạn quá độ hiện nay cũng là tất yếu.
Thực chất đấu tranh giai cấp ở VN hiện
nay là đấu tranh chống khuynh hướng tự phát
TBCN và các thế lực thù địch với ĐLDT và
CNXH.
Đấu tranh giai cấp ở Việt Nam diễn ra
trong điều kiện mới: cơ cấu giai cấp, vị trí giai
cấp thay đổi dẫn đến quan hệ giữa các giai cấp
cũng có sự thay đổi. Mục tiêu của đấu tranh
giai cấp ở Việt Nam: độc lập dân tộc gắn liền
vói chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh. Vì vậy, đấu
tranh giai cấp ở Việt Nam diễn ra với nhiều
hình thức nhưng nổi bật lên là đấu tranh giải
quyết mâu thuẫn giữa một bên là quần chúng
nhân dân lao động, các lực lượng xã hội đi

theo con đường dẫn tới mục tiêu: dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh, đoàn kết trong mặt trận thống nhất do
Đảng cộng sản lãnh đạo với một bên là các thế
lực, các tổ chức, các phần tử chống độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Gác thế lực phản
động trong nước cấu kết với các thế lực phản
động quốc tế sử dụng “Âm mưu diễn biến hoà
bình” hòng thủ tiêu sự lãnh đạo của Đảng
cộng sản đối với xã hội đi đến chỗ lật đổ chế
độ xã hội.
Đấu tranh giai cấp ở nước ta còn thể
hiện ở “cuộc đấu tranh giữa hai con đường xã
hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa". Đó là
cuộc đấu tranh giữa các nhân tố thúc đẩy đất
nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa
chống lại các nhân tố thúc đẩy đất nước
chuyển dịch theo hướng tư bản chủ nghĩa.
Cuộc đấu tranh giai cấp hiện nay ở Việt
Nam gắn liền với cuộc đấu tranh bảo vệ độc
lập dân tộc, chống áp bức bất công, chống
nghèo nàn, lạc hậu. Cuộc đấu tranh đó diễn ra
hàng ngày, hàng giờ, diễn ra trên các tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội, trước hết là lĩnh
vực kinh tế và lĩnh vực ứật tự xã hội. Trong cơ
10


cấu giai cấp - xã hội ở Việt Nam hiện nay,
ngoài giai cấp công nhân, nông dân và tầng

lớp trí thức và các tầng lớp nhân dân ỉao động
khác, còn có bộ phận tư sản, do đó, sẽ có mâu
thuẫn giữa người lao động làm thuê với tầng
lớp tư sản, còn có mâu thuẫn giữa sự phát
triển theo đinh hướng xã hội chủ nghĩa với
khuynh hướng tự phát lên chủ nghĩa tư bản
của tư bản tư nhân.
Mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân, nhân
dân lao động với tầng lớp tư sản tuy mang tính
chất là mâu thuẫn đối kháng giữa lao động và
bóc lột, nhưng trong thòi kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay lại là mâu thuẫn
nội bộ nhân dân. Khẳng định điều đó vì: kinh tế
tư bản tư nhân là một thành phần kinh tế trong
nền kinh tế nhiều thành phần, tầng lớp tư sản có
vai trò quan trọng thúc đấy kinh tế phát triển.
Họ có khả năng tham gia tích cực vào sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Hiện
nay, lợi ích hợp pháp của nhà tư sản thống nhất
với lợi ích của cộng đồng xã hội. Trong quan hệ
giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và
tầng lớp tư sản là vừa thống nhất, vừa đấu tranh
vói nhau.
Như vậy, nội dung đấu tranh giai cấp
hiện nay là thực hiện thắng lợi sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng
nước nghèo, kém phát triển, thực hiện công
bằng xã hội, chống áp bức, bất công, đấu tranh
ngăn chặn, khắc phục những tư tưởng và hành

động tiêu cực, sai trái, đấu tranh làm thất bại
mọi âm mưu, và hành động chống phá của các
thế lực thù địch, bảo vệ độc lập dân tộc, xây
dựng nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa
phồn vinh, nhân dân hạnh phúc.
Động lực chủ yếu để phát triển đất
nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên
minh giữa công nhân - nông dân và trí thức
dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc
xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ nặng nề và phức
tạp, lâu dài, do vậy, phải nắm vững quan điểm
của chủ nghĩa Mác Lênin về quan điểm giai
cấp. Tuyệt đối hoá đấu tranh giai cấp, cường
điệu đấu tranh giai cấp, né tránh, mơ hồ đấu
tranh giai cấp đều đi ngược lại quan điểm của
chủ nghĩa Mác - Lênin, sẽ gây tổn hại đến
thành quả của cách mạng.

Câu 6: Trình bày nguồn gốc, bản chất của
nhà nước? Đặc điểm của nhà nước vô sản?
vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền ở
Việt Nam hiện nay?
* Nguồn gốc của nhà nước:
Khái niệm nhà nước: là bộ máy để duy
trì sự thống trị của giai cấp này đối với giai
cấp khác, là cơ quan quyền lực của một giai
cấp đối với toàn xã hội, là công cụ chuyên
chính của một giai cấp.
Theo quan điểm của Mácxit, xã hội

không phải lúc nào cũng có nhà nước. Nhà nước
ra đời và tồn tại khi xã hội xuất hiện những mâu
thuẫn giai cấp phát triển đến mức không điều
hòa được. Xã hội cộng sản nguyên thủy không
có giai cấp, nhà nước chưa xuất hiện. Khi xã hội
phân chia thành giai cấp, mâu thuẫn nhà nước
càng gay gắt không thể điều hòa được thì nhà
nước xuất hiện như một tất khống chế đối kháng
yếu khách quan, xoa dịu xung đội giai cấp duy
trì sự ổn định của kinh tế xã hội và bắt đầu là xã
hội chiếm hữu nô lệ,....
Lê nin khẳng định: “Nhà nước là sản
phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai
cấp không thể điều hòa được”
* Bản chất của nhà nước:
Theo Ăngghen: Nhà nước chẳng qua
chỉ là một bộ máy của giai cấp cấp này dùng
để trấn áp một giai cấp khác.
Nhà nước là quyền lực chính trị của
giai cấp thống ửị về mặt kinh tế trong XH.
Giai cấp nào thống trị về mặt kinh tế thì giai
cấp đó nam quyền trong bộ máy nhà nước.
Các giai cấp thống trị sử dụng bộ máy
nhà nước để đàn áp, cưỡng bức các giai cấp
khác trong khuôn khổ lợi ích của giai cấp
thống trị.
Nhà nước là công cụ thống trị giai cấp,
nhưng trong thực tế, nó lại tồn tại như một
công quyền, một quyền lực công cộng. Vì vậy
nhà nước không chỉ mang tính giai cấp mà còn

mang tính xã hội; không chỉ có chức năng
thống trị giai cấp mà còn có chức năng xã hội.
hơn nữa chức năng xã hội là cơ sở cho sự
thống trị.
Vì vậy, sẽ là mơ hồ nếu không thấy
được tính chính trị, tính giai cấp của chủ
trương, chính sách và sự tác động cam thiệp
của nhà nước vào các lĩnh vực kinh tế, văn
hóa, giáo dục ... Nhưng ngược lại nếu quy các
chức năng đa dạng của nhà nước về chức năng
11


giai cấp hoặc tuyệt đối hóa tính giai cấp mà
không thấy được tính xã hội, vai trò tích cực
sáng tạo của chức năng XH của nhà nước
trong sự phat triển đất nước thì sẽ là cực đoan,
phiến diện.
Khi NN nằm trong tay giai cấp đại biểu
cho toàn thể xã hội trong thời đại của mình,
nghĩa là trong tay giai cấp đang đóng vai trò
tiến bộ và cách mạng thì tính tích cực của
chức năng xã hội của nó biểu hiện càng rõ rệt.
Trong lịch sử xã hội có đối kháng giai
cấp đã xuất hiện 3 kiểu nhà nước: nhà nước
chủ nô, nhà nước phong kiến và nhà nước tư
bản. Dù tồn tại dưới hình thức nào thì về bản
chất NN vẫn là quyền lực chính trị của một
giai cấp.
Nhà nước vô sản Là kiểu nhà nước cuối

cùng trong lịch sử, là một tất yếu lịch sử.
C.Mác viết: Giữa XHTB và xã hội XHCN, đỉnh cao là xã hội – Cộng sản chủ
nghĩa là thời kỳ cải biến cách mạng xã hội từ
xã hội nọ sang xã hội kia thích ứng với thời
kỳ ấy là một thơi kỳ quá độ chính trị và nhà
nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác
hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai
cấp vô sản.
Sau cách mạng thành công, giai cấp
công nhân và nhân dân lao động vẫn cần có
nhà nước của mình vì 3 lý do sau:
Thứ nhất: Trong xã hội vẫn còn những
giai cấp khác nhau, đấu tranh giai cấp vẫn tiếp
diễn và vẫn còn âm mưu xâm lược của các thế
lực đế quốc, do vậy cần nhà nước chuyên
chính của giai cấp công nhân để trấn áp các
lực lượng phản cách mạng và bảo vệ XHCN.
Thứ hai: xã hội trong thời kỳ quá độ
vừa thoát thai từ XH cũ còn mang rất nhiều
dấu vết của XH cũ. Để quản lý một XH như
vậy cần phải có sự cưỡng chế của nhà nước.
Thứ ba: Xây dựng CNXH là sự nghiệp
vĩ đại, khó khăn, phức tạp. Nó đòi hỏi phải có
một nhà nước do những người lao động dưới
sự lãnh đạo của ĐCS lập ra để tổ chức và quản
lý, xây dựng xã hội mới.
Nhà nước vô sản có những đặc trưng riêng
khác với nhà nước của giai cấp bóc lôt
Một là: lần đầu tiên xuất hiện nhà nước
do dân và vì dân. Nó không còn là nhà nước

thiếu số thống trị đa số như trước đây, mà là
nhà nước đa số thống trị thiểu số những kẻ
chống lại lợi ích của nhân dân lao động. Cơ sở

xã hội và nòng cốt nhà nước vô sản là liên
minh công - nông - trí thức. Trong nhà nước
Vô sản, mọi quyền lực thuộc về nhân dân.
Tính chất của dân, do dân và vì dân thể hiện
thông qua nguyên tắc tổ chức, cơ chế hoạt
động và pháp luật nhà nước.
Hai là: lần đầu tiên trong lịch sử, đã ra
đòi một nhà nước mà chức năng chủ yếu nhất
của nó không phải là bạo lực trấn áp mà là tố
chức xã hội cao hơn so với chủ nghĩa tư bản.
* Vấn đề xây dựng nhà nước pháp
quyền ở Việt Nam hiện nay:
Nhà nước trong thời kỳ quá độ lên
CNXH ở VN là “Nhà nước pháp quyền
XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân
dân. Tất cả quyền lực đều thuộc về nhân dân
mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức,
do ĐCS lãnh đạo. Quyền lực nhân dân là
thống nhất; có sự phân công, phối hợp và
kiểm soát giữa các cơ qun trong việc thực hiện
các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Nhà nước ban hành pháp luật; tổ chức, quản lý
xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng
cường pháp chế XHCN”.
Việc xây dựng nhà nước XHCN trong

TKQĐ ở VN là một tất yếu khách quan. Tính
tất yếu đó không chỉ xuất phát từ những đặc
điểm của thời đại ngày nay, thời đại quá độ từ
chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội mà còn
xuất phát từ đòi hỏi của thực tiễn cách mạng
Việt Nam, “muốn cứu nước và giải phóng dân
tộc không còn con đường nào khác con đường
cách mạng Vô sản”.
Xây dựng nhà nước XHCN ở nước ta là
một quá trình lâu dài, gắn liền với quá trình
phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng
XHCN.
Chủ trương từng bước Xây dựng nhà
nước theo mô hình nhà nước pháp quyền
XHCN đánh dấu mốc quan trọng trong quá trình
đổi mới và Xây dựng nhà nước XHCN ở VN.
Bước vào thời kỳ đổi mới, nhận thức
của Đảng ta vể NN pháp quyền ngày càng đầy
đủ hơn, rõ ràng, cụ thể hơn và quyết tâm Xây
dựng nhà nước XHCN dưới hình thức nhà
nước pháp quyền ngày càng cao hơn.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VI, trong chủ trương đổi mới NN đã manh nha
một số nội dung về NN pháp quyền. Đến Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, chủ trương
12


Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở
nước ta mới chính thức được khẳng định.

Thuật ngữ nhà nước pháp quyền lần đầu tiên
được chính thức sử dụng trong văn kiện quan
trọng của Đảng.
Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN
trong điều kiện chuyển đổi nền KT đối với nước ta
là điều mới mẻ, hiểu biết và kinh nghiệm của chúng
ta còn ít. Vì vậy cần thận trọng trong QĐ cũng như
trong tiến hành. Trong văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VIII, Đảng coi Xây dựng nhà
nước pháp quyền như một trong 5 quan điểm cần
quán triệt trong việc tiếp tục cải cách bộ máy nhà
nước, xây dựng và hoàn thiện nhà nước XHCN VN. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thư IX,
Đảng coi Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN
dưới sự lãnh đạo của Đảng là nhiệm vụ có tính
chiến lược và xuyên suốt trong cải cách tổ chức và
hoạt động của nhà nước, phát huy dân chủ, tăng
cường pháp chế. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, ĐCSVN tiếp tục khẳng định: “Đẩy mạnh
Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN tập trung
vào 3 nội dung lớn là tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt
động của bộ máy nhà nước; xây dựng đội ngũ cán
bộ công chức trong sạch, có năng lực đáp ứng yêu
cầu của tĩnh hình mới; tích cực phòng ngừa và kiên
quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí,
thực hành tiết kiệm.
Câu 7: Trình bày bản chất, nguyên nhân,
vai trò của cách mạng xã hội? Điều kiện
khách quan và nhân tố chủ quan của cách
mạng xã hội?
* Khái niệm cách mạng xã hội

Cách mạng xã hội là sự biến đổi có tính
chất bước ngoặt và căn bản về chất trong mọi
lĩnh vực đời sống xã hội, là phương thức
chuyển biến từ một hình thái kinh tế xã hội lỗi
thời bằng hình thái kinh tế - xã hội cao hơn,
tiến bộ hơn
Trong thực tế, cách mạng xã hội được
hiểu theo hai nghĩa rộng và hẹp khác nhau:
Theo nghĩa rộng: cách mạng xã hội là
cả một thời kỳ lịch sử bắt đầu bằng cuộc cách
mạng giành chính quyền và kết thúc khi hình
thái kinh tế xã hội mới đã hoàn toàn chiến
thắng hình thái kinh tế xã hội cũ.
Theo nghĩa hẹp, cách mạng xã hội là
việc lật đổ một chế độ chính trị đã lỗi thời,
thiết lập một chế độ chính trị tiến bộ hơn.

Dù theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp,
giành chính quyên vẫn là vấn đề cơ bản của
mọi cuộc cách mạng xã hội. Bởi vì, chỉ khi
nào giành được chính quyền, giai cấp cách
mạng mới xác lập được nền chuyên chính của
mình, tiến tới bảo đảm được quyền lực của
mình trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Để nắm vững khái niệm cách mạng xã
hội, cần phân biệt cách mạng xã hội với
những biến đổi xã hội khác: tiến hóa xã hội ,
cải cách xã hội , đảo chính.
Tiến hóa xã hội cũng là hình thức phát
triển của xã hội. Nhưng khác với cách mạng

xã hội, nó là quá trĩnh phát triển diễn ra một
cách tuần tự, dần dần với những biến đổi cục
bộ trong một hình thái kinh tế - xã hội nhất
định. Song tiến hóa xã hội và cách mạng xã
hội thống nhất biện chứng với nhau: cách
mạng xã hội chỉ ữở thành tất yếu lịch sử khi
những tiền đề của nó được tạo ra nhờ tiến hóa
xã hội. Ngược lại, cách mạng xã hội mở
đường cho tiến hóa như là những quá trình kế
tiếp nhau không ngừng trong sự phát triển của
xã hội.
Cải cách xã hội cũng tạo nên sự thay
đổi về chất nhất định trong đời sống xã hội,
nhưng khác về nguyên tắc với cách mạng xã
hội ở chỗ: cải cách xã hội chỉ tạo nên những
biến đổi riêng lẻ, bộ phận trong khuôn khổ chế
độ xã hội đang tồn tại; những cải cách xã hội
có ý nghĩa thúc đẩy quá trình tiến hóa tạo tiền
đề dẫn tới cách mạng xã hội. Kinh nghiệm lịch
sử cho thấy, trong các chế độ xã hội có đối
kháng giai cấp, phần lớn những cải cách xã
hội là kết quả của phong trào đấu tranh của lực
lượng tiến bộ, và trong những hoàn cảnh nhất
định, chúng trở thành những bộ phận hợp
thành của cách mạng xã hội.
Đảo chính là thủ đoạn giành quyền lực
nhà nước bởi một cá nhân hoặc một nhóm
người nhằm xác lập một chế độ xã hội có cùng
bản chất. Đảo chính không động đến chế độ xã
hội và không phải là phong trào cách mạng

của quần chúng, cho nên đảo chính khác hoàn
toàn với cách mạng xã hội.
* Nguyên nhân của cách mạng xã hội:
Nguyên nhân sâu xa của cách mạng xã
hội là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất. Lực lượng sản xuất phát
triển đến một mức độ nhất định thi quan hệ
sản xuất cũ trở nên lỗi thời, kìm hãm sự phát
13


triển của các lực lượng sản xuất. “Từ chỗ là
những hình thức phát triển của các lực lượng
sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những
xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó
bắt đầu thòi đại một cuộc cách mạng xã hội”.
Nguyên nhân sâu xa này biểu hiện về
mặt xã hội thành nguyên nhân xã hội trực tiếp.
Đó là mâu thuẫn giữa 1 bên là giai cấp cách
mạng và quần chúng lao động đại biểu cho sự
phát triển LLSX mới với 1 bên là giai cấp thống
trị nhưng đã lỗi thời, phản động đại biểu cho
QHSX cũ đang cản trở sự phát triển LLSX.
Các cuộc cách mạng xã hội đều bắt
nguồn từ những nguyên nhân khách quan đó.
* Vai trò của cách mạng xã hội trong
sự phát triến XH
Thực chất của cách mạng xã hội là
nhằm giải quyết mâu thuẫn kinh tế (mâu thuẫn
giữa LLSX và QHSX) và mâu thuẫn xã hội

(mâu thuẫn giữa giai cấp cách mạng và giai
cấp thống trị đã lỗi thời, phản động). Giải
quyết những mâu thuẫn đó trước hết được
thực hiện thông qua cuộc đấu tranh giai cấp và
đỉnh cao của cuộc đấu tranh giai cấp nay là
cách mạng xã hội .
Trong cách mạng xã hội, giai cấp cách
mạng phải lật đổ sự thống trị của giai cấp
thống trị, giành lấy chính quyền nhà nước và
sử dụng chính quyền nhà nước để xóa bỏ
QHSX cũ, lạc hậu, xây dựng QHSX mới thúc
đẩy LLSX, kinh tế phát triển, cải biến xã hội
phát triển theo hướng tiến bộ.
Như vậy cách mạng xã hội có vai trò to
lớn. Không có cách mạng xã hội, không thể
chuyển được hình thái kinh tế - xã hội cũ, lỗi
thời lên một hình thái kinh tế - xã hội mới cao
hơn, mở đường cho sự tiến bộ xã hội.
Lịch sử nhân loại đã chứng minh đầy đủ
và rõ nét vai trò của cách mạng xã hội qua bốn
cuộc cách mạng xã hội đưa nhân loại trải qua 5
hình thái KT-XH nối tiếp nhau là: từ cộng đồng
người nguyên thuỷ lên chế độ chiếm hữu nô lệ;
từ chế độ chiếm hữu nô lệ lên chế độ phong
kiến; từ chế độ phong kiến lên chế độ tư bản chủ
nghĩa; từ chủ nghĩa tư bản lên chế độ XHCN và
tiến lên cộng sản chủ nghĩa.
Cuộc cách mạng vô sản là một kiểu
cách mạng xã hội mới về chất. Nếu tất cả các
cuộc cách mạng xã hội trước chỉ là sự thay thế

hình thức của chế độ chiếm hữu tư nhân, thay
thế hình thức người bóc lột người, thì cách

mạng vô sản nhằm xây dựng xã hội mới
không có giai cấp đế giải phóng triệt để con
người. Đó là sự chuyến biến sâu sắc nhất ữong
lịch sử nhân loại.
* Điều kiện khách quan và nhân tố
chủ quan của cách mạng :
Muốn cho cách mạng nổ ra và thắng lợi
phải có những điều kiện khách quan và chủ
quan nhất định.
Điều kiện khách quan chín muồi cho
cách mạng nổ ra gọi là tình thế cách mạng. Tình
thế cách mạng là một cuộc khủng hoảng toàn
quốc lay chuyển cả giai cấp thống trị và giai cấp
bị trị. Sự xuất hiện hay qua đi của tĩnh thế cách
mạng là khách quan, không phụ thuộc vào ý chí
của giai cấp hay chính đảng nào.
Nhân tố chủ quan đó là giai cấp cách
mạng có khả năng phát động, lãnh đạo quần
chúng đứng lên lật đổ chế độ cũ và tính tích
cực cách mạng của quần chúng nhân dân được
nâng lên đến một mức độ nhất định.
Câu 8: Tính độc lập tương đối của ý thức
xã hội đối với tồn tại xã hội. Ý nghĩa đối vói
việc xây dựng thức xã hội mới ở Việt Nam
hiện nay.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin tồn tại xã hội là đời sống vật chất cùng
toàn bộ những điều kiện sinh hoạt vật chất,

quan hệ vật chất của xã hội, còn ý thức xã hội
là mặt tinh thần của đời sống xã hội, nảy sinh
từ tồn tại xã hôị và phản ánh tồn tại xã hội
trong những giai đoạn phát triển nhất định.
Tuy nhiên ý thức xã hội không phụ thuộc vào
tồn tại xã hội một cách thụ động, ý thức xã hội
vẫn có tính độc lập tương đối so với tồn tại xã
hội, thông qua hoạt động thực tiễn của con
người, ý thức xã hội có thể tác động trở lại tồn
tại xã hội. Đối với Việt Nam chứng ta quá độ
đi lên từ một nước nông nghiệp lạc hậu, xây
dựng chủ nghĩa xã hội là cả một quá trình lâu
dài, gian khổ khó khăn. Đặc biệt là trong khi
xã hội chúng ta xuất phát từ một nền tảng tồn
tại xã hội rất thấp, trong xã hội còn tồn tại đan
xen nhiều hình thái ý thức xã hội khác nhau,
có những hình thái ý thức đã lỗi thời lạc hậu,
có những hình thái ý thức xã hội mang tính
vượt trước. Việc vận dụng tính độc lập tương
đối của hình thái ý thức xã hội đối với tồn tại
xã hội để xây dựng ý thức xã hội mới ở Việt
Nam hiện nay là cần thiết hom bao giờ hết.
14


Tính độc lập tương đối của ý thửc xã
hội thể hiện:
* Thứ nhất, ý thức xã hội thường lạc
hậu hơn so với tồn tại xã hội
Ý thức xã hội là cái phản ánh của tồn

tại xã hội, còn tồn tại xã hội là cái được phản
ánh bởi ý thức xã hội. Do vậy, ý thức xã hội
vói tư cách là cái phản ánh bao giờ cũng biến
đổi chậm hơn so với tồn tại xã hội - cái được
phản ánh. Điều này thể hiện rất rõ, khi ý thức
xã hội không phản ánh kịp sự biến đổi, phát
triển của tồn tại xã hội. Sự lạc hậu của ý thức
xã hội so với tồn tại xã hội có nhiều nguyên
nhân khác nhau:
Một là: do sức ỳ của tâm lý xã hội, nhất
là thói quen, phong tục tập quán truyền thống.
Hai là: trong hình thái ý thức xã hội có
những yếu tố bảo thủ, chẳng hạn như ý thức tôn
giáo phản ánh không đúng và không kịp sự vận
động, biến đổi của tồn tại xã hội.
Ba là: trong xã hội có giai cấp, ý thức
xã hội luôn gắng với lợi ích của những nhóm
xã hội, tập đoàn xã hội, giai cấp xã hội khác
nhau, vậy nên những quan điểm, tư tưởng tâm
lý cũ thường được các lực lượng xã hội, giai
cấp xã hội bảo thủ phản tiến bộ lưu giữ và
truyền bá nhằm chống lại những lực lượng
tiến bộ. Chính vì vậy, những quan điểm, tư
tưởng, tâm lý cũ không tự động mất đi khi tồn
tại xã hội cũ mà trên đó chúng tồn tại nảy sinh
không còn nữa, mà phải thông qua cuộc đấu
tranh cải tạo triệt để xã hội cũ, tồn tại xã hội
cũ và xây dựng xã hội mới.
Ở Việt Nam chúng ta, sau một tiến trình
gần 40 năm xây dựng xây dựng chủ nghĩa xã

hội trên phạm vi cả nước, mặc dù tồn tại xã
hội đã có những đổi thay to lớn, nước ta tò
một nước nông nghiệp lạc hậu đã tiến rất gần
với định hướng đến 2020 Việt Nam cơ bản trở
thành một nước công nghiệp hiện đại, có lực
lượng sản xuất phát triển cao, tiên tiến. Tuy
nhiên, sự biến đổi của tồn tại xã hội như vậy
không hẳn là khiến toàn bộ các hình thái ý
thức xã hội sẽ biến đổi theo, tại Việt Nam
chúng ta vẫn còn tồn tại nhiều hình thái ý thức
xã hội cũ, mang tính bảo thủ lạc hậu. Biểu
hiện cụ thể của các hình thái ý thức đó như:
tâm lý trọng nam khinh nữ, tảo hôn, mê tín dị
đoan, các tục lệ, hủ tục khác.... Chẳng hạn:
tâm lý trọng nam khinh nữ, nó bị ảnh hưởng
học thuyết chính trị của nho gia, nhưng nó

cũng chính xuất phát từ tồn tại xã hội nông
nghiệp thuần lúa nước, rất cần lao động trong
nông nghiệp, đặc biệt là lao động nam thích
ứng với các công việc đồng áng nặng nhọc.
Ngày nay, tồn tại xã hội nông nghiệp thuần lúa
nước đã không còn nữa, các công việc đồng
áng nặng nhọc đã được thay thế bằng máy
móc, thiết bị nông nghiệp. Tuy nhiên, dưới sức
ỳ của tâm lý xã hội, phong tục, thói quen…
Tâm lý trọng nam khinh nữ vẫn còn tồn tại,
tâm lý này ngày càng gây nên nhiều tác hại
trong xã hội như mất cân bằng tự nhiên giới
tính, buôn bán phụ nữ và trẻ em... Vậy nên

trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội,
việc loại bỏ những yếu tố tiêu cực trong ý thức
xã hội là điều cần thiết hơn bao giờ hết.
* Thứ hai, ý thức xã hội có thể vượt
trước tồn tại xã hội
Ý thức xã hội nếu phản ánh đúng quy
luật vận động của tồn tại xã hội thì nó có thể
phản ánh vượt trước tồn tại xã hội. Triết học
Mác - Lênin chỉ rõ, trong điều kịện hoàn cảnh
nhất định, ý thức của con người nếu phản ánh
đúng quy luật vận động, phát triển của tồn tại
xã hội, thì có thể chỉ ra khuynh hướng vận
động, phát triển của tồn tại xã hội trên cơ sở
đó có thể dự báo tương lai, góp phần chỉ đạo
tổ chức thực tiễn đạt hiệu quả cao nhất. Phản
ánh vượt trước của ý thức xã hội có thể có cơ
sở và phản ánh vượt trước không có cơ sở. Sự
phản ánh của ý thức xã hội đối với tồn tại xã
hội được coi là sáng tạo khi nó phản ánh đúng
được mối liên hệ bản chất, tất nhiên, mang
tính quy luật của tồn tại xã hội. Khi ấy, sự
phản ánh vượt trước của ý thức xã hội đối với
tồn tại xã hội sẽ có cơ sở.
Nêu ý thức xã hội phản ánh không
đúng quy luật khách quan của sự vận động
phát trien của xã hội. Hơn nữa nó lại bị chi
phối bởi mong muốn chủ quan, duy ý chí thì
khi ấy sự phản ánh vượt trước của ý thức xã
hội sẽ là sự vượt trước không có cơ sở, dễ rơi
vào ảo tưởng.

Chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời vào
những năm 40 của thế kỷ XIX từ trong lòng
của chủ nghĩa tư bản, sau được Lênin bổ xung
và phát triển trong điều kiện chủ nghĩa tư bản
chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa
nhưng do phản ánh đúng quy luật khách quan
của sự vận động phát triển của xã hội, vì vậy
đã chỉ ra khuynh hướng vận động tất yếu của
15


xã hội loài người từ chủ nghĩa xã hội lên chủ
nghĩa cộng sản. Sự chỉ ra này mang tính phản
ánh vượt trước của ý thức xã hội đối với tồn
tại xã hội. Do vậy trong thòi đại ngày nay
Đảng và nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam vẫn kiên đinh với học thuyết Mác Lênin và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
* Thứ ba, ý thức xã hội có tính kế
thừa trong sự phát triển của mình
Do có sự kế thừa trong sự phát triển
của nó mà không thể giải thích ý thức xã hội
đơn thuần từ tồn tại xã hội. Lịch sử loài người
đã cho thấy, có những giai đoạn hưng thịnh
của triết học, nghệ thuật... hoàn toàn không
phù hợp với sự hưng thịnh của đời sống vật
chất xã hội. Ngoài ra, trong xã hội có giai cấp,
tính chất kế thừa của ý thức xã hội gắn với
tính chất giai cấp của nó. Những giai cấp khác
nhau kế thừa những nội dung ý thức khác
nhau của các thời đại trước. Các giai cấp tiên

tiến tiếp nhận những di sản tư tưởng tiến bộ
của xã hội cũ để lại. Giai cấp lỗi thời thì tiếp
thu khôi phục những tư tưởng phản tiến bộ
của thời kỳ lịch sử trước.
Quan điểm về tính kế thừa của ý thức
xã hội có ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp xây
dựng nền văn hoá tinh thần xã hội XHCN. Đối
với Việt Nam chúng ta cần thấy rằng; trước
hết cải tạo các hình thái ý thức xã hội cũ là
một quá trình lâu dài, khó khăn bởi giữ các
hình thái ý thức xã hội có sự kế thừa trong sự
phát triển của mình, chúng ta cần phải dần dần
loại bỏ nó trong quá trình cải tạo xây dựng xã
hội mới. Đồng thời chúng ta cũng phải biết
giữ gìn, phát huy những nét đẹp truyền thống
đáng quý trong quá trình phát triển trong lịch
sử dân tộc, đây là hoạt động hợp quy luật với
tính chất kế thừa trong quá trình phát triển của
ý thức xã hội.
* Thứ tư, Sự tác động qua lại giữa các
hình thái ý thức xã hội ừong sự phát triển
của chúng
Ý thức xã hội là một hiện tượng phức
tạp, tùy theo cách xét mà có thể phân loại khác
nhau. Theo nội dưng và lĩnh vực phản ánh đời
sống xã hội thì ý thức xã hội bao gồm: ý thức
chính trị, ý thức pháp quyền, ý thức đạo đức, ý
thức tôn giáo, ý thức thẩm mỹ... Theo trình độ
phản ánh người ta chia thành ý thức xã hội
thông thường và ý thức lý luận. Tuy nhiên, sự

tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã

hội làm cho mỗi hình thái ý thức xã hội có
những mặt, những tính chất không thể giải
thích được một cách trực tiếp bằng tồn tại xã
hội hay bằng những điều kiện vật chất.
Ở mỗi thời đại, tuỳ theo hoàn cảnh lịch
sử cụ thể có những hình thái ý thức xã hội nào
đó nổi lên hàng đầu và tầc động mạnh đến các
hình thái ý thức xã hội khác tạo nên sự phát
triển không đồng nhất với tồn tại xã hội.
Chẳng hạn ở Hi Lạp cổ đại triết học nổi lên
hàng đầu, thậm chí đóng vai frò là ”khoa học
của các khoa học”; Ớ Tây Âu thòi kỳ trung cổ,
tôn giáo đóng vai trò chi phối đời sống tinh
thần xã hội...
Trong sự tác động lẫn nhau giữa các
hình thái ý thức xã hội, ý thức chính trị có vai
trò đặc biệt quan trọng, ý thức chính trị của
giai cấp cách mạng định hướng cho sự phát
triển theo chiều hướng tiến bộ của các hình
thái ý thức xã hội khác, ở nước ta hiện nay,
hoạt động triết học, văn hoá, nghệ thuật không
tách ròi đường lối chính tri của Đảng.
* Thứ năm, ý thức xã hội tác động trở
lại tồn tại xã hội
Sự tác động trở lại của ý thức xã hội đối
với tồn tại xã hội là một biểu hiện quan trọng
của tính độc lập tương đối của ý thức xã hội. Sự
tác động đó có thể theo hai khuynh hướng đối

lập nhau: tác động tích cực của ý thức xã hội đối
với tồn tại xã hội và tác động tiêu cực của ý thức
xã hội đối với tồn tại xã hội.
Nêu ý thức xã hội phản ánh đúng quy
luật vận động phát triển của tồn tại xã hội thì
thông qua hoạt động thực tiễn của con người
nó có thể tác động tích cực tới tồn tại xã hội.
Biếu hiện của sự tác động tích cực của ý thức
xã hội đối với tồn tại xã hội là nó thúc đấy
phương thức sản xuất phát triển. Góp phần cải
biến tự nhiên, hoàn cảnh địa lý theo hướng có
lợi cho con người và sản xuất vật chất...
Nêu ý thức xã hội lạc hậu, phản ánh
không đúng quy luật vận động, phát triển của
tồn tại xã hội; hoạc ý thức xã hội phản tiến bộ,
nhất là ý thức chính trị, hoạc là ý thức xã hội
phản ánh vượt trước tồn tại xã hội nhưng vượt
trước ảo tưởng, duy ý trí, w thì sẽ tác động
tiêu cực đến tồn tại xã hội. Biểu hiện của sự
tác động tiêu cực đó là nó cản trở tồn tại xã
hội phát triển.
Mức độ tác động luật của ý thức xã hội
đối vói tồn tại xã hội phụ thuộc vào nhiều yếu
16


tố như: Tính chất tiến bộ, cách mạng hay lạc
hậu phản động của chủ thể mang ý thức xã
hội, tính khoa học hay không của ý thức xã
hội, mức độ thâm nhập của ý thức xã hội vào

quảng đại quần chúng nhân dân...
Ý nghĩa đối với việc xây dựng ý thức
xã hội mới ở Việt Nam hiện nay:
Một là: ta cần phải nhận thấy rõ ràng
rằng ý thức xã hội không hình thành một cách
tự phát mà hình thành một cách tự giác, lâu
dài dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản với
sự tham gia tích cực của quảng đại quần
chứng nhân dân. Vì ý thức xã hội có tính độc
lập tương đối so với tồn tại xã hội, thường lạc
hậu hơn so với tồn tại xã hội, lại chịu sự tác
động của nhiều yếu tố khác nhau nên một nền
ý thức xã hội mới ở Việt Nam chúng ta ngày
nay sẽ không thể tự nhiên mà có. Ý thức xã
hội mới tại Việt Nam chỉ được hình thành khi
có công tác giáo dục dưới sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản và sự rèn luyện tích cực của
quần chúng nhân dân.
Hai là: ý thức xã hội mới là kết quả của
sự kế thừa toàn bộ những tinh hoa trong lịch
sử tư tưởng dân tộc và nhân loại, đồng thời
đấu tranh không khoan nhượng với những ý
thức lạc hậu phản tiến bộ. Bởi lẽ ý thức xã hội
có sự kế thừa ừong sự phát triển của mình, cho
nên cả những yếu tố tiêu cực, lạc hậu và yếu
tố tích cực, tiến bộ sẽ đều cùng được kế thừa
và lưu truyền, vấn đề đối với Việt Nam của
chúng ta hiện nay đó là phải biết tiếp nhận
những tinh hoa trong lịch sử tư tưởng dân tộc
và nhân loại, đồng thời đấu tranh khắc phục

những tư tưởng, phong tục thói quen lạc hậu,
phản tiến bộ, làm thất bại mọi cuộc tiến công
về tư tưởng của mọi lực lượng phản cách
mạng. Đây cũng là cuộc đấu tranh bảo vệ sự
trong sáng của sự trong sáng của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ
trương đường lối của Đảng, chính sách pháp
luật của nhà nước. Chỉ khi làm được như vậy
chúng ta mới có thể xây dựng thành công ý
thức xã hội mới ở nước ta hiện nay.
Ba là: hình thành ý thức xã hội mới
phải gắn liền với phát triển kinh tế, củng cố
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân lao động. Điều
này xuất phát từ chính mối quan hệ giữa tồn
tại xã hội và ý thức xã hội, tồn tại xã hội quyết
định ý thức xã hội, mặc dù ý thức xã hội có

tính độc lập riêng của mình nhưng sự độc lập
của ý thức xã hội chỉ là tương đối. Ý thức xã
hội vẫn phải được nảy sinh và tồn tại trên
những cơ sở tồn tại xã hội nhất định. Ở Việt
Nam chúng ta, việc xây dựng ý thức xã hội
mới không thể thực hiện chỉ bằng thuần túy
con đường giáo dục, thuyết phục, cải tạo trên
lĩnh vực tinh thần tư tưởng, mà chứng ta phải
xét trên cả lĩnh vực tồn tại xã hội, cái cơ sở mà
ý thức xã hội mới của chúng ta sẽ hình thành
và nảy sinh từ trên ấy.
Quan niệm duy vật lịch sử về ý thức xã

hội chỉ rõ rằng, muốn hình thành ý thức xã hội
mới, về lâu dài, cơ bản phải hình thành được
tồn tại xã hội chủ nghĩa. Muốn vậy phải phát
triển được kinh tế theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, phải không ngừng củng cố quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa. Cùng với đó chúng ta
phải phát huy được quyền làm chủ của nhân
dân lao động, có như vậy chúng ta mới lôi
cuốn được đông đảo quần chúng nhân dân
tham gia cải tạo những tư tưởng lạc hậu, đấu
tranh hiệu quả vói tư tưởng sai trái phản tiến
bộ, tham gia quản lý xây dựng phát triển kinh
tế xã hội,văn hóa, giáo dục, khoa học. Đây là
điều kiện quan trọng cho việc hình thành và
phát triển ý thức xã hội mới.
Tóm lại: Quan điểm của chủ nghĩa duy
vật lịch sử về tính độc lập tương đối của ý
thức xã hội chỉ ra bức tranh phức tạp của lịch
sử phát triển ý thức xã hội và của đời sống
tinh thần xã hội nói chung. Nó bác bỏ mọi
quan điểm sai lầm về mối quan hệ giữa tồn tại
xã hội và ý thức xã hội, đồng thời qua đó,
chúng ta cũng rút ra nhiều luận điểm ý nghĩa
cho việc cải tạo xã hội cũ và xây dựng ý thức
xã hội mới sau này.
Vấn đề 2: NHỮNG VẤN ĐỀ KINH TẾ
CHÍNH TRỊ CỦA THỜI KỲ
ĐI LÊN CNXH
Câu 1: Trình bày những nội dung cơ bản
của vấn đề sở hữu trong thời kỳ quá độ lên

CNXH? Liên hệ thực tiễn Việt Nam
Sở hữu là hình thức nhất định được
hình thành trong lịch sử về chiếm hữu của cải
vật chất xã hội. Quan hệ sở hữu là quan hệ
giữa người với người đối với việc chiếm hữu
của cải vật chất, trước hết là đối với những tư
liệu sản xuất chủ yếu. Quan hệ sở hữu được
17


thể hiện dưới những hình thức nhất định có
tính chất pháp lý được gọi là chế độ sở hữu.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là
thời kỳ chuyển biến từ sở hữu tư nhân thành
sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất. Sự
chuyển biến đó mang tính khách quan tùy
thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất. Sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất
vừa là phương tiện, vừa là mục tiêu trong công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. vấn đề quan
trọng và cũng là mục đích của việc thiết lập sở
hữu công cộng về tư liệu sản xuất là làm cho
nó có ưu thế hơn so với sở hữu tư nhân về
năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế.
Sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất
vừa là phương tiện vừa là mục tiêu cần thực
hiện trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Do đó, xây dựng sở hữu công cộng về tư
liệu sản xuất là tất yếu trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội. Hơn nữa sở hữu công

cộng về tư liệu sản xuất còn là công cụ quan
trọng định hướng nền kinh tế lên chủ nghĩa xã
hội. Tuy nhiên, việc xây dựng sở hữu công
cộng về tư liệu sản xuất phải trải qua một thời
kỳ lâu dài, từ thấp đến cao và luôn phải đặt
trong mối liên hệ với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất. Chế độ sở hữu công cộng
(công hữu) về tư liệu sản xuất chủ yếu từng
bước được xác lập và chiếm ưu thế tuyệt đối
khi chủ nghĩa xã hội được xây dựng xong về
cơ bản. Quá trình xây dựng sở hữu công cộng
về tư liệu sản xuất chính là quá trình xây dựng
và phát triển, củng cố và hoàn thiện sở hữu
toàn dân và sở hữu tập thể về tư liệu sản xuất
trên cơ sở phát triển của lực lượng sản xuất.
Vấn đề sở hữu ở Việt Nam: Có sự
thay đổi trong nhận thức của Đảng và Nhà
nước trước và trong thời kỳ đối mới
Trước đổi mới (1945 - 1986)
Giai đoạn 1945 - 1959: Cách mạng
tháng tám thành công ngày 2/9/1945 nước
Việt Nam dân chủ cộng hoà, một nhà nước
công - nông đầu tiên ở khu vực Đông Nam Á
ra đời với mục tiêu xây dựng mét chế độ xã
hội mới theo con đường phát triển của chủ
nghĩa cộng sản. Hiến pháp 1946 đã tạo cơ sở
pháp lý và từ đây quyền sở hữu tài sản riêng
của công dân trở thành quyền hiến định.
Nhiệm vụ cấp bách của cách mạng Việt Nam
lúc đó phải xoá bỏ quyền sở hữu đối với tư

liệu sản xuất quan trọng của thực dân Pháp,

của các đế quốc khác, các thế lực phản động
thù địch, của giai cấp địa chủ phong kiến.
Pháp luật giai đoạn 1945 - 1959 đã tạo ra
những tiền đề quan trọng trong việc xác lập
quan hệ sở hữu mới dưới chính quyền dân chủ
nhân dân. Từ đó xây dựng cơ sở vật chất bảo
đảm cho sự tồn tại và phát triển của chế độ
mới. Trong giai đoạn này ta đã dùng chính
quyền vô sản làm công cụ cải tạo xã hội, thiết
lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, chúng
ta coi công hữu là mục tiêu.
Giai đoạn 1959 - 1980: Miền Bắc tiến
lên CNXH, còn miền Nam tiếp tục tiên hành
cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
trong điều kiện mói để đi đến cuộc tống tiến
công và nổi dậy ngày 30/4/1975 giải phóng
hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước và
cả nước cùng tiến lên CNXH.
Miền Bắc về cơ bản hoàn thành cải tạo
XHCN đối với các thành phần kinh tế phi xã
hội chủ nghĩa. Nhiệm vụ chủ yếu thời kỳ này
là xác lập và hoàn thiện chế độ sở hữu xã hội
chủ nghĩa ở miền Bắc. Điều 12, hiến pháp
1959 khẳng định: “Kinh tế quốc doanh thuộc
sở hữu toàn dân giữ vai trò lãnh đạo nền kinh
tế quốc dân. Trong đó tồn tại các hình thức sở
hữu là : Sở hữu nhà nước, sở hữu của các nhà
tư sản dân tộc, sở hữu của tiểu thương, thợ thủ

công, hộ nông dân cá thể, sở hữu tập thể của
các HTX, được quy định tại điều 11 Hiến pháp
1959... thực hiện các Nghi quyết Đại hội Đảng
lần thứ nt, IV, là vừa xây dựng vừa cải tạo,
trong cải tạo có xây dựng sở hữu thời kỳ này
tạo tiền đề quan trọng có ý nghĩa to lớn cho
thời kỳ tiếp theo.
Giai đoạn 1980 - 1986: Hiến pháp
1980 thay thế hiến pháp 1959 đã ghi nhận
phạm vi và bản chất của sở hữu toàn dân.
Trong đó tại các điều 18, 19, 23, 24, 27 của
hiến pháp 1980 đã quy định các hình thức sở
hữu cơ bản sau: Sở hữu toàn dân đối vói đất
đai, rừng núi sông hồ... (Điều 19); Sở hữu tập
thể; sở hữu của công dân. Trong đó ưu tiên sở
hữu nhà nước và sở hữu tập thể . Tại điều 18
hiến pháp 1980 quy định: “Thiết lập và củng
cố chệ độ sở hữu xã hội chủ nghĩa về TLSX
nhằm thựchiện một nền kinh tế quốc dân chủ
yếu có hai thành phần : Thành phần kinh tế
quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân và thành
phần kinh tế HTX thuộc sở hữu tập thể của
nông dân lao động”.
18


Từ đổi mới đến nay: Nhận thức của
đảng và Nhà nước về tính tất yếu phải tồn tại
nhiều hình thức sở hữu trong thời kỳ quá độ ở
nước ta :

Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nước ta trước đây, cơ cấu sở hữu được
thiết lập chỉ với hai hình thức cơ bản sở hữu
toàn dân và sở hữu tập thể. Những hình thức
sở hữu Êy không phản ánh thực chất tính chất
và trình độ hiện thời của lực lượng sản xuất.
Từ đó dẫn tới vi phạm lợi ích của người lao
động đã làm cho nền kinh tế mất đi động lực.
Vì vậy đã đẩy nền kinh tế nhiều năm rơi vao
tình trạng khủng hoảng, trì trệ.
Tại Đại hội VI của Đảng đã nghiêm túc
kiểm điểm lại quá trình xây dựng CNXH ở
nước ta tõ trước đó và rút ra kết luận: “Lực
lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong
trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu, mà cả
khi quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ
có nhữngười yếu tố đi quá xa so với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất”. Cùng với
việc phát hiện ra các sai lầm đó, Đảng ta còng
đã kiên quyết khắc phục, sửa chữa thông qua
đổi mới và việc thừa nhận vai trò và sự tồn tại
của hình thức tư hữu trong tính đa dạng của
các hình thức sở hữu. Đây là một bước ngoặt
lớn mang tầm vóc chiến lược mới, thể hiện sự
đổi mới của Đảng ta.
Hiện nay Đảng và Nhà nước ta đang
chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần với nhiều hình thức sở hữu
khác nhau, vận hành theo cơ chế thị trường, có
sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã

hội chủ nghĩa.
Đặc điểm to lớn nhất của thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là điểm xuất
phát rất thấp, sản xuất nhỏ là phổ biến, bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa. Điều đó có nghĩa là
trình độ của lực lượng sản xuất ở nước ta còn
rất thấp kém và do đó sở hữu tư nhân về tư
liệu sản xuất vẫn còn phù hợp vói trình độ của
lực lượng sản xuất, là nhân tố thúc đẩy sự phát
triển của lực lượng sản xuất. Bởi vậy, trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam, sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất chẳng
những không cần phải xoá bỏ mà còn cần
được tạo mọi điều kiện để phát triển. Nó là
một hình thức sở hữu cơ bản trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Như vậy, trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ờ nước ta tồn tại ba hình thức sở
hữu cơ bản về tư liệu sản xuất, đó chính là ba
chế độ sở hữu: toàn dân, tập thể và tư nhân.
Trên cơ sở của ba chế độ sở hữu đó hình thành
nhiều hình thức sở hữu ở những mức độ chín
muồi khác nhau: sở hữu toàn dân (sở hữu nhà
nước), sở hữu tập thể, sở hữu cá thể, sở hữu tư
bản tư nhân, sở hữu hỗn họp giữa nhà nước và
tư nhân... Các hình thức sở hữu tư liệu sản
xuất tồn tại khách quan, lâu dài, không biệt lập
mà đan xen nhau và tác động lẫn nhau. Sở hữu
nhà nước được xác lập trước hết đối với các

công trình thuộc kết cấu hạ tầng, các nguồn tài
nguyên, các tài sản quốc gia... Sở hữu nhà
nước còn được thiết lập trong các lĩnh vực
then chốt của nền kinh tế như: ngân hàng, bảo
hiểm, bưu điện, đường sắt, hàng không, sản
xuất điện, khai thác mỏ... Đồng thời, do hoàn
cảnh lịch sử, sở hữu nhà nước còn đựợc thiết
lập ở các doanh nghiệp .cung ứng hàng hoá,
dịch vụ thông thường. Với sự thiết lập sở hữu
nhà nước, Nhà nước trở thành chủ thể kinh tế
thực sự, thiết lập quan hệ kinh tế và tác động
đến các chủ thể kinh tế khác.
Ngày nay, dưới tác động của các cuộc
cách mạng khoa học kỹ thuật - công nghệ hiện
đại, kinh tế thị trường , kinh tế trí thức, toan
cầu hoá và hôi nhập quốc tế...đã làm cho bên
cạnh sở hữu về tư liệu sản xuất - sở hữu cơ
bản và chủ yếu- đã xuất hiện thêm một số đối
tượng sở hữu mới, đó là:
Một là, sở hữu giá trị - sở hữu tồn tại
dưới hình thái tiền tệ, hình thái vốn (vốn tự có,
vốn vay, vốn cổ phần) và lấy hiệu quả tính
bằng giá trị, chứ không phải tính bằng hiện vật
làm thước đo hiệu quả sản xuất kinh doanh,
bảo tồn và phát triển vốn.
Hai là, sở hữu fri tuệ. Đối tượng sở hữu
này được chia làm 2 loại: sở hữu cộng nghiệp
và sở hữu bản quyền tác giả tác phẩm.
Sự xuất hiện các đối tượng sở hữu mới
này cho thấy: Quốc gia, địa phương và doanh

nghiệp nào nhận thức và vận dụng nhanh và tốt
các đối tượng sở hữu mới bên cạnh sở hữu hiện
vật(tư liệu sản xuất) thì quốc gia, địa phương,
ngành và doanh nghiệp đó sớm tạo ra năng lực
cạnh tranh cao, tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh
và phát triển kinh tế xã hội bền vững.
19


* Vị trí ý nghĩa của vấn đề sở hữu:
Vị trí: Là căn cứ để giải quyết các vấn
đề về lợi ích kinh tế trong nền kinh tế nhiều
thành phần. Là căn cứ chủ yếu để xác định và
phân loại các thành phần kinh tế. Là cơ sở để
xác lập chế độ kinh tế xã hội và phân biệt các
hình thái kinh tế-xã hội trong lịch sử. Riêng
đối với Việt nam, mọi cách giải quyết vấn đề
sở hữu đều có liên quan đến tăng trưởng kinh
tế, phát triển kinh tế theo định hướng XHCN.
Ý nghĩa: Phải xuất phát từ lực lượng
sản xuất để xử lý mọi sự biến đổi của các hình
thức sở hữu tư liệu sản xuất và quan hệ sản
xuất. Thước đo về sự phù hợp của việc thiết
lập hĩnh thức sở hữu và quan hệ sản xuất là sự
thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, cải
thiện đời sống, công bằng xã hội. Chống nóng
vội, chủ quan, duy ý chí.
Câu 2: Trình bày những nội dung cơ bản về
vấn đề các thành phần kinh tế trong thời kỳ
quá độ lên CNXH? Liên hệ với VN?

*Quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin về thời kỳ quá độ lên CNXH
Lý luận về hình thái kinh tế - xã hội của
C.Mác cho thấy sự biến đổi của các xã hội là
quá trình lịch sử tự nhiên. Vận dụng lý luận đó
vào phân tích xã hội tư bản, tìm ra các quy
luật vận động của nó, C.Mác và Ph.Ăngghen
đều cho rằng, phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa có tính chất lịch sử và xã hội tư bản tất
yếu bị thay thế bằng xã hội mới - xã hội cộng
sản chủ nghĩa.
Đồng thời C.Mác và Ph.Ăngghen cũng
dự báo trên những nét lớn về những đặc trưng
cơ bản của xã hội mới, đó là: có lực lượng sản
xuất xã hội phát triển cao; chế độ sở hữu xã
hội về tư liệu sản xuất được xác lập, chế độ
người bóc lột người bị thủ tiêu; sản xuất nhằm
thoả mãn nhu cầu của mọi thành viên trong xã
hội; nền sản xuất được tiến hành theo một kế
hoạch thống nhất trên phạm vi toàn xã hội; sự
phân phối sản phẩm bình đẳng; sự đối lập giữa
thành thị và nông thôn, giữa lao động trí óc và
chân tay bị xoá bỏ...
Để xây dựng xã hội mới có những đặc
trưng như trên cần phải qua hai giai đoạn: giai
đoạn thấp hay giai đoạn đầu và giai đoạn sau
hay giai đoạn cao. Sau này V.LLênin gọi giai
đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội và giai đoạn sau là
chủ nghĩa cộng sản.

Vận dụng học thuyết C.Mác vào công

cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô
trước đây, V.I.Lênin đã phát triển lý luận về
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Nội dung cơ bản của lý luận đó là:
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là
tất yếu khách quan, bất cứ quốc gia nào đi lên
chủ nghĩa xã hội đều phải trải qua, kể cả các
nước có nền kinh tế rất phát triển.
Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội được quy định bởi đặc điểm của
cách mạng vô sản và những đặc trưng kinh tế,
xã hội của chủ nghĩa xã hội.
Đặc điểm kinh tế cơ bản nhất của thòi
kỳ quá độ là sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành
phần và tương ứng với nó có nhiều giai cấp,
tầng lớp xã hội khác nhau nhưng vị trí, cơ câu
và tính chât của các giai câp trong xã hội đã
thay đôi một cách sâu sắc.
Sự tồn tại của cơ cấu kinh tế nhiều
thành phần là khách quan và lâu dài, có lợi
cho sự phát triển lực lượng sản xuất, tăng
trưởng kinh tế. Phân tích thực trạng nền kinh
tế của nước Nga Xôviết lúc đó, V.I. Lênin rút
ra có năm thành phần kinh tế là: thành phần
kinh tế nông dân gia trưởng; thành phần kinh
tế sản xuất hàng hoá nhỏ của nông dân, tiểu
thủ công cá thể và tiểu thương; thành phân
kinh tê tư bản tư nhân; thành phần kinh tế tư
bản nhà nước; thành phần kinh tế xã hội chủ
nghĩa. Tương ứng với nền kinh tế quá độ gồm

nhiều thành phần, trong xã hội cũng tồn tại
nhiều giai cấp, trong đó có ba giai cấp cơ bản
là giai cấp tiểu tư sản, giai cấp tư sản và giai
cấp công nhân, người lao động tập thể. Theo
Lênin, mâu thuẫn cơ bản của thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội là mâu thuẫn giữa chủ
nghĩa xã hội đã giành thắng lợi nhưng còn non
yếu với chủ nghĩa tư bản đã bị đánh bại nhưng
vẫn còn khả năng khôi phục. Vì vậy, thời kỳ
quá độ là thời kỳ diễn ra cuộc đấu tránh "ai
thắng ai" giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa
tư bản quyết liệt, quanh co, khúc khuỷu và
phức tạp.
*Nền kinh tế nhiều thành phần trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
- Tính tất yếu khách quan và vai trò
của nền kinh tế nhiều thành phần
Thành phần kinh tế là khu vực kinh tế,
kiểu quan hệ kinh tế dựa trên một hình thức sở
hữu nhất định về tư liệu sản xuất. Thành phần
20


kinh tế tồn tại ở những hình thức tổ chức kinh
tế nhất định, trong đó căn cứ vào quan hệ sản
xuất (mà hạt nhân là quan hệ sở hữu) nào
thống trị để xác định từng thành phần kinh tế.
Sự tồn tại nền kinh té nhiều thành phần
không chỉ là một tất yếu khách quan, mà còn
có vai trò to lớn vì:

Một là, sự tồn tại nhiều thành phần kinh
tế, tức là tồn tại nhiều hình thức tổ chức kinh
tế, nhiều phương thức quản lý phù hợp với
trình độ khác nhau của lực lượng sản xuất.
Chính sự phù hợp này đến lượt nó, có tác dụng
thúc đẩy tăng năng suất lao động, tăng trưởng
kinh tế, nâng cao hiệu quả kinh tế trong các
thành phần kinh tế và trong toàn bộ nền kinh
tế quốc dân.
Hai là, nền kinh tế nhiều thành phần
làm phong phú và đa dạng các chủ thể kinh tế,
từ đó thúc đẩy phát triển kinh tế hàng hoá, tạo
tiền đề đẩy mạnh cạnh tranh, khắc phục tình
ừạng độc quyền. Điều đó góp phần quan trọng
vào việc nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh
của nền kinh tế của nước ta trong quá ừình hội
nhập kinh tế quốc tế, thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế nhanh và bền vững cải thiện và nâng
cao đời sống của nhân dân, phát triển các mặt
của đời sống kinh tế xã hội.
Ba là, tạo điều kiện thực hiện và mở
rộng các hình thức kinh tế quá độ, trong đó có
hình thức kinh tế tư bản nhà nước. Đó là
những "cầu nối", trạm "trung gian" cần thiết
để đưa nước ta từ sản xuất nhỏ lên chủ nghĩa
xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Bốn là, phát triển mạnh các thành phần
kinh tế và cùng với nó là các hình thức tổ chức
sản xuất kinh doanh là một nội dung cơ bản
của việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường

định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Năm là, sự tồn tại nhiều thành phần
kinh tế đáp ứng được lợi ích kinh tế của các
giai cấp, tầng lớp xã hội, có tác dụng khai
thác, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, các
tiềm năng của đất nước, như sức lao động,
vốn, tài nguyên thiên nhiên, kinh nghiệm quản
lý để tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững.
Đồng thời cho phép khai thác kinh nghiệm tổ
chức quản lý và khoa học, công nghệ mới trên
thế giới.
Cơ cấu các thành phần kinh tế trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam

Trên cơ sở nguyên lý ba thành phần
kinh tế chủ yếu mà V.I.Lênin đã chỉ ra trong
thời kỳ quá độ (kinh tế xã hội chủ nghĩa, kinh
tế của những người sản xuất hàng hóa nhỏ,
kinh tế tư bản tư nhân), tuỳ hoàn cảnh cụ thể
mà xác định cơ cấu thành phần của từng giai
đoạn cho phù hợp.
Qua thực tiễn của 20 năm đổi mới, tại
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng ta
đã xác định nền kinh tế nước ta có năm thành
phần. Đó là: Kinh tế nhà nước - Kinh tế tập
thể - Kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản
tư nhân) - Kinh tế tư bản nhà nước - Kinh tế
có vốn đầu tư nước ngoài
Theo Văn kiện Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ X. Nxb. Chính tri quốc gia, Hà
Nội, 2006 gồm: Kinh tế cá thể, tiểu chủ; Kinh
tế tư bản tư nhân; Kinh tế tư bản nhà nước;
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Xã hội hóa sản xuất theo định hướng xã
hội chủ nghĩa chính là làm cho nền kinh tế
nhiều thành phần phát triển theo định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Để đinh hướng xã
hội chủ nghĩa nền kinh tế nhiều thành phần
chúng ta cần phải:
Làm cho kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo và nó cùng với kinh tế tập thể dần dần trở
thành nền tảng vũng chắc của nền kinh tế.
Khuyến khích và tạo điều kiện để các
thành phàn kinh tế khai thác tối đa các nguồn
lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng
cao hiệu quả kinh tế và xã hội, cải thiện và
nâng cao đời sống nhân dân.
Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy
phân phối theo lao động và hiệu quả kinh tế là
chủ yếu; thừa nhận thuê mướn lao động nhưng
không để nó trở thành quan hệ thống trị;
Tăng cường hiệu lực quản lý vĩ mô của
Nhà nước; phát huy mặt tích cực và hạn chế
mặt tiêu cực của cơ chế thị trường; khuyến
khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xoá đói
giảm nghèo, tránh sự phân hóa xã hội thành
hai cực đối lập, không để chênh lệch quá lớn
về mức sống và trình độ phát triển giữa các
vùng, các tầng lớp dân cư; kết hợp tăng trưởng

kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội ngay
trong từng bước và từng chính sách phát triển.
Câu 3: Trình bày những nội dung cơ bản về
vấn đề kinh tế chính trị trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam?
21


- Về tính tất yếu khách quan của sự
lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta trong
suốt quá trình cách mạng Việt Nam luôn
khẳng định con đường đi lên của đất nước là
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa.
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nước ta trước những năm đổi mới đã
xuất hiện không ít khó khăn, thách thức như
đất nước rơi vào tình trạng trì trệ, khủng
hoảng ừầm trọng, Liên Xô và các nước xã hội
chủ nghĩa ở Đông Âu sụp đổ, Đảng và dân tộc
ta vẫn kiên trì con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội. Đổi mới không phải thay đổi lựa chọn con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội bằng con đường
khác, mà là thay đổi cách thức, bước đi trong
quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với
xu thế mới của thế giới và hoàn cảnh đặc thù
của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới.

Đại hội đại biểu lần thứ VI của Đảng ta
khẳng định: Ngày nay đã có những điều kiện
để hiểu biết đầy đủ hơn về con đường tiến lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa xã hội phải trải qua thời kỳ
quá độ là một tất yếu khách quan, và độ dài
của thời kỳ đó phụ thuộc vào điều kiện chính
trị, kinh tế, xã hội của mỗi nước. Thời kỳ quá
độ ở nước ta, do tiến thẳng lên chủ nghĩa xã
hội từ một nền sản xuất nhỏ, bỏ qua giai đoạn
phát triển tư bản chủ nghĩa, đương nhiên phải
lâu dài và rất khó khăn. Đó là một thòi kỳ cải
biến cách mạng sâu sắc, toàn diện, triệt để
nhằm xây dựng từ đầu một chế độ xã hội mới
cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và
kiến trúc thượng tầng. Đó là một thời kỳ đấu
tranh giai cấp phức tạp, đấu tranh giữa hai con
đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội
nhằm giải quyết vấn đề “ai thắng ai”, v.v...
Đảng ta đã nhiều lần chỉ rõ nhiệm vụ
chủ yếu của chặng đường đầu tiên là xây dựng
những tiền đề chính trị, kinh tế, xã hội cần
thiết để triển khai công nghiệp hóa xã hội chủ
nghĩa trên quy mô lớn.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ vn
của Đảng tiếp tục khẳng định: Đi lên chủ
nghĩa xã hội là con đường tất yếu của nước ta.
Chúng ta phê phán những khuyết điểm, sai


lầm ừong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội,
nhưng không quan niệm những lệch lạc đó là
khuyết tật của bản thân chế độ, coi khuyết
điểm là tất cả, phủ định thành tựu, từ đó dao
động về mục tiêu và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội, bằng những hình thức, bước đi
và biện pháp thích hợp.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX
của Đảng nêu rõ: Con đường đi lên của nước
ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội
bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua
việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản
xuất và kiến truc thượng tầng tư bản chủ
nghĩa, nhưng tiếp thụ, kế thừa những thành
tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư
bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công
nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất,
xây dựng nền kinh tế hiện đại.
Trong cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ
sung, phát triển năm 2011), Đảng ta khẳng
định: Tiếp tục đưa đất nước từng bước quá độ
lên chủ nghĩa xã hội với nhận thức và tư duy
mới đúng đăn, phù họp thực tiễn Việt Nam.
Mặc dù hiện tại, chủ nghĩa tư bản còn tiềm
năng phát triển, nhưng về bản chất vẫn là một
chế độ áp bức bóc lột và bất công. Những mâu
thuẫn cơ bản vốn có của chủ nghĩa tư bản,
nhất là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa
ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế

độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, chẳng
những không giải quyết được mà ngày càng
trở nên sâu sắc. Khủng hoảng kinh tế, chính
tri, xã hội vẫn tiếp tục xảy ra. “Chính sự vận
động của những mâu thuẫn nội tại đó và cuộc
đấu tranh của nhân dân lao động sẽ quyết định
vận mệnh của chủ nghĩa tư bản (...). Theo quy
luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định
sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội”.
- Về đặc điểm và thực chất của thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Đặc điểm cơ bản của thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là có điểm xuất
phát từ trình độ thấp song bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa, do đó trong qúa trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội cần phải vận dụng sáng tạo
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh phù hợp vói hoàn cảnh
lịch sử của dân tộc.
Trong quá trình đổi mới, đặc điểm và
thực chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
22


hội ở Việt Nam từng bước được xác đỊnh rõ
hơn. Từ chỗ hiểu bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa là bỏ qua toàn bộ những gì chủ nghĩa tư
bản đã làm, đến nhận thức về tính tất yếu
khách quan của việc khôi phục và phát triển
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo

định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đại hội đại biểu lần thứ IX của Đảng
chỉ rõ: Con đường đi lên của nước ta là sự
phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc
xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và
kiến truc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng
tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại
đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc
biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển
nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh
tế hiện đại.
- Về những nhiệm vụ kinh tế cơ bản
của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam.
Từ mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội
là “một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có
nền kinh tế phát triển cao dựa trên nền sản
xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù
họp; có nền văn hóa tiến tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện;
các dân tộc trong cộng đồng Việt nam bình
đẳng, đoàn kết, tôn ừọng và giúp đỡ nhau
cùng phát triển; có quan hệ hữu nghị và hợp
tác với các nước trên thế giới”, Đảng ta đã xác
định những nhiệm vụ kinh tế cơ bản ừong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
bao gồm:

Thứ nhất, phát triển lực lượng sản xuất
thông qua công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền
kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế là nhiệm
vụ trung tâm; thực hiện công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước gắn liền với phát triển kinh tế
tri thức và bảo vệ tài nguyên môi trường; xây
dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại, có hiệu
quả và bền vững, gắn kết chặt chẽ công
nghiệp, nông nghiệp dịch vụ. Coi trọng phát
triển các ngành công nghiệp nặng, công
nghiệp chế tạo có tính nền tảng và các ngành
công nghiệp có lợi thế; phát triển nông, lâm,
ngư nghiệp ngày càng đạt trình độ công nghệ
cao, chất lượng cao gắn với công nghiệp chế
biến và xây dựng nông thôn mới. Bảo đảm

phát triển hài hòa giữa các vùng kinh tế trọng
điểm, đồng thời tạo điều kiện phát triển các
vùng có nhiều khó khăn. Xây dụng nền kinh tế
độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động, tích cực
hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ hai, xây dựng quan hệ sản xuất
mới thông qua phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành
phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và
hình ứiức phần phối. Các thành phần kinh tế
hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp
thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng

trước pháp luật, cùng phát triển lâu dai, hợp
tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước
giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không
ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà
nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở
thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế
quốc dân. Kinh tế tư nhân là một ừong những
động lực của nền kinh tế. Kinh tế có vốn đầu
tư nước ngoài được khuyến khích phát triển.
Các hình thức sở hữu hỗn họp và đan kết với
nhau hình thành các tổ chức kinh tế đa dạng
ngày càng phát triển. Quan hệ phân phối bảo
đảm công bằng và tạo động lực cho phát ừiển;
các nguồn lực được phân bổ theo chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo
kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thòi
theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực
khác và phân phối thông qua hệ thống an ninh
xã hội, phúc lợi xã hội. Nhà nước quản lý nền
kinh tế, định hướng, điều tiết, thúc đay sự phát
triên kinh tế - xã hội bằng pháp luật, chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và lực
lượng vật chất.
Thứ ba, mở rộng và nâng cao hiệu quả
kinh tế đối ngoại. Thực hiện nhất quán đường
lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác
và phát triên; đa phương hóa, đa dạng hóa
quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc
tế; nâng cao vị thế của đất nước; vì lợi ích

quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã
hội chủ nghĩa giàu mạnh; là bạn, đối tác tin
cậy và thành viên cố trách nhiệm trong cộng
đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã
hội trên thế giới.
23


Câu 4: Tính tất yếu và lợi ích của việc tồn tại
nhiều thành phần kinh tế từ ong TKQĐ lên
CNXH ở nước ta hiện nay ? Quan điểm của
Đảng ta về các thành phần kinh tế qua các kỳ
Đại hội? Liên hệ sự hoạt động của các thành
phần kinh tế ở địa phương đồng chí?
Thành phần KT là khu vực KT, là kiểu
QH kinh tế dựa trên một hình thức sở hữu nhất
định về TLSX. Thành phần KT tồn tại ở
những hình thức tổ chức KT nhất định, trong
đó căn cứ vào QHSX (hạt nhân là QH sở hữu)
nào thống trị để xác định từng thành phần KT.
Các thành phần KT không tồn tại biệt
lập mà có quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động
lẫn nhau tạo thành cơ cấu KT thống nhất bao
gồm nhiều thành phần KT.
Cơ cấu KT nhiều thành phần trong thời
kỳ quá độ lên CNXH là cơ cấu KT trong đó
các thành phần KT cùng tồn tại và phát triển
như một tổng thể, giữa chúng có QH vừa hợp
tác, vừa cạnh tranh với nhau.

Sự tồn tại cơ cấu KT nhiều thành phần
là đặc trưng trong thời kỳ quá độ lên CNXH
và là tất yếu khách quan:
Một số thành phần KT của phương thức
sx cũ (KT cá thể, tiểu chủ, KT tư bản tư
nhân...) để lại, chúng đang có tác dụng đối với
sự phát triển LLSX; một số thành phần KT
mới hỉnh thành trong quá trình cải tạo QHSX
cũ và XD QHSX mới (như KT nhà nước, KT
tập thể, KT tư bản nhà nước.) Các thành phần
KT cũ và các thành phần KT mới tồn tại khách
quan, có quan hệ với nhau cấu thành cơ cấu
KT trong thòi kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta.
Nguyên nhân cơ bản của sự tồn tại
nhiều thành phần KT trong TKQĐ lên CNXH
suy cho cùng là do quy luật QHSX phải phù
hợp với tính chất và trình độ của LLSX quy
định. TKQĐ của nước ta, do trình độ của
LLSX còn thấp, tồn tại ở nhiều thang bậc khác
nhau, lại phân bổ không đều giữa các ngành,
vùng.. .nên tất yếu còn tồn tại nhiều hình thức
sở hữu TLSX, nhiều thành phần KT.
Sự tồn tại nhiều thành phần KT còn do
nhu cầu giải quyết việc làm cho lao động lớn ở
nước ta; Giúp giải phóng sức LĐ.
Lợi ích của sự tồn tại nền kinh tế
nhiều thành phần trong thời kì quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam:
+ Mỗi LLSX có một QHSX phù hợp sẽ
tăng năng suất lao động, thúc đẩy tăng trưởng


kinh tế, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả kinh
tế của các thành phần kinh tế và toàn bộ nền
kinh tế ở nước ta.
+ Tạo ra lượng hàng hóa ngày càng
phong phú, đa dạng, cải thiện và nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân, phát
triển đời sống kinh tế xã hội, tạo lập thị trường
kinh tế đồng bộ.
+ Cho phép khai thác có hiệu quả các
yếu tố đầu vào như vốn, sức lao động, lã thuật,
kinh nghiệm quản lí để phát triển kinh tế.
+ Tạo ra các hình thức kinh tế quá độ
trong đó kinh tế tư bản nhà nước có ý nghĩa như
là “cầu nối”, “trạm trung gian” cần thiết để đưa
nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội
chủ nghĩa, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
+ Tạo tiền đề để khắc phục tình trạng
độc quyền, tạo ra quan hệ cạnh tranh, động lực
quan trọng để thúc đẩy cải tiến kĩ thuật, phát
triển lực lượng lượng sản xuất.
Quan điểm của Đảng ta về các thành
phần kinh tế qua các kỳ Đại hội
+ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ m
(năm 1960) Đảng ta khẳng định 5 thành phần
kinh tế: Kinh tế quốc doanh, Kinh tế tập thể,
Kinh Tế tư bản nhà nước, Kinh tế sản xuất hàng
hóa nhỏ và Kinh tế nông dân kiểu gia trưởng
+ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV
(năm 1976)

. Miền Bắc: có 3 thành phần kinh tế:
Kinh tế XHCN, Kinh tế sản xuất hàng hóa nhỏ
và Kinh tế nông dân gia trưởng,
. Miền Nam có 5 thành phần kinh tế:
Cả 3 thành phần kinh tế của miền Bắc, Kinh tế
TBCN và Kinh tế tư bản nhà nước.
+ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V
(năm 198 ) Đảng ta khẳng định 5 thành phần
kinh tế: Kinh tế XHCN (Khu vực kinh tế quốc
doanh và tập thể), Kinh tế tư nhân TBCN,
Kinh tế tư bản nhà nước,Kinh tế tư nhân tự
cấp, tự túc và Kinh tế sản xuất hàng hóa nhỏ.
+ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI
(năm 1986 Đảng ta khẳng định 5 thành phần
kinh tế: Kinh tế XHCN (Quốc doanh, tập thể,
gia đình), Kinh té sản xuất hàng hóa nhỏ, Kinh
tế tự túc, tự cấp, Kinh tế tư bản nhà nước và
kinh tế tư bản tư nhân.
+ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ vn
(năm 1991) Đảng ta khẳng định 5 thành phần
kinh tế: Kinh tế quốc doanh, Kinh tế tập thể,
Kinh tế cá thể, Kinh tế tư nhân, và Kinh tế tư
24


bản nhà nước; do vậy NQ Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ vn chỉ rõ: “Từ các hình thức sở
hữu cơ bản sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể,
sở hữu tư nhân hình thành nhiều thành phần
kinh tế với những hình thức tô chức kinh

doanh đa dạng, đan xen, hỗn hợp
+ Đại hội VI (năm 1996) có 5 thành
phần kinh tế: Kinh tế nhà nước, Kinh tế hợp
tác xã, Kinh tế cá thể, tiểu chủ, Kinh tế tư bản
tư nhân và Kinh tế tư bản nhà nước, Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ IX nêu ra 6 thành
phần kinh tế cơ bản:
+ Tại Đại hội IX (năm 2001), gồm có 6
thành phần kinh tế: Thành phần kinh tế nhà
nước, Thành phần kinh tế hợp tác xã, Thành
phần kinh tế cá thể tiểu chủ, Thành phần kinh
tế tư bản tư nhân, Thành phần kinh tế tư bản
nhà nước, và Thành phần kinh tế có vốn đầu
tư nước ngoài; Kinh tế hỗn hợp (thuộc sở hữu
cổ phần).
+ Tại Đại hội X (năm 2006), gồm có 5
thành phần kinh tế: Thành phần kinh tế nhà
nước, Thành phần kinh tế tập thể, Thành phần
kinh tế tư nhân (bao gồm kinh tế cá thể, tiểu
chủ, tư bản tư bản tư nhân ), Thành phần kinh
tế tư bản nhà nước, và Thành phần kinh tế có
vốn đầu tư nước ngoài.
Như vậy Đại hội X chỉ khác Đại hội IX
ở chỗ đã sát nhập hai thảnh phần kinh tế kinh

tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư bản tư
nhân thành một thành phần đó là kinh tế tư
nhân, là vì hai thành phần này có điểm chung
giống nhau là đều dựa trên chế độ sở hữu tư
nhân về TLSX; mặt khác chúng ta xóa đi sự

mặc cảm đối với kinh tế tư bản tư nhân và nó
sẽ thuận hơn khi nói đến đảng viên được làm
kinh tế tư nhân
Tại Đại hội XI (năm 2011) Đảng ta
không xác định số lượng thành phần kinh tế bao
nhiêu mà chỉ nói nhiều thành phần KT, số lượng
bao nhiêu tùy sự phát triển của từng địa phương.
Văn kiện Đại hội XI của Đảng nhấn
mạnh “Phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ
chức kinh doanh”, còn số lượng các hình thức
sử hữu, các thành phần kinh tế và theo đó là
bao nhiêu loại hình doanh nghiệp là do nhu
cầu khách quan của sự phù họp giữa quan hệ
sản xuất và lực lượng sản xuất quyết định.
Đây là một bước tiến nham tạo một không
gian mở cho quy luật về sự phù hợp giữa quan
hệ sản xuất và lực lượng sản xuất hoạt động,
để có thể tránh giáo điều chủ quan.
Đại hội khẳng định kinh tế tư nhân là
động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển.

25


×