Tải bản đầy đủ (.docx) (101 trang)

THỰC TRẠNGCHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG của BỆNH NHÂN SAU CHẤN THƯƠNG tủy SỐNG và NHU cầu CHĂM sóc tại BỆNH VIỆN BẠCH MAI năm 2017

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (666.27 KB, 101 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THĂNG LONG

NGUYỄN PHƯƠNG TÂM

THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG CỦA BỆNH NHÂN
SAU CHẤN THƯƠNG TỦY SỐNG VÀ NHU CẦU CHĂM SÓC
TẠI BỆNH VIỆN BẠCH MAI NĂM 2017

LUẬN VĂN THẠC SĨ Y TẾ CÔNG CỘNG

HÀ NỘI - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THĂNG LONG

NGUYỄN PHƯƠNG TÂM – C00477

THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG CỦA BỆNH NHÂN
SAU CHẤN THƯƠNG TỦY SỐNG VÀ NHU CẦU CHĂM SÓC
TẠI BỆNH VIỆN BẠCH MAI NĂM 2017

Chuyên ngành: Y tế công cộng
Mã số: 60720301

LUẬN VĂN THẠC SĨ Y TẾ CÔNG CỘNG


Người hướng dẫn khoa học: TS. Đỗ Đào Vũ

HÀ NỘI-2017


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tôi xin trân trọng cảm ơn
Ban giám hiệu, Phòng Đào tạo sau đại học, Bộ môn Y Tế Công Cộng
Trường Đại Học Thăng Long.
Với tất cả tấm lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới
TS. Đỗ Đào Vũ , người thầy mẫu mực đã hướng dẫn, truyền đạt kiến
thức cho tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn này.
Tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới
Các Thầy, Cô Bộ môn Y tế Công cộng đã tạo mọi điều kiện, dạy bảo,
truyền đạt kiến thức cũng như góp ý kiến quý báu giúp tôi hoàn thành luận
văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn
Trung tâm phục hồi chức năng Bệnh viện Bạch Mai, các Bác sỹ, điều
dưỡng Trung tâm phục hồi chức năng Bệnh viện Bạch Mai đã tạo điều kiện
giúp đỡ tôi học tập và hoàn thành luận văn.
Xin gửi lời cảm ơn
Các anh chị, bạn bè, đồng nghiệp đã luôn giúp đỡ động viên tôi trong
suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Và tôi xin dành tất cả tình cảm yêu quý và biết ơn sâu sắc tới
Gia đình thân yêu luôn bên tôi, động viên tôi hoàn thành tốt công việc
của mình
Hà Nội, ngày 30 tháng 10 năm 2017

Nguyễn Phương Tâm



LỜI CAM ĐOAN
Tôi là Nguyễn Phương Tâm, học viên cao học khóa IV – Trường Đại học
Thăng Long, chuyên nghành Y tế công cộng, xin cam đoan:
1. Đây là luận văn do bản thân tôi trực tiếp thực hiện dưới sự hướng dẫn
của TS. Đỗ Đào Vũ
2. Công trình này không trùng lặp với bất kỳ nghiên cứu nào khác đã
công bố tại Việt Nam
3. Các số liệu và thông tin trong nghiên cứu là hoàn toàn chính xác, trung
thực và khách quan, đã được xác nhận và chấp thuận của cơ sở nơi
nghiên cứu.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về những cam kết
này.
Hà Nội, ngày 30 tháng 10 năm 2017
Người viết cam đoan

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
ASIA
CLCS
CTTS

American Spinal Cord Injury Association
Chất lượng cuộc sống
Chấn thương tủy sống


BN
NN
PHCN
SCIM

TN
TTTS
VAS

Bệnh nhân
Nguyên nhân
Phục hồi chức năng
Spinal Cord Independence Measure
Tai nạn
Tổn thương tủy sống
Visual Analogue Scale


1

MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ..................................................................................................1
Chương 1..........................................................................................................3
TỔNG QUAN TÀI LIỆU................................................................................3
1.1. Định nghĩa tổn thương tủy sống.................................................................................3
1.2. Tình hình chấn thương tủy sống.................................................................................3
1.3. Chất lượng cuộc sống của bệnh nhân chấn thương tủy sống và các phương pháp
đánh giá....................................................................................................................4
1.3.1. Khái niệm chất lượng cuộc sống........................................................................4
1.3.2. Đánh giá chất lượng cuộc sống...........................................................................4
1.3.3. Các phương pháp đáng giá chất lượng cuộc sống trong bệnh chấn thương tủy
sống...................................................................................................................5
1.3.4. Các bộ công cụ đánh giá chất lượng cuộc sống ở bệnh nhân chấn thương tủy
sống...................................................................................................................6
1.4. Giới thiệu về bộ công cụ đánh giá chất lượng sống của bệnh nhân sau chấn thương

tủy sống....................................................................................................................8
1.5. Các phương pháp và dịch vụ điều trị, chăm sóc và phục hồi chức năng cho bệnh
nhân tổn thương tủy sống.........................................................................................9
1.5.1. Điều trị loét do đè ép...........................................................................................9
1.5.2. Chăm sóc đường hô hấp.....................................................................................9
1.5.3. Chăm sóc đường tiết niệu...................................................................................9
1.5.4. Chăm sóc đường ruột........................................................................................10
1.5.5. Điều trị cơn rối loạn phản xạ thực vật[30]........................................................10
1.5.6. Điều trị đau thần kinh bằng các thuốc:giảm đau thần kinh, kích thích điện và
tâm lý trị liệu...................................................................................................10
1.5.7. Phòng ngừa và điều trị huyết khối tĩnh mạch sâu:Bằng cách tập vận động sớm,
sử dụng các dụng cụ tạo áp lực và các thuốc chống đông dự phòng cho những
bệnh nhân có nguy cơ cao. Khi có huyết khối tĩnh mạch sâu cần điều trị theo
bác sỹ chuyên khoa tim mạch[29]...................................................................11
1.5.8. Điều trị co cứng bằng các thuốc giãn cơ và tiêm phong bế điểm vận động bằng
phenol hoặc Botulinum toxin nhóm A[14],[30]..............................................11
1.5.9. Tập mạnh cơ, di chuyển bằng dụng cụ trợ giúp và hoạt động trị liệu: nạng nẹp,
1


2
thanh song song, khung tập đi, xe lăn địa hìnhgiúp bệnh nhân độc lập trong
sinh hoạt như ăn uống, mặc quần áo, vệ sinh cá nhân như đánh răng, rửa mặt,
tắm rửa…[1],[6],[27]......................................................................................11
1.5.10. Điều trị rối loạn chức năng tình dục[14],[301]...............................................11
1.5.11. Tái hội nhập vào cộng đồng và xã hội:...........................................................11
1.6. Các nghiên cứu liên quan.........................................................................................11
1.6.1. Một số nghiên cứu trên thế giới........................................................................11

1.6.1.1. Một số nghiên cứu liên quan đến thực trạng chất lượng sống của bệnh nhân sau

chấn thương cột sống..............................................................................11
1.6.1.3. Xác định nhu cầu chăm sóc, phục hồi chức năng của bệnh nhân sau chấn thương
tủy sống.................................................................................................15
* Chăm sóc cơ bản và chăm sóc người bệnh toàn diện..............................................15

Các thành phần chăm sóc cơ bản................................................................................15
Chăm sóc người bệnh toàn diện..................................................................................17
1.6.2. Một số nghiên cứu về bệnh nhân chấn thương tủy sống ở Việt Nam...............17

Chương 2........................................................................................................20
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.................................20
2.1. Đối tượng nghiên cứu...............................................................................................20
2.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn đối tượng nghiên cứu.......................................................20
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ............................................................................................20
2.2. Phương pháp nghiên cứu..........................................................................................20
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu..........................................................................................20
2.2.2. Cách chọn mẫu.................................................................................................20
2.2.3. Thời gian nghiên cứu........................................................................................20
2.2.4. Địa điểm nghiên cứu.........................................................................................20
2.2.5. Phương pháp thu thập thông tin........................................................................20
2.3. Các tiêu chuẩn đánh giá............................................................................................23
2.3.3. Chuẩn nghèo, hộ cận nghèo[12]............................................................................24
2.4.3. Các biến số về mức độ đau theo thang điểm nhìn VAS.........................................25
2.5. Vấn đề đạo đức trong nghiên cứu.............................................................................26
2.6. Hạn chế của nghiên cứu và cách khắc phục.............................................................26
2.6.1. Hạn chế của nghiên cứu....................................................................................26
2


3

2.6.2. Biện pháp khắc phục.........................................................................................27
Bảng 3.13. Mối liên quan giữa giới và chất lượng sống của bệnh nhân....................34

4.3. Một số yếu tố liên quan đến chất lượng cuộc sống của BN sau CTTS 9
7.

Nguyễn Thị Sinh (2012) Nghiên cứu hiệu quả phục hồi chức năng hô hấp cho
bệnh nhân chấn thương cột sống có liệt tuỷ bằng phương pháp tập thở tự điều
khiển; Luận văn tốt nghiệp tiến sỹ y khoa, Đại học Y Hà Nội........................23
Phụ lục 6. Biến số nghiên cứu về khả năng độc lập của bệnh nhân chấn thương tủy
sống (SCIM)....................................................................................................49
Phụ lục 7. Các biến số và chỉ số đánh giá chất lượng cuộc sống của bệnh nhân thông
qua mức độ đau (thước VAS)..........................................................................51

TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC BẢNG
2.3.3. Chuẩn nghèo, hộ cận nghèo[12]............................................................................24
2.4.3. Các biến số về mức độ đau theo thang điểm nhìn VAS.........................................25
Bảng 3.13. Mối liên quan giữa giới và chất lượng sống của bệnh nhân....................34

4.3. Một số yếu tố liên quan đến chất lượng cuộc sống của BN sau CTTS 9
7.

Nguyễn Thị Sinh (2012) Nghiên cứu hiệu quả phục hồi chức năng hô hấp cho
bệnh nhân chấn thương cột sống có liệt tuỷ bằng phương pháp tập thở tự điều
khiển; Luận văn tốt nghiệp tiến sỹ y khoa, Đại học Y Hà Nội........................23

3



4

4


ĐẶT VẤN ĐỀ
Tổn thương tủy sống tác động đến hàng nghìn người mỗi năm, gây ảnh
hưởng tới sức khỏe, mất chức năng vận động, rối loạn cảm giác và các cơ
quan khác như bàng quang, đường ruột, hô hấp, tim mạch và loét do tỳ đè dẫn
đến giảm chất lượng sống[24]. Nghiêm trọng hơn, tổn thương tủy sống làm
người bệnh mất cơ hội việc làm, mất khả năng độc lập trong cuộc sống và
thay đổi tâm lý sức khỏe nặng nề[39]. Chất lương cuộc sống của bệnh nhân
sau tổn thương tủy sống phụ thuộc nhiều vào việc chăm sóc, phục hồi chức
năng, định hướng nghề nghiệp và tái hội nhập cộng đồng. Ngày nay, có nhiều
trung tâm phục hồi chức năng tổn thương tủy sống ra đời ở các nước phát
triển. Điều này giúp cho người bệnh có nhiều cơ hội được phục hồi chức
năng, giảm các thương tật thứ cấp, độc lập trong sinh hoạt và hội nhập xã hội,
từng bước cải thiện chất lượng sống.
Số liệu điều tra dịch tễ học cho thấy hàng năm trên thế giới tỷ lệ chấn
thương tủy sống thay đổi theo vùng và có xu hướng gia tăng, đặc biệt ở các
nước có mật độ giao thông đông đúc, ngay cả ở các nước phát triển, với 80%
nạn nhân là nam giới, đang trong độ tuổi lao động[46]. Điều này cho thấy
chấn thương tủy sống ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế, xã hội của mỗi
quốc gia, là gánh nặng cho gia đình, xã hội và chất lượng sống của chính
người bệnh.
Việc nghiên cứu điều trị, chăm sóc điều dưỡng trong phục hồi chức
năng sau chấn thương tủy sống đã được nhiều tác giả trong và ngoài nước nói
đến trong thập niên gần đây dựa trên sự ra đời của một số phương pháp, kỹ
thuật mới cũng như tiến bộ công nghệ. Các tác giả Wyndael, Town, Đỗ Đào

Vũ, Cầm Bá Thức, Nguyễn Thị Sinh..., đã tiến hành nghiên cứu hiệu quả phục
hồi chức năng vận động, cảm giác, rối loạn chức năng bàng quang, rối loạn
chức năng tim mạch và hô hấp …trong điều trị phục hồi chức năng [58],[50],
[13],[8],[7]. Tuy nhiên, việc đánh giá chất lượng cuộc sống của bệnh nhân sau
1


chấn thương tủy sống và nhu cầu chăm sóc điều dưỡng cho nhóm bệnh nhân
này chưa được đề cập, còn ít nghiên cứu được công bố. Trong khi kết quả
nghiên cứu vấn đề này sẽ cung cấp các thông tin thiết thực để các nhà chuyên
môn có biện pháp cải thiện, nâng cao chất lượng điều trị đặc biệt là công tác
chăm sóc điều dưỡng cho người bệnh. Đồng thời đưa ra được các bằng chứng
khoa học giúp cho các nhà hoạch định chính sách xã hội, xây dựng phát triển
các tài liệu đào tạo, hướng dẫn chuyên môn về chăm sóc điều dưỡng trong
phục hồi chức năng cho bệnh nhân sau tổn thương tủy sống. Chính vì vậy
chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Thực trạng chất lượng cuộc sống của
bệnh nhân sau chấn thương tủy sống và nhu cầu chăm sóc của bệnh nhân
tổn thương tủy sống tại bệnh viện Bạch Mai năm 2017” với hai mục tiêu:
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1. Đánh giá một số khía cạnh chất lượng cuộc sống của bệnh nhân sau
chấn thương tủy sống tại bệnh viện Bạch Mai năm 2017
2. Xác định một số yếu tố liên quan đến chất lượng sống và nhu cầu
chăm sóc của bệnh nhân chấn thương tủy sống tại bệnh viện Bạch
Mai năm 2017

2


Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Định nghĩa tổn thương tủy sống
Tổn thương tủy sống là tình trạng bệnh lý gây liệt hoặc giảm vận động
tứ chi hoặc hai chân kèm theo các rối loạn khác như: cảm giác, hô hấp, tim
mạch, bàng quang, đường ruột, loét do tì đè v.v... do nguyên nhân chấn
thương hoặc do các bệnh lý khác của tủy sống, thường để lại nhiều di chứng
nặng nề và dẫn tới tàn tật nếu không được điều trị, chăm sóc và phục hồi chức
năng tốt [20].
1.2. Tình hình chấn thương tủy sống
Trên thế giới cho thấy, năm 2004, Sinha D cho biết tỷ lệ chấn thương tủy
sống ở Ấn độ là 20.000 trường hợp/năm, trong đó 80% bệnh nhân trong độ tuổi
lao động [47]. Theo Trung tâm thống kê chấn thương tủy sống quốc gia Hoa
Kỳ, số bệnh nhân chấn thương tủy sống ở Hoa Kỳ trung bình là 11.000 trường
hợp/năm hay khoảng 40 trường hợp mới/triệu dân không bao gồm những
người chết tại chỗ do tai nạn. Tuổi trung bình là 32,1; nam gấp 4 lần nữ, gần
60% bệnh nhân tuổi từ 16 đến 59 đang có việc làm tại thời điểm bị chấn
thương [21]. Theo Gwynedd E và cộng sự, Canađa có tỷ lệ chấn thương tủy
sống là 42,4 người/triệu dân, tập trung từ độ tuổi 15 đến 64, tai nạn giao thông
chiếm 35% [31]. Theo số liệu năm 2011, Schoenfeld và cộng sự cho biết tỷ lệ
chấn thương tủy sống trong quân đội Hoa Kỳ là 429 trường hợp/triệu quân
nhân [46]. Ở Bắc Mỹ, tỷ lệ chấn thương tủy sống khoảng 12.000 trường hợp
mới/năm, ước chừng dao động từ 300.000 đến 1.275.000 trường hợp [33]. Ở
Việt Nam chưa có nghiên cứu thống kê đầy đủ và đại diện cho cả nước về tỷ
lệ tổn thương tủy sống do các nguyên nhân khác nhau. Tuy nhiên, những năm
gần đây, tỷ lệ này ngày một tăng, đặc biệt tại các trung tâm đô thị lớn như Hà
Nội, thành phố Hồ Chí Minh, phần lớn do tai nạn giao thông và tai nạn lao
động. Hậu quả làm gia tăng chi phí điều trị cho ngành y tế, người bệnh mất
3


việc làm, sức khỏe suy giảm, cuộc sống bị thay đổi và giảm chất lượng sống

[9]. Tại bệnh viện Bạch Mai, theo khảo sát của chúng tôi cho thấy năm 2008
có khoảng 200 bệnh nhân chấn thương tủy sống đến điều trị tại đơn vị tổn
thương tủy sống. Số lượng bệnh nhân tăng đều những năm sau đó và đến này
có đến hơn 1000 bệnh nhân đã được điều trị tại Trung tâm Phục hồi chức
năng [7].
1.3. Chất lượng cuộc sống của bệnh nhân chấn thương tủy sống và các
phương pháp đánh giá
1.3.1. Khái niệm chất lượng cuộc sống
Mặc dù khái niệm chất lượng cuộc sống đã được sử dụng nhiều, tuy
nhiên cho đến nay vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất toàn cầu cho khái
niệm này [45]. Theo Nhóm nghiên cứu về chất lượng cuộc sống thuộc Tổ
chức Y tế Thế giới (WHOQOL-Group) năm 1995 thì Chất lượng cuộc sống là
những cảm nhận của các cá nhân về cuộc sống của họ trong bối cảnh văn hóa,
các hệ thống giá trị mà họ đang sống và liên quan đến các mục đích, nguyện
vọng, tiêu chuẩn và các mối quan tâm của họ [56].
1.3.2. Đánh giá chất lượng cuộc sống
Đánh giá chất lượng cuộc sống của bệnh nhân chấn thương tủy sống rất
cần thiết, phản ánh tác động của bệnh đến cuộc sống của bệnh nhân. Đối
chiếu với định nghĩa về sức khỏe của Tổ chức Y tế thế giới, chất lượng cuộc
sống liên quan đến sức khỏe nói chung được coi là cấu trúc nhiều chiều bao
gồm sức khỏe thể lực, sức khỏe tâm trí, chức năng xã hội và toàn trạng nói
chung. Nhiều bộ công cụ khác nhau đã được xây dựng để đánh giá chất lượng
cuộc sống và được phân loại là đánh giá theo bệnh đặc thù (Disease specific
QOL measures) hoặc đánh giá chung (Generic measures).
* Đánh giá chất lượng cuộc sống chung
Các bộ câu hỏi đánh giá chung có thể là những bộ công cụ mô tả về sức
khỏe hoặc là các đánh giá phụ trợ. Các bộ công cụ mô tả về sức khỏe như bộ
Đánh giá kết quả đầu ra về sức khỏe rút gọn 36 câu hỏi (MOS Short Form–
36/SF-36), Đánh giá kết quả đầu ra về sức khỏe rút gọn 12 câu hỏi (MOS Short
4



Form–12/SF-12). Những bộ công cụ này có thể sử dụng để đánh giá ở bệnh
nhân chấn thương tủy sống giai đoạn tại cộng đồng. Các đánh giá chung có thể
giúp ích trong việc đưa ra các quyết định định hướng về y tế. Tuy nhiên, các
đánh giá chung thường không đi sâu vào ảnh hưởng của bệnh nên không thể
hiện rõ sự thay đổi theo diễn biến của bệnh.
* Đánh giá chất lượng cuộc sống theo bệnh đặc thù
Đánh giá chất lượng cuộc sống theo bệnh đặc thù tập trung chủ yếu
vàocác mặt chính liên quan đến bệnh đặc thù vì thế có thể đánh giá chính xác
hơntác động của bệnh tới chất lượng cuộc sống của bệnh nhân cũng như phản
ánhrõ hơn hiệu quả can thiệp.
Những người có khả năng trí tuệ bình thường có thể đưa ra những nhận
định phức tạp mang tính chủ quan về cuộc sống của họ. Tuy nhiên các triệu
chứng hành vi hoặc tâm thần không thuộc về nhận thức như trầm cảm, kích
động có thể ảnh hưởng tới việc đánh giá chất lượng cuộc sống của bệnh nhân.
Các tác giả đã xem xét điều gì là quan trọng đối với chất lượng cuộc sống của
bệnh nhân chấn thương tủy sống để giúp thay đổi hoàn cảnh sống của bệnh
nhân. Điều quan trọng đối với chất lượng cuộc sống của bệnh nhân sau chấn
thương tủy sống là sự an toàn và độc lập, không đau đớn có thể chiếm vị trí
quan trọng nhất [55].
Mặc dù các thách thức này, đánh giá chất lượng cuộc sống ở bệnh
nhânchấn thương tủy sống là cần thiết. Thông qua việc đánh giá chất lượng
cuộc sống, bệnh nhân được điều trị, can thiệp và hỗ trợ thay đổi môi trường
xã hội giúp tạo ra sự khác biệt quan trọng trong cuộc sống của bệnh
nhân.Những đánh giá này giúp các nhà nghiên cứu đưa ra kết luận rõ ràng,
những chính sách của nhà quản lý có thể tìm ra những biện pháp can thiệp
mới giúp duy trì hoặc tăng cường chất lượng cuộc sống cho họ.
1.3.3. Các phương pháp đáng giá chất lượng cuộc sống trong bệnh chấn
thương tủy sống

Có nhiều phương pháp để đánh giá chất lượng cuộc sống của bệnh
nhân như bệnh nhân tự đánh giá, đánh giá thay thế qua người thân chăm sóc
5


hay quan sát trực tiếp các hành vi và hoạt động liên quan đến chất lượng cuộc
sống. Với bệnh nhân chấn thương tủy sống sử dụng phương pháp bệnh nhân
tự đánh giá sẽ giúp bệnh nhân dễ dàng lựa chọn câu trả lời, ít bị ảnh hưởng
bởi các mong muốn, hệ niềm tin của người khác hoặc không thể chắc chắn
rằng các hành vi quan sát được có phải là điều bệnh nhân cho là quan trọng
đối với chất lượng cuộc sống của họ hay không hay những sai lệch từ phía
người quan sát.
Bệnh nhân tự đánh giá: phương pháp này yêu cầu bệnh nhân trực tiếp
đánh giá chất lượng cuộc sống bằng những cảm nhận của mình trong bối cảnh
của người được hưởng lợi từ việc điều trị hoặc bị mất nhiều nhất sau chấn
thương. Cần thiết kế các bộ công cụ đơn giản, dễ dàng để bệnh nhân có thể
tham gia, xây dựng các hướng dẫn rõ ràng, đào tạo kỹ càng cho các điều tra
viên phỏng vấn trực tiếp và sử dụng gợi ý trực quan (ví dụ như thang đo mức
độ, thẻ màu) để giúp bệnh nhân dễ dàng lựa chọn câu trả lời. Ngoài ra, điều tra
viên có thể đánh giá sự hiểu của bệnh nhân bằng cách hỏi các câu hỏi làm rõ
khi câu trả lời không rõ ràng hoặc không tin cậy.
1.3.4. Các bộ công cụ đánh giá chất lượng cuộc sống ở bệnh nhân chấn
thương tủy sống
Các bộ công cụ đánh giá chất lượng cuộc sống ở bệnh nhân chấn
thương tủy sống có thể rất khác nhau về các lĩnh vực đánh giá. Smith và cộng
sự (2015) sử dụng công cụ đánh giá chất lượng cuộc sống (FIQL) để xác định
mức độ ảnh hưởng của rò rỉ phân ngoài ý muốn đến chất lượng sống của bệnh
nhân tổn thương tủy sống[44]. Bochkezanian và cộng sự (2015) chất lượng sống
thông qua đánh giá mức độ độc lập của bệnh nhân[51]. Daniel M và cộng sự
(2015) đã đánh giá các khía cạnh trong chất lượng cuộc sống của bệnh nhân tổn

thương tủy sống bao gồm hoạt động giải trí, quan hệ xã hội, hạnh phúc, công
việc có ý nghĩa, đời sống tình dục và chất lượng sống nói chung [22]. David S và
cộng sự (2015) đã sử dụng bộ công cụ SCI-QoL trong đánh giá tình trạng sức
khỏe, chất lượng sống của bệnh nhân chấn thương tủy sống [23].
6


Các tiêu chí của bộ công cụ đánh giá chất lượng cuộc sống cho bệnh
nhân chấn thương tủy sống được lựa chọn để phản ánh các lĩnh vực làm ảnh
hưởng đến chất lượng sống của bệnh nhân. Có nhiều công cụ đánh giá khách
quan chất lượng cuộc sống, tuy nhiên với bệnh nhân tổn thương tủy sống
chưa có một bộ công cụ nào đánh giá đầy đủ các khía cạnh ảnh hưởng đến
chất lượng cuộc sống của bệnh nhân. Đối với bệnh nhân đang điều trị tại bệnh
viện, chúng tôi tập trung đánh giá hai khía cạnh chính làm ảnh hưởng nhiều
nhất đến chất lượng sống của bệnh nhân là khả năng độc lập trong sinh hoạt
và mức độ đau. Tương ứng với từng khía cạnh trên chúng tôi sử dụng các bộ
công cụ phù hợp để thu thập thông tin bệnh nhân thông qua các thang điểm
SCIM, VAS. Các bộ công cụ này đã được hiệp hội tổn thương tủy sống thế
giới khuyến cáo sử dụng cho đánh giá trên bệnh nhân chấn thương tủy sống
trên toàn thế giới. Các thang điểm này đã được dịch sang nhiều thứ tiếng và
áp dụng rộng rãi ở các nước và là bộ công cụ được sử dụng phổ biến nhất trên
thế giới để đánh giá khả năng độc lập của bệnh nhân chấn thương tủy sống
như Hy Lạp[16], Tây Ban Nha[40], Thụy Điển[15], Hoa Kỳ[37], Thổ Nhĩ Kỳ
[32],được chứng minhcó độ tin cậy cao và đã được sử dụng trong rất nhiều
nghiên cứu. Ở Việt Nam, bộ công cụ SCIM đã được dịch ra phiên bản tiếng
việt, được thử nghiệm, chỉnh sửa để phù hợp với văn phong tiếng Việt cho dễ
hiểu hơn và đã được sử dụng thường quy để đánh giá khả năng độc lập của
bệnh nhân sau chấn thương tủy sống tại Trung tâm Phục hồi chức năng, bệnh
viện Bạch Mai từ năm 2008 và đưa vào quy trình kỹ thuật của chuyên ngành.
Thang điểm đánh giá mức độ đau theo thang điểm nhìn VAS, đã được sử

dụng phổ biến trong nhiều lĩnh vực chuyên khoa y học có độ tin cậy và có
tính giá trị cao[2],[3],[19],[28],[35]. Như vậy, thang công cụ SCIM và VAS
đáp ứng được những mục tiêu nghiên cứu của đề tài đánh giá những khía cạnh
lớn làm ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân khi còn đang
điều trị tại viện. Các thang điểm đánh giá khác sẽ phù hợp hơn cho việc đánh
giá đối với bệnh nhân tại cộng đồng, giai đoạn bệnh muộn khi đã về hòa nhập
tại cộng đồng và gia đình.
7


1.4. Giới thiệu về bộ công cụ đánh giá chất lượng sống của bệnh nhân sau
chấn thương tủy sống
* Bộ công cụ đánh giá sự độc lập sau tổn thương tủy sống SCIM (Spinal
Cord Independence Measure)
Bệnh nhân sau chấn thương tủy sống và các chuyên gia về tủy sống đã
cùngnhau xem xét các tiêu chínày để đảm bảo giá trị và tính chính xác. Thang
điểm SCIM gồm 16 câu hỏi đánh giá các lĩnh vực: khả năng tự chăm sóc,
chức năng hô hấp và kiểm soát cơ tròn, khả năng di chuyển trong phòng và
nhà vệ sinh, khả năng di chuyển ở trong nhà và bên ngoài (chi tiết bộ công cụ
xin xem trong phần phụ lục).
Câu trả lời dựa trên 2 mức độ của thang điểm (1 = không tốt (0-60
điểm), 2 = tốt, (61-100 điểm)). Tổng điểm SCIM nằm trong khoảng từ 0 đến
100 với điểm số caohơn tương ứng với chất lượng cuộc sốngtốt hơn.
Thang điểm SCIM đánh giá bốn lĩnh vực từ khả năng tự chăm sóc đến
khả năng di chuyển trong nhà vệ sinh, bồn tắm hay di chuyển ra khỏi nhà.
Đây là bàng công cụ phản ánh khá toàn diện những yếu tố liên quan đến khả
năng độc lập của bệnh nhân sau tổn thương tủy sống. Hơn nữa với cấu trúc
khá đơn giản, dễ hiểu giúp cho việc sử dụng đánh giá chính xác hơn các chức
năng của bệnh nhân. Chính với những ưu điểm vậy, Hiệp hội tổn thương tủy
sống đã áp dụng và khuyến cáo sử dụng cho việc đánh giá sự độc lập của

bệnh nhân sau tổn thương tủy sống. Tuy nhiên thang điểm SCIM cũng có
những mặt hạn chế đó là không phản ánh được một số khía cạnh khác của
bệnh nhân sau tổn thương tủy sống như yếu tố tâm thần, khả năng tham gia
vào các hoạt động vui chơi, hòa nhập tại cộng đồng của bệnh nhân. Với phạm
vi nghiên cứu của chúng tôi là những bệnh nhân được đánh giá tại bệnh viện
với hai khía cạnh rõ rằng là khả năng độc lập và mức độ đau ảnh hưởng đến
chất lượng sống của bệnh nhân. Thang điểm SCIM hoàn toàn đáp ứng được
tính chính xác, khánh quan và đầy đủ thông tin của nhà nghiên cứu.

8


* Bộ công cụ đánh giá mức độ đau theo thang điểm nhìn VAS (Visual
Analogue Scale)
Bộ công cụ đánh giá mức độ đau theo thang điểm nhìn VAS là bộ công cụ
được sử dụng phổ biến nhất trên thế giới để đo lường mức độ đau của người
bệnh. Bộ công cụ VAS được chứng minhcó độ tin cậy cao và đã được sử dụng
trong rất nhiều nghiên cứu cả trong và ngoài nước[2],[3],[19],[28],[35]. Tương
ứng với mức điểm càng cao thì chất lượng cuộc sống kém hơn.
1.5. Các phương pháp và dịch vụ điều trị, chăm sóc và phục hồi chức
năng cho bệnh nhân tổn thương tủy sống
Mục tiêu chính của phục hồi chức năng là làm cho người bị tổn
thương tủy sống có thể độc lập tối đa trong các hoạt động sống hằng ngày, tái
hoà nhập gia đình và cộng đồng.
1.5.1. Điều trị loét do đè ép
Việc đầu tiên của điều trị là phải loại bỏ lực đè ép lên vết loét, vết loét
sẽ không bao giờ liền nếu như lực ép chưa được loại bỏ. Các yếu tố trong điều
trị bao gồm rửa vết thương, cắt bỏ tổ chức hoại tử, băng bó, phẫu thuật, dinh
dưỡng và kiểm soát các vùng tỳ đè[4],[11].
Phòng loét được cho là công việc quan trọng nhất

Rửa vết thương
Loại bỏ tổ chức hoại tử
Phẫu thuật cắt lọc tổ chức hoại tử
1.5.2. Chăm sóc đường hô hấp
Rung kết hợp dẫn lưu tư thế, tập ho để giải phóng đờm dãi ra ngoài; tập
thở nhằm tăng cường khả năng hô hấp, trao đổi khí, phòng biến chứng viêm
phổi, xẹp phổi và suy hô hấp[27],[36].
1.5.3. Chăm sóc đường tiết niệu
Mục tiêu của chăm sóc đường tiết niệu là đi tiểu chừng 3-4 giờ/lần, duy
trì kiểm soát nước tiểu, khi đi ngủ nước tiểu không rò rỉ ra, tránh nhiễm trùng
đường tiết niệu tái phát. Tối thiểu phải đạt được là giảm sự ảnh hưởng đến
hoạt động xã hội, hướng nghiệp và học nghề của bệnh nhân[5],[10], [14].
9


Điều trị không bằng thuốc
Điều trị bằng thuốc
Điều trị bằng phẫu thuật
1.5.4. Chăm sóc đường ruột
Mục tiêu của chương trình huấn luyện đường ruột là thiết lập sự bài tiết
ở đường ruột thông qua phản xạ có điều kiện. Chăm sóc đường ruột có thể đòi
hỏi phải sử dụng hai phương pháp kích thích trực tràng, kích thích cơ học và
kích thích hóa học. Hai kích thích này có thể sử dụng riêng rẽ hoặc kết hợp cả
hai phương pháp [4],[5].
Tập luyện đường ruột[11]
Kích thích cơ học
Điều trị bằng thuốc
Thụt tháo
1.5.5. Điều trị cơn rối loạn phản xạ thực vật [30]
Nhanh chóng hạ huyết áp bằng cách dựng bệnh nhân ngồi thả hai chân

xuống giường, nếu huyết áp không hạ mới chuyển sang dùng thuốc hạ áp
- Tìm nguyên nhân gây cơn rối loạn phản xạ thực vật để loại bỏ
- Giáo dục bệnh nhân
- Đề phòng tái phát cơn rối loạn phản xạ thực vật
1.5.6. Điều trị đau thần kinh bằng các thuốc: giảm đau thần kinh, kích thích
điện và tâm lý trị liệu.
Đau là một cảm giác khó chịu, xuất hiện cùng lúc với sự tổn thương
của các mô tế bào. Đau là kinh nghiệm được lượng giá bởi nhận thức chủ
quan tùy theo từng người, từng cảm giác về mỗi loại đau, là dấu hiệu của
bệnh tật và phải tìm ra nguyên nhân để chữa [49]. Một số trường hợp đau xảy
ra trong bệnh cảnh di chứng tổn thương hay cắt đoạn thần kinh ngoại vi (như
trong hiện tượng chi ma, zona, đau dây V, cắt đoạn thần kinh, liệt hai chân...).
Việc điều trị đúng tình trạng đau này còn phụ thuộc vào nhận thức thực
tế và sự tôn trọng phức hợp thể chất và tâm thần ảnh hưởng đến tác động của
đau đối với cuộc sống cảu bệnh nhân [14].
10


1.5.7. Phòng ngừa và điều trị huyết khối tĩnh mạch sâu:Bằng cách tập vận
động sớm, sử dụng các dụng cụ tạo áp lực và các thuốc chống đông dự phòng
cho những bệnh nhân có nguy cơ cao. Khi có huyết khối tĩnh mạch sâu cần
điều trị theo bác sỹ chuyên khoa tim mạch [29].
1.5.8. Điều trị co cứng bằng các thuốc giãn cơ và tiêm phong bế điểm vận
động bằng phenol hoặc Botulinum toxin nhóm A [14],[30].
1.5.9. Tập mạnh cơ, di chuyển bằng dụng cụ trợ giúp và hoạt động trị liệu:
nạng nẹp, thanh song song, khung tập đi, xe lăn địa hìnhgiúp bệnh nhân độc
lập trong sinh hoạt như ăn uống, mặc quần áo, vệ sinh cá nhân như đánh răng,
rửa mặt, tắm rửa…[1],[6],[27].
1.5.10. Điều trị rối loạn chức năng tình dục [14],[301]
1.5.11. Tái hội nhập vào cộng đồng và xã hội:

Đây là giai đoạn quan trọng giúp giải quyết được vấn đề tâm lý cho
người bệnh, mặt khác làm giảm bớt sự phụ thuộc và gia đình, xã hội. Hướng
nghiệp cho người bệnh để khi về với gia đình và cộng đồng họ tìm được việc
làm thích hợp để tự nuôi sống bản thân.
1.6. Các nghiên cứu liên quan
1.6.1. Một số nghiên cứu trên thế giới
1.6.1.1. Một số nghiên cứu liên quan đến thực trạng chất lượng sống của
bệnh nhân sau chấn thương cột sống
- PH Smith và RM Decter (2015) sử dụng công cụ đánh giá chất lượng
cuộc sống (FIQL) để xác định mức độ ảnh hưởng của rò phân ngoài ý muốn
đến chất lượng sống của bệnh nhân sau chấn thương tủy sống. Điểm chất
lượng cuộc sống (FIQL) được thể hiện ở 4 lĩnh vực: cách sống, cách ứng phó,
sự buồn chán/tự nhận thức hay sự xấu hổ. Bộ câu hỏi được phát trước và sau
phẫu thuật. Sử dụng T-test để so sánh trước và sau phẫu thuật. Kết quả cho
thấy từ 2003-2010, nghiên cứu được thực hiện trên 17 bệnh nhân TTTS, bao
gồm 10 bệnh nhân liệt 2 chân và 7 BN liệt tứ chi có thời gian trung bình là 33
năm sau phẫu thuật [44].
11


- V. Bochkezanian, J Raymond, de Oliveira và cộng sự (2015) dùng kết
hợp bài tập aerobic và những bài tập tăng sức mạnh theo vòng tròn đối với
bệnh nhân TTTS. Chất lượng sống được đánh giá thông qua khả năng độc lập
với việc sử dụng thang PEDro; nghiên cứu thực nghiệm bởi hai nhà nghiên
cứu khác nhau. Kết quả: Nghiên cứu phân tích 7981 bệnh nhân, trong đó 9
thử nghiệm đạt tiêu chuẩn lựa chọn. Từ 9 thử nghiệm trên, 7 cho kết quả của
việc tập aerobic, và 2 trong số đó cho thấy sự cải thiện có ý nghĩa thống kê. 5
nghiên cứu cho kết quả tăng sức mạnh cơ, 4 trong số đó có kết quả có ý nghĩa
thống kê. 2 nghiên cứu khác xem xét chất lượng cuộc sống và 1 trong 2
nghiên cứu cho thấy sự khác nhau có ý nghĩa giữa các nhóm[51].

- D. M. Cushman, K. Thomas, D. Mukherjee (2015) đã sử dụng bản
câu hỏi điều tra của các bác sĩ PM&R và EM. Người tham gia nghiên cứu là
các bác sĩ có chứng chỉ thuộc Hiệp hội Phục hồi chức năng Mỹ và giảng viên
tại các trường đại học Y khoa của Mỹ và Canada. Nghiên cứu nhằm đánh giá
các khía cạnh trong chất lượng cuộc sống của bệnh nhân TTTS bao gồm hoạt
động giải trí, quan hệ xã hội, hạnh phúc, công việc có ý nghĩa, đời sống tình
dục và chất lượng sống nói chung. Kết quả cho thấy trong tổng số 91 bác sĩ
cấp cứu và 89 bác sĩ phục hồi chức năng được hỏi, nhiều bác sĩ phục hồi chức
năng hơn so với bác sĩ cấp cứu cho rằng bệnh nhân sẽ có chất lượng cuộc
sống tốt hơn không kể đến mức độ chấn thương hay khía cạnh cuộc sống nào
được nói đến (P < .01). Bác sĩ nữ, không kể đến chuyên ngành, chọn mức
thấp hơn cho câu hỏi liệu bệnh nhân có muốn kết thúc cuộc sống nếu bị chấn
thương cột sống không (P = 0.03). Cả hai nhóm bác sĩ đều có xu hướng không
đồng ý với nhận định mức độ chấn thương thấp hơn thì cho chất lượng cuộc
sống cao hơn[22].
- Kelly E. Ravenek, Michael J.(2012) cho ra một nghiên cứu tổng hợp
sử dụng dữ liệu từ PubMed và CINAHL để đánh giá các nghiên cứu sử dụng
công cụ đo chất lượng cuộc sống và đánh giá hiệu quả của hoạt động thể chất
hay sử dụng hoạt động thể chất để xác định mối liên hệ giữa hoạt động thể
12


chất và chất lượng cuộc sống. Kết quả cho thấy 13 bài báo đáp ứng tiêu chuẩn
lựa chọn. Trong số đó, 9 công cụ đo chất lượng sống được sử dụng: 2 thước
đo khách quan là Shlort Form - 36[SF-36] và QWB) và 7 thước đo chủ quan
(Tự đánh giá chất lượng sống[PQoL], Thang điểm thỏa mãn cuộc sống
[SWLS], Chỉ số chất lượng cuộc sống của bệnh nhân TTTS - phiên bản III,
Thang thỏa mãn cuộc sống[LISAT], Phản hồi chất lượng cuộc sống, Hồ sơ
chất lượng cuộc sống: Phiên bản cho người khuyết tật thể chất và giác quan
[QOLP-PSD] và Chất lượng cuộc sống theo đánh giá chủ quan[SQOL]).

Bảng tự đánh giá chất lượng cuộc sống (PQoL) là công cụ được dùng phổ
biến nhất (trong 4 nghiên cứu) và được sử dụng ở 2 trong 3 thử nghiệm ngẫu
nhiên có đối chứng. 12 trên 13 nghiên cứu đánh giá tích cực ảnh hưởng hoạt
động thể chất với chất lượng cuộc sống[38].
- Nghiên cứu phân tích các công cụ cho thông tin về chất lượng cuộc
sống liên quan đến sức khỏe (HRQoL), bao gồm Bản điều tra ngắn (Shortform 36 (SF-36)), Bản điều tra ngắn 36 dành cho cựu chiến binh (SF-36V),
Bản điều tra ngắn 12(SF-12), Bản điều tra ngắn 6 dành cho người khuyết tật
(SF-6D), Hồ sơ ảnh hưởng của bệnh thật (SIP-68), Bảng tự đánh giá chất
lượng cuộc sống (QWB-SA), Qualiveen và Công cụ bệnh nhân tự đánh giá
ảnh hưởng của co cứng (PRISM). Trong số 22 bài báo với 8 công cụ đánh giá
chất lượng cuộc sống liên quan đến sức khỏe của bệnh nhân TTTS cho thấy
bệnh nhân TTTS có chất lượng cuộc sống kém hơn nhiều so với dân số nói
chung, đặc biệt là về thể chất[57].
1.6.1.2. Một số yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng sống của bệnh nhân sau
chấn thương tủy sống
- Y Akkoc, M Ersoz và N Yıldız (2013) nghiên cứu các BN CTTS ít
nhất 6 tháng sau chấn thương (n = 195, 74.4% nam). Các bệnh nhân trên được
chia vào 5 nhóm: tiểu tiện bình thường, tiểu tiện có hỗ trợ, bệnh nhân tự thông
tiểu ngắt quãng, thông tiểu ngắt quãng do người khác trợ giúp và thông tiểu
lưu. Bảng điều tra câu hỏi King được sử dụng để đánh giá CLCS của bệnh
nhân sau CTTS. Kết quả là các nhóm bệnh nhân quản lý bàng quang giống
13


nhau về tuổi, thời gian sau chấn thương, trình độ học vấn, tình trạng hôn nhân
và nghề nghiệp. Không có sự khác biệt nào về sức khỏe nói chung, mối quan
hệ cá nhân, điểm giấc ngủ/năng lượng. Trong khi nhóm tiểu tiện bình thường
có điểm số thấp nhất (nghĩa là có CLCS cao nhất), nhóm có người giúp đặt
thông tiểu có CLCS tồi nhất. Vậy yếu tố BN khi có sự can thiệp để có thể tiệu
tiện và tiện cho việc chăm sóc và theo dõi có là yếu tố ảnh hưởng đến CLCS

của bệnh nhân sau CTTS [59].
- Trong nghiên cứu tổng hợp y văn của Van Leeuwen, S Kraaijeveld, E
Lindeman và cộng sự (2012), một số hệ thống dữ liệu trực tuyến đã tham
khảo PubMed, Embase và PsychInfo. Tiêu chuẩn lựa chọn các bài báo là các
bài báo phải phân tích định lượng mối quan hệ giữa các biến độc lập liên quan
đến chất lượng sống và các yếu tố tâm lý như các biến phụ thuộc. Nghiên cứu
tổng hợp này chỉ xem xét các thử nghiệm lâm sàng bằng tiếng Anh. Chất
lượng phương pháp nghiên cứu cũng được đánh giá. Kết quả cho thấy có 48
nghiên cứu đáp ứng đủ tiêu chuẩn lựa chọn. Không có bằng chứng nào được
tìm thấy về mối liên quan giữa phương pháp giải quyết vấn đề và chất lượng
sống. Những tác động tiêu cực và nhận thức sau chấn thương liên quan đến
chất lượng sống thấp hơn. Chất lượng cuộc sống của bệnh nhân sau CTTS
được cho là liên quan đến mức độ kiểm soát cuộc sống, nhận thức giá trị bản
thân, mục đích sống và hy vọng[17].
- E Ataoglu, T Tiftik, M Kara, và cộng sự (2013) nghiên cứu tổng cộng
140 BN CTTS (104 nam và 36 nữ) đã được điều trị nội trú PHCN. Một bảng
câu hỏi gồm nhiều biến số về y tế đã được phát. Điểm số tự chủ vận động
được dùng để đánh giá hoạt động hàng ngày, Bảng hỏi kết quả y tế dạng ngắn
36 mục (SF-36) để đánh giá CLCS cảu bệnh nhân sau CTTS và Bảng liệt kê
tình trạng buồn chán BDI (Beck Depression Inventory). BN sau đó được chia
thành nhóm đau mãn tính (Nhóm 1) và nhóm không bị đau (Nhóm 2); hai
nhóm sẽ được so sánh dựa trên các biến về kinh tế xã hội và y tế. Kết quả cho
thấy nguyên nhân phổ biến nhất ảnh hưởng đến CLCS của bệnh nhân sau CTTS
là ngã (35.0%) và tai nạn xe cộ (34.2%), 78% BN bị đau mãn tính. Bệnh nhân có
14


việc làm trước khi bị thương và BN tổn thương hoàn toàn có điểm xếp hạng thấp
hơn (p< 0,05). Nhóm 1 có điểm đau thể chất và hoạt động xã hội thấp hơn nhóm
2(P < 0,05) Bệnh nhânCTTS bị đau mãn tính có tỉ lệ buồn chán và điểm (BDI)

cao hơn tương quan với một vài những lĩnh vực trong bảng SF-36[25].
- Trong nghiên cứu của N. A. Erosa1, J.W. Berry, T.R. Elliott (2014),
một khung lý thuyết được kiểm tra về ảnh hưởng của khuyết tật chức năng, sự
hài lòng trong cuộc sống gia đình và tình trạng đau khi tham gia hoạt động đối
với chất lượng sống. Kết quả cho thấy khuyết tật chức năng lớn và tình trạng đau
làm giảm sự tham gia hoạt động, sự tham gia hoạt động có giá trị tiên đoán với
CLCS đối với bệnh nhân sau CTTS vàyếu tố hài lòng trong cuộc sống gia đình
có ảnh hưởng gián tiếp tới CLCS của bệnh nhân sau CTTS[42].
- WB Mortenson, L Noreau và WC Miller (2010) nghiên cứu một nhóm
bệnh nhân CTTS. Số liệu được thu thập thông qua chỉ số chất lượng sống QLI
(Quality of Life Index) 197 BN được điều tra, nhưng do bỏ nghiên cứu hay
không tham gia đầy đủ, chỉ còn lại 93 trường hợp. Chất lượng sống được điều
tra tại thời điểm 3 và 15 tháng sau khi hết điều trị PHCN. Kết quả là điểm
trung bình CLCS không khác nhau ở thời điểm 3 và 15 tháng (p< 0.85). Chỉ
số chính dự đoán CLCS ở thời điểm 3 tháng là tình trạng sức khỏe và trạng
thái tâm lý. Chỉ số chính dự đoán CLCS ở thời điểm 15 tháng là mức độ chất
lượng sống ở thời điểm 3 tháng, tình trạng sức khỏe và sự hỗ trợ của gia đình.
Ở cả 2 thời điểm trên, những yếu tố cá nhân giải thích được gần hết được
CLCS của bệnh nhân sau CTTS, trong khi đó sự tham gia hoạt động và yếu tố
môi trường có vai trò ít quan trọng[52].
1.6.1.3. Xác định nhu cầu chăm sóc, phục hồi chức năng của bệnh nhân sau
chấn thương tủy sống
* Chăm sóc cơ bản và chăm sóc người bệnh toàn diện
Các thành phần chăm sóc cơ bản
Trong chăm sóc NB, điều dưỡng cần phải đánh giá và chẩn đoán những
nhu cầu của NB, trên cơ sở đó hỗ trợ NB đáp ứng được các nhu cầu cơ bản
15


của con người. Theo Viginia Henderson, con người có 14 nhu cầu cơ bản giúp

xác định khung nội dung về các thành phần chăm sóc cơ bản gồm[7].
- Đáp ứng nhu cầu về hô hấp: Điều dưỡng phải đánh giá sự thở bình
thường hay bất thường, tìm nguyên nhân để giải quyết và đáp ứng nhu cầu
ngay cho NB (cho thở ôxy, hút cho thông thoáng đường hô hấp, đặt tư thế
thích hợp, thông báo bác sĩ...).
- Đáp ứng nhu cầu về ăn uống: Điều dưỡng cần giúp đỡ NB ăn đủ lượng
calo mỗi ngày và thực hiện chế độ ăn theo đúng bệnh, đảm bảo an toàn vệ sinh
thực phẩm. Nếu tình trạng bệnh không thể ăn được đường miệng thì cần thực hiện
các biện pháp đưa dinh dưỡng vào cơ thể để đảm bảo năng lượng cho NB.
- Giúp đỡ NB trong sự bài tiết: Điều dưỡng cần phải theo dõi sát dịch tiết
của NB về số lượng, tính chất, màu sắc để đánh giá và can thiệp đáp ứng đúng
nhu cầu khi có bất thường.
- Giúp đỡ NB về tư thế, vận động và tập luyện: Điều dưỡng cần giúp NB
các tư thế mà họ yêu cầu, hướng dẫn và hỗ trợ NB vận động, luyện tập.
- Đáp ứng nhu cầu ngủ và nghỉ
- Giúp NB mặc và thay quần áo
- Giúp NB duy trì thân nhiệt: Nếu thân nhiệt NB bất thường, cần phải tìm
rõ nguyên nhân để giải quyết hoặc báo ngay bác sĩ để cùng can thiệp.
- Giúp NB vệ sinh cá nhân hằng ngày: Tùy theo tình trạng bệnh, điều
dưỡng cần thực hiện tắm, gội, thay quần áo, thay ga trải giường cho NB hằng
ngày tại giường.
- Giúp NB tránh được các nguy hiểm trong khi nằm viện: Tránh để NB ngã,
bị các tai biến trong điều trị, các sự cố trong chăm sóc như: nhầm NB, nhầm
thuốc, sót dụng cụ khi mổ, nhiễm khuẩn khi thực hiện kỹ thuật, lây chéo…
- Giúp NB trong giao tiếp: Điều dưỡng thường xuyên gần gũi, tiếp xúc
NB với thái độ niềm nở thân mật.
- Giúp NB thoải mái về tinh thần, tự do tín ngưỡng.
- Giúp NB làm một việc gì đó để tránh mặc cảm là người vô dụng.
16



×