Tải bản đầy đủ (.docx) (86 trang)

NGHIÊN cứu một số tác DỤNG KHÔNG MONG MUỐN LIÊN QUAN đến nội SOI PHẾ QUẢN ỐNG mềm ở BỆNH NHÂN NGHI UNG THƯ PHỔI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (429.52 KB, 86 trang )

B GIO DC V O TO

B Y T

TRNG I HC Y H NI

CAO TH THY

NGHIÊN CứU MộT Số TáC DụNG KHÔNG
MONG MUốN
LIÊN QUAN ĐếN NộI SOI PHế QUảN ốNG
MềM
ở BệNH NHÂN NGHI UNG THƯ PHổI
Chuyờn ngnh : Ni khoa
Mó s

: 60720140

LUN VN THC S Y HC
Ngi hng dn khoa hc:
TS. NG HNG MINH


HÀ NỘI - 2017
CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BCĐN

: Bạch cầu đa nhân

BN


: Bệnh nhân

CLVT

: Cắt lớp vi tính

NSPQ

: Nội soi phế quản

PN

: Phế nang

PQ

: Phế quản

SLBC

: Số lượng bạch cầu

STMP

: Sinh thiết màng phổi

STXTN

: Sinh thiết xuyên thành ngực


UTBM

: Ung thư biểu mô

UTP

: Ung thư phổi


3

ĐẶT VẤN ĐỀ
Các tổn thương dạng u ở phổi là những đám hoặc nốt mờ được phát
hiện trên phim Xquang phổi hay trên phim cắt lớp vi tính (CLVT) lồng ngực.
Có hơn 80 loại các tổn thương dạng u ở phổi, bản chất các tổn thương này có
thể lành tính hoặc ung thư phế quản hoặc ung thư di căn từ nơi khác đến [1].
Ung thư phế quản là bệnh có tỉ lệ mắc và tử vong đứng hàng đầu trong
các bệnh ung thư trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Bệnh có tỉ lệ mắc cao ở
cả hai giới [2]. Phẫu thuật là lựa chọn điều trị đầu tay cho những trường hợp
giai đoạn sớm, bên cạnh đó, nhiều tổn thương lành tính ở phổi (như u mô
thừa, u mỡ…) đôi khi không cần can thiệp. Do đó việc phát hiện và chẩn đoán
sớm và chính xác rất quan trọng[1].
Về mặt chẩn đoán bệnh ung thư phổi cho đến nay ở nước ta cũng có
nhiều phương pháp chẩn đoán từ đơn giản là xét nghiệm đờm tìm tế bào ung
thư cho đến sinh thiết hạch di căn, sinh thiết phổi qua thành ngực, chụp
Xquang phổi, chụp CLVT, nội soi phế quản....Mỗi phương pháp đều có những
ưu điểm đồng thời cũng có mặt hạn chế của nó.
Kỹ thuật nội soi phế quản ra đời từ đầu thế kỷ XIX. Cho đến nay, sau
gần hai thế kỷ, kỹ thuật nội soi phế quản ngày càng khẳng định vai trò to lớn
trong việc chẩn đoán và điều trị các bệnh lý đường hô hấp, đặc biệt là sau sự

ra đời và phát triển của kỹ thuật nội soi phế quản ống mềm từ năm 1964[3].
Trong chẩn đoán ung thư phổi, nội soi phế quản ống mềm được xem là
một trong các phương pháp thăm dò cơ bản để lấy bệnh phẩm chẩn đoán xác
định và chẩn đoán giai đoạn bệnh. Ngoài ra, kỹ thuật này còn được dùng để
can thiệp đối với một số trường hợp khối u gây tắc lòng phế quản[1],[2].
Tuy nhiên, cũng như các kỹ thuật y học khác, nội soi phế quản ống mềm
ở bệnh nhân nghi ung thư phổi có thể gây ra một số tác dụng không mong


4

muốn như sốt và nhiễm trùng, ho, khó thở, co thắt thanh quản, đau ngực, chảy
máu, tràn khí màng phổi, tràn khí trung thất[3].
Với mục đích tìm hiểu một số tác dụng không mong muốn của nội soi phế
quản ống mềm trên bệnh nhân nghi ung thư phổi, chúng tôi tiến hành nghiên
cứu: “Nghiên cứu một số tác dụng không mong muốn liên quan tới nội soi
phế quản ống mềm ở bệnh nhân nghi ung thư phổi” nhằm hai mục tiêu sau:
1.

Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và giai đoạn TNM của bệnh

2.

nhân ung thư phổi.
Tìm hiểu một số tác dụng không mong muốn liên quan đến nội soi phế
quản ống mềm ở bệnh nhân nghi ung thư phổi.


5


Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Đại cương về ung thư phổi
1.1.1. Định nghĩa ung thư phổi
Ung thư phổi hay ung thư phế quản là thuật ngữ để chỉ bệnh ác tính của
phổi xuất phát từ biểu mô niêm mạc phế quản, tiểu phế quản, phế nang, từ các
tuyến của phế quản, hoặc các thành phần khác của phổi [6], [7].
1.1.2. Dịch tễ ung thư phổi
1.1.2.1.Tình hình ung thư phổi trên thế giới
Ung thư phổi (UTP) được mô tả lần đầu tiên năm 1850. Khoảng 150 năm
trước nó là một bệnh hiếm gặp. Năm 1878, UTP chỉ chiếm 1% trong tổng số ca
ung thư được phát hiện qua mổ tử thi tại Viện Giải phẫu bệnh Dresden ở Đức.
Năm 1910, Alton Ochner (Đại học Washington) ghi nhận 1 trường hợp UTP qua
mổ tử thi, 17 năm sau ghi nhận trường hợp thứ 2. Năm 1985, ước tính có khoảng
921.000 trường hợp tử vong do UTP [6].
Những nghiên cứu dịch tễ học ghi nhận, UTP vẫn là loại ung thư thường
gặp nhất và có tỷ lệ tử vong cao nhất trong các loại ung thư. Năm 2007, ước tính
trên toàn thế giới có khoảng 1,55 triệu ca UTP mới mắc và khoảng 1,35 triệu ca
tử vong [8]. Tại Hoa Kỳ, UTP là loại ung thư có tỷ lệ tử vong cao nhất và tỷ lệ
mới mắc đứng thứ hai ở cả hai giới [9].
Các thống kê cho thấy, UTP phổ biến hơn ở nam giới. Năm 2007, toàn
thế giới ước tính có khoảng 1.108.371 ca UTP được phát hiện ở nam giới
chiếm 71,6% tổng số ca UTP mới được phát hiện, tỷ lệ nam/nữ là 2,5/1 [9].
Tại các nước đang phát triển, tỷ lệ nam/nữ thường cao hơn con số trên,
trong khi tại các nước phát triển, tỷ lệ UTP ở nữ có xu hướng ngày một


6

tăng nhanh. Theo thống kê của Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ, năm 2010, số ca
UTP mới phát hiện ở nam giới là 116.750 và ở nữ là 105.770 [10], [11].

Năm 2013, dự đoán 228.190 mới phát hiện nam 118.080 và ở nữ: 110.110.
Ước tử vong: 159.480 (nam: 87.260, nữ: 72.220), tỷ lệ UTP mới phát hiện
ở nữ giới đã xấp xỉ nam giới [12].
1.1.2.2. Tình hình ung thư phổi tại Việt Nam
Hiện nay đã có những số liệu ghi nhận về ung thư tương đối chính xác
và có thể đại diện cho tình hình ung thư của cả nước. Năm 1990, trên toàn
quốc số mới mắc ung thư ở Việt Nam là 52.721 trường hợp, trong đó 28.140
là nam giới, 24.581 là nữ giới. Tỷ lệ mắc ung thư đã được chuẩn hóa theo cấu
trúc dân số là 133/100.000 ở nam và 92/100.000 ở nữ [13].
Năm 2000 Cơ quan Nghiên cứu Ung thư Quốc tế (International Agency
for Research on Cancer – IARC) phối hợp 2 trung tâm ghi nhận trên quần thể
ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh đã tính có khoảng 71.170 bệnh nhân mới
mắc ung thư, trong đó 37.259 trường hợp ở nam giới (ARS 144.94/100.000) và
33.911 trường hợp nữ giới (ARS: 102,91/100.000 dân). Hiện nay theo ước
tính hàng năm ở Việt Nam có khoảng 150 nghìn trường hợp mới mắc ung thư
và có khoảng 75 nghìn trường hợp chết vì căn bệnh này [13]. Đối với UTP có
khoảng 9301 trường hợp mới mắc mỗi năm trong đó nam là 7201 (ARS là
30.14/100.000 và nữ giới là 2100 (ARS là 6.60/100.000) [13].
Tại Khoa Hô hấp - Bệnh viện Bạch Mai, số các trường hợp UTP nhập
viện tăng đều hàng năm: từ 1969 đến 1972 có 89 trường hợp UTP, từ 1974
đến 1978 có 186 trường hợp, từ 1981 đến 1985 có 285 trường hợp, từ 1996
đến 2000 có 639 trường hợp, chiếm 16,6% tổng số các bệnh nhân điều trị,
đứng hàng thứ hai sau bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính [6], [7], [14], [15].
1.1.3. Các nguyên nhân gây ung thư phổi


7

Nguyên nhân được cho là thủ phạm gây nên UTP là thuốc lá. Năm 1950,
lần đầu tiên người ta đã chứng minh mối liên quan giữa UTP với thuốc lá và

nhận thấy rằng 80% các UTP liên quan với yếu tố môi trường, khói thuốc lá, sự
nhiễm độc nước, không khí, điều kiện lao động, chế độ ăn uống. Khi có nhiều
yếu tố phối hợp thì nguy cơ mắc UTP càng cao [16]. Cho đến nay, người ta đã
xác định được nhiều nguyên nhân gây UTP, trong đó hút thuốc lá là một trong
những căn nguyên phổ biến nhất [17], [18], [19].
1.1.3.1. Thuốc lá
Thuốc lá chứa hơn 4.000 loại hoá chất, 200 loại có hại cho sức khoẻ,
khoảng hơn 60 chất chứa vòng Hydrocarbon thơm như: 3- 4 Benzopyren, các
dẫn xuất Hydrocarbon đa vòng có khí Nitơ, Aldehyt, Nitrosamin, Ceton có
tính chất gây ung thư [6], [7], [17].
Hút thuốc lá được coi là yếu tố nguy cơ chính gây nên UTP, khoảng 90%
trong số 660.000 ca được chẩn đoán UTP trên thế giới có hút thuốc lá. Mức
độ tăng nguy cơ phụ thuộc vào: tuổi bắt đầu hút (hút càng sớm nguy cơ càng
cao), số bao - năm (càng lớn nguy cơ càng cao), thời gian hút càng dài (nguy
cơ mắc bệnh càng lớn), hút thuốc nguy cơ UTP cao gấp 10 lần so với người
không hút thuốc [6]. Theo Kthryn E. (2000), những người hút thuốc lá 01
bao/ngày trong 40 năm có nguy cơ bị UTP cao hơn người hút 02 bao/ngày
trong 20 năm [16]. Các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, ngay cả những người
không trực tiếp hút thuốc lá nhưng thường xuyên tiếp xúc với người hút thuốc
(hút thuốc lá thụ động) cũng có nguy cơ UTP rất cao [17], [18], [19].
1.1.3.2. Ô nhiễm không khí
Một số chất như amiantte (asbestos) thường có trong thành phần tấm lợp
proximăng, niken, crom, thạch tín, nhựa, khí đốt dầu mỏ được ghi nhận làm
tăng nguy cơ UTP.
Coyle YM và Cs (2006), nghiên cứu trên 81.132 trường hợp UTP ở


8

Texas - Mỹ từ năm 1995 - 2000, nhận thấy hít phải không khí có chứa kẽm,

đồng, chrom làm tăng tỷ lệ UTP [6], [20].
1.1.3.3. Bức xạ ion hóa
Bức xạ ion có thể gây ung thư ở tất cả các hệ cơ quan trong đó có UTP.
Nguồn bức xạ chính là từ thiên nhiên, các tia vũ trụ, do con người tạo ra trong
chẩn đoán y học, nghiên cứu hạt nhân [6].
1.1.3.4. Vấn đề di truyền trong sinh bệnh học khối u
Các gen chính liên quan đến phát sinh UTP (myc, ras, p53, Rb, HER2/neu, Bcl-2) có thể hoạt hóa hoặc mất hoạt hóa UTP. Gen này được coi có
vai trò điều hòa và kiểm tra sự phân chia của tế bào. Người ta cho rằng gen
P53 bị biến đổi không “kiểm tra” được sự phân chia tế bào một cách bình
thường [6].
1.1.3.5. Các bệnh phế quản phổi lành tính
Chấn thương xơ sẹo phổi, lao phổi, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính đã
được chứng minh làm tăng nguy cơ UTP, đặc biệt là viêm phế quản mạn tính
có dị sản dạng biểu bì [6], [7].
1.1.3.6. Chế độ ăn
Nhiều nghiên cứu cho thấy chế độ ăn nhiều rau xanh, trái cây làm giảm
rệt nguy cơ UTP. Người ta ghi nhận một nồng độ thấp của các vitamin có tác
dụng chống độc trong huyết thanh chẳng hạn như vitamin A và E liên quan
với sự gia tăng xuất hiện UTP. Tuy nhiên, những người ăn thức ăn giàu betacaroten làm giảm rõ rệt tỷ lệ mới mắc của UTP [6], [7].
1.1.4. Triệu chứng lâm sàng của ung thư phổi [6], [7], [21], [22]
1.1.4.1. Các triệu chứng cơ năng


9

- Ho khan: là dấu hiệu thường gặp nhất, ho kéo dài, ho khan tiếng một
hoặc ho thành cơn.
- Ho ra máu: thường số lượng ít, lẫn với đờm thành dạng dây máu, màu
đỏ hoặc hơi đen hoặc đôi khi chỉ khạc máu đơn thuần.
- Đau ngực: là triệu chứng thường đứng hàng thứ ba sau ho khan và ho

ra máu. Đau ngực thường ở vị trí tương ứng với khối u với nhiều đặc điểm
khác nhau: cảm giác nặng tức ngực, đau giống đau thần kinh liên sườn…
- Khó thở: thường tăng dần. Các nguyên nhân gây khó thở ở BN UTP
bao gồm: u gây tắc nghẽn khí quản, phế quản gốc, do tràn dịch màng phổi,
tràn dịch màng ngoài tim hoặc có bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính kèm theo.
- Hội chứng nhiễm trùng phế quản - phổi
Viêm phổi, áp xe phổi có thể xuất hiện sau chỗ hẹp phế quản do u: u
chèn ép khí phế quản gây ứ đọng đờm, làm tăng khả năng nhiễm trùng.
Những trường hợp này nếu sau điều trị mà tổn thương mờ trên phim còn tồn
tại kéo dài trên 1 tháng hoặc tổn thương có xu hướng phát triển, hoặc tái phát
ở cùng một vị trí nên nghĩ tới chẩn đoán UTP để làm các thăm dò chẩn đoán
như nội soi phế quản.
1.1.4.2. Triệu chứng toàn thân
Bệnh cảnh rất đa dạng có thể không có triệu chứng gì cho đến khi tình cờ
phát hiện kiểm tra sức khỏe khi khám bệnh do một lý do khác, có thể gặp: gầy
sút cân, sốt dao động, mệt mỏi toàn thân, khó thở, đau vai tay, nói khàn làm
cho BN có cảm giác sức khỏe giảm sút.


10

1.1.4.3. Triệu chứng thực thể
Hội chứng đông đặc, hội chứng ba giảm hay hội chứng hang, hội chứng do
xẹp phổi trên lâm sàng, có khi chỉ thấy hội chứng tràn dịch màng phổi.
1.1.4.4. Triệu chứng ung thư lan rộng tại chỗ
- Hội chứng chèn ép tĩnh mạch chủ trên: biểu hiện bằng đau đầu, chóng
mặt, ù tai, sau đến tím mặt, có thể tím cả nửa người trên, phù mặt, cổ, ngực
(phù áo khoác), tĩnh mạch cổ nổi…
- Triệu chứng chèn ép thực quản: khó nuốt hoặc nuốt đau do khối u hoặc
hạch chèn ép thực quản.

- Triệu chứng chèn ép thần kinh:
+ Chèn ép thần kinh giao cảm cổ: đồng tử co lại, khe mắt nhỏ, mắt lõm
sâu làm mi mắt như sụp xuống, gò má đỏ bên tổn thương (Hội chứng Claude Bernard - Horner).
+ Chèn ép dây quặt ngược trái: có khi mất giọng, giọng đôi, nói khàn
+ Chèn ép thần kinh giao cảm lưng: tăng tiết mồ hôi một bên.
+ Chèn ép dây thần kinh phế vị: có thể hồi hộp trống ngực, tim đập nhanh.
+ Chèn ép dây thần kinh hoành: nấc, khó thở do liệt cơ hoành.
+ Chèn ép đám rối thần kinh cánh tay: đau vai lan ra mặt trong cánh tay,
có rối loạn cảm giác.
- Các triệu chứng do u lan tỏa khác:


11

+ Chèn ép ống ngực: gây tràn dưỡng chấp màng phổi, cũng có thể kèm
với phù cánh tay trái hoặc tràn dưỡng chấp ổ bụng.
+ Tổn thương tim: tràn dịch màng tim, rối loạn nhịp tim.
+ Hạch thượng đòn: hạch kích thước 1- 2 cm, chắc, di động hoặc số ít
trường hợp hạch thành khối lớn xâm nhiễm vào tổ chức dưới da.
+ Một số trường hợp tổn thương ung thư di căn thành ngực phát triển và
đẩy lồi da lên, hoặc UTP xâm lấn vào màng phổi rồi phát triển lan ra ngoài
gây sùi loét da thành ngực.
1.1.4.5. Các hội chứng cận ung thư
Hội chứng cận ung thư gồm những biểu hiện toàn thân không do di căn,
xuất hiện ở các bệnh ác tính. Hội chứng này là tập hợp những triệu chứng gây
ra do các chất được sản sinh bởi các u, chúng có thể là những biểu hiện đầu
tiên hoặc những biểu hiện nổi trội của bệnh lý ác tính. Tần suất mắc hội
chứng này khoảng 2% đến 20% ở các bệnh lý ác tính.

1.1.4.6. Triệu chứng di căn của ung thư

Di căn là biểu hiện bệnh lý hay gặp và là triệu chứng thường xảy ra vào
giai đoạn muộn của ung thư nói chung và UTP nói riêng. Di căn có thể xảy ra
sớm hay muộn tùy thuộc vào loại tế bào ung thư. Một số tác giả cho thấy di
căn ung thư rất phong phú và biểu hiện trên lâm sàng dưới nhiều hình thức
khác nhau:


12

- Di căn xương: thường gặp xương dẹt, xương sườn, xương chậu, phát
hiện bằng chụp X quang, chụp nhấp nháy phóng xạ.
- Di căn não: BN thường có biểu hiện đau đầu, nôn, liệt khu trú, tri giác
chậm chạp.
- Di căn gan: đau hạ sườn phải, gan to bề mặt lổn nhổn, phát hiện bằng
siêu âm hoặc chụp CLVT ổ bụng.
- Di căn hạch: hạch ngã ba khí quản, hạch cựa khí quản, hạch thượng
đòn, hạch ức đòn chũm. Đối với hạch ngoại vi thường chọc hút hoặc sinh thiết
hạch làm xét nghiệm giải phẫu bệnh.
Đánh giá toàn trạng bệnh nhân để có định hướng điều trị
Bảng đánh giá toàn trạng dựa theo tiêu chuẩn của Tổ
chức Y tế Thế giới
Bậc 0 Hoạt động bình thường
Bậc 1 Mệt, hoạt động bị hạn chế ít
Bậc 2 Nằm tại giường dưới 50% thời gian ban ngày
Bậc 3 Nằm tại giường trên 50% thời gian ban ngày
Bậc 4 Nằm liệt giường
1.1.5. Triệu chứng cận lâm sàng
1.1.5.1. Các phương pháp chẩn đoán hình ảnh



13

Các thăm dò chẩn đoán hình ảnh có một vai trò quan trọng trong chẩn
đoán và đánh giá giai đoạn UTP. Một số phương pháp chẩn đoán hình ảnh
hiện được sử dụng bao gồm: siêu âm, chụp X quang, chụp CLVT, chụp cộng
hưởng từ (MRI), chụp PET Scan và chụp PET - CT, siêu âm nội soi...Dưới
đây, chúng tôi xin trình bày khái quát một vài phương pháp được ứng dụng
trên lâm sàng [23 - 31].
 X quang phổi chuẩn
Phim X quang phổi chuẩn thẳng và nghiêng trái là xét nghiệm quan
trọng cho mọi bệnh nhân UTP. Trong một số trường hợp phim chụp X quang
cho phép chẩn đoán xác định ung thư phổi. Biểu hiện trên phim X quang UTP
cũng rất đa dạng thường có các khối mờ ở phổi, bờ không đều, có hình ảnh
chân cua, có khi kèm hình ảnh di căn...Nhiều tác giả thống nhất dựa vào các
hình ảnh sau đây:
Hình ảnh trực tiếp: [23], [24].
- Đám mờ thường có đường kính trên 3 cm, hoặc nốt mờ đường kính
>10mm, bờ không rõ, có múi, hoặc tua gai. Khi hoại tử có thể có hình hang
thành dày, bờ trên gồ ghề, nham nhở lệch tâm.
Dấu hiệu hình bóng Felson: trong trường hợp u nằm ở thùy giữa phổi
phải hoặc phân thùy lưỡi phổi trái cùng bình diện với tim, khối hình như dính
liền và không thấy bờ viền ngăn cách với tim (dấu hiệu hình bóng dương
tính). Khi thấy đám mờ chồng lên hình ảnh của tim, chứng tỏ u nằm khác
bình diện của tim (u thùy dưới phổi).
Dấu hiệu cổ ngực: u phân thùy 3 phổi luôn nằm phía dưới xương đòn.
Nếu thấy u liên tục từ bờ dưới xương đòn lên phía trên xương đòn thì u nằm ở
phân thùy 2 phía sau của phổi.
Dấu hiệu hội tụ rốn phổi về bản chất cũng là dấu hiệu hình bóng Felson.



14

Hình xâm lấn thành ngực: những u ở ngoại vi nằm sát thành ngực xâm
lấn, phá hủy thành ngực, hủy xương sườn. Một số ít trường hợp có thể thấy u
lồi hẳn ra ngoài thành ngực.
Hình ảnh mặt trời mọc: U phổi nằm ở ranh giới vùng tràn dịch màng
phổi. Phần u ở trên vùng tràn dịch màng phổi tạo hình mặt trời mọc.
Hình ảnh gián tiếp: do sự phát triển của u trong lòng phế quản làm hẹp
lòng phế quản, thường nhìn thấy trên phim X quang phổi chuẩn. Biểu hiện
trên phim tùy thuộc vào u gây tắc phế quản hoàn toàn gây xẹp phổi hoặc viêm
phổi sau tắc hoặc tắc bán phần có thể chỉ gây hiện tượng”cạm khí ” hoặc xẹp
phổi còn thông khí [23], [24], [25].
Dấu hiệu hình chữ S của Golden (“S” sign of Golden) hay còn gọi là đường
cong Morton thường gặp ở u trung tâm, thùy trên phổi phải gây xẹp phổi làm
cho rãnh liên thùy giữa vồng lên từ trong ra ngoài trông giống hình chữ S.
Trong một số trường hợp, phim chụp X quang phổi chuẩn cho phép chẩn
đoán xác định các UTP, đánh giá được mức độ xâm lấn trung thất, thành
ngực, cột sống, có thể thấy hình tràn dịch màng phổi: là biểu hiện của tình
trạng u phổi xâm lấn hoặc di căn màng phổi. Các biểu hiện thấy trên phim
chụp X quang phổi bao gồm từ mờ góc sườn hoành cho đến mờ cả một bên
phổi tùy theo mức độ tràn dịch. Chụp phim X quang là một kỹ thuật phổ biến
ở hầu hết các cơ sở y tế. Tuy nhiên, đa số các trường hợp UTP cần được chỉ
định chụp CLVT, đặc biệt ở những trường hợp UTP giai đoạn sớm, u còn nhỏ,
hoặc u ở những vị trí bị các thành phần trung thất che khuất. Các biểu hiện
khác nhau tuỳ theo u ở trung tâm hay ngoại vi.
 Chụp cắt lớp vi tính (CT: Computer Tomograpgy)
Năm 1973, Hounsfield cho ra đời chiếc máy chụp CLVT đầu tiên dùng
để chụp CLVT sọ não. Gần đây, sự ra đời của các máy chụp CLVT đa đầu dò
(MSCT) mở ra kỷ nguyên mới cho chụp CLVT. Trên phim chụp CLVT ngực có



15

thể xác định được vị trí, mật độ, cấu trúc, sự phát triển, xâm lấn, mức độ lan tràn
của tế bào ung thư vào hạch trung thất, di căn xa. Bên cạnh giá trị xác định chẩn
đoán, chụp CLVT có giá trị đặc biệt quan trọng trong việc đánh giá giai đoạn
bệnh, xác định BN còn chỉ định phẫu thuật hay không [26], [27], [28], [29].
Độ nhạy của chụp CLVT tuy cao 70 - 97%, nhưng độ đặc hiệu lại thấp (60
-80%) do không cho phép chẩn đoán phân biệt u lành với u ác [6].
Các hình ảnh tổn thương trên phim chụp CLVT ở những bệnh nhân UTP
có thể gặp bao gồm [26], [32].
Nốt mờ hoặc đám mờ
Nốt mờ là những tổn thương có đường kính < 4cm.
Đám mờ là nhũng tổn thương có đường kính ≥ 4cm. Trên phim chụp
CLVT có thể phát hiện những nốt, đám mờ đường kính ≤ 2cm. Ngoài việc xác
định kích thước tổn thương còn có thể giúp cho việc đánh giá tỷ trọng của khối
u. Quanh u có thể thấy bờ không đều, có thể thấy các đường ly tâm xuất phát từ
u gọi là vành tua gai. Bình thường u phổi có tỷ trọng 20 - 40 HU ( Hounsfield).
U phổi có xu hướng ngấm thuốc nhiều hơn các tổn thương dạng kén, u lao...
Có thể thấy vùng hoại tử nằm lệch tâm thành dày không đều [26].
Chụp CLVT ngoài việc phát hiện những tổn thương thứ phát mà trên
phim X quang không nhìn thấy còn phát hiện những tổn thương xâm lấn vào
các cơ quan lân cận:
• Hình xâm lấn màng phổi
Tràn dịch màng phổi ở bệnh nhân UTP có thể là do ung thư di căn
màng phổi hoặc cũng có thể là tràn dịch màng phổi lành tính do viêm phổi sau
tắc nghẽn phế quản. Dấu hiệu điển hình là hình ảnh các nốt mờ dạng tổ chức
trên bề mặt màng phổi hoặc hình ảnh dày màng phổi.
• Xâm lấn trung thất



16

Để xác định tình trạng xâm lấn trung thất của những UTP, cần phải dựa
trên phim chụp CLVT ngực có tiêm thuốc cản quang. Trong những trường
hợp khó xác định nên chụp cắt lớp ngực với máy chụp đa đầu dò kết hợp kỹ
thuật tái tạo ảnh không gian ba chiều, giúp xác định chính xác hơn tình trạng
xâm lấn trung thất, khí quản, động mạch phổi.
• Hình xâm lấn thành ngực
Chụp CLVT cho phép chẩn đoán xâm lấn thành ngực với độ nhạy: 70 90 và độ đặc hiệu: 60 - 90%. Các dấu hiệu gợi ý xâm lấn thành ngực bao
gồm: phá hủy xương sườn, u lớn lan vào thành ngực, dày màng phổi…[6].
• Xẹp phổi xung quanh và viêm phổi sau tắc nghẽn phế quản
Chụp CLVT rất có giá trị trong phân biệt giữa u phổi với vùng phổi xẹp
xung quanh do u gây ra. Sau tiêm thuốc cản quang, vùng phổi xẹp có tỷ trọng
cao hơn do ngấm thuốc cản quang hơn u nguyên phát. Tuy nhiên, rất khó xác
định ranh giới và phân biệt được u với vùng phổi xẹp hoặc viêm trong những
trường hợp u nhỏ, nằm trong lòng phế quản [28], [29].
• Di căn hạch do ung thư
Xác định hạch trung thất có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc chẩn
đoán giai đoạn bệnh và tiên lượng. Những bệnh nhân có hạch trung thất N 1
hoặc N2 vẫn có thể có chỉ định phẫu thuật, nhìn chung tất cả những trường
hợp hạch trung thất đối bên không có chỉ định phẫu thuật [30].
Tiêu chuẩn xác định hạch trung thất trên những BN có u phổi bao gồm
những hạch có đường kính > 1cm. Hạch trung thất được chia thành:
- N1: hạch quanh phế quản cùng bên và/hoặc hạch rốn phổi và hạch trong phổi
cùng bên, bao gồm cả sự xâm lấn trực tiếp của u vào các hạch đó.
- N2: hạch trung thất cùng bên và/hoặc hạch dưới cựa khí phế quản.
- N3: hạch trung thất đối bên, hạch rốn phổi đối bên.
• Một số hình ảnh tổn thương khác trên phim chụp CLVT ngực ở
bệnh nhân UTP

- Hình ảnh lưới - nốt: gặp trong trường hợp UTP di căn theo đường bạch mạch.


17

- Hình ảnh nhiều nốt mờ lan tỏa: gặp trong ung thư tiểu phế quản phế
nang.
- Hội chứng lấp đầy phế nang gặp trong viêm phổi sau tắc nghẽn phế quản.
• Tổn thương thứ phát
Trong UTP việc phát hiện những tổn thương thứ phát có vai trò quan
trọng trong chẩn đoán giai đoạn bệnh. Khi thấy tổn thương thứ phát cùng bên
phổi, bệnh được xếp ở T3 (cùng thùy) hay T4 (khác thùy), ở giai đoạn này, BN
có thể còn chỉ định phẫu thuật. Khi có tổn thương ở phổi đối bên với u
nguyên phát, bệnh được xếp giai đoạn M1, lúc này BN không còn chỉ định
phẫu thuật.
 Cộng hưởng từ hạt nhân (MRI = Magnetic Resonance Imaging)
MRI là một phương pháp rất có giá trị trong thăm khám lồng ngực với
các trường hợp thăm khám đỉnh phổi, cơ hoành và cột sống, đánh giá xâm lấn
tại chỗ của khối u vào mạch máu, di căn xâm lấn tủy xương, xác định đánh
giá giai đoạn UTP. Ưu điểm nổi bật của MRI là tương phản cao đánh giá tổn
thương mô mềm và hình ảnh đa bình diện, đánh giá mạch máu mà không bị
ảnh hưởng bởi bức xạ ion hóa. Tuy nhiên nó còn nhiều hạn chế trong chẩn
đoán bệnh lý nhu mô phổi do độ phân giải không gian kém hơn nhiễu do
chuyến động sinh lý của phổi [31], [32].
 Chụp phế quản cản quang
Thời kỳ trước khi có chụp CLVT để chẩn đoán ung thư phế quản cần
chụp phế quản cản quang có lipiodol để phát hiện các tổn thương có chèn ép
phế quản hay không. Một số hình ảnh đặc trưng: phế quản cắt cụt, phế quản bị
chít hẹp một phần, phế quản bị đẩy lệch vị trí bình thường của nó, phế quản bị
chít hẹp phối hợp với phế quản giãn, tổn thương trung thất do sự di căn hoặc

xâm lấn trực tiếp của khối u vào trung thất. Tuy nhiên hiện nay ít sử dụng
phương pháp này.


18

 Siêu âm
Siêu âm thường ít sử dụng để phát hiện khối u. Tuy nhiên siêu âm được
chỉ định trong những tổn thương đặc của nhu mô phổi hoặc màng phổi sát
thành ngực. Ví dụ u phổi ngoại vi, sát thành ngực siêu âm để hướng dẫn cho
chọc hút tế bào hoặc sinh thiết phổi xuyên thành ngực.
Siêu âm để chẩn đoán xác định tràn dịch màng phổi, đánh giá tình trạng
vách hóa khoang màng phổi, hướng dẫn cho chọc tháo hoặc chọc dò dịch
màng phổi.
 PET Scan và PET - CT (Positron Emission Tomography Scan)
PET Scan là kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh tương đối mới dựa trên nguyên
lý tế bào ung thư phổi có khả năng hấp thu chuyển hoá glucose cao hơn các tế
bào bình thường. Dựa vào đặc tính này, người ta sử dụng các chất phóng xạ
gắn glucose (18FDG = 18F-fluoro-deoxy-D-glucose) trong PET Scan. Các
glucose có gắn chất phóng xạ, sau khi được phosphoryl hóa, chúng không bị
chuyển hóa tiếp và được lưu giữ trong tế bào. Sử dụng máy quét PET để phát
hiện sự tích luỹ bất thường của các chất phóng xạ. Do vậy PET Scan được
xem là kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh dựa trên chức năng chuyển hóa của tổ chức.
PET - CT là phương pháp chẩn đoán hình ảnh kết hợp giữa chụp CLVT
và PET Scan. Chụp CLVT rất có giá trị trong đánh giá kích thước u, tình trạng
xâm lấn tới các tổ chức bên cạnh, PET có độ nhạy cao trong đánh giá tổn
thương di căn tới trung thất và các cơ quan khác. Kỹ thuật chụp CLVT dựa
trên việc tạo ảnh không gian 3 chiều, còn kỹ thuật PET tạo hình ảnh dựa chủ
yếu trên hoạt động chức năng của các tế bào. Do vậy, hệ thống kết hợp PET CT làm gia tăng mức độ chính xác trong chẩn đoán UTP và phát hiện các tổn
thương thứ phát ở các cơ quan khác [32], [33], [34]. Theo Mai Trọng Khoa

(2010) PET/CT (+) với giải phẫu bệnh ung thư phổi không tế bào nhỏ là


19

96,8%; độ nhạy cao (96,8%); phát hiện tổn thương di căn vào hạch trung thất
50%, vào xương 26,7% [34].

 Chụp SPECT (Sing photon Emission Computed Tomography)
Là phương pháp chẩn đoán không xâm nhập sử dụng đồng vị phát tia
gama để ứng dụng xạ hình (99m TC MIBI), có giá trị trong chẩn đoán di căn
hạch trung thất dể xác định giai đoạn UTP chính xác. Trong nhiều nghiên cứu
cho thấy độ nhạy 87,7% – 89,8%, độ đặc hiệu 100%, độ chính xác > 90%.
Ngoài ra còn giúp chẩn đoán di căn xương và lập kế hoạch điều trị [6], [35].
 Siêu âm ổ bụng tìm di căn gan, hạch ổ bụng...
 Chụp CT Scanner hoặc MRI sọ não trong trường hợp tìm di căn xa
1.1.5.2. Các kỹ thuật lấy bệnh phẩm chẩn đoán mô bệnh học
 Nội soi phế quản
Nội soi phế quản (NSPQ) là một kỹ thuật thăm dò xâm nhập cho phép
đánh giá hình thái bên trong của cây phế quản [36]. Có NSPQ ống cứng và
NSPQ ống mềm. Trong chẩn đoán thường sử dụng NSPQ ống mềm còn soi
phế quản ống cứng thường ứng dụng trong điều trị. Nội soi phế quản huỳnh
quang với hệ thống ánh sáng xanh thay vì ánh sáng trắng giúp định vị tổn
thương và sinh thiết chính xác hơn. Siêu âm nội soi là kỹ thuật mới cho hình
ảnh rõ nét của trung thất, rốn phổi, mạch máu tổn thương các lớp khác nhau
của niêm mạc phế quản.
Trong ung thư phổi, NSPQ cho phép đánh giá sự xâm lấn hay lan tỏa của
u trong lòng phế quản. Sự xâm lấn này có thể thấy được ở ngay khí quản,
carina, phế quản gốc hay các phế quản phân thùy.
Các tổn thương có thể gặp ở UTP khi soi phế quản là: dạng u sùi: 22 55%; dạng thâm nhiễm: 13 - 42% chít hẹp: 24 - 30%: bít tắc hẹp lòng phế



20

quản: 9,5%; dạng loét - chảy máu và dạng đè ép từ ngoài. Tuy nhiên không
thấy tổn thương cũng chiếm tỷ lệ khoảng 3 - 20%. Ngoài ra, qua soi phế quản
chúng ta cũng đánh giá được tình trạng liệt dây thanh âm trong những trường
hợp u chèn ép dây thần kinh quặt ngược thanh quản [3], [36], [37], [38].
Song song với việc soi phế quản, chúng ta có thể phối hợp các phương
pháp lấy bệnh phẩm như chải, rửa phế quản, chọc hút xuyên thành phế quản
hay sinh thiết tổn thương, phục vụ cho chẩn đoán tế bào và mô bệnh học. Kết
quả phụ thuộc vào vị trí khối u và các thủ thuật xâm nhập được áp dụng để lấy
bệnh phẩm [39]. Theo Nguyễn Chi Lăng (1992), thủ thuật chải rửa phế quản tỷ
lệ phát hiện được ung thư là 50,88%, sinh thiết xuyên thành phế quản phát hiện
được 58,69% [40]. Theo Đồng Khắc Hưng (1995), qua sinh thiết phế quản đối
với UTP trung tâm: tỷ lệ dương tính là 77,9%; UTP ngoại vi: tỷ lệ dương tính
58,1%. Cũng theo tác giả này, sinh thiết phế quản có độ nhạy 74,2%, độ đặc
hiệu 71,4%, sinh thiết xuyên thành phế quản Se 70,3%, Sp 66,7% [41]. Ngoài
nội soi chẩn đoán còn kết hợp điều trị các khối u trong lòng khí phế quản
bằng phương pháp áp lạnh, điện đông thường sử dụng máy nội soi ống cứng.
Tuy nhiên, đây là một phương pháp xâm nhập, tuỳ thuộc vào tình trạng
sức khoẻ và sự hợp tác của bệnh nhân, đôi khi có thể có tai biến nặng như tràn
khí màng phổi, chảy máu trong và sau soi phế quản, suy hô hấp... [37], [38].
 Sinh thiết xuyên thành ngực
Sinh thiết phổi xuyên thành ngực dưới sự hướng dẫn của siêu âm, X
quang hoặc CLVT là những phương pháp rất có giá trị để chẩn đoán tế bào
và mô bệnh học cho các BN có nghi ngờ tổn thương ác tính ở phổi nhất là
sinh thiết xuyên thành ngực dưới hướng dẫn của CLVT. STXTN có vai trò
đặc biệt quan trọng trong chẩn đoán các u ở ngoại vi, khi mà NSPQ không
tiếp cận được. Hiện nay, kỹ thuật STXTN dưới hướng dẫn của chụp CLVT

được coi kỹ thuật có giá trị chẩn đoán cao và an toàn cho những tổn thương


21

ở phổi và trung thất [42].
 Các phương pháp khác
- Xét nghiệm tế bào học đờm, dịch màng phổi và sinh thiết màng phổi
(sinh thiết mù hoặc qua nội soi màng phổi) là xét nghiệm để xác định sự di
căn của UTP. Kết quả của các xét nghiệm này tùy từng nghiên cứu. Theo Bùi
Xuân Tám, Tô Kiều Dung (1996), giá trị của sinh thiết màng phổi trong chẩn
đoán bệnh lý màng phổi do ung thư có Se 90%, Sp 100% [11].
- Nội soi trung thất là một phương pháp xâm nhập có giá trị để xác
định giai đoạn hạch của UTP và vét hạch khi phẫu thuật. Nội soi trung thất
có độ nhậy từ 85 - 93%; độ đặc hiệu từ 85 - 100%. Tuy nhiên, hiện nay
người ta không soi trung thất nhất loạt mà thường thực hiện ngay trước khi
phẫu thuật nhằm giảm tỷ lệ mở lồng ngực vô ích, giảm tỷ lệ tử vong sau
phẫu thuật [3], [42].
- Nội soi màng phổi là một thủ thuật thăm dò trực tiếp khoang màng
phổi. Thủ thuật này có thể được thực hiện với sự hỗ trợ của video mà ngày
nay người ta gọi là soi lồng ngực video. Sinh thiết qua nội soi màng phổi là
một phương pháp chẩn đoán thích hợp được lựa chọn đạt hiệu quả cao đối với
BN tràn dịch màng phổi kéo dài, nếu xét nghiệm dịch màng phổi và sinh thiết
màng phổi mù nhiều lần không có chẩn đoán xác định. Tuy nhiên phương
pháp này còn ít được sử dụng do bệnh nhân cần phải trải qua cuộc gây mê.
- Ngoài ra, còn có thể sinh thiết hạch thượng đòn, hạch nách, hạch bẹn,
sinh thiết thân đốt sống, sinh thiết u gan... để xác định sự di căn của UTP.
- Các chất chỉ điểm ung thư (Tumor marker). Hiện nay trên thế giới có
rất nhiều marker đã được nghiên cứu trên các bệnh nhân ung thư như CEA
(kháng nguyên ung thư biểu mô nguyên phát), NSE (enzym enolase đặc hiệu),

SCC (kháng nguyên ung thư biểu mô tế bào vảy). CYFRA 21 - 1 và nhiều
kháng nguyên khác. Mặc dù không có giá trị chẩn đoán xác định và độ đặc


22

hiệu không cao nhưng định lượng các marker này có giá trị trong đánh giá
hiệu quả của phương pháp điều trị và theo dõi tái phát [21], [42].

1.1.6. Phân loại mô bệnh học ung thư phổi
Theo phân loại mô bệnh học của Tổ chức Y tế Thế giới năm 1999 cho u ở phổi
và màng phổi, tổn thương được chia thành 9 týp và các biến thể như sau [40], [41].
1. Ung thư biểu mô vảy
Các biến thể: dạng nhú; tế bào sáng; tế bào nhỏ; tế bào dạng đáy.
2. Ung thư biểu mô tế bào nhỏ
3. Ung thư biểu mô tuyến : có các dạng: dạng nang; dạng nhú; tiểu phế
quản phế nang; không chế nhày; chế nhày; hỗn hợp chế nhày và không chế
nhày hay loại tế bào trung gian; ung thư biểu mô tuyến đặc với chất nhày.
UTBM tuyến với các dưới nhóm phức hợp.
4. Ung thư biểu mô tế bào lớn
Biến thể: UTBM tế bào lớn thần kinh nội tiết; UTBM tế bào lớn thần
kinh nội tiết phối hợp; UTBM tế bào dạng đáy; UTBM dạng biểu mô lympho;
UTBM tế bào sáng; UTBM tế bào lớn với kiểu hình dạng u cơ trơn.
5. Ung thư biểu mô tuyến - vảy
6. Ung thư biểu mô với các thành phần đa hình thể, sarcome và dạng
sarcome: UTBM với các tế bào hình thoi và/hoặc tế bào khổng lồ; UTBM đa
hình thể; UTBM tế bào hình thoi; UTBM tế bào khổng lồ; UTBM – sarcome;
Ung thư nguyên bào phổi; Các loại khác.
7. U carcinoid: U carcinoid điển hình; U carcinoid không điển hình.
8. Ung thư biểu mô dạng tuyến nước bọt: UTBM dạng biểu bì - nhày;

UTBM túi dạng tuyến bạch huyết; Các nhóm khác.


23

9. Ung thư biểu mô không xếp loại
Trên thực hành lâm sàng thường gặp 4 loại trên: UTBMV, UTBMT,
UTBMTBN, UTBMTBL.

1.1.7. Phân loại TNM và giai đoạn UTP theo AJCC và UICC - 2009
Hệ thống xếp giai đoạn chỉ dựa trên một yếu tố duy nhất đó là phạm vi
giải phẫu của bệnh, những yếu tố khác như triệu chứng lâm sàng, đặc điểm
sinh học phân tử của u không được tính đến, sự gia tăng mức độ T phản ánh u
lớn hoặc sự xâm lấn nhiều hơn ở ngoại vi (màng phổi tạng, thành ngực) hoặc
nhiều hơn ở trung tâm (phế quản gốc hoặc phế quản thùy, trung thất). Trong
UTP, giai đoạn hạch tùy thuộc vào vị trí hạch có di căn (tương phản với số
lượng của hạch). Giai đoạn lâm sàng được biểu thị bởi tiền tố “c”, giai
đoạn tổ chức học được biểu thị bởi tiền tố “p”, ngoài ra, UICC còn định
nghĩa hệ thống phân loại cho sự xuất hiện hoặc vắng mặt phần tồn dư của u
sau điều trị [40,41,42] (phụ lục).
Phân nhóm giai đoạn TNM
Mặc dù nhận ra có nhiều nhóm nhỏ mới trong các ký hiệu T và M nhưng
nhóm giai đoạn đã không được thêm bất kỳ nhóm nhỏ mới nào. Tuy nhiên,
định nghĩa những nhóm giai đoạn đã trở nên phức tạp hơn bởi thêm những
dưới nhóm của ký hiệu T và M [41], [42] (phụ lục).
1.2. Nội soi phế quản ống mềm.
1.2.1. Lịch sử của nội soi phế quản:
1.2.1.1. Thế giới



24

Theo y văn thế giới, nội soi phế quản đã có cách nay trên 2000 năm, từ
thời Hippocrate[5]. Ông đã nghĩ ra cách đặt nội khí quản để điều trị bệnh
nhân bị ngạt thở. Tuy nhiên nội soi phế quản đã không được phát triển cho tới
thế kỷ 19. Năm 1846, Horace Green lần đầu tiên tiến hành đặt ống nội khí
quản và phế quản. Nhưng khi ông trình bày kỹ thuật của mình tại Hiệp hội
Nội - Ngoại khoa Mỹ ở New York thì bị một số thành viên bác bỏ hoàn toàn
vì cho rằng điều đó không thể thực hiện được và không đảm bảo an toàn cho
bệnh nhân.
Năm 1854, Joseph P. O'Dwyer là một thầy thuốc nổi tiếng về thủ thuật
đặt nội khí quản ở bệnh nhân bị bệnh bạch hầu, đã chế tạo một ống soi bằng
kim loại để gắp các dị vật ở khí quản và phế quản.
Năm 1895, Kirstein đã khảo sát trực tiếp bên trong thanh quản bằng ống
soi O'Dwyer có thêm bóng đèn điện tử lăng kính của Casper qua việc đè lưỡi
và nắp thanh môn. Ông là người đã phát minh ra ống soi thanh quản đầu tiên.
Năm 1897, Gustav Killian đã dùng ống soi thanh quản Kirstein để soi
phế quản cho một nam nông dân 63 tuổi và phát hiện dị vật là một mảnh
xương nằm ở phế quản gốc bên phải. Ông đã dùng ống soi thực quản
Mikulicz - Rosenheim để lấy dị vật ra sau khi đã gây tê bằng Cocaine. Cuối
năm 1898, ông đã báo cáo ba trường hợp gắp thành công dị vật ở cây khí phế quản. Từ các sự kiện trên đã mở ra một kỷ nguyên về khảo sát cây khí phế quản bằng nội soi và ông là người thầy thuốc được xem như là cha đẻ của
kỹ thuật nội soi phế quản.
Năm 1902, Max Einhorn đã sáng chế đèn soi ở đầu ống soi thực quản.
Năm 1904, Chevalier Jackson chế tạo ống soi phế quản cứng có bộ phận
chiếu sáng ở đầu ống soi. Đây là thời kỳ có nhiều cải tiến về kỹ thuật chiếu
sáng, thông khí, gây tê nhưng dụng cụ vẫn là ống soi cứng đơn giản.


25


Năm 1954, Hopkine và Hirschowitz đã phát minh ra sự dẫn truyền hình
ảnh qua bó sợi thủy tinh quang học được bao bọc đặc biệt thành một ống mềm
dễ dàng uốn cong và đặt tên là "Fiberscope".
Năm 1957, Avery Jones và Hirschowitz đã chế tạo ống soi mềm đầu tiên
đơn giản để soi dạ dày. Sau đó ống soi mềm nhanh chóng phát triển ở Mỹ và
đặc biệt là Nhật Bản.

Hình 1.1. Ống soi mềm đầu tiên
Năm 1962, Shigeto Ikeda cùng với Shohei Horie và Kenichi Takino đã
chế tạo thấu kính soi phế quản với các sợi thủy tinh quang học giúp cho soi
phế quản có nhiều thuận lợi hơn : độ chiếu sáng tốt hơn, thị trường quan sát
rộng hơn và giảm được đường kính của ống soi nên có thể quan sát tới tận các
phế quản phân thùy của thùy giữa và thùy dưới.
Năm 1966, Shigeto Ikeda chế tạo ống soi phế quản mềm và ông là người
đầu tiên thực hiện nội soi phế quản với ống soi mềm bằng sợi quang học để
chẩn đoán bệnh lý phế quản. Sau đó, ông đã giới thiệu phương pháp nội soi
phế quản ống mềm tại Hội nghị Bệnh lồng ngực tại Copenhagen. Từ đó, nội
soi phế quản ống mềm được ứng dụng rộng rãi và phổ biến trên toàn thế giới,
nó dần dần được sử dụng để thay thế cho ống soi cứng.
Năm 1971, Shigeto Ikeda và Ryosuke Ono sử dụng camera để ghi lại
hình ảnh màu khi soi phế quản. Cũng trong năm này, Smiddy đề xuất đặt ống


×