Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

sáng kiến rèn kĩ năng đọc cho

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (364.34 KB, 34 trang )

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
i/ Lí do chọn đề tài
Trong bối cảnh thế giới đang có những biến động mạnh mẽ, sâu sắc, Đảng và
Nhà nước ta cũng đặt ra những mục tiêu và những cải cách quan trọng về kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội trong đó giáo dục được coi là quốc sách hàng đầu. Song
trên thực tế thực trạng giáo dục tại Việt Nam còn là một bài toán nan giải mà mục
tiêu nâng cao chất lượng giáo dục là một yêu cầu hết sức cấp thiết trong đó bậc giáo
dục Tiểu học được coi là nền tảng.
Trong quá trình đổi mới phương pháp và nội dung dạy học ở bậc Tiểu học với
mục tiêu giáo dục toàn diện các em được học 9 môn học trong đó Tiếng Việt là môn
hết sức quan trọng.
Nhiệm vụ của môn Tiếng Việt ở Tiểu học là hình thành cho học sinh những kĩ
năng kĩ xảo sử dụng Tiếng Việt trong các hoạt động giao tiếp, kĩ năng đọc thông, viết
thạo.Trong đó phân môn tập đọc chiếm vị trí hết sức quan trọng giúp học sinh làm
quen với ngôn ngữ và các tác phẩm văn học. Tập đọc giúp học sinh rèn luyện, phát
triển kĩ năng nghe, nói, đọc, viết đồng thời tạo nên những rung cảm thẩm mĩ bồi
dưỡng giáo dục các em những tình cảm trong sáng tốt đẹp. Thông qua hoạt động đọc
mà mỗi người tiếp xúc với kho tàng tri thức của loài người, trình độ ngôn ngữ và khả
năng tư duy ngày càng phát triển. Tập đọc khẳng định sự hình thành và phát triển
một cách có hệ thống kế hoạch, năng lực đọc cho học sinh.
Văn học là một loại hình nghệ thuật lấy ngôn từ làm phương tiện mà tập đọc là
một phân môn của văn học ấy. tác phẩm văn học nói chung hay bài tập đọc nói riêng
luôn có khả năng tác động kì diệu đến đời sống tâm hồn con người, mở ra nhiều
chiều về đời sống xã hội phong phú và mang tính nhân văn sâu sắc. Song để học sinh
hiểu được tư tưởng tình cảm của của tác phẩm thì việc rèn kĩ năng đọc có ý nghĩa hết
sức quan trọng.
Song trên thực tế, công tác giáo dục tại các huyện vùng cao gặp rất nhiều khó
khăn trong công tác rèn kĩ năng đọc cho học sinh mà huyện Si Ma Cai là một điển
1



hình. Trong những khó khăn chung ấy, tại trường Tiểu học số 1 Sán Chải, tôi nhận
thấy việc nâng cao kĩ năng đọc cho học sinh là một yêu cầu cấp thiết để đạt được
những mục tiêu chất lượng nói chung và cũng là cái tâm huyết của mỗi giáo viên với
nghề, với học sinh nói riêng.
Trong thời gian qua, đề tài nghiên cứu về rèn kĩ năng đọc cho học sinh đã được
nhiều GV đưa ra bàn bạc, nhiều giải pháp đã được đưa ra nhưng ở mỗi đơn vị khác
nhau thì việc rèn kĩ năng đọc có những khó khăn khác nhau. Chúng ta cần nhiều hơn
những biện pháp cụ thể trong điều kiện thực tiễn tại đơn vị trường.
Ở các lớp 1, 2 việc đọc của học sinh chỉ dừng lại ở các kĩ năng đọc đúng, rõ
ràng, rành mạch các văn bản. Lên lớp 3, ngoài kĩ năng đọc trên học sinh cần bước
đầu có kĩ năng như đọc nhanh, đọc diễn cảm. Cụ thể học sinh phải đọc với tốc độ
nhanh hơn và phải bước đầu biết thể hiện được tình cảm, thái độ của tác giả cũng
như giọng điệu của nhân vật trong bài, phù hợp với thể loại và nội dung văn bản.
Trước tất cả những vấn đề đó, với những kinh nghiệm công tác của mình, tôi
mạnh dạn đưa ra “Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 3”

PHẦN NỘI DUNG
Chương I: Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Để làm chủ được công cụ ngôn ngữ một cách có hiệu quả, học sinh phải làm
chủ được mặt âm thanh của ngôn ngữ. Trong việc giáo dục ngôn ngữ cho học sinh ở
trường Tiểu học hiện nay, mặt âm thanh của tiếng mẹ đẻ chưa được chú ý đúng mức,
vì thế học sinh đọc và nói chưa tốt. Muốn có hiệu quả, việc rèn kĩ năng đọc, nói của
học sinh phải được tiến hành một cách có kế hoạch, đồng bộ, bắt đầu từ việc xác
2


định các mục tiêu luyện tập, xác định các nguyên nhân của tình trạng nói, đọc chưa
tốt hiện nay từ cả ba phía, cũng là ba nhân tố tham gia vào quá trình dạy học: Những
khó khăn của học sinh, những hạn chế của giáo viên và sự bất cập của các tài liệu
dạy học, từ đó xây dựng nội dung luyện tập, đề xuất các con đường, biện pháp kĩ

thuật luyện đọc, luyện nói cho học sinh cùng hệ thống bài tập tương ứng. Trong
khuôn khổ bài này tôi chỉ đưa ra một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp
4.
Trong thực tế, việc rèn kĩ năng đọc nói chung, hay đưa ra một phương pháp
giảng dạy thích hợp cho phân môn tập đọc ở Tiểu học còn rất nhiều vấn đề phải bàn.
Đặc biệt là đối với đối tượng học sinh vùng cao thì rèn kĩ năng đọc là một vấn đề nan
giải có tính chiều rộng, chiều sâu đòi hỏi sự cộng tác với các giải pháp mang tính
đồng bộ của tập thể, ban ngành giáo dục.
Môn tập đọc là một phân môn thực hành. Nhiệm vụ quan trọng nhất của nó là
hình thành năng lực đọc cho học sinh. Năng lực đọc được tạo nên từ bốn kĩ năng đọc
đúng, đọc nhanh, đọc hiểu và đọc diễn cảm. Bốn kĩ năng này được hình thành trong
hai hình thức đọc: Đọc thành tiếng và đọc thầm. Chúng được rèn luyện đồng thời và
hỗ trợ lẫn nhau. Vì vậy tổ chức dạy tập đọc cho học sinh là quá trình làm việc của
thầy và trò để thực hiện hai hình thức đọc này. Trong đó đọc thành tiếng là một hình
thức không thể thiếu được của dạy học này. Đối với học sinh đầu cấp thì đọc thành
tiếng còn là điều kiện cần thiết để rèn luyện tính tự giác trong quá trình đọc.
2. Thực trạng của vấn đề
Trường Tiểu học số 1 Sán Chải đóng trên địa bàn trung tâm xã Sán Chải có
nhiều điều kiện thuận lợi cho sự phát triển giáo dục. Nhiều năm qua trường nhận
được sự quan tâm giúp đỡ đặc biệt của chính quyền địa phương, Phòng GD&ĐT
trong công tác giáo dục. Năm 2010, trường được công nhận là trường Tiểu học đạt
chuẩn Quốc gia mức độ 1. Điều đó đặt mục tiêu nâng cao chất lượng giáo dục trong
đó có kĩ năng đọc của học sinh lên là vấn đề cấp thiết. Song việc nâng cao trình độ
đọc và kĩ năng đọc cho học sinh là một bài toán hết sức nan giải bởi lẽ.
2.1. Giáo viên
3


Giáo viên chưa có khả năng ngôn ngữ tiếng Mông. Đa số giáo viên đều là giáo
viên người Kinh ở vùng thấp lên công tác. Một bộ phận giáo viên chưa có hiểu biết

sâu sắc về ngôn ngữ, phong tục tập quán, văn hóa của người dân địa phương. Sự
khác biệt về ngôn ngữ tạo nên khoảng cách giữa giáo viên và học sinh. Giáo viên
không nắm được quy tắc phát âm và thói quen phát âm của học sinh.
Một số giáo viên chưa quan tâm sát sao đến việc rèn kĩ năng đọc của học sinh.
Phương pháp dạy học mang tính đại trà chung chung, các đối tượng học sinh yếu
chưa được phân loại để rèn với phương pháp cụ thể.
Một số giáo viên đã quan tâm nhưng quan tâm chưa đúng mức, chưa tìm ra
phương pháp phù hợp để rèn học sinh. Điều này thể hiện ở việc giáo viên thiếu kĩ
năng tổ chức dạy học, cân đối thời gian cần thiết cho từng hoạt động, chưa giao
nhiệm vụ cụ thể, vừa sức ... Song cũng phải kể đến nhiều nguyên nhân về áp lực thời
gian, đổi mới phương pháp, giáo dục toàn diện …, thời gian để rèn học sinh yếu hạn
chế, khả năng nhận thức của học sinh chậm. Việc rèn luyện đòi hỏi mất nhiều thời
gian. Giáo viên kiên trì và có kinh nghiệm công tác mới làm được.
Một số giáo viên hiểu chưa đúng, chưa sâu về phương pháp rèn kĩ năng đọc,
cách dạy học theo phương pháp truyền thống thiếu tính sáng tạo, khô khan cứng
nhắc, chủ yếu gọi đọc thông thường chưa sáng tạo trong cách rèn đọc, chưa chỉ ra
cho học sinh các kĩ năng cần thiết. Do đó biến môn tập đọc thành bộ môn nhàm
chán, không gây được hứng thú học tập cho học sinh.
Năng lực đọc của một số giáo viên còn hạn chế, một số giáo viên địa phương
còn nói ngọng, phát âm không chính xác dẫn đến việc truyền thụ kĩ năng đọc còn rất
hạn chế.
2.2. Học sinh
a/ Những khó khăn chung
100% học sinh là người Mông, trình độ ngôn ngữ phổ thông chỉ được đánh giá
ở mức độ giao tiếp sơ giản. Sự khác biệt về ngôn ngữ là khó khăn đầu tiên trong việc
rèn kĩ năng đọc.
4


Học sinh yếu kém về khả năng nhận thức. Đại đa số các em đều xuất thân từ gia

đình nông nghiệp, điều kiện kinh tế khó khăn, thiếu thốn không đảm bảo, chất lượng
cuộc sống ở mức độ rất thấp. Các em ít được tiếp xúc với văn hóa và các phương tiện
thông tin đại chúng, mức độ giao tiếp chỉ quanh quẩn trong thôn bản, gia đình, bạn
bè.
Học sinh không có được sự trợ giúp của gia đình trong học tập. Cụ thể đại đa số
bố mẹ các em không biết chữ. Nhiều gia đình không ý thức được sự cần thiết của
việc cho con em mình đi học. Tại gia đình các em không được quan tâm giúp đỡ về
việc học, không có góc học tập riêng. Việc học ở nhà không có, hoặc rất ít. Hơn nữa,
các em phải thường xuyên nghỉ học đi làm giúp gia đình. Điều này đặc biệt xảy ra
với học sinh lớp 4, 5.
Thói quen ngôn ngữ và đặc điểm tâm lý cố hữu của đa số học sinh là nhút nhát,
khả năng hàa nhập kém, lì, ít nói. Điều này hạn chế phần lớn đến việc tiếp thu kiến
thức của các em.
Mặt khác cũng do tư duy của học sinh tiểu học còn dừng lại ở mức độ tư duy
đơn giản trực quan nên việc cảm thụ văn học của học sinh còn gặp nhiều khó khăn.
Chất lượng cảm thụ văn học của học sinh chưa đồng đều dẫn đến chất lượng đọc
chưa cao.
b/ Thực trạng chất lượng học sinh
Trên cơ sở đó tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng học sinh. Đầu năm 2010 –
2011, tôi được nhà trường phân công dạy lớp 4A. Tổng số học sinh 23 học sinh. Tôi
đã tiến hành khảo sát và thu được kết quả như sau:

ng

1-2

%

3-4


%

§iÓm
5-6
%

7-8

%

9-10

%


häc
sin
5


h
23
5
22
10
5
Nhìn vào bảng thống kê thấy, tỉ lệ học sinh dưới trung bình chiếm 22% chủ yếu
do mắc phải các lỗi sai cơ bản sau:
Phát âm chưa chuẩn
+ Phát âm sai, chưa chuẩn các âm mở môi và không mở môi: am/an, các âm

tròn môi/ không tròn môi: an/ang, iên/ uyên, ai/ay, ua/ uơ.
+ Phát âm sai các âm chính tả: l/n, ch/tr, s/x, r/d/gi
+ Không phân biệt được dấu ngã/ dấu hỏi.
Đọc chậm:
+ Học sinh đọc chậm tốc độ đọc khoảng 20 tiếng/ phút
Đọc hiểu:
+ Khả năng cảm thụ tác phẩm của học sinh thấp.
Đọc chưa diễn cảm:
+ Học sinh chưa thể hiện được sắc thái giọng đọc
+ Học sinh chưa ngắt giọng đúng
+ Học sinh có tốc độ đọc chưa chuẩn
+ Học sinh có ngữ điệu đọc chưa đúng.
+ Học sinh chưa biết nhấn giọng khi đọc các từ gợi cảm
+ Học sinh còn rụt rè, nhút nhát, đọc nhỏ, ê a.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Để nâng cao chất lượng đọc cho học sinh đòi hỏi người giáo viên phải kiên trì
bền bỉ thực hiện từng bước một vì đây là công việc hết sức khó khăn. Tôi đã tiến
hành các biện pháp sau:
I/ Nhóm giải pháp về tâm lý
Để rèn kĩ năng đọc tốt trước tiên người giáo viên phải truyền cho học sinh được
tâm lý yêu thích môn tập đọc, thích đọc, thích thể hiện mình. Vì vậy nhóm giải pháp

6


này nhằm tìm ra cách kích thích tâm lí, tạo ra tâm lí hứng khởi cho học sinh trong
việc tiếp thu bài học.
1. Tạo hứng thú học tập cho học sinh:
Có nhiều hình thức để giúp học sinh say mê hứng thú trong học tập. Tôi luôn
tìm tòi các hình thức để thay đổi trong mỗi giờ tập đọc, tạo cho học sinh những cảm

hứng bất ngờ từ đó học sinh hứng thú hơn với bài đọc. Những hình thức tạo hứng thú
học tập cho học sinh thường được tôi áp dụng là:
• Giới thiệu bài hấp dẫn:
Cách giới thiệu bài hấp dẫn sẽ giúp học sinh có nhiều hứng thú hơn trong giờ
tập đọc vì các em rất tò mò, ham tìm hiểu. Để tránh sự đơn điệu trong giới thiệu
bài, mỗi bài tôi lại có cách giới thiệu khác nhau:
+ Giới thiệu bài bằng lời nói một cách hấp dẫn:
Ví dụ: Khi học bài: “Bốn anh tài” (Tiếng Việt 4, tập 2) tôi có thể giới thiệu bài
như sau: “Các em ạ! Trong bài tập đọc hôm nay, các em sẽ được biết cuộc đọ sức
giữa 4 thiếu niên và một con yêu tinh hung dữ, nhiều phép thuật. Họ đã làm như thế
nào để thắng được một con yêu tinh hung dữ kia. Cô mời các em theo dõi nội dung
bài tập đọc “Bốn anh tài”.
+ Giới thiệu bài bằng lời nói kết hợp sự hỗ trợ của đồ dùng trực quan như tranh,
ảnh, băng, đĩa …
Ví dụ: Khi dạy bài “Cánh diều tuổi thơ” của nhà thơ Tạ Duy Anh (Tiếng Việt 4,
ập 1) tôi cho học sinh nghe băng bài hát “Cánh diều mơ ước” sau đó giới thiệu: Tuổi
thơ thường gắn với biết bao ước mơ, hoài bão tốt đẹp. Trò chơi thả diều đem lại niềm
vui cho lũ trẻ mục đồng như thế nào? Chúng ta cùng theo dõi, tìm hiều điều đó qua
bài tập đọc “Cánh diều tuổi thơ”.
* Đọc mẫu của giáo viên:
Cách đọc mẫu diễn cảm hấp dẫn của giáo viên cũng khiến học sinh rất hứng thú
với bài tập đọc vì vậy tôi luôn cố gắng đọc mẫu sao cho thật hấp dẫn để lôi cuốn các
em đến với bài học một cách tự nhiên.
7


Ví dụ khi dạy bài “Tuổi ngựa” của Xuân Quỳnh (Tiếng Việt 4, tập 1) tôi gợi cho
học sinh tưởng tượng mình là cậu bé trong bài được ngồi trên lưng ngựa bay qua
những miền trung du bạt ngàn, những thảo nguyên xanh mênh mông, những cánh
đồng đầy hoa thơm, quả ngọt, … để học sinh có hứng thú, cảm giác lâng lâng khi

được bay đến những vùng đất lạ. Từ đó học sinh hào hứng với bài tập đọc và tìm
hiều nội dung bài.
* Đổi mới phương pháp dạy học
Mặt khác để tạo hứng thú học tập cho học sinh tôi đã áp dụng đổi mới phương
pháp dạy học luôn thiết kế các hoạt động nhóm với cách chia nhóm linh hoạt, biểu
tượng nhóm hấp dẫn, thiết kế các trò chơi học tập phù hợp để tạo hứng thú học tập
cho học sinh.
Sau đây tôi xin giới thiệu một số trò chơi vận động đơn giản trong lớp học,
nhằm giảm bớt sự căng thẳng, mệt mỏi mà tăng thêm hiệu quả học tập của học sinh
như:
Ngoài ra giáo viên cần có biện pháp cụ thể đối với những học sinh ít nói, lười
phát biểu. Giáo viên quan tâm nhiều hơn với các học sinh yếu, gọi đọc bài nhiều lần
với những nội dung ngắn. Đưa câu hỏi tìm hiểu bài phù hợp với trình độ học sinh.
Cụ thể tôi đã đi sâu vào bài, chẻ nhỏ các câu hỏi SGK thành các câu hỏi nhỏ, dễ hơn
cho học sinh hiểu.
* Quan tâm đến thời lượng các hoạt động, đặc biệt là hoạt động đọc không qua
kéo dài sẽ tạo tâm lý nhàm chán.
* Quan tâm đến thái độ học tập của học sinh. Khi giáo viên quan sát thấy học
sinh trầm, mệt mỏi thì cần kích thích tâm lí ngay bằng trò chơi, văn nghệ,
* Sử dụng đô dùng trực quan sinh động hấp dẫn
Các bai tập đọc có thể tim thấy đô dung sử dụng của thư viện la?
Các bai tập đọc có thể tự thiết kế đô dung đơn giản la?
Dẫn chứng cụ thể?
2. Tạo động lực học tập cho học sinh khi đọc bài
8


Để tạo động lực học tập cho học sinh, giáo viên chỉ cần có những cách hết sức
đơn giản như:
Sử dụng ngôn ngữ khích lệ, luôn ngợi khen khi học sinh làm tốt yêu cầu.

Hướng cho học sinh đặt ra mục tiêu lớn khi học môn tập đọc bằng cách nêu các
tấm gương điển hình về kĩ năng đọc tốt. Có thể cho học sinh nghe các giọng đọc hay
qua băng, đĩa.
Chấm điểm cao khi học sinh đọc tốt.
Thường xuyên tổ chức thi đọc giữa 2 học sinh có trình độ tương đương.
II/ Nhóm giải pháp về kĩ thuật
Môn tập đọc ở lớp 4 phải rèn luyện được cho học sinh 4 kĩ năng đọc. Đó là đọc
đúng, đọc nhanh, đọc hiểu và đọc diễn cảm.
1. Luyện đọc đúng
Đọc đúng là yêu cầu học sinh phát âm chính xác tiếng, vần, thanh, âm chính tả.
Đây là một kĩ năng tương đối khó với học sinh vùng cao, do thói quen phát âm tiếng
địa phương của các em. Đọc đúng giúp học sinh hiểu chính xác nghĩa của từ, là khâu
quan trọng nhất trong việc rèn luyện kĩ năng đọc cho học sinh.
Muốn đọc đúng thi trước hết giáo viên phải luyện phát âm đúng cho học sinh.
Muốn vậy, trước hết và thực chất phải giải quyết vấn đề phương ngữ. Giáo viên phải
phân biệt được lỗi sai của học sinh bắt nguồn từ đâu? Từ đó xác định và đưa vào 2
nhóm: Nhóm lỗi sai do kĩ thuật phát âm và nhóm lỗi sai do biến thể phương ngữ.
Sai do kĩ thuật phát âm chủ yếu là do học sinh đã không biết cách điều chỉnh
khẩu hình miệng, đầu lưỡi, môi, răng, … trong từng trường hợp cụ thể.
Sai do biến thể phương ngữ xuất phát từ thói quen phát âm tiếng dân tộc. Điều
này thể hiện rõ nhất ở việc học sinh không phân biệt được dấu hỏi/ dấu ngã.
Khi sửa lỗi phát âm cho học sinh giáo viên phải mềm dẻo, linh hoạt, lựa chọn
chuẩn phát âm nào gần nhất với giọng địa phương của học sinh từ đó đối chiếu với
cách phát âm theo phương ngữ còn điểm nào sai lạc.
Nói chung, khi nói tiếng Việt học sinh thương phát âm sai ở 3 phần: phụ âm
đầu, phần vần và thanh điệu. Học sinh thường phát âm sai do: bỏ âm (Ví dụ: “hoa”
9


nói thành “ho”), thay thế thành các âm khác (Ví dụ: “tai” nói thành “kai”).

Học sinh tạo âm sai do không làm được một trong ba yếu tố sau:
1/ Đặt đúng vị trí của các cơ quan phát âm tham gia tạo nên âm đó.
2. Tạo luống hơi chính xác
3. Phối hợp được đặt vị trí đúng và đẩy hơi để phát tiếng.
Chúng ta đi khái quát các bước để tạo nên một âm đúng theo nguồn tài liệu Kĩ thuật
phát âm chuẩn tiếng Việt.
I Các bước để tạo nên một nguyên âm đúng.
1. Nguyên âm “A”

- Miệng há to, lưỡi nằm ngang trong khoang Miệng
- Đưa hơi lên khoang miệng
- Bật hơi và phát tiếng (sở lên cổ thấy rung, để mu Bàn tay gần miệng thấy hơi thở
ra ấm và nhẹ)
2. Nguyên âm “U”

10


- Môi dô nhiều ra phía trước, hai môi sát gần nhau tạo thành một lỗ hẹp.
- Lưỡi đẩy lùi về phía sau, mặt lưỡi sau nâng cao gần với ngạc mềm. đưa hơi lên
khoang miệng - Bật hơi và phát tiếng (rung ở hầu và ngực)
3. Nguyên âm “O”

- Môi tròn, hơi đưa về phía trước. độ mở miệng nhỏ hơn khi phát âm “a”. lưỡi hơi
đưa về phía sau, mặt lưỡi sau nâng lên
- Đưa hơi lên khoang miệng
- Bật hơi phát tiếng (rung ở hầu; luồng hơi đi ra từ miệng nhẹ, ấm)
4. Nguyên âm “I”

- Môi căng ra giống như khi mỉm cười. đầu lưỡi tì mạnh vào hàm dưới.

- Đưa hơi lên khoang miệng
- Bật hơi phát tiếng (có thể nhận thấy cảm giác rung ở hầu, rung ở đầu và sự căng
của các cơ hàm dưới ở khoang miệng)
5. Nguyên âm “E”

11


- Môi trùng, mép hơi kéo sang hai bên. đầu lưỡi tỳ vào hàm dưới, hai mép bên của
lưỡi tỳ vào hàm trên (vùng răng hàm)
- Đưa hơi lên khoang miệng
- Bật hơi phát tiếng (rung ở hầu)
II. Các bước để tạo nên một phụ âm đúng:
1. Phụ âm “b”

:
- Hai môi chạm vào nhau.
- Không đưa hơi thoát lên mũi, giữ hơi trong khoang miệng.
- Mở miệng, bật mạnh hơi phát tiếng.
2. Phụ âm “m”

12


- Hai môi chạm nhẹ vào nhau.
- Đưa hơi thoát lên mũi (nếu chạm vào mũi thấy có sự rung nhẹ).
- Mở miệng phát tiếng.
3. Phụ âm “ph”

- Răng hàm trên cắn nhẹ vào môi dưới.

- Đẩy nhẹ hơi ra ngoài, tạo ra tiếng “phì” kéo dài.
- Há miệng và bật hơi ra (chú ý: âm “phì” kéo dài liền với việc phát tiếng, không
được đứt quãng).
4. Phụ âm “v”

13


- Răng hàm trên cắn nhẹ vào môi dưới.
- Đẩy nhẹ hơi ra ngoài, (chạm tay vào cổ để thấy có sự rung nhẹ khi đẩy hơi).
- Há miệng và bật hơi ra.
5. Phụ âm “t”

- Đầu lưỡi đẩy vào răng.
- Không đưa hơi thoát lên mũi để tạo một khoang miệng kín, tập trung hơi ở miệng.
- Đẩy lưỡi vào răng và bật mạnh hơi.
6. Phụ âm “th”
- Đầu lưỡi chạm vào răng trên (giống như âm “t”)
- Giữ hơi trong khoang miệng.
- Đẩy lưỡi vào răng và thổi nhẹ hơi ra ngoài (có thể đưa tay lên miệng để cảm nhận
luồng hơi thoát ra).
7. Phụ âm “đ”

14


- Đầu lưỡi chạm vào chân răng trên.
- Chạm nhẹ tay vào cổ thấy có sự rung nhẹ.
- Đẩy nhẹ lưỡi vào chân răng, hạ lưỡi xuống và phát tiếng.
8. Phụ âm “n”


- Đầu lưỡi chạm vào chân răng trên.
- Đưa hơi thoát lên mũi (nếu chạm tay vào mũi thấy có sự rung nhẹ).
- Bật lưỡi và phát tiếng.
9. Phụ âm“s”

15


- Cắn nhẹ hai hàm răng vào nhau.
- Tạo một âm “sì” kéo dài.
- Há miệng và phát tiếng (chú ý âm “sì” kéo dài liền với việc phát tiếng, không được
đứt quãng)
. 10. Phụ âm “d”

- Hai hàm răng cắn nhẹ vào nhau.
- Tạo âm “gì” kéo dài (chạm tay vào cổ thấy có sự rung nhẹ)
- Mở miệng và phát tiếng (chú ý: âm “gì” kéo dài liền với việc phát tiếng, không
được đứt quãng)
11. Phụ âm “ch”

16


- Mặt lưỡi chạm lên vòm miệng, đầu lưỡi chạm nhẹ vào răng dưới.
- Giữ hơi trong khoang miệng.
- Bật mạnh mặt lưỡi vào vòm miệng và phát tiếng.
12. Phụ âm “k, c, qu”

- Gốc lưỡi chạm lên vòm miệng.

- Giữ hơi trong miệng.
- Hạ lưỡi xuống, đẩy mạnh hơi phát tiếng
13. Phụ âm “ng”

17


- Gốc lưỡi chạm nhẹ lên vòm miệng.
- Đưa hơi thoát lên mũi (nếu chạm tay vào mũi thấy có sự rung nhẹ).
- Bật lưỡi và phát tiếng
14. Phụ âm “x”

- Hai môi có chiều hướng căng ra như muốn cười và tì sát vào hàm răng. đầu lưỡi tì
vào đỉnh đầu răng của hàm dưới.
- Hơi đưa lên khoang miệng, tạo âm “xì” kéo dài
- Bật hơi và phát tiếng
15. Phụ âm “kh”

18


- Gốc lưỡi chạm nhẹ lên vòm miệng (giống như âm “g”)
- Tạo âm “khừ…” trong miệng.
- Bật hơi và phát tiếng (chú ý: âm “khừ” kéo dài liền với việc phát tiếng, không
được đứt quãng)
16. Phụ âm “g”

- Gốc lưỡi chạm nhẹ lên vòm miệng.
- Tạo âm “gừ…” trong miệng (chạm tay vào cổ thấy có sự rung nhẹ).
- Bật hơi và phát tiếng (chú ý: âm “gừ” kéo dài liền với việc phát tiếng, không được

đứt quãng).
17. Phụ âm “l”

19


- Đầu lưỡi chạm lên vòm miệng.
- Đẩy hơi qua miệng, không đưa hơi lên mũi.
- Bật lưỡi vào vòm miệng và phát tiếng.
18. Phụ âm “nh”
- Đầu lưỡi chạm nhẹ vào hàm răng dưới, mặt lưỡi chạm nhẹ lên vòm trên (giống
như âm “ch”).
- Đưa hơi thoát lên mũi (nếu chạm tay vào mũi thấy có sự rung nhẹ).
- Mở miệng, hạ lưỡi xuống và phát tiếng.
19. Phụ âm “h”
- Há miệng.
- Đẩy hơi qua miệng (có thể cảm nhận luồng hơi qua lòng bàn tay).
- Phát tiếng (chú ý: đẩy hơi kéo dài liền với việc phát tiếng, không được đứt quãng)
Từ cơ sở trên giáo viên, tôi nhận thấy học sinh mắc phải những lỗi sai chủ yếu
sau:
a/ Phát âm không chuẩn vần chủ yếu rơi vào các trường hợp:
* Không phân biệt được các âm mở môi và không mở môi
Giáo viên cần đọc mẫu chuẩn, thể hiện chính xác cơ mặt, khẩu hình miệng, môi,
yêu cầu học sinh quan sát, nhận xét. Từ đó giáo viên yêu cầu học sinh đọc theo mình.
Cụ thể khi đọc các vần: an, on, un, ưn, ơn, ôn, khẩu hinh miệng mở theo chiều
dọc, luồng hơi đi ra trực tiếp, môi không khép.
Khi đọc các âm am, om, um, ưm, ơm, ôm, khẩu hình miệng mở theo chiều
dọc, luồng hơi đi ra trực tiếp, môi khép.
* Học sinh chưa biết điều chỉnh độ tròn môi


20


Khi đọc các vần ua/uơ, iên/ uyên, uya, eo/oe, ao/oa … giáo viên cần hướng
dẫn học sinh điều chỉnh độ tròn môi để phát âm chính xác. Ví dụ khi đọc tiếng hoa
phải đọc tròn môi, khi đọc tiếng hao đọc không tròn môi
* Học sinh chưa biết cách điểu chỉnh, thay đổi độ rộng của khẩu hình miệng
Khi đọc các vần an/ang, ân/âng, on/ong, ôn/ông, un/ung, ưn/ ưng giáo viên
cân hướng dẫn học sinh thay đổi độ rộng của khẩu hình miệng. Ví dụ như đọc tiếng
con khẩu hình miệng mở vừa phải, khi đọc tiếng cong khẩu hình miệng mở to theo
chiều dọc.
Khi đọc các vần ai/ay, giáo viên cần hướng dẫn học sinh thay đổi cách mở khẩu
hình miệng như: ai – khẩu hình miệng mở theo chiều dọc, ay – khẩu hình miệng mở
theo chiều ngang. Từ đó cho học sinh luyện đọc các tiếng chứa 2 vần đó.
b/ Phát âm không chuẩn phụ âm chủ yếu rơi vào các trường hợp
* Không phân biệt được âm l/n
Đây là lỗi sai phổ biến không chỉ xảy ra với học sinh mà cả giáo viên cũng phát
âm chưa chính xác. Phát âm sai l/n chủ yếu thuộc 3 lỗi sau:
+ Phát âm lẫn lộn giữa l /n (lúc phát âm l thanh n và ngược lại)
+ Chuyển thành một cách phát âm duy nhất (Hoặc chỉ phát âm n, hoặc chỉ phát
âm l)
+ Loại thứ ba xảy ra với cả những người đã có ý thức phát âm đúng như giáo
viên nhưng do câu từ có chứa nhiều tiếng có phụ âm đầu l va n xen lẫn nhau, khi
phát âm phụ âm đầu của tiếng thứ hai thường bị phát âm lẫn với phụ âm đầu của
tiếng thứ nhất.
Để điều chỉnh được lỗi sai này yêu cầu giáo viên phải nắm được kĩ thuật phát
âm hai phụ âm l/n như sau:
Trong tiếng Việt có 2 loại phụ âm là phụ âm tắc và phụ âm xát
Phụ âm tắc là phụ âm mà khi phát âm luồng hơi tư phổi đi qua các khoang bị
cản hoàn toàn ở một vị trí nào đó (phụ âm n thuộc nhóm này).

Phụ âm xát là phụ âm mà khi phát âm luồng hơi từ phổi đi qua các khoang phát
âm không bị cản hoàn toàn, có một khe hở nhỏ ở một vị trí nào đó để luồng hơi đi
qua một cách dễ dàng. (Phụ âm l thuộc nhóm này)
21


+ Vê cách luyện phát âm và vị trí phát âm
/n/ là phụ âm tắc, vang, đầu lưỡi răng
Trước khi phát âm đầu lưỡi đặt ở mặt sau của răng làm điểm cản hoàn toàn.
Luồng hơi đi ra tử phổi qua khoang miệng, sau bật lưỡi ra, lưỡi thẳng, đầu lưỡi hơi
tụt lại, tạo thành âm nờ (trong quả na, nóng bức, hôm nay)
/l/ là phụ âm xát, vang bên, đầu lưỡi - quặt.
Trước khi phát âm đầu lưỡi đặt ở vị trí lợi hàm trên làm điểm cản một phần
luồng hơi đi ra từ phổi qua khoang miệng, thoát ra hai bên cạnh của lưỡi, đầu lưỡi
cong lên, lưỡi chuyển động theo chiều đi xuống tạo thành âm lờ (Trong la đà, lóng
lánh, lay động)
Nắm được phương pháp luyện phát âm đó giáo viên cho học sinh luyện cho học
sinh đọc đúng các từ có chứa phụ âm n/l trong bài tập đọc. Nếu học sinh bị ngọng
nặng hơn giáo viên có luyện cho học sinh bằng các hình thức khác như:
Luyện phát âm bằng cách tìm hiểu nghĩa của từ để cho học sinh khắc sâu vào trí
nhớ. Giáo viên mở từ điển Tiếng Việt đọc lần lượt các từ có phụ âm đầu n/l. Giáo
viên yêu cầu học sinh đọc so sánh nghĩa những từ có phụ âm đầu giống nhau.
Ví dụ: La (nốt nhạc) – na (cây ăn quả), lo (trạng thái tâm lí lo lắng điều gì đó) –
no (Cảm giác trong ăn uống) …
Sau đó, giáo viên yêu cầu học sinh nhớ nghĩa, viết lại, đặt câu có chứa từ đó và
nhẩm đọc. Giáo viên cần chú ý sửa lỗi phát âm cho học sinh trong tất cả các tiết học,
môn học, cách nói chuyện hàng ngày mới đạt hiệu quả cao.
Ngoài ra giáo viên có thể luyên phát âm bằng cách giao cho học sinh luyện đọc
các bài thơ, văn, kể chuyện có chứa phụ âm n/l. Kiểm tra điều chỉnh thường xuyên,
liên tục.

* Không phân biệt được các phụ âm đâu ch/tr, s/x, r/d/gi
a/ Phân biệt phụ âm ch/ tr
Giáo viên cần đọc mẫu một cách chuẩn xác các tiếng có chứa phụ âm đầu ch/
tr. Sau đó cho học sinh phân biệt sự khác nhau giữa hai cách đọc.
* Cách đọc âm ch: Âm ch là âm đầu lưỡi, vòm cứng. Khi đọc âm ch đọc như
sau:
22


- Mặt lưỡi chạm lên vòm miệng, đầu lưỡi chạm nhẹ vào răng dưới.
- Giữ hơi trong khoang miệng.
- Bật mạnh mặt lưỡi vào vòm miệng và phát tiếng.
* Cách đọc âm tr :Âm tr là âm đầu lưỡi cong, vom cứng.Khi đọc âm tr đọc
như sau:
- Mặt lưỡi chạm lên vòm miệng, đầu lưỡi cong chạm vào hàm trên
- Giữ hơi trong vòm miệng.
- Bật mạnh lưỡi vào vòm miệng và phát tiếng.
Sau đó giáo viên cho học sinh đọc, luyện các tiếng giống nhau có chứa phụ âm
đầu ch/tr phân biệt nhiều lần.
Ví dụ: con trâu/ châu báu, anh trai/ cái chai, …
b/ Phân biệt phụ âm x/s
* Âm x: Là âm đầu lưỡi, hàm răng khít. Đọc âm x như sau:
- Hai môi có chiều hướng căng ra như muốn cười và tì sát vào hàm răng, đầu
lưỡi tì vào đỉnh đầu răng của hàm dưới.
- Hơi đưa lên khoang miệng, tạo âm “xì” kéo dài.
- Bật hơi và phát tiếng.
* Âm s: Là âm đầu lưỡi cong, vòm cứng. Khi đọc âm s đọc như sau:
- Cắn nhẹ hai hàm răng vào nhau.
- Tạo một âm “sì” kéo dài.
- Há miệng và phát tiếng (chú ý âm “sì” kéo dài liền với việc phát tiếng không

đứt quãng).
Giáo viên đọc mẫu âm s và x thật chuẩn xác. Học sinh lắng nghe, phân biệt sự
khác nhau giữa hai cách đọc. Sau đó, giáo viên liệt kê các tiếng giống nhau có chứa
phụ âm đầu s/x yêu cầu học sinh luyện đọc và hiểu nghĩa.
Ví dụ: học sinh/xinh xắn, xâu kim/ con sâu, …
c/ Phân biệt phụ âm d/gi/r
* Âm d: Là âm lưỡi bẹt, vòm cứng. Cách đọc âm d như sau:
- Hai hàm răng cắn nhẹ vào nhau.
- Tạo âm “gì” kéo dài (chạm tay vào cổ thấy có sự rung nhẹ)
- Mở miệng và phát tiếng (chú ý: âm “gì” kéo dài liền với việc phát tiếng,
không được đứt quãng)
* Âm r: Là âm đầu lưỡi rung, vòm cứng. Cách đọc âm r như sau:
- Hai hàm răng cắn nhẹ vào nhau.
- Đầu lưỡi cong, chạm hàm trên.
- Mở miệng và phát tiếng tạo âm “gì”kéo dài, (chạm tay vào cổ thấy có sự rung
mạnh).
* Âm gi: Là âm đầu lưỡi bẹt, vòm cứng. Cách đọc âm gi giống như cách đọc
âm d nhưng tiếng “gì” kéo dài hơn.
Giáo viên đọc mẫu âm d, r, gi thật chuẩn xác. Học sinh lắng nghe, phân biệt sự
khác nhau giữa hai cách đọc. Sau đó, giáo viên liệt kê các tiếng có chứa phụ âm đầu
r/d/gi yêu cầu học sinh luyện đọc và hiểu nghĩa.
Ví dụ: giết giặc, da diết, da dẻ, rũ rượi, giảm giá, rung rinh, …
23


* Không phân biệt được dấu hỏi dấu ngã
Đây là lỗi sai chịu ảnh hưởng của phương ngữ. 95% học sinh của lớp tôi đều
mắc phải lỗi phát âm không phân biệt được dấu hỏi/ dấu ngã. Điều này giống như
người miền Nam nói tiếng phổ thông. Để sửa được lỗi sai này đỏi hỏi người giáo
viên phải hết sức kiên trì. Lỗi này chủ yếu sửa bằng phương pháp giáo viên đọc mẫu,

học sinh sửa theo và phải luyện thường xuyên liên tục.
2. Luyện đọc nhanh
Đọc nhanh yêu cầu học sinh phải đọc được tốc độ tối đa theo quy định của
chuẩn kiến thức kĩ năng lớp 4 ? Song, đọc nhanh yêu cầu học sinh phải thuần thục kĩ
năng đọc đúng. Khi học sinh đọc đúng tốt, học sinh sẽ xử lý nhanh con chữ bằng
mắt. Đọc nhanh thể hiện năng lực đọc ở trình độ cao.
a/ Chuẩn bị
Để học sinh đọc nhanh hơn trước hết giáo viên phải giúp học sinh làm các việc
sau:
+ Xác định mục tiêu đọc ở mức độ nào?
+ Xác định rõ thời gian học sinh có để đọc xong bài.
+ Điều chỉnh tư thế ngồi đọc, khoảng cách giữa mắt và sách theo đúng quy định.
b/ Bí quyết đọc nhanh
Để học sinh đọc nhanh hơn, giáo viên phải nắm được bí quyết để đọc nhanh.
Tôi đã nghiên cứu và đã áp dụng bí quyết đọc nhanh như sau:
Theo nguồn tài liệu từ cuốn sách “Tôi tài giỏi bạn cũng thế” của mắt con
người có khả năng quét 3,81 cm/ 1 lần tương đương với 4 đến 5 từ. Như vậy kĩ thuật
đọc nhanh liên quan đến kĩ thuật luyện mắt. Chúng ta dạy học sinh cách luyện mắt
bằng cách đưa mắt quét theo đường ngang từ trái sang phải, học sinh không cần phải
đọc chính xác tất cả các từ khi mắt đặt đến nhưng điều học sinh học được là kĩ thuật
đưa mắt. Khi bắt đầu một trang sách học sinh biết nhìn một cách tổng thể, biết linh
hoạt trong chuyển động mắt.
Sau khi đã học được kĩ thuật đưa mắt, giáo viên bắt đầu điều chỉnh tốc độc đọc
của học sinh băng cách như sau:
Mỗi học sinh chuẩn bị một cây bút chì để chỉ chữ trong bài đọc. Học sinh cầm
đầu bút chi di chuyển ngang theo một đường thẳng, không nhấc bút. Khi bút chì chỉ
24


đến đâu học sinh đọc bằng mắt từ đó (chú ý không đọc thầm). Từ đó giáo viên yêu

cầu học sinh tăng tốc độ di chuyển bút chì. Khi bút chì di chuyển nhanh hơn, mắt bắt
buộc phải đưa theo nhanh hơn. Học sinh di chuyển bút nhanh sao cho các chữ khi
bút chì chạm đến học sinh đều đọc bằng mắt được. Giáo viên có thể thay bút chì
bằng thước kẻ hay các vật dụng khác có chiều dài tương tự, nếu có gắn thêm vật có
màu sắc ở đầu bút thì càng hiệu quả trong việc tăng sự chú ý của mắt.
Hinh ảnh minh họa
c/ Xóa bỏ những thói quen không tốt
Để đọc nhanh hơn giáo viên cân luyện cho học sinh xóa bỏ những thói quen
sau:
Môn tập đọc ở Tiểu học thương luyện cho học sinh kĩ năng đọc thanh tiếng, đọc
thâm va trả lơi câu hỏi hay đọc hiểu. Khi đọc thanh tiếng, học sinh có thói quen đọc
to các chữ va thương kéo dai âm thanh khi đọc. Khi đọc thâm các em thương có thói
quen đọc nhẩm rôi lắng nghe âm thanh trong đâu. Chính thói quen nay đã lam giảm
tốc độ đọc của học sinh. Kĩ thuật đọc nhanh yêu câu giáo viên giúp học sinh xóa bỏ
thói quen nay. Đọc nhanh la đọc băng mắt. Khi học sinh có thói quen đọc băng mắt
nhanh. Khi yêu cẩu đọc thanh tiếng học sinh sẽ điêu chỉnh được âm lượng phát ra
ngắn gọn, chính xác, rõ rang hơn.
Thứ hai la thói quen đọc “nháy” lại. Thói quen nay được hinh thanh khi giáo
viên luyện kĩ năng đọc đúng. Học sinh thương có thói quen nhin đi nhin lại những
chữ vưa đọc xem có chính xác không, dưng lại ở mỗi chữ quá lâu lam mất thơi gian,
hiệu quả đọc nhanh thấp. Vi vậy luyện đọc nhanh trước tiên phải luyện đọc đúng.
Giáo viên phải thực hiện tưng bước một cách kiên tri mới thu được hiệu quả.
d/ Đọc nhanh liên quan đến kĩ năng đưa ra yêu cầu của giáo viên
Giáo viên phải có kĩ năng đưa ra yêu cầu rõ ràng, chính xác. Khi giáo viên đưa
ra yêu cầu không rõ ràng, dứt khoát, hiệu quả hoạt động thấp. Nếu yêu cầu của giáo
viên như một động lệnh, có thời gian lập tức thu được mức độ tập trung của học sinh.
Cụ thể tôi xin đưa ra ví dụ khi đưa ra yêu cầu luyện đọc nhanh như sau:
Ví dụ: Khi giáo viên nói: “Các em cần đọc nhanh lên”, “Các em hãy đọc
nhanh”, “đọc nhanh lên nào…” Những yêu cầu này nếu được nói ra bằng những âm
thanh đều đều thì hiệu quả tập trung của học sinh là rất thấp. Nhưng khi giáo viên đặt

25


×