Tải bản đầy đủ (.docx) (55 trang)

NGHIÊN cứu môi TRƯỜNG NUÔI cấy IN VITRO cây NHÀU (morinda citrifolia l )

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.64 MB, 55 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

JULY SENGMANIVONG

NGHIÊN CỨU MÔI TRƯỜNG NUÔI CẤY IN VITRO
CÂY NHÀU (Morinda Citrifolia L.)

LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC

THÁI NGUYÊN, NĂM 2019

1


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

JULY SENGMANIVONG

NGHIÊN CỨU MÔI TRƯỜNG NUÔI CẤY IN VITRO
CÂY NHÀU (Morinda Citrifolia L.)

Ngành: Sinh học thực nghiệm
Mã số: 8 42 01 14

LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THỊ THU NGÀ

THÁI NGUYÊN, NĂM 2019



2


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn: “Nghiên cứu môi trường nuôi cấy in vitro
cây Nhàu (Morinda Citrifolia L.)” là công trình nghiên cứu của tôi. Mọi kết
quả được liệt kê trong luận văn là kết quả tôi thu được, hoàn toàn không sao
chép bất kì kết quả nào của các bài luận văn đã có trước đây. Về những tài liệu
tham khảo đều có trích dẫn đầy đủ trong bài luận văn.
Thái Nguyên, tháng 05 năm 2019
Tác giả luận văn

July SENGMANIVONG

Xác nhận của BCN Khoa Sinh học

Xác nhận của cán bộ hướng dẫn

PGS.TS. Nguyễn Thị Tâm

TS. Nguyễn Thị Thu Ngà

3


LỜI CẢM ƠN
Đầu tiên tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Nguyễn Thị Thu
Ngà người đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo và tạo mọi điều kiện, giúp đỡ tôi
trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn.

Thứ hai tôi xin được cảm ơn các thầy giáo, cô giáo thuộc khoa Sinh học,
bộ phận Sau đại học của Phòng Đào tạo, Trường Đại học Sư phạm - Đại học
Thái Nguyên đã nhiệt tình giảng dạy và tạo mọi điều kiện cho tôi hoàn thành
khóa học.
Tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành tới cô Trần Thị Hồng , cán bộ
phòng thí nghiệm Công nghệ tế bào, Khoa Sinh học, Trường Đại học Sư phạm
- Đại học Thái Nguyên đã giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi tiến hành luận văn
này.
Cuối cùng, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới người thân trong
gia đình, đồng nghiệp và bạn bè đã tạo điều kiện, giúp đỡ và động viên tôi
trong suốt thời gian học tập.
Thái Nguyên, tháng 05 năm 2019
Tác giả luận văn

July SENGMANIVONG

MỤC LỤC

4


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
2,4-D

: 2,4D-Dichlorophenoxy Acetic Acid

BAP

: 6-Benzyl Amino Purin


BTĐ

: Bệnh tiểu đường

Cs

: Cộng sự

CT

: Công thức

CTN

: Cao trái Nhàu

CY

: Cyclophosphamid

DPPH

: 2,2-diphenyl-1-picrylhydrazy

ĐC

: Đối chứng

ĐTĐ


: Đái tháo đường

GA3

: Gibberellin

IAA

: Indoly Acetic Acid

IBA

: Indoly Butyric Acid

Kinetin

: 6-furturylamino purine

KT

: Khử trùng

MS

: Murashige - Skoog (1962)

NAA

: α - Napthalen Acetic Acid


NJ

: Noni Juice

TNJ

: Tahitian Noni Juice

OA

: Ovalbumin + Al(OH)3

DANH MỤC CÁC BẢNG

DANH MỤC CÁC HÌNH

5


6


MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Trong những thập niên gần đây, nhờ ứng dụng khoa học kỹ thuật trong
nghiên cứu, khai thác nguồn dược liệu đã có nhiều bước tiến đáng kể, góp phần
nâng cao hiệu quả điều trị, hiệu quả kinh tế. Tuy nhiên cùng với điều đó, nguồn
tài nguyên cũng cạn kiệt dần. Vì vậy, sử dụng hợp lý và tìm nguồn dược liệu
mới, dược liệu thay thế là hết sức cần thiết.
Cây Nhàu thuộc họ Coffee Rubiaceae là giống cây dược liệu quý được

trồng khá phổ biến và cũng là cây dược liệu có nhiều ứng dụng trong y học cổ
truyền của dân tộc Lào và nhiều nơi trên thế giới. Hầu hết các bộ phận của cây
đều đã được sử dụng làm thức ăn, đồ uống. Trong dân gian, cây được dùng làm
thuốc với các tác dụng chữa bệnh như: mất ngủ, đau lưng, hạ huyết áp, loét dạ
dày, viêm khớp, thuốc nhuận tràng, điều kinh, giảm đau xương khớp, chống oxy
hóa, hỗ trợ chữa trị ung thư,…Hiện nay, việc chữa bệnh bằng thuốc có nguồn
gốc từ thảo dược đã và đang là một trong những xu hướng thu hút sự quan tâm
và nghiên cứu của các nhà khoa học. Chính vì những lợi ích thiết thực với cuộc
sống, cây Nhàu là loại dược liệu cần nhân giống và phổ biến rộng rãi.
Trong những năm trở lại gần đây, nhu cầu sử dụng các sản phẩm từ cây
Nhàu tăng đột biến, đặc biệt nhu cầu từ nước ngoài tăng mạnh, gần như các sản
phẩm từ cây Nhàu luôn trong tình trạng khan hiếm hàng. Trong nước, người
tiêu dùng đã biết đến nhiều hơn các công dụng từ trái Nhàu, dẫn đến nhu cầu
nội địa tăng. Nhiều nơi đã có truyền thống dùng rễ Nhàu được thái mỏng phơi
khô sắc uống để trị đau lưng, phong thấp. Phụ nữ một số vùng còn ăn trái Nhàu
chín để làm nhuận trường, hoạt huyết hoặc điều hòa kinh nguyệt…[18]. Bên
cạnh đó còn có nhiều công ty dược trong nước và trên thế giới đã sản xuất
thuốc viên và thuốc nước từ cây thuốc này với mục đích chữa nhiều bệnh [11].
Việc bảo tồn các giống cây dược liệu nói chung và cây Nhàu nói riêng có
thể thực hiện bằng nhiều biện pháp truyền thống như chiết cành, ghép cành và
7


gieo hạt. Tuy nhiên hiệu quả đạt được chưa cao, khó khăn trong chọn cành
chiết - ghép, tỉ lệ hạt nảy mầm yếu…Một vài năm trở lại đây người dân đã
dùng cây Nhàu phổ biến rộng rãi để chữa bệnh. Thực trạng trên đang đặt ra
những vấn đề cần giải quyết.
Sự phát triển của ngành công nghệ sinh học, đặc biệt là việc áp dụng kỹ thuật
nuôi cấy mô tế bào thực vật sẽ giúp cho việc nhân giống, tạo nguồn sản phẩm đáp
ứng cho thị trường trong nước và tiến tới xuất khẩu. Đồng thời giúp giải quyết

được việc làm và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân.
Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài
“Nghiên cứu môi trường nuôi cấy in vitro cây Nhàu (Morinda Citrifolia L.)”
nhằm bảo tồn nguồn gen quý, nhân giống cây sạch bệnh phục vụ sản xuất, nâng
cao chất lượng và phẩm chất cây Nhàu.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Xác định được môi trường nuôi cấy in vitro thích hợp ở cây Nhàu.
3. Nội dung nghiên cứu
- Nghiên cứu tạo mẫu sạch cây Nhàu.
- Nghiên cứu ảnh hưởng của các chất kích thích sinh trưởng BAP, kinetin
đến sự tạo đa chồi ở cây Nhàu.
- Nghiên cứu môi trường tạo rễ cây Nhàu trong ống nghiệm.
- Nghiên cứu quá trình ra cây ngoài tự nhiên.

8


Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Giới thiệu chung về cây Nhàu
1.1.1. Đặc điểm phân loại và đặc điểm sinh học
Cây Nhàu có tên khoa học là Morinda citrifolia L. thuộc họ Coffee
Rubiaceae, Bộ Long đởm (Gentianales).
Tên nước ngoài: Great morinda, Indian Mulberry (India), Dog Dumpling
(Barbados), Mengkudu (Malaysia), Tahiti Noni (Ameraca).
Phân loại khoa học
Giới: Plantea
Ngành: Magnoliophyta
Lớp: Magnoliopsida
Bộ:


Gentianales

Họ: Rubiaceae
Chi: Morinda
Loài: Morinda citrifolia L.[38].
Cây Nhàu còn gọi là cây Noni Berry, cây Ngao núi, Nhàu rừng, Nhàu núi,
cây Giàu [3], [8], [15].
Chi Morinda thuộc họ Coffee Rubiaceae và bao gồm khoảng 80 loài:
Morinda citrifolia Linn (Morinda citrifolia L.), thường được gọi là noni hoặc
Mulberry Ấn Độ. Nhàu đã được sử dụng như một cây thuốc của người
Polynesia 200 năm trước. Hiện nay, Nhàu là một loại cây điển hình được tìm
thấy ở các vùng khí hậu nhiệt đới của Hoa Kỳ (Hawaii), Brazil, Tahiti,
Malaysia và Quần đảo Fiji. Nghiên cứu đầu tiên về tác dụng của trái cây Nhàu
của Heinicke đã chứng minh rằng Nhàu có chứa xeronine alkaloid. Mặc dù
trong trái cây Nhàu lượng xeronine tự do không đáng kể, chúng vẫn chứa một
lượng đáng kể tiền chất của xeronine, được đặt tên là proxeronine. Một trong
9


những lý giải cho tác dụng dược liệu của trái cây Nhàu là xeronine có thể điều
chỉnh cấu trúc và tính ổn định của các protein đích. Các tác dụng có lợi của trái
cây Nhàu, chẳng hạn như trong điều hòa kinh nguyệt, tăng huyết áp, bỏng, trầm
cảm, xơ vữa động mạch, tiêu hóa, giảm đau và nhiều tác dụng khác [26].

Hình 1.1. Cây, hoa và quả Nhàu
(Ảnh chụp của tác giả luận văn tại tỉnh Champasak Lào, 3/4/2018)
Cây Nhàu có khoảng 40 loài trên thế giới. Ở Việt Nam hiện đã biết 9 loài
[2]. Nhàu thường mọc ở vùng nhiệt đới và ôn đới. Ở Việt Nam, Nhàu mọc
nhiều ở những vùng ẩm thấp dọc theo bờ sông bờ suối, ao hồ hoặc mương rạch

ở khắp các tỉnh miền Nam, một số tỉnh miền Trung và rải rác ở miền Bắc. Loài
này được miêu tả khoa học lần đầu tiên năm 1753 [38].
Cây Nhàu là một trong những loài cây được xếp vào nhóm cây là vị thuốc
quý ở Việt Nam theo Đỗ Tất Lợi. Một loại cây khá quen thuộc với người dân miền
Nam. Cây Nhàu có nguồn gốc từ châu Úc và châu Á, phân bố ở các quốc gia khác
nhau trong đó có Việt Nam, Ấn Độ, Trung Quốc, Thái Lan, Lào ... Cây Nhàu
thường mọc ở độ cao 0 đến 500m tính từ mực nước biển [15].
Nhàu là loại cây ưa sáng, ưa ẩm. Khi chưa trưởng thành, cây mọc tự nhiên
có thể núp dưới tán cây khác. Tuy nhiên để có điều kiện tốt nhất để sinh trưởng
10


và phát triển cây cần đầy đủ ánh sáng. Chính vì vậy, người ta thường thấy loại
cây này trong rừng thứ sinh, nương rẫy của nhiều tỉnh. Loại cây này dễ thích
nghi ở môi trường đất ẩm, đặc biệt là đất bazan, cạnh mương, hồ… Loại đất
trồng có chứa tỷ lệ mùn, tơi xốp và dễ dàng thoát nước. Cây được trồng vào
thời vụ xuân, khi thời tiết có mưa phùn hoặc đầu mùa mưa [4].
Cây Nhàu là cây thân gỗ, thân cây nhẵn, có nhiều cành, thường có chiều
cao khoảng từ 6-8 m. Cành non mập, có 4 cạnh rõ, có màu lục hoặc nâu nhạt.
Cành non màu xanh, tiết diện vuông, có rãnh, nhẵn; cành già tiết diện tròn, màu
nâu xám.
Lá: Lá mọc đối, hình bầu dục, nhọn ở đầu, dài 12-15 cm, rộng 6-8 cm,
mép uốn lượn, mặt trên của lá có màu xanh đậm, bề mặt bóng, mặt dưới màu
xanh nhạt. Gân lá hình lông chim, nổi rõ ở mặt dưới, có 6-7 cặp gân phụ.
Cuống lá 1-2 cm. Lá kèm nằm giữa 2 lá mọc đối, hình xoan, dài 1-1,5 cm, màu
xanh nhạt.
Hoa: Cụm hoa đầu hình tròn hay hơi bầu dục, ở ngoài nách lá. Trục cụm
hoa hình trụ, màu xanh, nhẵn, dài 1-2 cm. Đáy cụm hoa có 3 phiến hẹp, dài 5-8
mm. Hoa đều, lưỡng tính. Đài hoa là một gờ tròn. Có 5 cánh hoa, ống tràng
hình phễu, màu xanh nhạt, cao 7-12 mm; có nhiều lông trắng bên trong; 5 thùy

dài khoảng 5-8 mm, màu trắng, hình bầu dục, đầu nhọn, đỉnh có phụ bộ là một
mấu nhỏ cong vào trong. Khi hoa nở các thùy cong xuống phía dưới; tiền khai
van. Có 5 nhị, bằng nhau, rời, gắn ở phần loe của ống tràng xen kẽ với các cánh
hoa, chỉ nhị rất ngắn. Bao phấn hình đầu tên, màu vàng nhạt, dài khoảng 4mm;
2 ô, mở dọc, hướng trong, đính gốc. Hạt phấn rời, hình hình cầu, màu vàng
nhạt. Lá noãn 2, ở vị trí trước sau, bầu dưới, 2 ô, mỗi ô 1 noãn, đính trung trụ.
Vòi và đầu nhụy. Vòi nhụy dạng sợi màu xanh nhạt, dài 5 mm; 2 đầu nhụy
dạng phiến mỏng, dài 3mm, màu xanh. Đĩa mật dày, hình khoen, màu vàng.
Cây ra hoa quanh năm, tập trung nhiều nhất vào khoảng tháng 11-2, cho quả
vào khoảng tháng 3-5 [38].
11


Quả: Quả hạch kép do bầu noãn và một phần lá đài của các hoa trên cụm
hoa dính nhau tạo thành. Quả chín vào khoảng thời gian từ tháng 7 đến tháng 8.
Quả khi còn non có màu xanh nhạt, khi chín có màu trắng hoặc vàng nhạt. Quả
có chiều dài khoảng từ 5-6 cm, rộng từ 3-4 cm. Quả nhẵn bóng, mùi nồng, trên
quả còn vết tích các đĩa mật. Quả thịt, hình trứng, xù xì gồm nhiều quả hạch
dính vào nhau, chứa cơm mềm, ăn được.
Hạt: Hạt nhiều, hình bầu dục, một đầu nhọn, màu nâu đen [3], [8], [15], [38].

Hình 1.2. Hạt quả Nhàu
(Ảnh chụp của tác giả luận văn tại tỉnh Champasak Lào, 3/4/2018)
1.1.2. Giá trị dược liệu
Cây Nhàu đã và đang được các cơ sở nghiên cứu, sản xuất dưới nhiều
dạng bào chế khác nhau để chữa bệnh và bồi dưỡng sức khỏe. Công ty cổ
phần xuất nhập khẩu Y tế Domesco, tỉnh Đồng Tháp sản xuất thuốc viên
Morinda Citriforlia, nước ép trái Nhàu Doromi, rượu Morinda trái Nhàu.
Những sản phẩm này đã được Bộ Y tế cấp số đăng ký và lưu hành trên toàn
quốc. Đặc biệt viên bao phim Morinda Citriforlia đã và đang được xuất khẩu

ra thị trường thế giới [4].
Năm 1996, vì các đặc tính dinh dưỡng và điều trị của Nhàu, NJ thương
mại đã được bán trên thị trường như một chất bổ sung chế độ ăn uống. Sau đó,
vào năm 2003, Ủy ban Châu Âu đã phê duyệt nước ép Nhàu như một loại thực
phẩm mới của Tổng cục Bảo vệ Sức khỏe và người tiêu dùng. Nhiều nhà khoa
12


học đã nghiên cứu các hợp chất có hoạt tính sinh học trong quả Nhàu, cũng như
trong các bộ phận khác của cây, như lá, rễ, vỏ rễ, hạt, thân và hoa, vì những lợi
ích tiềm năng của chúng đối với sức khỏe [26].
Trong y học cổ truyền, Nhàu được xem là cây dược liệu quý được dùng để
chữa nhiều bệnh như: mất ngủ, đau lưng, huyết áp cao, an thẩn, giảm đau, tăng
cường sinh lực,...Tất cả các bộ phận của cây Nhàu đều có dược tính.
Theo Đông y
Trên thế giới, đặc biệt ở Mỹ có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về
tác dụng chống khối u và kích thích miễn dịch của trái cây Nhàu trồng ở Hawai
[37].
Tại Việt Nam, Nhàu là một trong số 300 vị thuốc Nam được một thầy
thuốc nổi tiếng của miền Nam trước cách mạng Tháng Tám khuyến khích sử
dụng xen kẽ với thuốc Bắc để tiết kiệm cho người bệnh [2].
Nhàu rừng và rễ Nhàu cũng là hai trong số 208 vị thuốc Nam được Việt
Cúc ghi lại trong “Nam dược tính yếu lược” (1965). Đặc biệt từ năm 1952 đã
được công bố nhiều nghiên cứu về tác dụng của rễ Nhàu trên các bệnh nhân [4].
Đỗ Tất Lợi, nhà nghiên cứu nổi tiếng về “Những cây thuốc và vị thuốc
Việt Nam” cũng đã đề cập đến cây Nhàu và xếp vị thuốc này vào danh mục
những vị thuốc về huyết áp [15].
Hiện nay, nhiều xí nghiệp dược trong nước cũng đã sản xuất thuốc viên và
thuốc nước chiết xuất từ Nhàu.
Các bộ phận cây Nhàu được dùng làm thuốc:

Rễ Nhàu: Thu hái vào mùa đông. Ngoài công dụng nhuộm màu vải, đem
ngâm rượu uống chữa bệnh nhức mỏi, đau lưng, dịch trích toàn phần từ rễ
Nhàu có tác dụng làm hạ huyết áp…(có khi dùng quả nhàu non thái mỏng sao
khô thay rễ).
Quả Nhàu: Thu hoạch vào mùa hạ. Có mùi khai mạnh, có vị cay nồng và
hơi chát ăn với muối dễ tiêu, nhuận tràng, làm thuốc điều kinh, trị băng huyết,

13


bạch đới, ho cảm, hen, thũng, đau gan, tiểu đường. Nướng chín ăn để chữa kiệt
lỵ. Ăn ngày 1-3 quả. Vì mùi hăng, nồng và cay nên khó ăn được nhiều.
Lá Nhàu: Thu hoạch quanh năm. Dùng tươi, rửa sạch giã nát đắp chữa
mụn nhọt, mau lành, chóng lên da non. Lá Nhàu phơi khô, thái nhỏ sắc uống
chữa kiệt lỵ, chữa sốt và làm thuốc bổ.
Vỏ cây Nhàu: nấu nước cho phụ nữ sau khi sinh uống bổ máu [3], [15], [19].
Công dụng và liều dùng: Dùng rễ Nhàu sắc uống hàng ngày thay nước
chè chữa cao huyết áp, uống hàng tháng với liều 30 – 40 g rễ, sắc và uống thay
nước chè trong ngày. Sau 15 hôm sẽ có kết quả, uống tiếp tục 2-3 tháng liền sau
đó với liều giảm xuống. Có thế nấu thành cao, hoặc thái nhỏ, sao vàng, ngâm
rượu uống. Quả non thái nhỏ, sao vàng, dùng thay rễ. Lá dùng giã nát đắp
ngoài hoặc sắc uống với liều 8 – 10 g sắc với 500ml nước, chia làm 2 lần uống
trong ngày chữa bệnh đường ruột, chữa sốt, cảm, nhức đầu, chóng mặt [3],
[15], [19].
Một số bài thuốc từ cây Nhàu:
Chữa huyết áp cao: rễ Nhàu 30-40 g, sắc uống thay nước chè, sau hai tuần
là có kết quả, sau đó giảm bớt liều, uống liên tục trong 2-3 tháng.
Chữa nhức mỏi tay chân, đau lưng: quả Nhàu non thái mỏng sao khô,
300g ngâm trong 2 lít rượu 30-40 độ sau hai tuần, uống ngày hai lần, lần một ly
con 30-40 ml.

Chữa lỵ, tiêu chảy, cảm sốt: lá Nhàu tươi 3-6 lá, rửa sạch nấu với 500 ml
đun đến khi nước còn 200 ml chia hai lần uống trong ngày. Uống liên tục trong
2-5 ngày [4], [15].
Tác dụng dược lý của cây Nhàu: Theo Đỗ Tất Lợi và nhiều nhà khoa học
khác, khi thí nghiệm trên động vật, cây Nhàu có những tác dụng sau: nhuận
tràng nhẹ và lâu dài, lợi tiểu nhẹ, làm êm dịu thần kinh giao cảm, hạ huyết áp,
không độc, không gây nghiện [15].
Năm 2000, Phạm Thiệp và cs đã công bố dùng đúng cách thì giá trị chữa
bệnh từ cây Nhàu rất hiệu quả. Rễ Nhàu có tác dụng nhuận tràng, lợi tiểu, làm

14


êm dịu thần kinh giao cảm, giảm đau nhức, hạ huyết áp; quả có tác dụng nhuận
tràng và lợi tiểu; lá có tác dụng làm tăng lực, hạ sốt, điều hòa kinh nguyệt [21].
Theo Tây y
Do hiệu quả của cây Nhàu, các nhà khoa học đã quan tâm nghiên cứu đối
tượng này. Năm 1848, Anderson, nhà khoa học người Pháp đã tách được từ rễ
Nhàu chất moridin có công thức tổng quát C 28H30O15. Tiếp theo nhiều nhà khoa
học khác đã tiếp tục nghiên cứu những công trình này [27].
Nhàu có nhiều chất selenium [15]. Hai công trình nghiên cứu điển hình
cho thấy TNJ giúp cơ thể khỏe mạnh, cải thiện sức khỏe và tinh thần, giúp điều
hòa cơ thể. Công trình thứ nhất: “Đánh giá sự thay đổi chất lượng cuộc sống
trong thử nghiệm lâm sàng về Nhàu” được công bố tại hội thảo của Hội Nghiên
cứu Chất lượng cuộc sống Quốc tế lần thứ 12, tổ chức tại California, Mỹ, năm
2005. và công trình nghiên cứu “Tác dụng của Nhàu lên chất lượng cuộc sống”
đăng trên Tạp chí Y khoa Alternative and Complementary Medicine” [33].
Khi phân tích dược tính của rễ Nhàu, một số tác giả đã thí nghiệm trên vật
nuôi của phòng thí nghiệm và nhận thấy nhiều tính chất của rễ Nhàu: Nhuận
tràng nhẹ, lợi tiểu nhẹ và lâu dài; Làm êm dịu thần kinh trên thần kinh giao

cảm; Hạ huyết áp kéo dài; Rất ít độc và không gây nghiện [4].
Như vậy, có thể nói từ lâu cây Nhàu đã được nghiên cứu và sử dụng trong
y học cổ truyền cũng như trong y học hiện đại.
Y học ngày nay đã biết rất rõ khi thần kinh con người bị căng thẳng sẽ dẫn
đến trương lực cơ bắp gia tăng, hoạt động nội tạng bị rối loạn, huyết áp tăng,
lượng bạch cầu giảm…Trong điều kiện như vậy, tất cả các biện pháp hoặc các
dược chất làm ổn định được thần kinh, trong đó có rễ Nhàu hoặc trái Nhàu đều
có khả năng giúp cải thiện tình hình. Tuy nhiên đối với các bệnh có tổn thương
thực thể hoặc các chứng viêm, nhất thiết phải cần các vị thuốc hoặc các phương
pháp đặc trị mà rễ Nhàu không thể thay thể được [39].
Thành phần hóa học trong rễ Nhàu chứa glucozit anthraquinon - còn gọi là
morinda C28H30O15: có tinh thể hình kim màu vàng, tan trong nước sôi, ít tan
15


trong nước lạnh, không tan trong ete, tan trong các chất kiềm và cho màu vàng
cam. Tác giả Balakrishna và cs (1961), đã xác định trong cây Nhàu không phải
chỉ có một chất anthraglucozit morinda mà là một hỗn hợp gồm nhiều chất
anthraglucozit như: damnacantal hay l-metoxy-2-focmyl-3-oxyanthraquinon,
chất l-metoxyrubiazin hay l-metoxy-2-metyl-3- oxyanthraquinon, chất al-izarin,
chất morinda hay 1-5-6-trioxy-2-metylanthraquinon và chất l-oxy-2-3dimetoxyanthraquinon [29].
Các nước ở Châu Á cũng dùng các bộ phận của cây Nhàu để làm thuốc. Ở
Trung Quốc, Nhật Bản, nước sắc rễ Nhàu dùng làm thuốc bổ, thuốc hạ sốt. Ở
Đài Loan, nước sắc rễ Nhàu dùng chữa kiết lỵ. Ở Philipin, cao toàn phần rễ
Nhàu chữa cao huyết áp, sưng huyết trĩ, xuất huyết não. Ở Malaysia, lá Nhàu
hơ nóng đắp lên ngực, bụng chữa ho, nôn mửa, đau bụng, lách to. Nước ép từ
quả chữa ho, sốt, tiểu tiện khó, đái tháo đường, giun sán, kinh nguyệt không
đều. Dịch hãm từ vỏ, rễ, quả dùng để rửa vết thương [4].
1.1.3. Tình hình nghiên cứu cây Nhàu trên thế giới và ở Việt Nam
Trên Thế giới:

Năm 2001, Wang và Su đã nghiên cứu về hiệu quả phòng ngừa ung thư
của Morinda citrifolia (Noni). Kết quả nghiên cứu cho thấy, việc ngăn ngừa sự
hình thành chất gây ung thư và hoạt động chống oxy hóa của Tahiti Noni Juice
(TNJ) từ trái Nhàu có thể góp phần vào tác dụng phòng ngừa ung thư của
Morinda citrifolia [37].
Năm 2003, Stalman và cs đã tiến hành điều hòa sinh tổng hợp
anthraquinone trong nuôi cấy tế bào Nhàu Morinda citrifolia L. Kết quả cho
thấy, khi nuôi cấy tế bào Morinda citrifolia L. có khả năng tích lũy một lượng
đáng kể anthraquinone và sự sinh tổng hợp anthraquinone ở Nhàu bị ức chế
mạnh bởi 2,4- D, nhưng ít hơn nhiều khi sử dụng NAA. Cả hai auxin này đều
ngăn cản sự hoạt động của synthase isochorismate dẫn đến làm giảm tích lũy
anthraquinone [36].
16


Việc tăng cường tích lũy anthraquinone trong nuôi cấy huyền phù
Morinda citrifolia (Noni fruit) của Komaraiah P. và cs (2005), đã thực hiện
bằng cách xử lý chất kích thích, có kiểm soát trong môi trường sinh trưởng.
Kết quả cho thấy, khi bổ sung với liều lượng phủ hợp, làm tăng sản xuất
anthraquinone lên 16,74 mg/g trọng lượng khô, cao hơn gấp bốn lần so với
nuôi cấy mẫu đối chứng [32].
Ở Việt Nam:
Nghiên cứu ảnh hưởng của cao chiết từ quả Nhàu lên một số chỉ số miễn
dịch của chuột nhắt bị gây suy giảm miễn dịch bằng tia gamma của Phạm Thị
Vân Anh và cs (2004) cho thấy: Với liều 6g/kg/ngày dùng theo đường uống
trong 9 ngày liên tục (sau khi chuột được chiếu tia gamma 6 ngày), cao quả
Nhàu làm tăng trọng lượng lách và tuyến ức tương đối, tăng số lượng bạch cầu
lympho, mono, tế bào diệt tự nhiênvà tăng cường phản ứng với kháng nguyên
OA so với lô chuột chỉ chiếu tia gamma đơn thuần không được dùng thêm
thuốc thử [1].

Nguyễn Trọng Thông và cs (2004) đã đánh giá tác dụng của cao trái Nhàu
(CTN) đến huyết áp (HA) và tim. CTN dạng lỏng (1ml chứa 5g dược liệu)
được sử dụng thực nghiệm với chó, ếch. Kết quả nghiên cứu cho thấy: Với liều
1,5g/kg và 2,25g/kg thể trọng theo đường uống, CTN làm hạ huyết áp 20 - 26%
và 32 - 50,7% so với huyết áp ban đầu, duy trì trong 6 giờ. Cao trái Nhàu làm
giảm một phần tác dụng của adrenalin nhưng hầu như không ảnh hưởng đến tác
dụng của nicotin và acetylcholin đối với huyết áp ở chó. CTN ít ảnh hưởng đến
tần số tim nhưng làm giảm biên độ tim ếch cô lập, tác dụng này phụ thuộc vào
liều, liều càng cao tác dụng giảm biên độ càng rõ [21].
Nghiên cứu ảnh hưởng của cao lỏng trái Nhàu (CTN) lên chỉ số miễn dịch
của chuột nhắt bị gây suy giảm miễn dịch của tác giả Nguyễn Trọng Thông và
cs (2004) cho thấy, với liều 6g/kg/ngày (dùng theo đường uống trong 5 ngày
liên tục) CTN làm tăng trọng lượng lách và tuyến ức tương đối, tăng số lượng
17


bạch cầu lympho, mono, diệt tự nhiên, … so với lô chuột chỉ tiêm CY đơn
thuần không được dùng thêm thuốc thử [20].
Đái Thị Xuân Trang và cs (2012) đã đề xuất nghiên cứu: “Khảo sát hiệu
quả điều trị bệnh tiểu đường của cao ethanol rễ, lá, trái xanh và trái chín cây
Nhàu thông qua khả năng chống oxy hóa và hạ đường huyết in vivo và vi
vitro”. Tác động chống oxy hóa được xác định thông qua khả năng làm sạch
gốc tự do DPPH in vitro. Chuột được gây bệnh tiểu đường bằng dung dịch
alloxan monohydrate (AM). Sau đó, chuột bị bệnh tiểu đường được điều trị
bệnh với cao ethanol từ các bộ phận của cây Nhàu. Kết quả cho thấy, sau khi
chuột bị bệnh tiểu đường uống cao chiết cây Nhàu với liều lượng 200mg/kg x 2
lần/ngày có đường huyết tương đương nhóm chuột bị bệnh tiểu đường được
điều trị với thuốc trị tiểu đường glucofast và giảm thiểu stress oxy hóa trong
thận. Kết quả cũng chứng minh rằng dịch chiết ethanol cây Nhàu cải thiện khả
năng làm sạch gốc tự do DPPH in vitro [23].

Võ Thị Mai Hương và Trần Thanh Phong (2013) đã tiến hành nghiên cứu
một số đặc trưng hóa sinh và khả năng kháng khuẩn của dịch chiết quả Nhàu
(Morinda citrifolia L.). Kết quả phân tích một số thành phần hóa sinh trong
dịch chiết quả nhàu cho thấy: Hàm lượng cellulose trong quả nhàu (19,33%)
cao hơn hẳn so với đường khử (5,27%), protein (2,8%) và lipid (8,75%). Trong
nghiên cứu này tác giả đã kết luận rằng hoạt độ một số enzyme và các chất
chống oxy hóa trong quả Nhàu khá cao và các chế phẩm flavonoid đều thể hiện
hoạt tính kháng khuẩn mạnh. Trong đó đáng chú ý là 2 loại vi khuẩn
Staphylococcus aureus và Salmonella typhi là nhạy cảm nhất đối với tất cả các
chế phẩm nghiên cứu [12].
Nhóm nghiên cứu của Vũ Hương Giang và cs (2015) đã tiến hành điều tra
tình hình phân bố và khả năng tái sinh tự nhiên của một số loài Nhàu ở Việt
Nam. Kết quả tạo cơ sở cho các nghiên cứu tiếp theo trong việc làm tăng nguồn
dược liệu [5].
18


Tác giả Đái Thị Xuân Trang và cs (2016) trong nghiên cứu của mình đã
cho thấy sự thay đổi cấu trúc mô bệnh học tụy tạng của chuột bệnh đái tháo
đường được điều trị bằng cao ethanol từ rễ Nhàu nhằm đánh giá hiệu quả điều
trị bệnh đái tháo đường bằng dịch chiết từ rễ cây Nhàu. Kết quả thí nghiệm
chứng minh cao ethanol từ rễ của cây Nhàu có tác dụng làm giảm glucose
huyết trên chuột bệnh đái tháo đường sau 20 ngày điều trị. Tiêu bản hiển vi lát
cắt ngang tụy tạng chuột cho thấy cấu trúc chung, tụy ngoại tiết và ống bài xuất
có sự khác biệt về mô bệnh học giữa tụy chuột bình thường, chuột bệnh đái
tháo đường và chuột đã điều trị khỏi bệnh bằng cao rễ Nhàu. Cao ethanol rễ
Nhàu không có hiệu quả cải thiện tình trạng tổn thương của tụy nội tiết sau 20
ngày điều trị [24].
1.2. Kĩ thuật nuôi cấy mô tế bào thực vật và ứng dụng
1.2.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến nuôi cấy in vitro

Mẫu nuôi cấy: Các nhân tố khi chọn lọc mẫu cấy bao gồm kiểu gen, cơ
quan được chọn, tuổi sinh lý, mùa vụ, giai đoạn sinh trưởng, độ khỏe của mẫu và
nguồn mẫu [7].
Điều kiện nuôi cấy: Điều kiện nuôi cấy có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình
sinh trưởng phát triển của mẫu trong nuôi cấy mô tế bào thực vật. Nhiệt độ nuôi
cấy thích hợp là từ 20-27oC. Điều kiện ánh sáng từ 1000-3000lux. Độ pH là
5,7-5,8 [7].
Chất kích thích sinh trưởng thực vật: Các chất kích thích sinh trưởng có
vai trò rất quan trọng trong kĩ thuật nuôi cấy mô tế bào thực vật. Bằng cách
cung cấp các chất kích thích ở một mức hợp lý thì chúng ta có thể điều khiển
được quá trình phát sinh hình thái của mẫu nuôi cấy.
Nhóm auxin là nhóm kích thích sinh trưởng chính được các nhà sinh lí học
thực vật phát hiện và quan tâm sớm nhất. Auxin là những hoocmon thực vật có
tác dụng kích thích sinh trưởng, kéo dài tế bào và phân hóa cơ quan, kiểu tác
động của nó liên quan đến làm chuyển đổi và mềm hóa màng tế bào. Nhóm
auxin bao gồm các chất sau: 2,4 Diclorophenoxy axetic axit (2,4D), α–
19


naphtylaxetic axit (NAA), Indotaxetic axit (IAA), trong đó 2,4D dễ gây độc
nhưng có tác dụng kích thích quá trình phân chia tế bào và thường được sử
dụng nhiều nhất, NAA có tác dụng tạo rễ cho cây non [31].
Nhóm cytokinin là nhóm chất hóa học có ảnh hưởng quyết định đến kích
thích phân chia tế bào. Đại diện cho nhóm cytokinin gồm: Kinetin; 6 – Benzyl
amino purine (BAP); 6-Dimethylalylamnino purine (2iP); Zeatin. Hiện nay một
thế hệ mới của chất điều hòa sinh trưởng, chẳng hạn như thidiazuron (TDZ) –
một cytokinin thuộc các phenylureas, đang nổi lên như là một thay thế thành
công cho tái sinh trực tiếp với tần số cao của phôi vô tính [31].
Nhóm gibberellin là nhóm được phát hiện qua quá trình nghiên cứu bệnh
nấm lúa von. Nó tác động làm tế bào giãn ra và phân chia, làm cây lùn có thể

cao lên được, như ngô lùn thành ngô cao, đậu dạng bụi thành dạng đứng. Đại
diện cho nhóm này là axit gibberillic (GA3), được sử dụng rộng rãi trong nông
nghiệp [31].
Ethylen là nhóm có ảnh hưởng rất lớn đến sinh trưởng và phát triển của
cây nhưng gần đây nó mới được coi là hoocmon thực vật. Ethylen thường được
sử dụng để làm chín quả ở chuối, ra hoa đồng loạt ở dứa, nó cũng ảnh hưởng
đến quá trình phân bào. Đối với cà chua trong điều kiện ethylen nồng độ cao sẽ
kéo dài không ra rễ của thân [31].
Axit abscisic là hợp chất ức chế sinh trưởng thực vật tự nhiên ảnh hưởng
đến tính ngủ nghỉ của hạt, mầm và rụng lá, tăng cường ra hoa cho một số cây
ngắn ngày thông qua việc tổng hợp ARN và protein [31].
Agar: Agar có vai trò rất cần thiết đối với mẫu nuôi cấy, làm đặc môi
trường, giúp mô không bị chìm. Agar thường được sử dụng ở nồng độ 0,6 đến
1% [7].
Chất phụ gia:
Nước dừa chứa hàm lượng dinh dưỡng cao, được sử dụng để cung cấp
dinh dưỡng cho mẫu nuôi cấy mô tế bào thực vật. Các chất có hoạt tính trong
20


nước dừa hiện đã được chứng minh là myo-insitol và một số amino acid khác.
Nước dừa được sử dụng để kích thích sự phân hóa và nhân nhanh chồi ở nhiều
loài cây. Nước dừa thường được lấy từ quả để sử dụng tươi hoặc sau bảo quản.
Ngoài nước dừa, chuối xanh, khoai tây và cà chua cũng là những chất tự
nhiên giàu dinh dưỡng được sử dụng nhiều trong nuôi cấy mô thực vật.
Than hoạt tính cũng là một chất phụ gia có nhiều tác dụng tích cực trong
nuôi cấy mô tế bào thực vật chủ yếu là tạo điều kiện tối cho môi trường nuôi
cấy, có tác dụng hấp thụ các chất độc và các chất ức chế sinh trưởng thực vật
như các hợp chất phenolic, dịch rỉ nâu sinh ra từ môi trường nuôi cấy. Những
chất này gây ức chế sinh trưởng của mẫu nghiên cứu. Than hoạt tính làm thay

đổi môi trường ánh sáng, do môi trường trở nên sẫm khi có nó vì thế có sự kích
thích sự hình thành và sinh trưởng của rễ. Ngoài ra, than hoạt tính cũng có thể
hấp thụ các vitamin, cytokinin và auxin, làm thay đổi tỉ lệ thành phần các chất
có trong môi trường nuôi cấy cũng như pH môi trường [14].
1.2.2. Các phương pháp nhân giống vô tính in vitro
Phương pháp nhân giống in vitro đã bổ sung cho các kĩ thuật nhân giống vô
tính cổ điển như giâm cành, chiết cành, ghép cành... Nhân giống in vitro là một
trong bốn lĩnh vực của công nghệ tế bào thực vật (làm sạch virus, nhân nhanh
các giống cây quý, sản xuất và chuyển hóa sinh học các hợp chất tự nhiên và cải
biến về mặt di truyền các giống cây trồng) và mang lại hiệu quả kinh tế lớn [7].
Có ba phương thức tạo cây in vitro:
a. Hoạt hóa chồi nách
Hoạt hóa chồi nách bằng cách phá vỡ hiện tượng ưu thế ngọn khi nuôi cấy
các đỉnh chồi hoặc đoạn thân mang mắt ngủ. Theo phương pháp này thì sự hoạt
hóa của chồi nách diễn ra theo hai cách:
Cách 1: Cây phát triển trực tiếp từ chồi đỉnh hoặc chồi nách (xảy ra khi
nuôi cấy loài cây hai lá mầm như cây thuốc lá, hoa cúc, ...)

21


Cách 2: Tạo cụm chồi từ chồi đỉnh hoặc chồi nách (xảy ra khi nuôi cấy
cây một lá mầm như lúa, mía...)
Các chồi được tách và nuôi cấy trên môi trường dinh dưỡng có bổ sung
cytokinin với nồng độ cao. Vai trò của cytokinin lúc này là ức chế ưu thế ngọn
để chồi bên phát triển. Các chồi này tiếp tục được chuyển sang môi trường mới
có bổ sung cytokinin thì các chồi mới tiếp tục được tạo ra. Sau đó, các chồi này
được chuyển sang môi trường tạo rễ và được đưa ra vườn ươm khi đã có rễ
hoàn chỉnh [7].
Những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sự hình thành đa chồi: (1) Nhu

cầu về loại và nồng độ cytokinin khác nhau. Nồng độ cytokinin thay đổi tùy theo
giai đoạn nuôi cấy, thông thường trong quá trình tạo chồi người ta sử dụng auxin
với nồng độ thấp, phối hợp cùng với cytokinin ở nồng độ cao. Không nên cảm
ứng tạo mô sẹo với nồng độ cytokinin quá cao vì có thể tạo ra chồi bất định
mang các đột biến. (2) Trong trường hợp chồi bên không tăng trưởng được thì
cần phải cắt bỏ chồi ngọn hoặc làm chết chồi ngọn thì chồi bên mới có thể hoạt
động. (3) Khi cấy chuyển nhiều lần tốc độ sinh khối bị thay đổi [7].
1.3. Thành tựu trong bảo tồn nguồn gen thực vật in vitro
Ở Việt Nam việc áp dụng kỹ thuật nuôi cấy mô tế bào thực vật để bảo tồn
các loài thực vật nhiệt đới quý hiếm, có giá trị kinh tế cũng được các nhà
nghiên cứu quan tâm, bắt đầu từ Chùm ngây (Morinda oleifera) là loại cây có
giá trị dinh dưỡng rất cao và dễ trồng, mang lại nhiều lợi ích và công dụng cho
người dân cả về sức khỏe lẫn kinh tế [6].
Cây thuốc hoàn ngọc (Pseuderanthemum palatiferum (Nees) Radlk) được
sử dụng rộng rãi trong dân gian do có chứa nhiều chất khoáng, axit amin và các
chất có hoạt tính sinh học nhóm flavonoid, terpenoid, saponnin, điều trị bệnh về
tiêu hóa, tuyến tiền liệt, u xơ, ung thư giai đoạn đầu, xơ gan, ổn định thần kinh,
điều hòa huyết áp, phục hồi sức khỏe. Năm 2018, Lê Hoài Hương và cs đã

22


thành công trong việc nuôi cấy mô tế bào thực vật trong nghiên cứu cây hoàn
ngọc [13].
Râu hùm tía (Tacca chantrieri André) đuọc biết là cây dược liệu quý, chủ
yếu sống dưới tán rừng ẩm hoặc núi đá vôi, không chỉ có giá trị làm thuốc mà
còn có giá trị làm cảnh vì có hoa đẹp. Năm 2018, Nguyễn Thị Thơ và cs đã
thành công tạo ra số lượng cây giống lớn, chất lượng tốt cung ứng cho nhu cầu
trồng và phát triển loài cây dược liệu quý này bằng phương pháp in vitro [22].
Lê Thị Như Thảo và cs (2018) đã nghiên cứu thành công bước đầu của quy

trình nhân nhanh in vitro Cây Đinh Lăng lá nhỏ (Polyscias Fruticosa L. Harms),
sử dụng lá đinh lăng được nuôi cấy phát sinh tạo mô sẹo. Mô sẹo được sử dụng
làm vật liệu cho nuôi cấy dịch huyền phù và thu nhận saponin [17].
Năm 2018, Lê Thị Tâm Hồng và cs đã ứng dụng phương pháp nuôi cấy mô
tế bào thực vật trong bảo tồn và phát triển cây Xạ Đen (Ehretia asperula
Zollinger et Moritzi ) để phát triển nguồn dược liệu quý [9].
Đã có một số công trình nghiên cứu về quá trình nuôi cấy in vitro ở
cây Nhàu.
Năm 2015, Elakkuvan và cs đã nghiên cứu về “Ảnh hưởng của sự khử trùng
bề mặt đến sự sống sót in vitro của mẫu Morinda citrifolia L.”. Thí nghiệm khử
trùng mẫu được tiến hành với sự thay đổi nồng độ các chất HgCl 2, NaClO và
Ca(ClO)2, khi kết hợp với các khoảng thời gian khác nhau cho kết quả khác nhau
về ảnh hưởng của việc khử trùng đến tỷ lệ sống của đoạn chồi, chồi ngọn và lá
non Morinda citrifolia L.. Khử trùng bề mặt bằng HgCl2 0,1% trong 4 phút cho tỷ
lệ sống cao nhất là 82,59; 84,26% và 76,53% tương ứng với mẫu vật là đoạn chồi,
chồi ngọn và lá non (đây là chất khử trùng bề mặt mạnh). Xử lý mẫu sạch bằng
sodium hypochlorite (NaClO) 2% trong 10 phút cho tỷ lệ sống tương ứng 71,99%;
78,79% và 66,15% với mẫu là đoạn chồi, chồi ngọn và lá non. Với chất khử trùng
là calcium hypochlorite (Ca(ClO)2) 5% cho tỷ lệ sống của mẫu là 64,23%; 70,17%

23


và 60,57% tương ứng với đoạn chồi, chồi ngọn và lá non (Đây là chất khử trùng
bề mặt yếu trong các chất nghiên cứu) [30].
Saini và cs trong nghiên cứu về “Tạo lượng lớn chồi Noni (Morinda
citrifolia L.) in vitro từ mẫu đoạn thân” đã cho thấy: Noni (Morinda citrifolia
L.) là cây thuốc được sử dụng rộng rãi để chữa huyết áp, các vấn đề về hô hấp,
thiếu hụt miễn dịch, kháng khuẩn, chống viêm, giảm đau và điều trị chống sung
huyết. Để sản xuất quy mô lớn cây thuốc này, các tác giả đã tiến hành nghiên

cứu nuôi cấy in vitro từ mẫu thân ngoài tự nhiên. Khả năng tạo chồi cao được
quan sát thấy trên môi trường MS chứa BAP 2,0 mg/l. Tuy nhiên, môi trường
MS có bổ sung BAP 2,0 mg/l và kinetin 1,0 mg/l thể hiện tỷ lệ nhân chồi tối đa
trong nuôi cấy. Tỷ lệ tạo chồi đạt 84,33% trên môi trường này. Chồi in vitro
phát triển và tạo rễ trong môi trường MS có nồng độ IBA 1,0 mg/l, số rễ/chồi
đạt 10 rễ và chiều dài rễ đạt 3,1 cm. Cây con in vitro có chiều cao 5 – 6 cm
được chuyển ra ngoài tự nhiên. Giá thể được sử dụng là than bùn và xơ dừa. Tỷ
lệ sống sót của cây con đạt 95% [35].
Nguyên cứu tìm hiểu sự phát sinh hình thái rễ trong nuôi cấy in vitro cây
Nhàu của Nguyễn Thị Ngọc Hương và cs (2009) tiến hành các thí nghiệm khảo
sát ảnh hưởng của một số loại auxin với khả năng hình thành rễ ở trụ hạ diệp và
lá Nhàu. Kết quả cho thấy, NAA 0,1mg/l kích thích sự hình thành mô sẹo và rễ
sơ cấp trên trụ hạ diệp và lá ở tuần thứ nhất, quá trình kéo dài rễ bắt đầu từ
tuần thứ 2. Kết quả đo hô hấp và hoạt tính của các chất điều hòa sinh trưởng
thực vật cũng được thảo luận để làm rõ những thay đổi sinh lí trong sự hình
thành rễ [10].
Năm 2010, nhóm nghiên cứu của Nguyễn Thị Ngọc Hương và Võ Thị
Bạch Mai đã tiến hành các thí nghiệm khảo sát ảnh hưởng của BAP, zeatin và
NAA với sự hình thành chồi ở trụ hạ diệp cây Nhàu. Kết quả cho thấy, sự phát
sinh hình thái chồi ở cây Nhàu trải qua 3 giai đoạn. Trong quá trình này, zeatin
1mg/l kích thích sự hình thành chồi trong tối (sau 2 tuần) nhanh hơn BAP ở
24


cùng nồng độ. Khi phối hợp NAA 0,1mg/l và zeatin 1mg/l sẽ làm chậm sự hình
thành chồi (sau 5 tuần). Kết quả đo hô hấp và hoạt tính của các chất điều hòa
sinh trưởng thực vật cũng được thảo luận để làm rõ những thay đổi sinh lý
trong sự hình thành chồi [11].

25



×