Tải bản đầy đủ (.docx) (85 trang)

THIẾT kế HOẠT ĐỘNG TRẢI NGHIỆM CHO học SINH lớp 3 TRONG dạy học môn TOÁN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.86 MB, 85 trang )

1
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

LÀNH THỊ MAI

THIẾT KẾ HOẠT ĐỘNG TRẢI NGHIỆM
CHO HỌC SINH LỚP 3 TRONG DẠY HỌC MÔN TOÁN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

1


2

Thái Nguyên, năm 2019
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

LÀNH THỊ MAI

THIẾT KẾ HOẠT ĐỘNG TRẢI NGHIỆM
CHO HỌC SINH LỚP 3 TRONG DẠY HỌC MÔN TOÁN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
NGÀNH: GIÁO DỤC TIỂU HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Ngọc Bích

2



3

Thái Nguyên, năm 2019

3


LỜI CẢM ƠN
Để có thể hoàn thành khóa luận một cách hoàn chỉnh, em xin chân thành bày tỏ
lòng biết ơn đến cô giáo - TS. Trần Ngọc Bích người đã hết lòng giúp đỡ và tạo mọi
điều kiện tốt nhất cho em hoàn thành khóa luận này. Em cũng xin chân thành bày tỏ
lòng biết ơn đến toàn thể quý thầy cô trong khoa Giáo dục Tiểu học - Trường Đại học
Sư phạm - Đại học Thái Nguyên đã tận tình truyền đạt những kiến thức quý báu cũng
như tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho em trong suốt quá trình học tập nghiên cứu và
cho đến khi thực hiện xong khóa luận này.
Em xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn đến BGH và các thầy cô giáo trường
Tiểu học Trưng Vương - Phường Trưng Vương - Thành phố Thái Nguyên đã không
ngừng hỗ trợ và tạo mọi điều kiện tốt nhất cho em trong suốt thời gian thực nghiệm
khóa luận.
Thái Nguyên, tháng 5 năm 2019
Sinh viên thực hiện

Lành Thị Mai


5
MỤC LỤC



6
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Chữ cái viết tắt/ ký hiệu
GV
GVCN
HS
PHHS
Sgk

Cụm từ đầy đủ
Giáo viên
Giáo viên chủ nhiệm
Học sinh
Phụ huynh học sinh
Sách giáo khoa


7
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1. Mức độ Toán...............................................................................................29
Bảng 1.2. Hiệu quả tổ chức thường xuyên tổ chức hoạt động trải nghiệm cho học sinh
lớp 3 trong dạy học môn
hoạt động trải nghiệm cho học sinh lớp 3 trong dạy học môn Toán ............................29
Bảng 3.1. Kết quả bài kiểm tra của lớp thực nghiệm và lớp đối chứng

70


8
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 về đổi mới căn bản toàn diện giáo
dục và đào tạo nhận định: “Phải chuyển đổi căn bản toàn diện nền giáo dục từ chủ yếu
nhằm trang bị kiến thức sang phát triển phẩm chất và năng lực người học”. Bộ giáo
dục và Đào tạo đã xác định hoạt động trải nghiệm là bộ phận cấu thành nên chương
trình các môn học sau năm 2015. Vì vậy hoạt động giáo dục ở trường tiểu học sau năm
2015 cần quán triệt tinh thần và mục tiêu của Nghị Quyết số 29-NQ/TW này về đổi
mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, nghĩa là cần tổ chức các hoạt động giáo
dục theo hướng tăng cường sự trải nghiệm, nhằm phát huy tính sáng tạo cho học sinh.
Trong thực tiễn dạy học hiện nay, chúng ta đang chuyển dần từ dạy học tiếp cận
trang bị kiến thức sang dạy học theo định hướng phát triển toàn diện phẩm chất và
năng lực của người học. Do đó, quá trình dạy học các môn học ở nhà trường phổ thông
nói chung, ở tiểu học nói riêng cần chú trọng đến tổ chức các hoạt động giúp HS có cơ
hội phát triển tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong học tập.
Ở bậc tiểu học, môn Toán là một trong những môn học chiếm vị trí quan
trọng, có nhiệm vụ cung cấp cho học sinh những tri thức khoa học ban đầu, những
nhận thức về thế giới xung quanh nhằm phát triển năng lực nhận thức, hoạt động tư
duy và hình thành nhân cách tốt đẹp cho con người lao động trong thời đại mới. Môn
Toán lớp 3 có nhiệm vụ cung cấp cho học sinh một số kiến thức cơ bản, đơn giản, thiết
thực về toán học, hình thành và rèn luyện các kỹ năng thực hành theo yêu cầu của chương
trình. Tuy là những kiến thức cơ bản, đơn giản nhưng vốn vẫn được xem là môn học khô
khan nên để giúp các em học sinh nhỏ tuổi vừa tham gia tiết học một cách thoải mái vừa
phát triển năng lực, phẩm chất cho các em thì đòi hỏi những người làm giáo dục và đặc
biệt là mỗi giáo viên phải tổ chức các tiết học theo những cách thức mới với nhiều hoạt
động mới và trong đó chắc chắn phải có các hoạt động trải nghiệm.
Học tập thông qua trải nghiệm là một phương pháp giúp người học tự khám phá
vấn đề, học sinh được tham gia trực tiếp vào hoạt động học tập với tư cách là chủ thể,
qua đó tăng cường kiến thức, hình thành kĩ năng, phát triển năng lực, phẩm chất một
cách tối ưu. Tuy nhiên trong thực tế dạy học môn Toán ở tiểu học hiện nay, đa số giáo
viên còn nhiều lúng túng trong quá trình thiết kế và tổ chức các hoạt động trải nghiệm

cho học sinh trong dạy học môn Toán. Do đó cần thiết phải có những công trình
8


9
nghiên cứu về vấn đề này để tạo cơ hội cho giáo viên tổ chức các hoạt động trải
nghiệm thiết thực cho học sinh, gắn kết lý thuyết và thực tiễn.
Xuất phát từ những quan điểm nói trên và thông qua thực tiễn dạy học và đào
tạo giáo viên tiểu học, chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài khóa luận: “Thiết kế hoạt động
trải nghiệm cho học sinh lớp 3 trong dạy học môn Toán.”
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về năng lực, năng lực vận dụng toán học vào
thực tiễn, nội dung môn Toán lớp 3, đặc điểm tâm lý học sinh tiểu học và thực tiễn tổ
chức các hoạt động trải nghiệm toán học cho học sinh tiểu học hiện nay để thiết kế một
số hoạt động trải nghiệm cho học sinh lớp 3 trong dạy học môn Toán.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu cơ sở lý luận và thực tiễn.
- Nghiên cứu nội dung môn Toán lớp 3.
- Nghiên cứu đặc điểm tâm lý học sinh đầu cấp tiểu học.
- Nghiên cứu thực trạng của việc tổ chức các hoạt động trải nghiệm toán cho
HS lớp 3 ở trường tiểu học trong dạy học môn Toán.
- Thiết kế một số hoạt động trải nghiệm cho HS lớp 3 trong dạy học môn Toán
ở trường tiểu học.
- Thực nghiệm sư phạm để kiểm nghiệm tính khả thi của các hoạt động trải
nghiệm toán học đã thiết kế.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu quá trình dạy học môn Toán ở tiểu học nói chung và môn Toán ở
lớp 3 nói riêng. Trong đó đặc biệt chú ý đến việc thiết kế các hoạt động trải nghiệm

Toán học cho HS lớp 3 trong dạy học môn Toán.
3.2. Khách thể nghiên cứu
Quá trình dạy học môn Toán lớp 3.

9


10
4. Giả thuyết khoa học
Nếu đề xuất được các hoạt động trải nghiệm toán học phù hợp với học sinh lớp
3 thì sẽ tạo được hứng thú học tập cho học sinh, giúp các em lĩnh hội tri thức một cách
tích cực, chủ động, góp phần nâng cao hiệu quả dạy học môn Toán ở trường Tiểu học.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Phương pháp nghiên cứu lý luận được sử dụng để tổng hợp, phân tích những lý
luận về hoạt động trải nghiệm toán học.
5.2. Phương pháp điều tra khảo sát
Điều tra thăm dò ý kiến của giáo viên và học sinh khi sử dụng các hoạt động
trải nghiệm toán học cho học sinh lớp 3 trong trường tiểu học về hứng thú kết quả của
giờ học, về khó khăn của việc tổ chức các hoạt động đó.
5.3. Phương pháp thống kê
Sử dụng phương pháp thống kê nhằm xử lý các số liệu.
5.4. Phương pháp thực nghiệm
Phương pháp này có vị trí quan trọng với khoa học giáo dục và công tác nghiên
cứu. Trong khóa luận tiến hành thực nghiệm nhằm xem xét, xác nhận tính đúng đắn,
hợp lý và tính khả thi của hệ thống các hoạt động trải nghiệm toán học cho HS lớp 3
mà đề tài đề xuất.
6. Đóng góp của khóa luận

- Hệ thống lý luận một số quan điểm về hoạt động trải nghiệm.

- Thiết kế một số hoạt động trải nghiệm cho học sinh lớp 3 trong dạy học môn
Toán ở trường Tiểu học.
- Khóa luận có thể là tài liệu tham khảo hữu ích cho sinh viên ngành Giáo dục
Tiểu học và giáo viên các trường tiểu học.
7. Bố cục của khóa luận
Cấu trúc của khóa luận gồm 3 phần: Mở đầu, Nội dung và Kết luận. Phần nội
dung gồm 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn
Chương 2. Thiết kế hoạt động trải nghiệm cho học sinh lớp 3 trong dạy học
môn Toán
10


11
Chương 3. Thực nghiệm sư phạm.

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

1.1.1. Trên thế giới
Từ những năm đầu của thế kỉ XX, giáo dục trải nghiệm bắt đầu được đưa vào
chương trình giảng dạy. Tại Mĩ xuất hiện “Câu lạc bộ trồng ngô” cho học sinh thực
hành, ứng dụng khoa học kĩ thuật vào nông nghiệp thông qua các công việc nhà nông
thực tế. Sau một thế kỉ, hệ thống các câu lạc bộ này trở thành cốt lõi của tổ chức 4 - H,
tổ chức tiên phong ứng dụng học tập qua lao động, trải nghiệm lớn nhất của nước Mĩ.
Một vài năm sau, một viên tướng trong quân đội Anh đã tổ chức một cuộc cắm trại
hướng đạo đầu tiên. Hoạt động này phát triển nhanh chóng thành phong trào hướng
đạo sinh rộng khắp toàn cầu. Hoạt động hướng đạo là một loại hình giáo dục trải
nghiệm, chú ý đặc biệt vào các hoạt động thực hành ngoài trời, bao gồm: cắm trại, kĩ

năng sống trong rừng, kĩ năng sinh tồn, lửa trại, các trò chơi tập thể và các môn thể
thao cho học sinh. [28]
Năm 1971, D. Kolb công bố lý thuyết “hoạt động trải nghiệm”, đây được xem
là lý thuyết tương đối toàn diện về một phương thức học tập tích lũy, chuyển hóa kinh
nghiệm. Sau đó, ở nhiều quốc gia có nền giáo dục tiên tiến đã áp dụng rộng rãi hoạt
động trải nghiệm và coi đó là triết lý giáo dục của mình. [17]
Năm 1977, với sự thành lập của “Hiệp hội Giáo dục trải nghiệm” (Association
for Eperiential Education - AEF), “Giáo dục trải nghiệm” đã chính thức được thừa
nhận bằng văn bản và được tuyên bố rộng rãi. Tại Hội nghị thượng đỉnh Liên Hiệp
quốc về phát triển bền vững (2002), chương trình “Dạy học vì một tương lai bền
vững” đã được UNESSCO thông qua, trong đó có học phần quan trọng về “Giáo dục
trải nghiệm” được giới thiệu, phổ biến và phát triển sâu rộng. Dạy học thông qua hoạt
động trải nghiệm đã trở thành tư tưởng giáo dục quan trọng, gắn liền với các nhà tâm
lý học, giáo dục học như John Dewey, Kurt Lewin, David Kolb, William James,… và
hiện nay, tư tưởng “học thông qua trải nghiệm” hay “học tập trải nghiệm” vẫn là một
11


12
trong các xu hướng giáo dục điển hình của nước Mĩ và nhiều nước chú trọng phát triển
năng lực cho học như Singapore, Hà Lan, Anh, Nhật Bản, Hàn Quốc,… [27]
Theo quan điểm của Keeton và Tate, học qua trải nghiệm là quá trình học mà
người học được tiếp cận trực tiếp với thực tế mà họ nghiên cứu, học tập, với cuộc sống
thực tiễn. Các tác giả này cho rằng, hoạt động trải nghiệm phải đặt người học quan sát
trực tiếp hiện tượng mà họ nghiên cứu đồng thời với việc chính họ phải thực hiện các
hoạt động này để xác định bản chất của các hiện tượng thực tế đang diễn ra. [27]
Năm 2005, tác giả Scott D. Wurdinger đã giới thiệu công trình nghiên cứu về
ứng dụng hoạt động trải nghiệm trong lớp học của rất nhiều loại hình trường từ Đại
học đến phổ thông của nước Mĩ (Using Experiential Learning in the Classroom). [29]
1.1.2. Ở Việt Nam

Nhiều công trình nghiên cứu đã đề cập đến vấn đề tổ chức các hoạt động trải
nghiệm cho học sinh ở trường phổ thông. Chẳng hạn:
- Trong bài viết đăng trên Tạp chí Giáo dục của các tác giả Nguyễn Thị Hằng,
Đào Thị Ngọc Minh đã đưa ra lý thuyết học tập trải nghiệm, một số mô hình học tập
trải nghiệm của các nhà nghiên cứu nước ngoài và các bước vận dụng lý thuyết vào tổ
chức các hoạt động trải nghiệm. [10]
- Nghiên cứu “Dạy học khoa học cho học sinh tiểu học theo hướng trải nghiệm”
của tác giả Phạm Quang Tiệp đưa ra một số đặc điểm của hoạt động trải nghiệm và
ứng dụng vào thiết kế bài tập trải nghiệm trong môn Khoa học ở tiểu học. [25]
- Bài viết của tác giả Nguyễn Quang Nhữ cũng đã chỉ ra một số quan niệm về tổ
chức cho học sinh tiểu học học toán thông qua hoạt động trải nghiệm và nêu lên một
số vấn đề cơ bản về điều kiện xây dựng, hình thức tổ chức, đổi mới phương pháp dạy
học trải nghiệm. [21]
- Một công trình nghiên cứu khác của tác giả Lê Thị Cẩm Nhung trình bày các
vấn đề lý luận tổ chức hoạt động trải nghiệm cho học sinh tiểu học, đặc biệt là các hoạt
động trải nghiệm liên quan tới hình học. Đồng thời tác giả đưa ra một số thiết kế hoạt
động trải nghiệm theo một số hình thức: hoạt động câu lạc bộ, tổ chức trò chơi học tập,
tổ chức diễn đàn,… trong dạy học các nội dung hình học cho học sinh tiểu học. [20]
- Bài viết của nhóm tác giả Đỗ Thị Phương Thảo, Vũ Diệu Hương, Vũ Thị Lê,
tìm hiểu vấn đề “Phát triển năng lực thích ứng với cuộc sống thông qua tổ chức hoạt
động trải nghiệm, sáng tạo trong dạy học toán cho học sinh tiểu học”. [24]
12


13
Những kết quả nghiên cứu trên đây đều hướng vào việc tổ chức các hoạt động
trải nghiệm cho học sinh phổ thông, tuy nhiên trong phạm vi hiểu biết của chúng tôi
chưa có kết quả nghiên cứu nào về thiết kế hoạt động trải nghiệm cho học sinh lớp 3
trong dạy học môn Toán.
1.2. Một số quan niệm cơ bản về hoạt động trải nghiệm

1.2.1. Hoạt động

Có nhiều định nghĩa khác nhau về hoạt động:
- Theo sinh lý học: Hoạt động là sự tiêu hao năng lượng, thần kinh và cơ bắp
của con người tác động vào hiện thực khách quan nhằm thỏa mãn nhu cầu của mình.
- Theo quan điểm của triết học: Hoạt động là mối quan hệ tác động qua lại giữa
con người và thế giới (khách thể) để tạo ra sản phẩm về phía thế giới và về phía con
người. Mối quan hệ đó có 2 quá trình:
+ Quá trình đối tượng hóa: Chủ thể chuyển năng lực của mình thành sản phẩm
hoạt động. Tâm lý của con người được bộc lộ, được khách quan hóa trong quá trình
làm ra sản phẩm.
+ Quá trình chủ thể hóa: Chủ thể chuyển nội dung khách thể (quy luật, bản chất
của sự vật) vào bản thân mình tạo nên tâm lý, ý thức, nhân cách của bản thân. Là quá
trình con người chiếm lĩnh (lĩnh hội) thế giới.
Như vậy theo quan điểm này con người tạo ra sản phẩm về phía thế giới, vừa
tạo ra tâm lý của mình, lĩnh hội nhưng tri thức, kĩ năng mới trong quá trình thực hiện
hoạt động.
- Theo từ điển Tiếng Việt: Hoạt động là sự vận động, cử động nhằm một mục
đích nào đó. [22]
1.2.2. Trải nghiệm

Trong các nghiên cứu tâm lý học, trải nghiệm thường được coi là năng lực của
cá nhân. Platon K.K. nhận định trải nghiệm cũng như sự tích lũy của hiểu biết và năng
lực (cá nhân, nhóm) hình thành trong quá trình hoạt động, đào tạo và giáo dục, trong
đó tổng hợp những kiến thức, kĩ năng, khả năng và thói quen. [5]
Theo John Dewey kinh nghiệm cá nhân được xem xét ở hai khía cạnh: trải
nghiệm như hoạt động và kết quả thu được qua trải nghiệm. Theo ý kiến này trải
nghiệm là quá trình cá nhân tiếp xúc trực tiếp với sự vật, hiện tượng trong môi trường
13



14
tự nhiên và xã hội, vận dụng vốn kinh nghiệm cá nhân và sử dụng các giác quan để
quan sát, tương tác với đối tượng tạo nên nhận thức mới cho họ. [18]
Theo quan điểm của triết học, sự trải nghiệm được hiểu là kết quả của sự tương
tác giữa con người với thế giới khách quan. Sự tương tác này bao gồm cả hình thức và
kết quả các hoạt động thực tiễn trong xã hội, bao gồm cả kĩ thuật và kĩ năng, cả những
nguyên tắc hoạt động và phát triển thế giới khách quan. Nhà triết học vĩ đại người Nga
Solovyev V.S. quan niệm rằng trải nghiệm là kiến thức kinh nghiệm thực tế, là thể
thống nhất bao gồm kiến thức và kĩ năng. Trải nghiệm là kết quả của sự tương tác giữa
con người và thế giới, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.[5]
Theo Từ điển Tiếng Việt: “trải” là đã từng biết đến, “kinh nghiệm” là điều hiểu
biết có được do tiếp xúc với thực tế, do từng trải. Vậy theo cách hiểu này: Trải nghiệm
là những kinh nghiệm mà con người tích lũy được qua quá trình sống, thực chứng các
sự vật, hiện tượng xảy ra trong quá khứ. [22]
Theo Wikipedia kinh nghiệm hay “trải nghiệm”, là tri thức hay sự thông thạo về
một sự kiện hay một chủ đề có được thông qua tham gia sự tiếp xúc trực tiếp.
Kinh: trải qua, từng qua. Nghiệm: ngẫm, suy xét hay chứng thực. Kinh nghiệm: đã
nghiệm qua. Trải nghiệm là tiến trình hay là quá trình hoạt động năng động để thu thập
kinh nghiệm. Trong triết học, những thuật ngữ như "tri thức thực chứng" hay "tri thức
tiên nghiệm," được dùng để chỉ tri thức có được dựa trên kinh nghiệm. [15]
- Khái niệm “Trải nghiệm” dưới góc nhìn sư phạm được hiểu theo một số ý
nghĩa sau:
+ Trải nghiệm là một hệ thống kiến thức và kĩ năng có được trong quá trình
giáo dục và đào tạo chính quy.
+ Trải nghiệm là kiến thức, kĩ năng mà HS nhận được bên ngoài các cơ sở giáo
dục: thông qua sự giao tiếp với nhau, với người lớn, hay qua những tài liệu tham khảo
không được giảng dạy trong nhà trường…
+ Trải nghiệm qua thực nghiệm, thử nghiệm là một trong những phương pháp
đào tạo, trong điều kiện thực tế hay lý thuyết nhất định, để thiết lập hoặc minh họa cho

một quan điểm lý luận cụ thể. Đây là một trong những phương pháp đào tạo, trong
điều kiện thực tế hay lý thuyết nhất định, để thiết lập hoặc minh họa cho một quan
điểm lý luận cụ thể.
14


15
+ Trải nghiệm là kiến thức, kĩ năng mà HS nhận được bên ngoài các cơ sở giáo
dục thông qua sự giao tiếp với nhau, với người lớn, hay qua những tài liệu tham khảo
không được giảng dạy trong nhà trường…
- Một số nhà nghiên cứu sư phạm xem xét thuật ngữ trải nghiệm qua khái niệm
“thực hành” (practice), xem xét nó trong việc tiến hành quá trình đào tạo cũng như kết
quả của nó. Nhà nghiên cứu M. N Skatkin cho rằng: Theo nghĩa rộng, trải nghiệm là
sự thực hành trong quá trình đào tạo và giáo dục. Tuy nhiên một số nhà sư phạm khác
phân định trải nghiệm và thực hành như sau:
+ Trải nghiệm: là kiến thức hay sự thành thạo một sự kiện hoặc một chủ đề
bằng cách tham gia hay chiếm lĩnh nó.
+ Thực hành: là việc vận dụng những kiến thức lý luận được học vào một bối
cảnh mới của thực tiễn. Thông qua việc thực hành người học chính xác hóa và củng cố
kiến thức thu được, hiểu kiến thức lý luận sâu sắc hơn và đồng thời chiếm lĩnh được
một số kĩ năng thực hiện.
1.2.3. Hoạt động trải nghiệm
Theo Phạm Quang Tiệp, “Hoạt động trải nghiệm là hoạt động giáo dục, trong
đó học sinh dựa trên sự tổng hợp kiến thức của nhiều lĩnh vực giáo dục và nhóm kĩ
năng khác nhau để trải nghiệm thực tiễn đời sống nhà trường, gia đình và tham gia
hoạt động phục vụ cộng đồng dưới sự hướng dẫn và tổ chức của nhà giáo dục, qua đó
hình thành những phẩm chất chủ yếu, năng lực chung và một số năng lựcbthành phần
đặc thù của hoạt động này: năng lực thiết kế và tổ chức hoạt động; năng lực thích ứng
với sự biến động của nghề nghiệp và cuộc sống” [25].
Theo [5] “Hoạt động trải nghiệm” là các hoạt động thực tiễn được tiến hành

song song với hoạt động dạy học trong nhà trường và là một bộ phận của quá trình
giáo dục. Hoạt động trải nghiệm được tổ chức ngoài giờ lên lớp và có mối quan hệ bổ
sung, hỗ trợ cho hoạt động dạy học. Tham gia vào hoạt động trải nghiệm học sinh
được phát huy vai trò chủ thế, tính tích cực chủ động, sáng tạo của bản thân.
Theo [3] “Hoạt động trải nghiệm” là quá trình học sinh tham gia hoạt động
nhận thức, khám phá, phát hiện,… trong quá trình học sinh gia nhập vào các hoạt động
đa dạng. Tổ chức hoạt động trải nghiệm cho học sinh là hoạt động giáo dục dưới sự
hướng dẫn và tổ chức của các nhà giáo dục. Học sinh được tham gia trực tiếp tham gia
vào các hoạt động thực tiễn khác nhau của gia đình, nhà trường, xã hội với tư cách là
chủ thể của hoạt động. Từ đó phát triển năng lực cá nhân, hình thành và phát triển các
nét phẩm chất tích cực, phát huy tiềm năng sáng tạo của mỗi học sinh.
15


16
- Theo “Chương trình giáo dục phổ thông; Hoạt động trải nghiệm và Hoạt động
trải nghiệm, Hướng nghiệp” của Bộ Giáo dục và đào tạo: Hoạt động trải nghiệm ở tiểu
học và Hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp ở trung học cơ sở và trung học phổ thông
(sau đây gọi chung là Hoạt động trải nghiệm) là các hoạt động giáo dục bắt buộc, trong
đó học sinh dựa trên sự huy động tổng hợp kiến thức và kĩ năng từ nhiều lĩnh vực giáo
dục khác nhau để trải nghiệm thực tiễn đời sống nhà trường, gia đình, xã hội, tham gia
hoạt động hướng nghiệp và hoạt động phục vụ cộng đồng dưới sự hướng dẫn và tổ
chức của nhà giáo dục, qua đó hình thành những phẩm chất chủ yếu, năng lực chung
và một số năng lực thành phần đặc thù của hoạt động này như: năng lực thiết kế và tổ
chức hoạt động, năng lực định hướng nghề nghiệp, năng lực thích ứng với những biến
động trong cuộc sống và các kĩ năng sống khác.
Khóa luận sử dụng quan niệm theo “Chương trình giáo dục phổ thông; Hoạt
động trải nghiệm và Hoạt động trải nghiệm, Hướng nghiệp” của Bộ Giáo dục và
đào tạo.
1.2.4. Đặc điểm của hoạt động trải nghiệm [5]

- Giáo dục trải nghiệm có đặc điểm:
+ Quá trình học trải nghiệm diễn ra khi trải nghiệm được lựa chọn kĩ càng và
sau khi thực hiện tổng kết bởi quá trình chia sẻ, phân tích tổng quát và áp dụng.
+ Người học được sử dụng hoàn toàn trí tuệ, thể chất, cảm xúc, các kĩ năng, các
mối quan hệ xã hội,... trong quá trình tham gia.
+ Người học tích cực giải quyết vấn đề, sáng tạo, tự học, tự chủ.
+ Kết quả trải nghiệm không quan trọng bằng quá trình thực hiện và lĩnh hội
được từ trải nghiệm đó.
+ Kết quả đạt được là của cá nhân học sinh, trở thành nền tảng cho các em tiếp
tục học tập, hoạt động các nội dung khác.
- Hoạt động trải nghiệm cho học sinh có đặc điểm:
+ Hoạt động trải nghiệm mang tính sáng tạo và phân hóa cao.
+ Được thực hiện dưới nhiều hình thức đa dạng.
+ Đòi hỏi sự phối hợp giữa nhiều lực lượng giáo dục: nhà trường, gia đình, các
lực lượng xã hội khác.
+ Quá trình học mang tính tích cực, chủ động, sáng tạo và hiệu quả.
+ Học sinh lĩnh hội những kinh nghiệm mà các hình thức học tập khác không
thực hiện được.
1.3. Một số vấn đề về tổ chức hoạt động trải nghiệm toán học
1.3.1. Một số phương pháp có thể sử dụng trong tổ chức hoạt động trải nghiệm toán

16


17
học
a) Phương pháp trực quan
* Khái niệm:
- Phương pháp trực quan trong dạy học toán ở tiểu học là một phương pháp dạy
học, trong đó giáo viên tổ chức hướng dẫn cho học sinh trực tiếp hoạt động trên các

phương tiện, đồ dùng dạy học, từ đó giúp học sinh hình thành kiến thức và kĩ năng cần
thiết của môn toán. [8]
* Đặc điểm:
- Chủ yếu sử dụng trong khi hình thành kiến thức mới, những nội dung có tính
chất trừu tượng.
- Không thể sử dụng tùy tiện mà phải thỏa mãn một số yêu cầu:
+ Không thể thiếu phương tiện, đồ dùng dạy học.
+ Các đồ dùng phải phù hợp với yêu cầu của bài học, dễ làm, dễ kiếm.
+ Đồ dùng cần đảm bảo tính thẩm mĩ nhưng không quá cầu kì về hình thức, làm
phân tán sự tập trung của học sinh.
+ Các đồ dùng phải được sử dụng đúng lúc, đúng chỗ,
+ Không quá đề cao các phương tiện trực quan trong dạy học.
* Ưu điểm:
- Đồ dùng trực quan giúp học sinh nhớ kĩ, hiểu lâu những hình ảnh, kiến thức.
- Phát triển khả năng quan sát, trí tưởng tượng, phát triển tư duy và ngôn ngữ
của học sinh.
* Hạn chế:
- Đòi hỏi nhiều thời gian.
- Nếu không sử dụng các đồ dùng trực quan khéo léo sẽ làm phân tán chú ý của
học sinh.
- Nếu giáo viên không định hướng cho học sinh quan sát sẽ dẫn đến tình trạng
học sinh sa đà vào những chi tiết nhỏ lẻ, không quan trọng.
b) Phương pháp tổ chức nhóm học tập tương tác
* Khái niệm:
- Tổ chức nhóm học tập tương tác còn được gọi bằng những tên khác nhau như:
Dạy học hợp tác, Dạy học theo nhóm nhỏ, trong đó học sinh của một lớp học được
chia thành các nhóm nhỏ, trong khoảng thời gian giới hạn, mỗi nhóm tự lực hoàn
17



18
thành các nhiệm vụ học tập trên cơ sở phân công và hợp tác làm việc. Kết quả làm
việc của nhóm sau đó được trình bày và đánh giá trước toàn lớp. [16]
* Đặc điểm:
- Thảo luận nhóm là một phương pháp dạy học hiện đại, lấy người học làm
trung tâm.
- Người học được làm việc cùng nhau theo các nhóm nhỏ và mỗi một thành
viên trong nhóm đều có cơ hội tham gia vào giải quyết các nhiệm vụ học tập trong một
khoảng thời gian nhất định dưới sự hướng dẫn, lãnh đạo của giáo viên.
* Ưu điểm:
- Học sinh được học cách cộng tác làm việc nhóm trên nhiều phương diện.
- Học sinh được nêu quan điểm của mình, được nghe quan điểm của bạn khác
trong nhóm, trong lớp, được trao đổi, bàn luận về các ý kiến khác nhau và đưa ra lời
giải tối ưu cho nhiệm vụ được giao cho nhóm. Qua cách học đó, kiến thức của học
sinh sẽ bớt phần chủ quan, phiến diện, làm tăng tính khách quan khoa học, tư duy phê
phán của hs được rèn luyện và phát triển.
- Các thành viên trong nhóm chia sẻ các suy nghĩ, băn khoăn, kinh nghiệm, hiểu
biết của bản thân, cùng nhau xây dựng nhận thức, thái độ mới và học hỏi lẫn nhau.
Kiến thức trở nên sâu sắc, bền vững, dễ nhớ và nhớ nhanh hơn do được giao lưu, học
hỏi giữa các thành viên trong nhóm, được tham gia trao đổi, trình bày vấn đề nêu ra.
Học sinh hào hứng khi có sự đóng góp của mình vào thành công chung của cả lớp.
- Nhờ không khí thảo luận cởi mở nên học sinh, đặc biệt là những em nhút nhát,
trở nên bạo dạn hơn, các em học được trình bày ý kiến của mình, biết lắng nghe có phê
phán ý kiến của bạn, từ đó các em dễ hòa nhập vào cộng đồng nhóm, tạo cho các em
sự tự tin, hứng thú trong học tập và sinh hoạt.
- Vốn hiểu biết và kinh nghiệm xã hội của học sinh thêm phong phú, kĩ năng
giao tiếp, kĩ năng hợp tác của hs được phát triển.
* Hạn chế:
- Nếu giáo viên không phân công hợp lí có thể dẫn đến tình trạng chỉ có một vài
học sinh khá tham gia còn đa số học sinh khác không hoạt động.

- Ý kiến các nhóm có thể quá phân tán hoặc mâu thuẫn gay gắt với nhau.
- Với những lớp có sĩ số đông hoặc lớp học chật hẹp khó tổ chức hoạt động nhóm.
c) Phương pháp dạy học dự án
18


19
* Khái niệm:
- Dạy học dự án là hình thức tổ chức dạy học hướng vào học sinh, lấy học sinh
làm trung tâm.
- Trong dạy học dự án, học sinh tự nghiên cứu, tự thực hiện một nhiệm vụ học
tập do giáo viên đưa ra hoặc giáo viên cùng với học sinh đưa ra để hình thành các kiến
thức và các kĩ năng cần thiết.
- Các hoạt động học tập trong dạy học dự án được thiết kế cẩn thận, theo sát
chương trình học, có phạm vi kiến thức liên môn và quan trọng nhất phải gắn với một
vấn đề thực tiễn nghề nghiệp hay cuộc sống xung quanh.
- Phải tạo ra được những giải pháp khả thi để giải quyết vấn đề.
Như vậy có thể thấy “Dạy học dự án là phương pháp dạy học mà người giáo
viên xây dựng ra tình huống có vấn đề từ thực tiễn cuộc sống xung quanh liên quan
đến nội dung học tập, từ đó đặt học sinh vào nhiệm vụ phải tự tìm ra giải pháp khả thi
để giải quyết tình huống với sự hỗ trợ của giáo viên. Thông qua quá trình tìm giải pháp
học sinh sẽ chiếm lĩnh được các nội dung học tập cùng các kĩ năng mềm cho bản
thân”. [16]
* Đặc điểm:
- Định hướng thực tiễn và nghề nghiệp: Chủ đề của các dự án học tập xuất phát
từ những tình huống của thực tiễn xã hội, thực tiễn nghề nghiệp cũng như thực tiễn đời
sống. Nhiệm vụ của các dự án học tập cần chứa đựng những vấn đề phù hợp với trình
độ và khả năng của người học. Các dự án học tập gắn việc học tập trong nhà trường
với thực tiễn đời sống và xã hội.
- Định hướng hứng thú người học: Người học khi tham gia được phép lựa chọn

đề tài, những nội dung học tập giúp người học giải quyết được vấn đề. Từ đó người
học sẽ thấy hứng thú hơn với việc học.
- Định hướng hành động: Trong quá trình thực hiện dự án học tập có sự kết hợp
giữa nghiên cứu lý thuyết và vận dụng lý thuyết vào trong hoạt động thực tiến và thực
hành qua đó rèn luyện kĩ năng hành động và kinh nghiệm thực tiễn cho người học.
- Định hướng sản phẩm: Trong quá trình thực hiện các dự án học tập, học sinh
tạo ra các sản phẩm của cá nhân hoặc sản phẩm của nhóm.

19


20
- Có khả năng tích hợp cao: Có thể kết hợp nhiều hình thức tổ chức dạy học
như phát hiện và giải quyết vấn đề, dạy học hợp tác, dạy học trong môi trường công
nghệ thông tin,...
- Không bị ràng buộc chặt chẽ về không gian và thời gian.
- Tạo ra môi trường học tâp tương tác.
* Ưu điểm:
- Đối với giáo viên:
+ Góp phần nâng cao tính chuyên nghiệp và sự hợp tác với đồng nghiệp trong
quá trình dạy học, tạo cơ hội xây dựng các mối quan hệ với học sinh.
+ Đưa ra các mô hình triển khai, cho phép hỗ trợ các đối tượng học sinh đa
dạng bằng việc tạo ra nhiều cơ hội học tập.
- Đối với học sinh:
+ Tăng tính chuyên cần, nâng cao tính tự lực và thái độ học tập cho học sinh.
+ Học sinh có cơ hội phát triển những kĩ năng như giải quyết vấn đề, hợp tác,
giao tiếp.
+ Lĩnh hội được các kĩ năng nghiên cứu và các kĩ năng quan sát mà bản thân
khó tiếp cận được qua phương pháp dạy học truyền thống.
+ Tích cực học tập.

- Đối với quá trình dạy học:
+ Gắn kết lý thuyết với thực hành, tư duy và hành động, nhà trường và xã hội.
* Hạn chế:
- Không phải nội dung nào trong chương trình cũng có thể tổ chức hoạt động
dạy học dự án một cách hiệu quả.
- Giáo viên cần nhiều thời gian chuẩn bị các vấn đề liên quan đến dự án học tập.
- Học sinh cần nhiều thời gian để nghiên cứu, tìm hiểu và hoàn thành dự án học
tập đã đề ra.
d) Phương pháp phát hiện và giải quyết vấn đề
* Khái niệm:
- Dạy học phát hiện và giải quyết vấn đè là phương pháp dạy học trong đó giáo
viên tạo ra những tình huống có vấn đề, điều khiển học sinh phát hiện vấn đề, hoạt
động tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo để giải quyết vấn đề. Thông qua đó chiếm
lĩnh tri thức, rèn luyện kĩ năng và đạt được những mục đích học tập khác. [16]
20


21
* Đặc điểm:
- Đặc điểm cơ bản của dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề là tình huống gợi
vấn đề”.
- “Tình huống gợi vấn đề” là một tình huống gợi ra cho học sinh nhũng khó
khăn về mặt lý luận hay thực hành mà họ thấy cần có khả năng vượt qua, nhưng không
phải ngay tức khắc mà bằng một thuật giải, một quá trình tích cực suy nghĩ, hoạt động
để biến đổi đối tượng hoặc điều chỉnh kiến thức đã có.
* Ưu điểm:
- Góp phần tích cực vào việc rèn luyện tư duy phê phán, tư duy sáng tạo cho
học sinh.
- Học sinh huy động được tri thức và khả năng cá nhân, khả năng hợp tác, trao
đổi, thảo luận với bạn bè để tìm ra cách giải quyết tốt nhất.

* Hạn chế:
- Đòi hỏi phải đầu tư nhiều thời gian và công sức, giáo viên phải có năng lực sư
phạm tốt mới suy nghĩ ra được nhiều tình huống có vấn đề.
- Chỉ có một số tri thức và phương pháp hoạt động nhất định, được lựa chọn
khéo léo và có cơ sở mới trở thành đối tượng của phương pháp dạy học này.
e) Phương pháp dạy học theo lý thuyết kiến tạo
* Khái niệm:
- Dạy học theo lý thuyết kiến tạo là phương pháp dạy học trong đó học sinh là
chủ thể tích cực xây dựng nên kiến thức cho bản thân mình chứ không phải chỉ thu
nhận một cách chủ động từ môi trường bên ngoài. Điều quan trọng nhất là trong quá
trình xây dựng kiến thức cho bản thân, học sinh cần dựa trên những kiến thức hoặc
kinh nghiệm đã có từ trước. Trong quá trình này, học sinh vận dụng những kiến thức
mới nhận được vào kiến thức hiện có. [16]
* Đặc điểm:
- Học sinh phải là chủ thể tích cực kiến tạo nên kiến thức của bản thân mình
dựa trên tri thức hoặc kinh nghiệm đã có từ trước.
- Quá trình kiến tạo mang tính chất cá thể, ngay trong cùng một hoàn cảnh thì
kiến tạo tri thức của mỗi học sinh cũng khác nhau.
* Ưu điểm:
- Là phương pháp dạy học tích cực, lấy học sinh làm trung tâm.
21


22
- Giúp học sinh được trải nghiệm, tiếp cận vấn đề, huy động nguồn tri thức,
kinh nghiệm, sử dụng nguồn tri thức đó một cách hữu ích.
- Tạo ra sản phẩm kép. Học sinh không chỉ nắm tri thức một cách vững chắc mà
còn biết cách tìm ra tri thức đó.
- Học sinh được phát triển các kĩ năng giao tiếp, tìm kiếm và chia sẻ thông tin,
kĩ năng hợp tác nhóm, phát triển các kĩ năng trình bày các giải pháp,...

* Hạn chế:
- Việc đưa ra các kĩ năng cơ bản vào các đề tài phức tạp mà không có luyện tập
cơ bản có thể hạn chế hiệu quả trong học tập.
- Dạy học theo lý thuyết kiến tạo đòi hỏi phải có thời gian lớn.
f) Phương pháp tổ chức trò chơi học tập
* Khái niệm:
- Phương pháp tổ chức trò chơi học tập là phương pháp giáo viên thông qua
việc tổ chức các trò chơi có liên quan đến nội dung bài học, có tác dụng phát huy tính
tích cực nhận thức, gây hứng thú học tập cho học sinh. Qua trò chơi học sinh tiếp thu
kiến thức một cách nhẹ nhàng, tự nhiên, đồng thời qua trò chơi các em phát triển tính
tự giác. [16]
* Đặc điểm:
- Học sinh phải sử dụng các giác quan để thực hiện trò chơi học tập.
- Là một trong những phương pháp dạy học tích cực thay đổi không khí học tập
thoải mái và dễ chịu.
- Trò chơi được tổ chức được chuẩn bị kĩ càng, các dụng cụ chơi cần đơn giản,
dễ kiếm.
* Ưu điểm:
- Trò chơi có nhiều học sinh tham gia sẽ tạo cơ hội cho các em rèn luyện kĩ
năng hợp tác.
- Là hình thức học tập bằng hoạt động do đó duy trì tốt hơn sự chú ý của các em
đối với bài học.
- Giảm tính căng thẳng, phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh.
* Hạn chế:
- Khó củng cố kiến thức bài học một cách hệ thống.
- Học sinh dễ sa đà vào trò chơi mà quên mất nhiệm vụ học tập.
22


23

1.3.2.

Các dạng hoạt động trải nghiệm chủ yếu
Hoạt động trải nghiệm cho học sinh có thể được phân thành hai dạng cơ bản
như sau:
- Trải nghiệm trong tổ chức hoạt động dạy học, bao gồm:
+ Trải nghiệm trong quá trình dạy học phần nội dung kiến thức của môn học
hay một bài học.
+ Trải nghiệm trong tổ chức thực hiện một chủ đề tích hợp liên môn.
- Trải nghiệm giáo dục: Hoạt động trải nghiệm được tổ chức trong và ngoài lớp
học, trong và ngoài trường học; theo quy mô nhóm, lớp học, khối lớp hoặc quy mô
trường; với các hình thức tổ chức chủ yếu: thực hành nhiệm vụ ở nhà, sinh hoạt tập thể
(sinh hoạt dưới cờ; sinh hoạt lớp; sinh hoạt Sao Nhi đồng, Đội Thiếu niên Tiền phong
Hồ Chí Minh, dự án, làm việc nhóm, trò chơi, giao lưu, diễn đàn, hội thảo, câu lạc bộ,
cắm trại, tham quan, thực hành lao động, hoạt động thiện nguyện… Cơ sở giáo dục
quyết định lựa chọn những nội dung, hình thức hoạt động trong chương trình phù hợp
với điều kiện của nhà trường và địa phương.

1.3.3.

Một số hình thức hoạt động trải nghiệm toán học chủ yếu
a) Hoạt động câu lạc bộ toán học
- Câu lạc bộ toán học là hình thức sinh hoạt ngoại khóa của những nhóm học
sinh cùng sở thích học toán, có nhu cầu, năng khiếu học tập toán, dưới sự định hướng
của những nhà giáo dục (có thể là giáo viên, phụ huynh hoặc nhà giáo dục, nhà khoa
học) nhằm tạo môi trường giao lưu thân thiện, tích cực giữa các học sinh với nhau và
giữa học sinh với giáo viên, với những người lớn khác.
- Tác dụng của hình thức hoạt động câu lạc bộ:
+ Hoạt động của câu lạc bộ tạo cơ hội để học sinh được chia sẻ những kiến
thức, hiểu biết của mình về toán học mà học sinh quan tâm.

+ Phát triển các kĩ năng của học sinh như: kĩ năng giao tiếp, kĩ năng lắng nghe
và biểu đạt ý kiến, kĩ năng trình bày suy nghĩ, ý tưởng, kĩ năng viết bài, kĩ năng chụp
ảnh, kĩ năng hợp tác, làm việc nhóm, kĩ năng ra quyết định và giải quyết vấn đề,...
+ Câu lạc bộ toán học giúp học sinh có điều kiện tiếp cận với toán học, giúp các
em phát huy năng lực toán học của mình và tiếp cận nhanh nhất, nhớ lâu, hiểu sâu các
vấn đề toán học.
23


24
- Câu lạc bộ toán học hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, thống nhất, có lịch
sinh hoạt định kì. Có thể tổ chức ở tiểu học theo khối lớp, theo Trường... Tên của câu
lạc bộ có thể đặt: “Câu lạc bộ Toán tuổi thơ”, “Câu lạc bộ Toán 1, 2, 3...”.
- Hình thức sinh hoạt câu lạc bộ có thể là Hội vui học tập, Hái hoa dân chủ, Giải
ô chữ, Rung chuông vàng, Tọa đàm, Hội thảo, Thảo luận về một đề tài được lựa chọn.
- Nội dung sinh hoạt câu lạc bộ:
+ Các bài toán, câu chuyện lịch sử toán học. Xem các bộ phim về lịch sử toán
học hay về các nhà toán học.
+ Giải các câu đố trí tuệ, logic, các câu đố IQ phù hợp, làm thơ về Toán.
- Ngoài câu lạc bộ toán học, ở tiểu học còn có các câu lạc bộ khác như câu lạc
bộ học thuật các môn học khác, câu lạc bộ thể dục thể thao, câu lạc bộ văn hóa nghệ
thuật,... có thể tích hợp giáo dục toán học thông qua hoạt động của các câu lạc bộ này.
b) Tổ chức trò chơi học tập
- Trò chơi học tập là hình thức tổ chức các hoạt động vui chơi với nội dung kiến
thức thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, có tác dụng giáo dục “chơi mà học, học mà
chơi”. Qua trò chơi giúp học sinh quan tâm, hứng thú đến nội dung của chủ đề từ đó
giúp học sinh tìm cách tiếp cận, tự học và bộc lộ hết khả năng một cách tự nhiên, đảm
bảo đầy đủ “hành động” và “cảm xúc”.
- Trò chơi có thể được sử dụng trong nhiều tình huống khác nhau của hoạt động
trải nghiệm như làm quen, khởi động, dẫn nhập vào nội dung học tập, cung cấp và tiếp

nhận tri thức, đánh giá kết quả, rèn luyện các kĩ năng và củng cố những tri thức đã
được tiếp nhận,...
- Tác dụng của hình thức tổ chức trò chơi:
+ Trò chơi giúp phát huy tính sáng tạo, hấp dẫn và gây hứng thú cho học sinh.
+ Giúp học sinh dễ tiếp thu kiến thức mới, chuyển tải nhiều tri thức của nhiều
lĩnh vực khác nhau.
+ Tạo được bầu không khí thân thiện, tạo cho các em tác phong nhanh nhẹn.
c) Tổ chức diễn đàn
- Diễn đàn là một hình thức tổ chức hoạt động được sử dụng để thúc đẩy sự
tham gia của học sinh thông qua việc các em trực tiếp, chủ động bày tỏ ý kiến của
mình với đông đảo bạn bè, nhà trường, thầy cô giáo, cha mẹ và những người lớn khác
có liên quan.
24


25
- Tác dụng của hình thức tổ chức diễn đàn:
+ Qua diễn đàn, học sinh có cơ hội bày tỏ suy nghĩ, ý kiến, quan niệm hay
những câu hỏi, đề xuất của mình về các vấn đề học toán, học hình học thể hiện nhu
cầu, hứng thú, nguyện vọng của các em.
+ HS có thể chia sẻ kinh nghiệm học tập của mình.
+ Giáo viên, phụ huynh có cơ hội trao đổi, hiểu biết hơn về tâm tư, nguyện
vọng, khó khăn trong học Toán để có biện pháp giúp đỡ, hỗ trợ học sinh.
- Diễn đàn được tổ chức linh hoạt, phong phú và đa dạng với những hình thức
hoạt động cụ thể, phù hợp với học sinh, trong những dịp kỉ niệm ngày thành lập, ngày
lễ lớn, có thể ở buổi sơ kết, tổng kết năm học hoặc hướng dẫn các em tham gia diễn
đàn trên báo Toán Tuổi thơ, báo Nhi đồng, báo Thiếu niên...
d) Sân khấu tương tác
- Sân khấu tương tác là một hình thức nghệ thuật tương tác dựa trên hoạt động
diễn kịch, trong đó vở kịch chỉ có phần mở đầu đưa ra tình huống, phần còn lại được

sáng tạo bởi những người tham gia. Phần trình diễn chính là một cuộc chia sẻ, thảo
luận giữa những người thực hiện và khán giả, trong đó đề cao tính tương tác hay sự
tham gia của khán giả.
- Mục đích của hình thức sân khấu tương tác là nhằm tăng cường nhận thức,
thúc đẩy để học sinh đưa ra quan điểm, suy nghĩ và cách xử lí tình huống thực tế gặp
phải trong bất kì nội dung nào của cuộc sống.
- Tác dụng của hình thức sân khấu tương tác:
+ Thông qua sân khấu tương tác, sự tham gia của học sinh được tăng cường và
thúc đẩy, tạo cơ hội cho học sinh rèn luyện những kĩ năng như: kĩ năng phát hiện vấn
đề, phân tích vấn đề, kĩ năng ra quyết định và giải quyết vấn đề, khả năng sáng tạo khi
giải quyết tình huống và khả năng ứng phó với những thay đổi của cuộc sống. [5]
+ Sử dụng sân khấu tương tác, học sinh có thể tổ chức diễn kịch về lịch sử toán
học, kể các mẩu chuyện về các nhà toán học, các câu chuyện gắn với các bài toán nổi
tiếng... qua đó HS hiểu biết, yêu thích toán học hơn ngoài ra còn phát triển các năng
lực như sân khấu hóa, thiết kế mĩ thuật, ánh sáng, màu sắc, năng lực ngôn ngữ, năng
lực biểu diễn, tương tác, kết nối với người khác...
+ Sân khấu tương tác thường được tổ chức với quy mô lớn ở tổng kết câu lạc bộ
toán học,...
25


×