Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

BẢI TIỂU LUẬN CUỐI KHÓA THƯ KÝ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.93 KB, 24 trang )

HỌC VIỆN TƯ PHÁP
TRUNG TÂM BỒI DƯỠNG CÁN BỘ
-------------------

BÀI TIỂU LUẬN
Lớp bồi dưỡng ngạch Thư ký thi hành án dân sự khóa IV
Chuyên đề: Anh/chị hãy phân tích quy định của pháp luật về các
biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự. Lấy tình huống cụ thể và
liên hệ thực tiễn áp dụng các biện pháp bảo đảm trong thi hành án
dân sự tại địa phương nơi anh/chị công tác để phân tích, chứng minh.

Họ và tên: Dương Văn Duy
Sinh ngày: 17 tháng 7 năm 1989
Cơ quan công tác: Chi cục Thi hành án dân sự quận Tân Bình,
Thành phố Hồ Chí Minh

Tp. Hồ Chí Minh, ngày 14 tháng 11 năm 2016.
1


I. MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài.
Bản án, quyết định của Tòa án thể hiện quyền lực của Nhà nước trong việc
quản lý xã hội nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước và các chủ thể liên
quan, bảo đảm trật tự, kỷ cương xã hội. Khi bản án, quyết định của Tòa án được
thực thi trên thực tế thì công lý mới trở thành hiện thực, trật tự pháp luật mới được
khôi phục.
Hoạt động thi hành án dân sự là hoạt động đưa bản án, quyết định của Tòa án,
Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh, Trọng tài thương mại ra thi hành trên thực tế.
Hoạt động thi hành án dân sự là khâu cuối cùng trong hoạt động tố tụng, bảo đảm


cho bản án, quyết định của Tòa án được thi hành, góp phần đảm bảo tính nghiêm
minh của pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp
của cơ quan, tổ chức, cá nhân, lợi ích của nhà nước; góp phần giữ vững ổn định
tình hình chính trị - xã hội, tăng cường hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước.
Cơ quan thi hành án dân sự là cơ quan có nhiệm vụ, quyền hạn đưa ra thi hành
những bản án, quyết định của Tòa án được quy định tại Điều 1 và Điều 2 của Luật
Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 bao gồm: Bản án, Quyết định
dân sự, hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, xử lý
tài sản, vật chứng, án phí và Quyết định dân sự trong bản án, quyết định hình sự;
phần tài sản trong bản án, quyết định hành chính của Toà án; Quyết định của Tòa
án giải quyết phá sản; Quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ
việc cạnh tranh và Quyết định của Trọng tài thương mại đã có hiệu lực pháp luật và
cả những bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm được thi hành ngay mặc dù có
thể bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật.
Trong hoạt động chuyên môn, cơ quan thi hành án – chấp hành viên thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương
sự và bảo đảm hiệu lực thi hành bản án, quyết định của Tòa án theo nguyên tắc quy
định tại Điều 106 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi năm 2013: “Bản án, quyết định của
Toà án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn
trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”. Đồng
2


thời Điều 4 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 cũng quy
định “Bản án, quyết định quy định tại Điều 2 của Luật này phải được cơ quan, tổ
chức và mọi công dân tôn trọng; Cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan trong
phạm vi trách nhiệm của mình chấp hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định và phải
chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thi hành án”. Tuy nhiên, trên thực tế việc
đưa ra thi hành những bản án, quyết định của Tòa án không phải lúc nào cũng gặp
những thuận lợi, dễ dàng, Chấp hành viên đã gặp rất nhiều trường hợp người phải

thi hành án có tài sản nhưng cố tình trốn tránh, tẩu tán, hủy hoại tài sản dẫn đến
không còn điều kiện thi hành án.
Giai đoạn hiện nay đất nước ta đang xây dựng và phát triển một nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự hội nhập sâu, rộng với nền kinh tế
thế giới, các giao dịch thương mại, dân sự ngày càng đa dạng và sôi động. Quá
trình chuyển dịch tài sản diễn ra rất nhanh chóng, không còn bó hẹp trong phạm vi
lãnh thổ quốc gia, cho nên để giám sát được quá trình này cũng là vấn đề khá phức
tạp. Ngoài ra, các đương sự trong các vụ việc thi hành án thường không tự nguyện
thi hành án, có tâm lý chây ỳ, trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ trong bản án,
quyết định nên rất dễ dẫn đến những hành vi tẩu tán, huỷ hoại tài sản nhằm làm
mất đi điều kiện thi hành án. Để ngăn chặn những hành vi đó, cơ quan thi hành án
dân sự cần áp dụng các biện pháp phù hợp như các biện pháp bảo đảm thi hành án.
Việc áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án có ưu điểm nhanh chóng về thời gian,
đơn giản về thủ tục nên kịp thời ngăn chặn hành vi tẩu tán, huỷ hoại tài sản, đảm
bảo cho cơ quan thi hành án có điều kiện áp dụng các biện pháp cưỡng chế để thi
hành án và tính răn đe của biện pháp bảo đảm góp phần thúc đẩy người phải thi
hành án tự nguyện thi hành nghĩa vụ của mình.
Chính vì nhận thức được tầm quan trọng của việc áp dụng biện pháp bảo
đảm đối với quá trình tổ chức thi hành án nên tôi lựa chọn đề tài “Anh/chị hãy
phân tích quy định của pháp luật về các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự.
Lấy tình huống cụ thể và liên hệ thực tiễn áp dụng các biện pháp bảo đảm trong
thi hành án dân sự tại địa phương nơi anh/chị công tác để phân tích, chứng minh”
để làm bài tiểu luận của mình. Tuy nhiên, do kiến thức còn hạn chế nên quá trình
viết đề tài này học viên không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được sự
quan tâm của quý thầy cô để bài viết được hoàn thiện hơn.
3


2. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ về biện pháp bảo đảm, các quy

định của pháp luật hiện hành về biện pháp bảo đảm trong thi hành án dân sự, tìm ra
những hạn chế, bất cập trong thực tiễn áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án. Từ
đó tìm ra những giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế, vướng mắc trong công
tác thi hành án dân sự hiện nay.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những quy định của pháp luật hiện hành
về biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự và thực trạng áp dụng các biện pháp bảo
đảm này trong hoạt động thi hành án dân sự hiện nay.
3. Cơ cấu của bài tiểu luận
Gồm 4 phần:
I. Mở đầu:
1. Tính cấp thiết của đề tài.
2. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng nghiên cứu.
3. Cơ cấu của bài tiểu luận.
II. Nội dung:
1. Quy định của pháp luật về biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự.
2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về về biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự.
2.1 Những mặt đạt được
2.2 Những mặt hạn chế
2.3 Tình huống minh họa
3 Nguyên nhân, giải pháp, kiến nghị đối với vấn đề về biện pháp bảo đảm
thi hành án dân sự.
3.1 Nguyên nhân
3.2 Giải pháp, kiến nghị
III. Kết luận
IV. Danh mục tài liệu tham khảo

4


II. NỘI DUNG

1. Quy định của pháp luật về biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự.
1.1. Giới thiệu về biện pháp bảo đảm thi hành án.
Biện pháp bảo đảm thi hành án là biện pháp do Chấp hành viên cơ quan thi
hành án dân sự tự mình hoặc theo yêu cầu của đương sự áp dụng theo trình tự, thủ
tục luật định nhằm ngăn chặn người phải thi hành án, người đang quản lý tài sản
của người phải thi hành án thực hiện việc tẩu tán, hủy hoại tài sản nhằm trốn tránh
việc thi hành án và để đảm bảo thi hành án.
1.2. Đặc điểm của biện pháp bảo đảm thi hành án.
- Đối tượng bị áp dụng biện pháp bảo thi hành án dân sự là tài sản, tài
khoản.
Để việc thi hành án được thuận lợi, biện pháp bảo đảm thi hành án được
Chấp hành viên áp dụng đối với đối tượng là các tài sản, tài khoản của người phải
thi hành án. Tài sản đó có thể đang do người phải thi hành án hoặc do người thứ ba
giữ.
- Khi áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự, Chấp hành viên không
bắt buộc phải thực hiện việc xác minh và thông báo trước cho đương sự.
Để đảm bảo tính nhanh chóng, kịp thời, linh hoạt, nhằm ngăn chặn đương sự
tẩu tán, hủy hoại tài sản, trốn tránh việc thi hành án thì Chấp hành viên không cần
thực hiện việc xác minh và thông báo trước cho đương sự biết. Tùy theo từng loại
tài sản mà Chấp hành viên sẽ ban hành quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm thi
hành án dân sự tương ứng.
- Việc sử dụng biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự có mục đích nhằm
ngăn chặn việc tẩu tán, hủy hoại, trốn tránh việc thi hành án và được áp dụng linh
hoạt, tại nhiều thời điểm, nhiều địa điểm khác nhau trong quá trình thi hành án
Các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự có thể được áp dụng trong bất kỳ
giai đoạn nào của quá trình thi hành án như ngay tại thời điểm ra quyết định thi
hành án và trong thời hạn tự nguyện thi hành án hoặc cũng có thể được áp dụng tại
thời điểm trước hoặc trong quá trình cưỡng chế thi hành án nếu xét thấy cần phải
ngăn chặn ngay hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc trốn tránh việc thi hành án
của đương sự.

5


- Trình tự, thủ tục linh hoạt, gọn nhẹ, ít tốn kém, có thời gian áp dụng ngắn,
có tác dụng thúc đẩy nhanh việc thi hành án.
Việc áp dụng các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự được thực hiện một
cách linh hoạt, xuất phát từ yêu cầu của người được thi hành án hoặc do Chấp hành
viên chủ động áp dụng trong trường hợp cần thiết.
- Biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự khi được áp dụng chưa làm thay
đổi, chuyển dịch về quyền sở hữu, sử dụng tài sản của chủ sở hữu, chủ sử dụng.
Nhằm mục đích ngăn chặn người phải thi hành án thực hiện hành vi tẩu tán,
thay đổi hiện trạng hoặc hủy hoại tài sản, đảm bảo điều kiện thi hành án, biện pháp
bảo đảm thi hành án dân sự chưa làm mất đi quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản
của chủ sở hữu, chủ sử dụng mà mới chỉ làm hạn chế quyền sở hữu, sử dụng đối
với tài sản đó của chủ sở hữu, chủ sử dụng tài sản.
- Biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự có thể được Chấp hành viên tự
mình ra quyết định áp dụng hoặc theo yêu cầu bằng văn bản của đương sự và
người yêu cầu phải chịu trách nhiệm về việc yêu cầu áp dụng.
Trong quá trình tổ chức thực hiện việc thi hành án, Chấp hành viên có quyền
tự mình áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự hoặc ra quyết định áp dụng
theo yêu cầu bằng văn bản của đương sự. Trường hợp đương sự yêu cầu áp dụng
biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự không đúng mà gây thiệt hại cho người bị áp
dụng biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự hoặc cho người thứ ba thì phải bồi
thường.
1.3. Ý nghĩa của biện pháp bảo đảm thi hành án.
- Việc áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự góp phần bảo vệ các
quyền, lợi ích dân sự hợp pháp trong bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền.
Quyền, lợi ích dân sự hợp pháp của đương sự được ghi nhận trong bản án,
quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền nếu không được tổ chức thi hành

thì cũng chỉ là các quyền, lợi ích trên giấy. Thi hành dứt điểm bản án, quyết định là
cách thức bảo vệ thiết thực nhất các quyền, lợi ích dân sự hợp pháp của đương sự.
Nhìn chung, tất cả các hoạt động tác nghiệp do Chấp hành viên tiến hành kể từ khi
thụ lý, ra quyết định thi hành án đến việc thông báo, xác minh, cưỡng chế thi hành
6


án đều vì một mục đích là tổ chức thi hành được bản án, quyết định đã có hiệu lực
thi hành. Cũng không ngoài mục đích chung đó, biện pháp bảo đảm thi hành án
ngăn chặn kịp thời hành vi tẩu tán, huỷ hoại tài sản, trốn tránh nghĩa vụ thi hành
án, làm bước đệm cho việc tổ chức áp dụng các biện pháp cưỡng chế đạt kết quả
và sẽ tránh được một số hậu quả khó lường.
Trên thực tế nhiều đương sự trong các vụ việc thi hành án có hành vi như:
chống đối lực lượng cưỡng chế thi hành án; tẩu tán, huỷ hoại tài sản nhằm trốn
tránh nghĩa vụ thi hành án… nguyên nhân một phần xuất phát từ sự thiếu kiên
quyết của các cơ quan có thẩm quyền trong việc xử lý các hành vi cản trở của
đương sự. Hoặc nhiều trường hợp, Chấp hành viên phụ trách vụ việc có thông tin
người phải thi hành án có tài sản để thi hành nhưng đến khi áp dụng biện pháp
cưỡng chế thì tài sản không còn vì người phải thi hành án đã tẩu tán hoặc huỷ hoại
tài sản nên quá trình thi hành án rơi vào bế tắc. Để khắc phục tình trạng này, Luật
Thi hành án dân sự quy định nhóm biện pháp bảo đảm thi hành án nhằm sớm hạn
chế quyền tự định đoạt tài sản của đương sự như: phong toả tài khoản, tài sản ở nơi
gửi giữ; tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự; tạm dừng việc đăng ký, chuyển
quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản, nhằm bảo toàn điều kiện thi
hành án của đương sự, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động thi hành án dân sự
- Góp phần nâng cao ý thức pháp luật của đương sự trong thi hành án dân
sự.
Ý thức pháp luật là một khái niệm trừu tượng, mang tính chủ quan và phụ
thuộc rất nhiều vào các yếu tố như trạng thái tâm lý, thái độ, trình độ nhận thức,
hoàn cảnh sống của đương sự, các tác động từ phía cơ quan thi hành án. Quá trình

thi hành án sẽ gặp nhiều thuận lợi và đạt kết quả cao nếu như các đương sự có ý
thức pháp luật, có tinh thần hợp tác để thi hành bản án, quyết định. Tuy nhiên,
trong thi hành án dân sự để đạt được ý thức pháp luật là không đơn giản, bởi lẽ, các
đương sự trong quá trình thi hành án rất khó có được sự tự nguyện trong việc thực
hiện bản án, quyết định.
Biện pháp bảo đảm thi hành án tuy không làm chấm dứt quyền định đoạt tài
sản của người phải thi hành án, song đối với người bị áp dụng biện pháp bảo đảm
thi hành án phải gánh chịu những thiệt hại đáng kể về kinh tế, tinh thần, uy tín và
7


bị hạn chế quyền tự định đoạt tài sản. Biện pháp bảo đảm chỉ được áp dụng trong
một thời gian nhất định. Sau thời hạn đó nếu đương sự không tự nguyện thi hành
án thì cơ quan thi hành án đưa tài sản đó ra cưỡng chế để thi hành án. Do đó, việc
người phải thi hành án lựa chọn biện pháp tự nguyện thi hành án được xem như
giải pháp có lợi hơn cả, uy tín của họ không bị ảnh hưởng do không bị cơ quan thi
hành án áp dụng biện pháp cưỡng chế và không phải nộp chi phí cưỡng chế thi
hành án.
Trong kinh doanh, uy tín là tài sản rất giá trị, thậm chí quyết định đến vận
mệnh của cơ sở kinh doanh. Nếu bị phong toả tài khoản, người phải thi hành án
không thể dùng tài khoản đó để giao dịch với các đối tác, gây khó khăn trong hoạt
động sản xuất, kinh doanh hoặc các hoạt động khác... Bên cạnh đó, việc tài khoản
của người phải thi hành án bị phong toả cũng đồng nghĩa với việc uy tín của cá
nhân, tổ chức đó trong hoạt động sản xuất, kinh doanh bị giảm sút, các đối tác
quan hệ làm ăn sẽ không tin tưởng và thận trọng vào cá nhân, tổ chức đó hoặc sẽ
có thái độ thận trọng hơn trong giao kết hợp đồng... Đối với các cá nhân, tổ chức bị
phong toả tài khoản hay tạm giữ tài sản, giấy tờ sẽ gây ra một luồng dư luận xấu về
bản thân ngoài sự mong muốn của họ. Do đó, để thoát ra khỏi tình trạng này, người
phải thi hành án sẽ phải nhanh chóng và tự nguyện thi hành nghĩa vụ của mình,
hạn chế các thiệt hại xảy ra do tài khoản bị phong toả.

Mặc dù mức độ tác động của biện pháp bảo đảm thi hành án không mạnh mẽ
như biện pháp cưỡng chế nhưng tính chất đe doạ sẽ áp dụng biện pháp cưỡng chế
và những ảnh hưởng đến uy tín, quyền tài sản của người phải thi hành án sẽ gây áp
lực lên tâm lý của người phải thi hành án, hướng họ có những hành động hợp tác
trong thực hiện bản án, quyết định.
- Việc áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự mang lại giá trị về
kinh tế - xã hội.
Việc thi hành nhanh chóng, dứt điểm bản án, quyết định góp phần làm lành
mạnh hoá các quan hệ dân sự, kinh tế, lao động…, bảo vệ các quyền, lợi ích hợp
pháp của Nhà nước, tổ chức, công dân, mang lại giá trị to lớn cả về kinh tế và xã
hội.
8


Hiện nay, số lượng án tồn đọng còn chiếm tỷ lệ lớn và có xu hướng ngày
càng gia tăng, nhiều vụ việc không thi hành được do người phải thi hành án chưa
có điều kiện thi hành. Trong số những nguyên nhân đưa người phải thi hành án đến
tình trạng không có tài sản thi hành án phải kể đến việc họ có hành vi tẩu tán, huỷ
hoại tài sản hoặc trốn tránh nghĩa vụ thi hành án. Cơ quan thi hành án phải tốn kém
rất nhiều kinh phí, thời gian và cả công sức để theo dõi những vụ việc tồn đọng.
Những giá trị kinh tế - xã hội do biện pháp bảo đảm thi hành án mang lại
bao gồm:
Thứ nhất, khi phát hiện người phải thi hành án có tài khoản hoặc có tài sản
để thi hành án, Chấp hành viên áp dụng biện pháp bảo đảm nhằm ngăn chặn hành
vi tẩu tán, huỷ hoại tài sản hoặc trốn tránh việc thi hành án tạo điều kiện cho quá
trình cưỡng chế thi hành án diễn ra thuận lợi hơn. Như vậy, việc tổ chức thi hành
án được nhanh chóng hơn, hiệu quả hơn. Đặt trong bối cảnh các cơ quan đang
trong tình trạng quá tải công việc như hiện nay, thì việc giải quyết nhanh gọn, hiệu
quả các vụ việc thi hành án thực sự mang nhiều ý nghĩa to lớn cả về kinh tế và
công tác quản lý nhà nước. Các cơ quan thi hành án tiết kiệm được thời gian, công

sức, kinh phí để tập trung giải quyết các vụ việc khác,
Xét trên bình diện chung, việc áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án giúp
cơ quan thi hành án tiết kiệm được thời gian, công sức và giảm được chi phí cưỡng
chế thi hành án (nếu có) và người được hưởng lợi từ quá trình thi hành án không
chỉ người được thi hành án mà còn cả đối với người phải thi hành án vì họ không
phải chịu chi phí cưỡng chế thi hành án (nếu tự nguyện thi hành án) hoặc phải gánh
chịu một mức chi phí cưỡng chế thấp hơn (nếu bị áp dụng biện pháp cưỡng chế thi
hành án).
Thứ hai, do e ngại bị áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án, người phải
thi hành án tự nguyện thi hành giúp cho quá trình thi hành án diễn ra nhanh chóng,
thuận lợi. Dưới góc độ xã hội, việc đương sự tự nguyện thi hành án góp phần ổn
định các quan hệ xã hội, cụ thể là các quan hệ pháp luật thi hành án, đồng thời góp
phần nâng cao ý thức pháp luật của đương sự như đã phân tích ở trên.

9


1.4. Các biện pháp bảo đảm thi hành án.
1.4.1. Biện pháp phong tỏa tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ.
Biện pháp phong tỏa tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ được quy định tại Điều
67 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014 (sau đây gọi là Luật
THADS) và được hướng dẫn thi hành tại Điều 20 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP
ngày 18/7/2015 của Chính phủ.
Phong tỏa tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ là biện pháp nghiệp vụ làm cho
mọi hoạt động rút tiền ra từ một tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ nhất định bị hạn
chế và bị kiểm soát, nhằm đảm bảo việc thi hành án được thuận lợi, bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của người được thi hành án. Việc phong tỏa tài khoản, tài sản ở
nơi gửi giữ được thực hiện trong trưởng hợp người phải thi hành án có tài khoản,
tài sản gửi giữ.
Tại Khoản 1 Điều 66 Luật thi hành án dân sự đã quy định “Chấp hành viên

có quyền tự mình hoặc theo yêu cầu bằng văn bản của đương sự” áp dụng các biện
pháp bảo đảm thi hành án. Đây là quyền hoàn toàn chủ động của các Chấp hành
viên trong việc phong tỏa tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ của người phải thi hành
án và phải chịu trách nhiệm về quyết định của mình (trừ trường hợp đương sự yêu
cầu) với một mục đích duy nhất là nhằm kịp thời ngăn chặn việc tẩu tán tiền (dưới
mọi hình thức) trong tài khoản, tẩu tán tài sản của người phải thi hành án.
Việc thu thập thông tin về tài khoản, tài sản của người phải thi hành án có
thể do người yêu cầu áp dụng biện pháp phong toả tài khoản, tài sản ở nợi gửi giữ
thực hiện hoặc cũng có thể do Chấp hành viên thực hiện. Việc xác định người đó
có tài khoản, tài sản hay không có thể căn cứ vào một trong những yếu tố như: lĩnh
vực, ngành nghề hoạt động của người phải thi hành án, các hợp đồng của người
phải thi hành án với đối tác, đăng ký kinh doanh... Nhiều trường hợp thông qua
việc phân tích, nghiên cứu bản án, nhất là các bản án kinh tế, Chấp hành viên cũng
có được những thông tin cần thiết về tài khoản, tài sản của người phải thi hành án.
Người được thi hành án, người có quyền, nghĩa vụ liên quan cũng có thể cung cấp
thông tin về tài khoản, tài sản của người phải thi hành án cho cơ quan thi hành án.
Chấp hành viên có thể tiến hành việc thu thập thông tin qua đường công văn hoặc
trực tiếp gặp gỡ các tổ chức nơi người phải thi hành án có tài khoản, tài sản.
10


Quyết định phong tỏa tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ phải xác định rõ số
tiền, tài sản bị phong tỏa. Chấp hành viên giao quyết định phong tỏa tài khoản, tài
sản ở nơi gửi giữ cho người đại diện theo pháp luật của Kho bạc Nhà nước, tổ chức
tín dụng, cơ quan, tổ chức, cá nhân đang quản lý tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ
hoặc người có trách nhiệm nhận văn bản của cơ quan, tổ chức đó và lập biên bản
về việc giao quyết định. Biên bản phải có chữ ký của Chấp hành viên, người nhận
quyết định phong toả tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ. Trường hợp người nhận
quyết định phong toản tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ không ký thì phải có chữ ký
của người làm chứng.

Trường hợp cần phong tỏa ngay tài khoản, tài sản của người phải thi hành án
ở nơi gửi giữ mà chưa ban hành quyết định phong tỏa thì Chấp hành viên lập biên
bản yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đang quản lý tài khoản, tài sản của người
phải thi hành án phong tỏa tài khoản, tài sản đó. Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi lập
biên bản, Chấp hành viên phải ra quyết định phong tỏa tài khoản, tài sản. Cơ quan,
tổ chức, cá nhân đang quản lý tài khoản, tài sản phải thực hiện ngay yêu cầu của
Chấp hành viên về phong tỏa tài khoản, tài sản. Biên bản, quyết định phong tỏa tài
khoản, tài sản trong trường hợp này phải được gửi ngay cho Viện kiểm sát nhân
dân cùng cấp. Quyết định phong tỏa tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ được ban hành
sau khi Chấp hành viên lập biên bản phong tỏa phải được gửi ngay cho cơ quan, tổ
chức, cá nhân nơi có tài khoản, tài sản đã bị phong tỏa.
Trường hợp đại diện theo pháp luật hoặc người có trách nhiệm nhận văn bản
của cơ quan, tổ chức không nhận quyết định phong tỏa tài khoản, tài sản ở nơi gửi
giữ thì Chấp hành viên lập biên bản về việc không nhận quyết định, có chữ ký của
người làm chứng hoặc chứng kiến và tiến hành niêm yết quyết định phong tỏa tài
khoản, tài sản ở nơi gửi giữ của người phải thi hành án tại trụ sở cơ quan, tổ chức
đó. Người đại diện theo pháp luật hoặc người có trách nhiệm nhận văn bản của cơ
quan, tổ chức không nhận quyết định phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp
luật và phải bồi thường nếu có thiệt hại xảy ra.
Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày ra quyết định phong tỏa tài khoản, tài sản
ở nơi gửi giữ, Chấp hành viên phải áp dụng biện pháp cưỡng chế hoặc ra quyết
định chấm dứt việc phong tỏa theo quy định của Luật Thi hành án dân sự.
11


Theo quy định tại Khoản 3 Điều 67 Luật thi hành án dân sự 2008 thì thời
hạn phong toả tài khoản là 05 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định phong toả tài
khoản. Trong thời hạn phong toả tài khoản, Chấp hành viên phải áp dụng biện pháp
cưỡng chế khấu trừ tiền trong tài khoản của người phải thi hành án để đảm bảo thi
hành án theo quyết định thi hành án. Tuy nhiên, quy định thời gian như vậy chưa

hợp lý vì việc áp dụng biện pháp bảo đảm có thể được thực hiện trong thời hạn tự
nguyện thi hành án, mà theo Luật Thi hành án dân sự năm 2008 thì thời hạn tự
nguyện thi hành án là 15 ngày, vì thế có trường hợp ra quyết định áp dụng biện
pháp cưỡng chế thi hành án khi chưa hết thời hạn tự nguyện thi hành dẫn đến khiếu
kiện của người phải thi hành án. Khắc phục bất cập đó, tại Khoản 3 Điều 67 Luật
sửa đổi, bổ sung đã nâng thời hạn phong toả tài khoản từ 05 ngày lên thành 10
ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định phong tỏa tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ,
trong thời hạn này, Chấp hành viên phải áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án
hoặc ra quyết định chấm dứt việc phong tỏa theo quy định. Quy định mới về thời
hạn này cũng phù hợp với thời hạn tự nguyện thi hành án được sửa đổi từ 15 ngày
xuống 10 ngày, kể từ ngày đương sự nhận được quyết định thi hành án hoặc được
thông báo hợp lệ quyết định thi hành án, phù hợp với thực tiễn, tránh tình trạng
phải áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án không cần thiết khi chưa hết thời
gian 10 ngày tự nguyện thi hành án.
1.4.2. Biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự.
Biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự được quy định tại Điều 68
Luật THADS và được hướng dẫn chi tiết thi hành tại Điều 18 Nghị định số
62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 68 Luật Thi hành án dân sự thì Chấp hành
viên đang thực hiện nhiệm vụ thi hành án có quyền tạm giữ tài sản, giấy tờ liên
quan đến việc thi hành án mà đương sự, tổ chức, cá nhân khác đang quản lý, sử
dụng. Trong trường hợp cần thiết, Chấp hành viên yêu cầu lực lượng công an hoặc
tổ chức, cá nhân khác hỗ trợ việc tạm giữ tài sản, giấy tờ để thi hành án. Cơ quan,
tổ chức, cá nhân hữu quan có trách nhiệm phối hợp, hỗ trợ, thực hiện yêu cầu của
Chấp hành viên trong việc tạm giữ tài sản, giấy tờ.
12


Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014 đã quy định rõ trách
nhiệm của cơ quan, tổ chức và bổ sung trách nhiệm của cá nhân hữu quan trong

việc thực hiện quyết định tạm giữ tài sản, giấy tờ; theo đó, cơ quan, tổ chức cá
nhân hữu quan có trách nhiệm phối hợp, hỗ trợ, thực hiện yêu cầu của Chấp hành
viên trong việc tạm giữ tài sản, giấy tờ. Quy định này đã nhấn mạnh trách nhiệm
phối hợp của cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan chứ không phải chỉ là việc
tham gia hỗ trợ, điều đó đã khẳng định vai trò của các cơ quan, tổ chức, cá nhân
trong trường hợp Chấp hành viên phải ra Quyết định tạm giữ tài sản, giấy tờ.
Đối tượng bị áp dụng biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ không chỉ là người
phải thi hành án mà cả người được thi hành án hoặc tổ chức, cá nhân khác nếu họ
đang quản lý, sử dụng tài sản, giấy tờ liên quan đến việc thi hành án.
Các tài sản, giấy tờ bị tạm giữ là các tài sản, giấy tờ có liên quan đến việc thi hành
án như: giấy đăng ký xe mô tô, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất… hoặc các tài
sản có thể xử lý được để thi hành án. Khi áp dụng biện pháp này, Chấp hành viên
cần lưu ý nghiên cứu các tài sản không được kê biên theo quy định tại Điều 87
Luật Thi hành án dân sự để quyết định khi tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự.
Quyết định tạm giữ tài sản, giấy tờ phải xác định rõ loại tài sản, giấy tờ bị
tạm giữ. Chấp hành viên phải giao quyết định tạm giữ tài sản, giấy tờ cho đương sự
hoặc tổ chức, cá nhân đang quản lý, sử dụng. Trường hợp cần tạm giữ ngay tài sản,
giấy tờ mà chưa ban hành quyết định tạm giữ tài sản, giấy tờ thì Chấp hành viên
yêu cầu giao tài sản, giấy tờ và lập biên bản về việc tạm giữ. Trong thời hạn 24 giờ,
kể từ khi lập biên bản, Chấp hành viên phải ban hành quyết định tạm giữ tài sản,
giấy tờ. Biên bản, quyết định tạm giữ tài sản phải được gửi ngay cho Viện kiểm sát
nhân dân cùng cấp.
Khi tạm giữ tài sản, giấy tờ phải lập biên bản có chữ ký của Chấp hành viên
và người đang quản lý, sử dụng tài sản, giấy tờ; trường hợp người đang quản lý, sử
dụng tài sản, giấy tờ không ký thì phải có chữ ký của người làm chứng. Biên bản
tạm giữ tài sản, giấy tờ phải được giao cho người quản lý, sử dụng tài sản, giấy tờ.
Ngoài ra, tại khoản 4 Điều 68 Luật Thi hành án dân sự quy định: Chấp hành
viên yêu cầu đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp các giấy
tờ, tài liệu cần thiết để chứng minh quyền sở hữu, sử dụng và thông báo cho đương
13



sự, tổ chức, cá nhân có liên quan về quyền khởi kiện yêu cầu xác định quyền sở
hữu, sử dụng đối với tài sản, giấy tờ tạm giữ. Trường hợp cần thiết, Chấp hành
viên phải xác minh, làm rõ hoặc yêu cầu Tòa án, cơ quan có thẩm quyền xác định
người có quyền sở hữu, sử dụng đối với tài sản, giấy tờ tạm giữ. Việc bổ sung này
đã tạo thêm điều kiện cho Chấp hành viên xác định đúng đắn hơn quyền sở hữu, sử
dụng tài sản, giấy tờ để xử lý theo đúng quy định.
Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014 đã thay đổi quy định về
xử lý quyết định tạm giữ theo hướng chuyển đổi thời hạn 15 ngày thành 10 ngày;
thay đổi cách tính thời hạn thành kể từ ngày ra quyết định, Chấp hành viên phải áp
dụng biện pháp cưỡng chế hoặc chấm dứt việc tạm giữ. Cụ thể, Khoản 5 Điều 68
quy định: “Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày có căn cứ xác định tài sản, giấy tờ
tạm giữ thuộc quyền sở hữu, sử dụng của người phải thi hành án, Chấp hành viên
phải ra quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế theo quy định tại Chương IV của
Luật này; trường hợp có căn cứ xác định tài sản, giấy tờ tạm giữ không thuộc
quyền sở hữu, sử dụng của người phải thi hành án hoặc thuộc quyền sở hữu, sử
dụng của người phải thi hành án nhưng đã thực hiện xong nghĩa vụ của mình thì
Chấp hành viên phải ra quyết định trả lại tài sản, giấy tờ cho người có quyền sở
hữu, sử dụng”.
1.4.3. Biện pháp tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng,
thay đổi hiện trạng về tài sản.
Biện pháp tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi
hiện trạng về tài sản được quy định tại Điều 69 Luật THADS và được hướng dẫn
chi tiết thi hành tại Điều 19 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của
Chính phủ.
Luật Thi hành án dân sự quy định biện pháp tạm dừng việc đăng ký, chuyển
quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản là một trong ba biện pháp bảo
đảm thi hành án. Chấp hành viên khi tổ chức thi hành án xét thấy cần ngăn chặn
hoặc phát hiện đương sự có hành vi chuyển quyền sở hữu, sử dụng, tẩu tán, huỷ

hoại, thay đổi hiện trạng tài sản có thể ra quyết định tạm dừng việc đăng ký,
chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản của người phải thi hành
án, , tài sản chung của người phải thi hành án với người khác.
14


Hiện nay, có rất nhiều tài sản, quyền tài sản việc chuyển dịch quyền sở hữu,
sử dụng phải đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền như: vốn góp của tổ
chức, cá nhân tại doanh nghiệp; quyền sử dụng đất; phương tiện xe cơ giới… Đối
với những tài sản này, để thực hiện mua bán, chuyển nhượng, các bên tham gia
quan hệ mua bán, chuyển nhượng phải thực hiện thông qua việc đăng ký tại phòng
đăng ký kinh doanh, văn phòng đăng ký đất đai … Quyền sở hữu, sử dụng của bên
mua, bên nhận chuyển nhượng chỉ được xác lập khi được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền đăng ký. Chính vì thế, để ngăn chặn việc chuyển dịch tài sản nhằm
trốn tránh nghĩa vụ thi hành án, Chấp hành viên ra quyết định tạm dừng việc đăng
ký chuyển dịch tài sản và yêu cầu các cơ quan có liên quan thực hiện, nhằm duy trì
điều kiện thi hành án của người phải thi hành án.
Biện pháp tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi
hiện trạng tài sản được thể hiện bằng quyết định của Chấp hành viên. Chấp hành
viên ra quyết định tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi
hiện trạng tài sản và gửi cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan. Kể từ thời
điểm nhận được quyết định về việc tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu,
sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản, cơ quan đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử
dụng và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan không được thực hiện việc
đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng hoặc thay đổi hiện trạng tài sản cho đến
khi nhận được quyết định của Chấp hành viên về việc kê biên tài sản hoặc chấm
dứt việc tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng
tài sản.
Tại khoản 3 Điều 69 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014
quy định: Chấp hành viên yêu cầu đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên

quan cung cấp các giấy tờ, tài liệu cần thiết để chứng minh quyền sở hữu, sử dụng;
thông báo cho đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan về quyền khởi
kiện yêu cầu xác định quyền sở hữu, sử dụng đối với tài sản. Trường hợp cần thiết,
Chấp hành viên phải xác minh, làm rõ hoặc yêu cầu Tòa án, cơ quan có thẩm
quyền xác định quyền sở hữu, sử dụng tài sản để thi hành án, giải quyết tranh chấp
tài sản; yêu cầu hủy giấy tờ, giao dịch liên quan đến tài sản theo quy định của pháp
15


luật. Quy định này đã tạo điều kiện cho Chấp hành viên có cơ sở chắc chắn trong
việc ra các quyết định tiếp theo để thi hành án.
Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014 đã thay đổi quy định về
xử lý Quyết định tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi
hiện trạng tài sản, theo đó, chuyển đổi thời hạn 15 ngày kể từ ngày ra quyết định
theo quy định tại Luật Thi hành án dân sự năm 2008, Chấp hành viên phải áp dụng
biện pháp cưỡng chế hoặc chấm dứt việc tạm dừng thành thời hạn 10 ngày, kể từ
ngày có căn cứ xác định tài sản thuộc quyền sở hữu, sử dụng của người phải thi
hành án, Chấp hành viên phải ra quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế theo quy
định tại Chương IV của Luật Thi hành án dân sự. Trường hợp có căn cứ xác định
tài sản không thuộc quyền sở hữu, sử dụng của người phải thi hành án thì Chấp
hành viên phải ra quyết định chấm dứt việc tạm dừng đăng ký, chuyển quyền sở
hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản.
2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về về biện pháp bảo đảm thi hành án
dân sự.
2.1 Những mặt đạt được.
- Trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ, công chức ngành thi
hành án đã được nâng cao, dần hoàn thiện chất lượng đội ngũ, nắm rõ các quy định
của pháp luật hiện hành.
- Trình tự, thủ tục áp dụng các biện pháp bảo đảm thi hành án được quy định
trong Luật Thi hành án dân sự khá cụ thể, tạo thuận lợi cho Chấp hành viên có thể

thực hiện ngay các biện pháp bảo đảm thi hành án.
- Việc áp dụng các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự góp phần lớn trong
việc hoàn thành chỉ tiêu nhiệm vụ được giao của cơ quan thi hành án.
- Bổ sung kịp thời biện pháp phong tỏa tài sản ở nơi tạm giữ nhằm tạo điều
kiện tốt hơn để bảo vệ quyền lợi của người được thi hành án vì trên thực tế có tài
sản không phải là tiền mà còn là các loại tài sản như kim khí quý, đá quý... đang
gửi người khác giữ (có thể là ngân hàng, các tổ chức tín dụng hoặc người thứ ba
khác...), nhưng Luật Thi hành án dân sự 2008 không quy định Chấp hành viên
được quyền áp dụng biện pháp bảo đảm phong tỏa đối với loại tài sản này dẫn đến
người phải thi hành án dễ dàng tẩu tán, trốn tránh nghĩa vụ.
16


- Quy định đã rõ hơn về trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân nơi
có tài khoản, tài sản nên đã tạo được sự phối hợp hiệu quả giữa cơ quan thi hành án
dân sự và cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan, tạo điều kiện cho Chấp hành viên áp
dụng biện pháp bảo đảm phong tỏa tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ được thuận lợi
hơn.
- Làm rõ hơn thẩm quyền của Chấp hành viên đang thực hiện nhiệm vụ thi
hành án có quyền tạm giữ tài sản, giấy tờ liên quan đến việc thi hành án mà đương
sự, tổ chức, cá nhân khác đang quản lý, sử dụng, tạo điều kiện cho Chấp hành viên
có cơ sở chắc chắn trong việc ra các quyết định tiếp theo để thi hành án.
2.2 Những mặt hạn chế.
2.2.1. Thực tiễn thực hiện biện pháp phong tỏa tài khoản, tài sản ở nơi
gửi giữ.
- Chưa có quy định cụ thể về các hành vi như thế nào là hành vi tẩu tán tiền
trong tài khoản, hủy hoại tài sản dẫn đến nảy sinh các quan điểm xử lý khác nhau
giữa Chấp hành viên, đương sự và tổ chức tín dụng về các hành vi này.
- Pháp luật chưa có cơ chế để hỗ trợ người được thi hành án thực hiện việc
xác minh thông tin về tài khoản của người phải thi hành án.

- Mặc dù có quy chế phối hợp giữa cơ quan thi hành án dân sự và Kho bạc,
ngân hàng, tổ chức tín dụng trong việc áp dụng biện pháp phong tỏa tài khoản, tài
sản ở nơi gửi giữ nhưng với phương trâm bảo vệ khách hàng nên nhiều khi Chấp
hành viên nhận được thiếu sự hợp tác từ Kho bạc, ngân hàng, tổ chức tín dụng, dẫn
đến việc ngân hàng, tổ chức tín dụng giúp người phải thi hành án chuyển tiền, tài
sản gửi giữ một cách nhanh chóng. Đồng thời, chưa có chế tài áp dụng đối với tổ
chức đang nắm giữ thông tin về tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ của người phải thi
hành án từ chối cung cấp thông tin theo yêu cầu.
- Hệ thống đăng ký quản lý tài sản, cơ chế kiểm soát tình trạng vốn, tài sản
thu nhập của doanh nghiệp còn rất yếu, việc giám sát hoạt động của doanh nghiệp
thông qua hệ thống tài khoản ở ngân hàng còn chưa hiệu quả.
- Một số Chấp hành viên thoái hóa, biến chất đã vi phạm đạo đức nghề
nghiệp khi có sự thông đồng với người phải thi hành án trong quá trình thực thi
nhiệm vụ của mình.
17


2.2.2. Thực tiễn thực hiện biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ
- Biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự ít được Chấp hành viên áp
dụng so với các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự khác.
- Pháp luật quy định về việc đăng ký tài sản, công khai tài sản chưa được cụ
thể nên chưa có cơ chế cung cấp thông tin công khai về đăng ký tài sản, thu nhập
của người phải thi hành án.
- Chưa có quy định cụ thể về cơ chế phối hợp liên ngành giữa Chấp hành
viên với cơ quan Công an và các cơ quan khác có liên quan trong việc thực hiện
biện pháp tạm giữ giấy tờ, tài sản.
2.2.3. Thực tiễn thực hiện biện pháp tạm dừng việc đăng ký, chuyển dịch,
thay đổi hiện trạng về tài sản
- Biện pháp tạm dừng việc đăng ký, chuyển dịch, thay đổi hiện trạng về tài
sản được Chấp hành viên áp dụng nhiều trong thực tiễn hoạt động thi hành án dân

sự.
- Việc đăng ký các giao dịch, kê khai thu nhập, tài sản chưa thực hiện một
cách nghiêm túc, triệt để nên việc quản lý, nắm bắt các thông tin về quyền sở hữu
nhà, quyền sử dụng đất và các tài sản, thu nhập khác của người phải thi hành án
không thực hiện được, không có cơ sở dữ liệu cần thiết cho việc tra cứu, sử dụng
khi áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự về tạm dừng việc đăng ký,
chuyển dịch, thay đổi hiện trạng về tài sản.
- Pháp luật chưa quy định chế tài cụ thể đối với các tổ chức, cá nhân không
thực hiện yêu cầu của Chấp hành viên trong việc cung cấp thông tin về tài sản, thu
nhập của người phải thi hành án khi áp dụng biện pháp tạm dừng việc đăng ký,
chuyển dịch, thay đổi hiện trạng về tài sản nên nhiều trường hợp họ đã không thực
hiện yêu cầu của Chấp hành viên.
- Quy định thời hạn áp dụng biện pháp tạm dừng việc đăng ký, chuyển dịch,
thay đổi hiện trạng về tài sản như hiện nay trong nhiều trường hợp là quá ngắn để
thực hiện.
2.3 Tình huống minh họa.
Ví dụ 1: Tại Quyết định số 132/2015/QĐST-KDTM ngày 29/6/2015 của Tòa
án nhân dân quận Tân Bình và Quyết định thi hành án số 04/QĐ-CCTHADS ngày
18


28/9/2015 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Tân Bình: Công ty Cổ phần quốc
tế Song Khuê thanh toán một lần cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn Kỹ nghệ Toàn
Tâm số tiền thi công là 2.790.659.340 đồng vào ngày 30/7/2015.
Trường hợp Công ty Cổ phần quốc tế Song Khuê chậm thực hiện nghĩa vụ
thì còn phải chịu thêm tiền lãi suất theo mức lãi suất trung bình trên thị trường tại
thời điểm thanh toán tương ứng với số tiền và thời gian chậm thực hiện nghĩa vụ.
Sau khi thực hiện việc giao quyết định thi hành án cho các bên đương sự và
hết thời gian tự nguyện thi hành án, do người được thi hành án không cung cấp
được thông tin về tài khoản, tài sản và yêu cầu Chấp hành viên xác minh điều kiện

thi hành án của người phải thi hành án nên Chấp hành viên tiến hành xác minh
điều kiện thi hành án của Công ty cổ phần quốc tế Song Khuê tại Chi cục Thuế
quận Tân Bình. Kết quả xác minh cho thấy Công ty cổ phần quốc tế Song Khuê có
tài khoản ngân hàng mở tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam – Chi
nhánh Thành phố Hồ Chí Minh.
Chấp hành viên thực hiện xác minh trực tiếp tại Ngân hàng TMCP Ngoại
thương Việt Nam – Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh đối với tài khoản của Công
ty cổ phần quốc tế Song Khuê được số tiền là 100.000.000 đồng. Chấp hành viên
lập biên bản đề nghị Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam – Chi nhánh
Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện phong tỏa số tiền 100.000.000 đồng, biên bản
được lập có đủ chữ ký của Chấp hành viên và đại diện có thẩm quyền của Ngân
hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam – Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh. Biên
bản phong tỏa được gửi cho Viện Kiểm sát nhân dân quận Tân Bình ngay sau đó.
Trong thời hạn 24 giờ, Chấp hành viên đã ban hành quyết định phong tỏa tài
khoản đối với tài khoản của Công ty cổ phần quốc tế Song Khuê mở tại Ngân hàng
TMCP Ngoại thương Việt Nam – Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh và tiến hành
giao cho đại diện có thẩm quyền của Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam –
Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh ký nhận.
Ngoài ra, Chấp hành viên tiếp tục xác minh tài sản của Công ty cổ phần
quốc tế Song Khuê tại Trung tâm đăng ký giao dịch tài sản và Phòng Cảnh sát giao
thông đường bộ Công an Thành phố Hồ Chí Minh phát hiện Công ty cổ phần quốc
tế Song Khuê có một chiếc xe ô tô. Chấp hành viên đã ban hành quyết định tạm
19


dừng việc đăng ký, chuyển dịch, thay đổi hiện trạng về tài sản đối với tài sản là
chiếc xe ô tô và quyết định này được giao cho Công ty cổ phần quốc tế Song Khuê
và các cơ quan có liên quan như Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình, Trung tâm
thông tin và tư vấn công chứng Thành phố Hồ Chí Minh, Trung tâm đăng ký giao
dịch tài sản, Phòng Cảnh sát giao thông đường bộ Công an Thành phố Hồ Chí

Minh...
Ví dụ 2: Tại Bản án số 1634/2015/DSPT ngày 28/12/2015 của Tòa án nhân dân
Thành phố Hồ Chí Minh và Quyết định thi hành án số 1943/QĐ-CCTHADS ngày
07/3/2016 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Tân Bình: Ông Lã Minh Tuấn, địa
chỉ: 04 Phạm Cự Lượng, phường 2, quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh phải
nộp 78.900.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Sau khi thực hiện việc giao quyết định thi hành án cho người phải thi hành
án và hết thời gian tự nguyện thi hành án, Chấp hành viên tiến hành xác minh điều
kiện thi hành án của ông Lã Minh Tuấn đối với tài sản là nhà đất 04 Phạm Cự
Lượng, phường 2, quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh tại Văn phòng Đăng ký
đất đai Thành phố Hồ Chí Minh – Chi nhánh quận Tân Bình được biết ông Lã
Minh Tuấn là chủ sở hữu, sử dụng đối với tài sản là nhà đất 04 Phạm Cự Lượng,
phường 2, quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh nên Chấp hành viên ban hành
quyết định tạm dừng việc đăng ký, chuyển dịch, thay đổi hiện trạng về tài sản đối
với tài sản là quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở tại địa chỉ 04 Phạm Cự
Lượng, phường 2, quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh. Quyết định tạm dừng
việc đăng ký, chuyển dịch, thay đổi hiện trạng tài sản được giao cho Viện Kiểm sát
nhân dân quận Tân Bình, ông Lã Minh Tuấn và các cơ quan đăng ký giao dịch bảo
đảm.
3 Nguyên nhân, giải pháp, kiến nghị đối với vấn đề về biện pháp bảo
đảm thi hành án dân sự.
3.1 Nguyên nhân
- Do trình độ, chuyên môn của đội ngũ Chấp hành viên, thư ký thi hành án
còn chưa đồng đều, khả năng vận dụng các quy định pháp luật về biện pháp bảo
đảm thi hành án dân sự còn hạn chế.
20


- Việc phổ biến các quy định pháp luật về biện pháp bảo đảm thi hành án dân
sự trong ngân hàng, tổ chức tín dụng chưa được quan tâm đúng mức dẫn đến cán

bộ, nhân viên các cơ quan, tổ chức này không nắm rõ việc phối hợp với công tác
của cơ quan thi hành án.
- Cơ chế phối hợp giữa cơ quan thi hành án và các cơ quan, tổ chức, ngân
hàng, tổ chức tín dụng còn chưa chặt chẽ, chưa quy định các chế tài cần thiết áp
dụng trong trường hợp các cơ quan, tổ chức này vi phạm yêu cầu của cơ quan thi
hành án.
- Thời gian áp dụng các biện pháp bảo đảm còn ngắn nên trong nhiều vụ
việc lớn, phức tạp, Chấp hành viên không kịp xử lý.
- Đối với các doanh nghiệp, hiện nay việc mở tài khoản của các doanh
nghiệp tại Ngân hàng, tổ chức tín dụng rất đơn giản nên nhiều khi một doanh
nghiệp có rất nhiều tài khoản dẫn đến việc xác minh của Chấp hành viên gặp nhiều
khó khăn.
- Do tài sản của người phải thi hành án còn nằm rải rác ở nhiều nơi nên việc
xác minh, thu thập thông tin về tài khoản, tài sản của người phải thi hành án còn
gặp nhiều khó khăn.
3.2 Giải pháp, kiến nghị
- Cần nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp của
Chấp hành viên thông qua việc đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn và kiểm tra hoạt động
tổ chức thi hành án của họ. Đồng thời có chế độ, chính sách phù hợp với chức
năng, nhiệm vụ được giao để họ yên tâm công tác, không bị sự cám dỗ của vật chất
làm suy thoái đạo đức nghề nghiệp, làm sai lệch kết quả tác nghiệp trong khi tổ
chức thi hành án.
- Cần thực hiện tốt việc tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về thi
hành án dân sự nói chung và về trách nhiệm thực hiện các biện pháp bảo đảm thi
hành án dân sự nói riêng. Đặc biệt là đối với các tổ chức tín dụng và các cơ quan,
tổ chức có liên quan để họ nhận thức rõ Chấp hành viên là người có thẩm quyền
yêu cầu tổ chức tín dụng thực hiện nghĩa vụ cung cấp thông tin về tài khoản của
khách hàng và nghĩa vụ thực hiện quyết định phong tỏa tài khoản, quyết định khấu
trừ tiền trong tài khoản của người phải thi hành án để thi hành án.
21



- Bên cạnh việc quy định về thời hạn áp dụng biện pháp bảo đảm như hiện
nay thì cần có quy định linh hoạt về thời hạn áp dụng các biện pháp bảo đảm trong
một số trường hợp ngoại lệ.
- Cần có quy định cụ thể về thẩm quyền xử phạt, tăng mức tiền phạt mà
Chấp hành viên, Thủ trưởng Cơ quan thi hành án dân sự được thực hiện đối với
người có hành vi vi phạm các yêu cầu của Chấp hành viên trong khi áp dụng các
biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự.
- Cần quy định rõ về quy trình, thủ tục từ khi xác minh cho đến khi ra quyết
định phong tỏa tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ và thực hiện quyết định.
- Cần hoàn thiện cơ chế quản lý tài sản, thu nhập cá nhân theo hướng chuyển
phần lớn các giao dịch liên quan đến thu nhập, chi tiêu, thương mại của các cá
nhân, cơ quan, tổ chức phải được thực hiện thông qua hệ thống tài khoản được
đăng ký tại các tổ chức tín dụng.
- Cần quy định cụ thể về cơ chế phối hợp giữa Chấp hành viên với các cơ
quan, tổ chức có liên quan trong việc áp dụng biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ
của người phải thi hành án.
- Cần quy định đồng bộ việc kê khai, đăng ký tài sản, xây dựng được một hệ
thống cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký tài sản để sử dụng cho việc tra cứu, cung
cấp thông tin về tài sản.

III. KẾT LUẬN
22


Biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự là biện pháp pháp lý được Chấp hành
viên áp dụng theo một trình tự, thủ tục luật định trong quá trình tổ chức thực hiện
việc thi hành án, đặt tài sản của người phải thi hành án trong tình trạng bị hạn chế
hoặc tạm thời bị cấm sử dụng, định đoạt, chuyển dịch, thay đổi hiện trạng nhằm

bảo toàn điều kiện thi hành án, ngăn chặn người phải thi hành án thực hiện việc tẩu
tán, hủy hoại, thay đổi hiện trạng về tài sản trốn tránh việc thi hành án, làm cơ sở
cho việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự trong trường hợp người
phải thi hành án không tự nguyện thi hành án. Việc áp dụng biện pháp bảo đảm thi
hành án dân sự chưa làm thay đổi, chuyển dịch về quyền sở hữu, sử dụng tài sản
của chủ sở hữu, chủ sử dụng.
Việc quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự có ý nghĩa
góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, người có quyền, nghĩa vụ
liên quan; góp phần đẩy nhanh quá trình thi hành án, làm giảm thiểu các chi phí
không đáng có và góp phần nâng cao ý thức của đương sự, người có quyền, nghĩa
vụ liên quan đến
Các quy định về biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự của pháp luật về thi
hành án dân sự là tương đối đầy đủ và chi tiết, giúp cho Chấp hành viên có thêm
nhiều giải pháp để tổ chức việc thi hành án có hiệu quả, đảm bảo quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự. Việc quy định áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự
theo hướng mở rộng quyền chủ động yêu cầu của đương sự và quyền tự quyết định áp
dụng của Chấp hành viên đã giúp cho đương sự bảo vệ được quyền và lợi ích hợp
pháp của mình trong thi hành án và giúp cho Chấp hành viên xử lý nhanh chóng
những tình huống phát sinh trong quá trình tổ chức thi hành bản án, quyết định của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
23


1. Luật Thi hành án dân sự năm 2008;
2. Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014;
3. Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ.
4. Tài liệu bồi dưỡng ngạch thư ký thi hành án dân sự năm 2016.
5. Tài liệu bồi dưỡng kỹ năng thi hành án dân sự.

6. Sổ tay nghiệp vụ thi hành án dân sự.

24



×