Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

CÁC BIỆN PHÁP bảo đảm THI HÀNH ÁN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (118.88 KB, 14 trang )

CÁC BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM THI HÀNH ÁN

1. Một số vấn đề chung về biện pháp bảo đảm
1.1. Giới thiệu về biện pháp bảo đảm
Trên cơ sở kế thừa có chọn lọc những quy định của Pháp lệnh Thi hành án dân sự
năm 2004 và tổng kết thực tiễn công tác thi hành án dân sự, Luật Thi hành án dân sự
được ban hành có nhiều nội dung mới, phù hợp với yêu cầu cải cách tư pháp mà Đảng và
Nhà nước đặt ra, đồng thời đáp ứng đòi hỏi cấp thiết của thực tiễn công tác thi hành án
dân sự trong giai đoạn hiện nay. Một trong những điểm mới của Luật Thi hành án dân sự
là việc quy định các biện pháp bảo đảm thi hành án. Trước đây, Pháp lệnh Thi hành án
dân sự năm 2004 mới dừng ở việc quy định các biện pháp cưỡng chế nếu người phải thi
hành án không tự nguyện thi hành thì nay Luật Thi hành án dân sự đã bổ sung nhóm biện
pháp mang tính ngăn chặn, phòng ngừa nhằm bảo đảm cho quá trình thi hành án dân sự
đạt kết quả, đó là nhóm biện pháp bảo đảm thi hành án.
Luật Thi hành án dân sự dành một mục tại chương IV với 4 điều từ Điều 66 đến
Điều 69 quy định 03 biện pháp bảo đảm thi hành án, gồm: phong toả tài khoản; tạm giữ
tài sản, giấy tờ của đương sự; tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng,
thay đổi hiện trạng tài sản.
Theo từ điển Tiếng Việt thì bảo đảm là làm cho chắc chắn thực hiện được, giữ gìn
được, hoặc có đầy đủ những gì cần thiết. Như vậy, có thể hiểu bảo đảm thi hành án là làm
cho quá trình thi hành án được thực hiện một cách chắc chắn hơn, đạt kết quả cao hơn.
Các biện pháp bảo đảm thi hành án giữ vai trò hỗ trợ đắc lực cho quá trình thi hành án,
góp phần bảo vệ các quyền và nghĩa vụ dân sự được ghi nhận trong bản án, quyết định
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Trong lĩnh vực thi hành án dân sự, ngoài các nghĩa vụ mang tính nhân thân
nhưbuộc công khai xin lỗi, buộc nhận người lao động trở lại làm việc..., thì phần lớn các
nghĩa vụ thi hành án gắn liền với yếu tố tài sản. Các nghĩa vụ có tính chất tài sản chỉ được
thực hiện nếu người mang nghĩa vụ có tài sản để thi hành.
Hiện nay, nước ta đang xây dựng và phát triển một nền kinh tế thị trường lành
mạnh có sự hội nhập sâu, rộng với nền kinh tế thế giới, các giao dịch thương mại, dân sự
ngày càng đa dạng và sôi động. Quá trình chuyển dịch tài sản diễn ra rất nhanh chóng đôi


khi chỉ là cái “nhấp chuột” và không bó hẹp trong phạm vi lãnh thổ quốc gia, do đó, để
giám sát được quá trình này cũng là vấn đề khá phức tạp. Mặt khác, các đương sự trong
các vụ việc thi hành án thường không tự nguyện thi hành án, có tâm lý chây ỳ, trốn tránh
việc thực hiện nghĩa vụ trong bản án, quyết định nên rất dễ dẫn đến những hành vi tẩu
tán, huỷ hoại tài sản nhằm làm mất đi điều kiện thi hành án. Để ngăn chặn những hành vi
đó, cơ quan thi hành án dân sự cần áp dụng các biện pháp phù hợp, có thể là biện pháp


bảo đảm thi hành án cũng có thể là biện pháp cưỡng chế thi hành án quy định tại chương
IV Luật thi hành án dân sự. Nếu áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án thì nhược điểm
lớn nhất là sự chậm trễ trong áp dụng, phức tạp về thủ tục sẽ tạo cơ hội cho người phải thi
hành án có thời gian tẩu tán, huỷ hoại tài sản. Còn việc áp dụng biện pháp bảo đảm thi
hành án có thì có các ưu điểm sau: thứ nhất, nhanh chóng về thời gian, đơn giản về thủ
tục nên kịp thời ngăn chặn hành vi tẩu tán, huỷ hoại tài sản, đảm bảo cho cơ quan thi
hành án có điều kiện áp dụng các biện pháp cưỡng chế để thi hành án, thứ hai tính “đe
doạ” của biện pháp bảo đảm góp phần thúc đẩy người phải thi hành án tự nguyện thi hành
nghĩa vụ của mình.
Nhìn chung, các biện pháp bảo đảm thi hành án vừa mang những đặc điểm của
biện pháp cưỡng chế như tác động trực tiếp đến quyền định đoạt tài sản của người phải
thi hành án và vừa mang những đặc điểm của biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng
dân sự như sự đơn giản về thủ tục, nhanh chóng về thời gian áp dụng. Tuy nhiên, về mức
độ thì biện pháp bảo đảm thi hành án chỉ dừng ở việc hạn chế quyền tự định đoạt mà
chưa tước quyền tự định đoạt tài sản của người phải thi hành án như các biện pháp cưỡng
chế thi hành án.
1.2. Ý nghĩa của biện pháp bảo đảm thi hành án
1.2.1. Góp phần bảo vệ các quyền, lợi ích dân sự hợp pháp trong bản án, quyết
định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
Quyền, lợi ích dân sự hợp pháp của đương sự được ghi nhận trong bản án, quyết
định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền nếu không được tổ chức thi hành thì cũng chỉ
là các quyền, lợi ích trên giấy. Thi hành dứt điểm bản án, quyết định là cách thức bảo vệ

thiết thực nhất các quyền, lợi ích dân sự hợp pháp của đương sự. Nhìn chung, tất cả các
hoạt động tác nghiệp do Chấp hành viên tiến hành kể từ khi thụ lý, ra quyết định thi hành
án đến việc thông báo, xác minh, cưỡng chế thi hành án… đều vì một mục đích là tổ chức
thi hành được bản án, quyết định đã có hiệu lực thi hành. Cũng không ngoài mục đích
chung đó, biện pháp bảo đảm thi hành án ngăn chặn kịp thời hành vi tẩu tán, huỷ hoại tài
sản, làm bước đệm cho việc tổ chức áp dụng các biện pháp cưỡng chế đạt kết quả và sẽ
tránh được một số hậu quả khó lường.
Về nguyên tắc, các quyền, nghĩa vụ được ghi nhận trong bản án, quyết định của
Toà án có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân tôn trọng thực
hiện. Điều 136 Hiến pháp năm 1992 quy định “Các bản án, quyết định của Toà án nhân
dân đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức
xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng; những người và đơn vị
liên quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”. Pháp luật quy định là vậy nhưng trên thực tế
trong lĩnh vực thi hành án dân sự thì không phải lúc nào các bản án, quyết định cũng
được các đương sự tôn trọng thực hiện. Hiện nay, chế tài về hành vi không chấp hành bản
án, quyết định đã được quy định cụ thể tại chương VII Luật Thi hành án dân sự và Nghị
định số 60/2009/N Đ-CP ngày 23/7/2009 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực tư pháp và Điều 304 Bộ luật HÌnh sự nhưng để xử lý thật
không dễ. Điều 304 Bộ Luật Hình sự năm 1999 quy định “Người nào cố ý không chấp


hành bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật mặc dù đã bị áp dụng biện
pháp cưỡng chế cần thiết thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ
sáu tháng đến ba năm”. Tuy nhiên, trong thời gian qua, số lượng đương sự trong thi hành
án bị khởi tố theo Điều 304 Bộ Luật Hình sự năm 1999 rất ít do tâm lý còn e ngại của cơ
quan thi hành án không muốn làm trầm trọng thêm quá trình thi hành án. Hoặc có đề nghị
truy cứu nhưng không được giải quyết...
Xuất phát từ sự thiếu kiên quyết của các cơ quan cios thẩm quyền trong việc xử lý
các hành vi cản trở của đương sự dẫn đến nhiều đương sự trong các vụ việc thi hành án
có hành vi như: chống đối lực lượng cưỡng chế thi hành án; tẩu tán, huỷ hoại tài sản

nhằm trốn tránh nghĩa vụ thi hành án… Hoặc nhiều trường hợp, Chấp hành viên phụ
trách vụ việc có thông tin người phải thi hành án có tài sản để thi hành nhưng đến khi áp
dụng biện pháp cưỡng chế thì tài sản không còn vì người phải thi hành án đã tẩu tán hoặc
huỷ hoại tài sản và quá trình thi hành án rơi vào bế tắc. Để khắc phục tình trạng này, Luật
Thi hành án dân sự quy định nhóm biện pháp bảo đảm thi hành án nhằm sớm hạn chế
quyền tự định đoạt tài sản của đương sự như: phong toả tài khoản; tạm giữ tài sản, giấy tờ
của đương sự; tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng
tài sản, nhằm bảo toàn điều kiện thi hành án của đương sự, góp phần nâng cao hiệu quả
hoạt động thi hành án dân sự
1.2.2. Góp phần nâng cao ý thức pháp luật của đương sự trong thi hành án dân sự
Ý thức pháp luật là một khái niệm trừu tượng, mang tính chủ quan và phụ thuộc
rất nhiều vào các yếu tố như trạng thái tâm lý, thái độ, trình độ nhận thức, hoàn cảnh sống
của đương sự, các tác động từ phía cơ quan thi hành án... Quá trình thi hành án sẽ gặp
nhiều thuận lợi và đạt kết quả cao nếu như các đương sự có ý thức pháp luật, có tinh thần
hợp tác để thi hành bản án, quyết định. Tuy nhiên, trong thi hành án dân sự để đạt được ý
thức pháp luật là không đơn giản, bởi lẽ, các đương sự trong quá trình thi hành án rất khó
có được sự tự nguyện trong việc thực hiện bản án, quyết định.
Biện pháp bảo đảm thi hành án tuy không làm chấm dứt quyền định đoạt tài sản
của người phải thi hành án, song đối với người bị áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án
phải gánh chịu những ảnh hưởng đáng kể về tinh thần, uy tín và bị hạn chế quyền tự định
đoạt tài sản. Biện pháp bảo đảm chỉ được áp dụng trong một thời gian nhất định. Sau thời
hạn đó nếu đương sự không tự nguyện thi hành án thì cơ quan thi hành án đưa tài sản đó
ra cưỡng chế để thi hành án. Do đó, việc người phải thi hành án lựa chọn biện pháp tự
nguyện thi hành án được xem như giải pháp có lợi hơn cả, uy tín của họ không bị ảnh
hưởng do không bị cơ quan thi hành án áp dụng biện pháp cưỡng chế và không phải nộp
chi phí cưỡng chế thi hành án.
Trong kinh doanh, uy tín là tài sản rất giá trị, thậm chí quyết định đến vận mệnh
của cơ sở kinh doanh. Nếu bị phong toả tài khoản, người phải thi hành án không thể dùng
tài khoản đó để giao dịch với các đối tác, gây khó khăn trong hoạt động sản xuất, kinh
doanh hoặc các hoạt động khác... Bên cạnh đó, việc tài khoản của người phải thi hành án

bị phong toả cũng đồng nghĩa với việc uy tín của cá nhân, tổ chức đó trong hoạt động sản
xuất, kinh doanh bị giảm sút, các đối tác quan hệ làm ăn sẽ không tin tưởng và thận trọng


vào cá nhân, tổ chức đó hoặc sẽ có thái độ thận trọng hơn trong giao kết hợp đồng... Đối
với các cá nhân, tổ chức bị phong toả tài khoản hay tạm giữ tài sản, giấy tờ sẽ gây ra một
luồng dư luận xấu về bản thân ngoài sự mong muốn của họ. Do đó, để thoát ra khỏi tình
trạng này, người phải thi hành án sẽ phải nhanh chóng và tự nguyện thi hành nghĩa vụ của
mình, hạn chế các thiệt hại xảy ra do tài khoản bị phong toả.
Mặc dù mức độ tác động của biện pháp bảo đảm thi hành án không mạnh mẽ như
biện pháp cưỡng chế nhưng tính chất đe doạ sẽ áp dụng biện pháp cưỡng chế và những
ảnh hưởng đến uy tín, quyền tài sản của người phải thi hành án sẽ gây áp lực lên tâm lý
của người phải thi hành án, hướng họ có những hành động hợp tác trong thực hiện bản
án, quyết định.
1.2.3. Ý nghĩa về kinh tế - xã hội
Việc thi hành nhanh chóng, dứt điểm bản án, quyết định góp phần làm lành mạnh
hoá các quan hệ dân sự, kinh tế, lao động…, bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà
nước, tổ chức, công dân, mang lại giá trị to lớn cả về kinh tế và xã hội.
Hiện nay, số lượng án tồn đọng còn chiếm tỷ lệ lớn và có xu hướng ngày càng gia
tăng, nhiều vụ việc không thi hành được do người phải thi hành án chưa có điều kiện thi
hành. Trong số những nguyên nhân đưa người phải thi hành án đến tình trạng không có
tài sản thi hành án phải kể đến việc họ có hành vi tẩu tán, huỷ hoại tài sản hoặc trốn tránh
nghĩa vụ thi hành án. Cơ quan thi hành án phải tốn kém rất nhiều kinh phí, thời gian và cả
công sức để theo dõi những vụ việc tồn đọng.
Những giá trị kinh tế - xã hội do biện pháp bảo đảm thi hành án mang lại bao gồm:
Thứ nhất, khi phát hiện người phải thi hành án có tài khoản hoặc có tài sản để thi
hành án, Chấp hành viên áp dụng biện pháp bảo đảm nhằm ngăn chặn hành vi tẩu tán,
huỷ hoại tài sản hoặc trốn tránh việc thi hành án tạo điều kiện cho quá trình cưỡng chế thi
hành án diễn ra thuận lợi hơn. Như vậy, việc tổ chức thi hành án được nhanh chóng hơn,
hiệu quả hơn. Đặt trong bối cảnh các cơ quan đang trong tình trạng quá tải công việc như

hiện nay, thì việc giải quyết nhanh gọn, hiệu quả các vụ việc thi hành án thực sự mang
nhiều ý nghĩa to lớn cả về kinh tế và công tác quản lý nhà nước. Các cơ quan thi hành án
tiết kiệm được thời gian, công sức, kinh phí để tập trung giải quyết các vụ việc khác,
Trước đây, nếu người phải thi hành án có hành vi tẩu tán, huỷ hoại tài sản nhằm
trốn tránh nghĩa vụ thi hành án thì cơ quan thi hành án dân sự áp dụng biện pháp cưỡng
chế. Tuy nhiên, thủ tục áp dụng biện pháp cưỡng chế khá phức tạp và chậm trễ nên đã tạo
kẽ hở cho người phải thi hành án kịp thời tẩu tán, huỷ hoại tài sản. Theo quy định tại
Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004 và các văn bản hướng dẫn thi hành thì trước khi
áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án, Chấp hành viên phải thông báo cho người được
thi hành án biết, đồng thời lên kế hoạch tổ chức cưỡng chế, họp các cơ quan liên quan,…
các thủ tục chuẩn bị cho việc tổ chức cưỡng chế chiếm khá nhiều thời gian, trong khi
chưa có cơ chế ngăn chặn hành vi tẩu tán, huỷ hoại tài sản của người phải thi hành án.
Trên thực tế, nhiều trường hợp đến khi cưỡng chế thì tiền trong tài khoản đã không còn
hoặc tài sản cưỡng chế đã được chuyển giao cho người khác. Trong những trường hợp


đó, cơ quan thi hành án rơi vào thế bị động và gặp rất nhiều khó khăn trong việc đưa ra
các giải pháp khắc phục. Luật Thi hành án dân sự quy định các biện pháp bảo đảm thi
hành án thực sự tạo cơ sở pháp lý quan trọng giúp các cơ quan thi hành án giải quyết
được bất cập này, góp phần tinh giảm các thủ tục thi hành án trong việc ngăn chặn, phòng
ngừa hành vi tẩu tán, huỷ hoại tài sản hoặc trốn tránh việc thi hành án.
Xét trên bình diện chung, việc áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án giúp cơ
quan thi hành án tiết kiệm được thời gian, công sức và giảm được chi phí cưỡng chế thi
hành án (nếu có) và người được hưởng lợi từ quá trình thi hành án không chỉ người được
thi hành án mà còn cả đối với người phải thi hành án vì họ không phải chịu chi phí cưỡng
chế thi hành án (nếu tự nguyện thi hành án) hoặc phải gánh chịu một mức chi phí cưỡng
chế thấp hơn (nếu bị áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án).
Thứ hai, do e ngại bị áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án, người phải thi
hành án tự nguyện thi hành giúp cho quá trình thi hành án diễn ra nhanh chóng, thuận lợi.
Dưới góc độ xã hội, việc đương sự tự nguyện thi hành án góp phần ổn định các quan hệ

xã hội, cụ thể là các quan hệ pháp luật thi hành án, đồng thời góp phần nâng cao ý thức
pháp luật của đương sự như đã phân tích ở trên.
1.3. Mục đích, điều kiện áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án
Khoản 1 Điều 66 Luật Thi hành án dân sự quy định:
“Chấp hành viên có quyền tự mình hoặc theo yêu cầu bằng văn bản của đương sự áp
dụng ngay biện pháp bảo đảm thi hành án nhằm ngăn chặn việc tẩu tán, huỷ hoại tài
sản, trốn tránh việc thi hành án. Khi áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án, Chấp
hành viên không phải thông báo trước cho đương sự”.

Xuất phát từ mục đích nhằm ngăn chặn việc tẩu tán, huỷ hoại tài sản, trốn tránh
việc thi hành án, Chấp hành viên có thể tự mình hoặc theo yêu cầu bằng văn bản của
đương sự áp dụng ngay các biện pháp bảo đảm thi hành án. Như vậy, biện pháp bảo đảm
được áp dụng trong thời điểm hiện tại để ngăn chặn một hành vi có thể sẽ xảy ra trong
tương lai. Vấn đề đặt ra là có nên hiểu hành vi tẩu tán, huỷ hoại tài sản, trốn tránh việc thi
hành án là điều kiện để áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án hay không? Xung quanh
vấn đề này cũng còn có những quan điểm khác nhau, quan điểm thứ nhất cho rằng, nếu
xác định là điều kiện áp dụng thì Chấp hành viên chỉ được áp dụng khi có dấu hiệu của
hành vi tẩu tán, huỷ hoại tài sản, trốn tránh việc thi hành án. Quan điểm thứ hai đề cao
mục đích ngăn chặn, phòng ngừa, theo đó, Chấp hành viên có thể áp dụng ngay biện pháp
bảo đảm thi hành án mà không cần thiết phải xem xét có xảy ra hay không xảy ra hành vi
tẩu tán, huỷ hoại tài sản, trốn tránh việc thi hành án.
Hai quan điểm trên đều có những ưu điểm và nhược điểm khác nhau. Đối với quan
điểm thứ nhất, điều kiện áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án chặt chẽ hơn, đòi hỏi
Chấp hành viên phải xem xét đến các dấu hiệu của hành vi tẩu tán, huỷ hoại tài sản, trốn
tránh nghĩa vụ thi hành án trước khi áp dụng, nhưng vô hình chung đã làm chậm quá
trình áp dụng, ảnh hưởng đến mục đích ngăn chặn, phòng ngừa. Đối với quan điểm thứ
hai, Chấp hành viên có thể áp dụng ngay biện pháp bảo đảm mà không cần cân nhắc đến


đương sự có hay không có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản, trốn tránh việc thi hành án,

thủ tục áp dụng gọn nhẹ, đơn giản, thời gian áp dụng nhanh chóng, kịp thời, đảm bảo
mục đích ngăn chặn, phòng ngừa, tuy nhiên, nếu áp dụng một cách tràn lan, không tính
đến tình huống thực tế thì rất dễ gây những thiệt hại không đáng có cho người phải thi
hành án, ví dụ: trong thời gian tự nguyện thi hành án, Chấp hành viên tiến hành thủ tục
tạm giữ tài sản hoặc bị phong toả tài khoản của cơ sở kinh doanh mà không xác định xem
họ có hay không có hành vi tẩu tán, huỷ hoại tài sản, sẽ gây thiệt hại cả về lợi ích kinh tế
và uy tín kinh doanh cho các đối tượng này.
Quan điểm của chúng tôi, đồng ý với quan điểm thứ hai, đây cũng là một trong
những điểm mới của Luật thi hành án dân sự có tính đột phá trong công tác thi hành án
dân sự và với cách hiểu này pháp luật đã tạo cơ chế chủ động cho các Chấp hành viên áp
dụng các biện pháp nhằm ngăn chặn các hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản thi hành án hoặc
trốn tránh nghịa vụ thi hành án để đảm bảo thi hành án.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 66 của Luật Thi hành án dân sự thì Chấp hành
viên có thể áp dụng linh hoạt các biện pháp bảo đảm thi hành án nếu xét thấy cần thiết để
ngăn chặn việc tẩu tán, huỷ hoại, trốn tránh việc thi hành án. Trên thực tế, việc áp dụng
các biện pháp bảo đảm thi hành án phụ thuộc rất nhiều vào trình độ chuyên môn, khả
năng đánh giá, nhận định tình huống của Chấp hành viên. Chấp hành viên cần cân nhắc
kỹ càng trước khi ra quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án để vừa đảm bảo
mục đích ngăn chặn, phòng ngừa đồng thời vừa không gây thiệt hại không đáng có cho
người bị áp dụng.
2. Trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án
Trình tự, thủ tục áp dụng các biện pháp bảo đảm thi hành án được quy định trong
Luật Thi hành án dân sự khá tinh gọn, tạo thuận lợi cho Chấp hành viên có thể thực hiện
ngay việc phong tỏa tài khoản hay tạm giữ tài sản… Luật Thi hành án dân sự không quy
định Chấp hành viên tiến hành xác minh là thủ tục bắt buộc trước khi áp dụng biện pháp
bảo đảm thi hành án. Khoản 2 Điều 66 Luật Thi hành án dân sự quy định:
“Người yêu cầu Chấp hành viên áp dụng biện pháp bảo đảm phải chịu trách nhiệm
trước pháp luật về yêu cầu của mình. Trường hợp yêu cầu áp dụng biện pháp bảo đảm
không đúng mà gây thiệt hại cho người bị áp dụng biện pháp bảo đảm hoặc cho người
thứ ba thì phải bồi thường”


Ở đây có thể hiểu việc xác minh do đương sự tiến hành, từ kết quả xác minh đó,
đương sự yêu cầu Chấp hành viên áp dụng biện pháp bảo đảm và chịu trách nhiệm về yêu
cầu của mình.
Trong quá trình tổ chức thi hành bản án, quyết định, căn cứ hoàn cảnh thực tế và
đặc điểm mỗi biện pháp bảo đảm thi hành án để chấp hành viên thực hiện nhiệm vụ của
mình. Đối với biện pháp phong toả tài khoản, tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở
hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản nếu không có thông tin chính xác đầy đủ về chủ
tài khoản, mã tài khoản, chủ sở hữu, sử dụng tài sản… thì không thể ra được quyết định
phong toả tài khoản hoặc quyết định tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử


dụng, thay đổi hiện trạng tài sản hoặc ra quyết định phong toả không đúng đối tượng và
các quyết định này không thể thực hiện được. Do đó, khi áp dụng biện pháp bảo đảm thi
hành án quy định tại Điều 67, 69 Luật Thi hành án dân sự, Chấp hành viên hoặc người
yêu cầu áp dụng cần tiến hành các hoạt động xác minh, thu thập thông tin làm cơ sở cho
việc ra quyết định áp dụng các biện pháp bảo đảm.
Đối với biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự, điểm b khoản 3 Điều 68
Luật Thi hành án dân sự quy định:
“Trả lại tài sản, giấy tờ tạm giữ cho đương sự trong trường hợp đương sự chứng minh
tài sản, giấy tờ tạm giữ không thuộc quyền sở hữu của người phải thi hành án. Việc trả
lại tài sản, giấy tờ tạm giữ phải lập biên bản, có chữ ký của các bên”.

Như vậy, Chấp hành viên có thể áp dụng ngay biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ
của đương sự mà không nhất thiết phải xác minh trước xem có thuộc quyền sở hữu, sử
dụng của người phải thi hành án hay không.
Tóm lại, trước khi áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án, Chấp hành viên hoặc
đương sự yêu cầu áp dụng bắt buộc phải tiến hành các thủ tục xác minh điều kiện thi
hành án, còn đối với biện pháp bảo đảm thi hành án, các quy định trong Luật Thi hành án
dân sự thì tùy từng biện pháp áp dụng mà xác định cần thiết phải xác minh hay không cần

thiết phải xác minh trước khi ra quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm.. Tuy nhiên, Luật
Thi hành án dân sự cũng quy định, khi áp dụng biện pháp bảo đảm, Chấp hành viên
không phải thông báo trước cho đương sự.
2.1. Biện pháp phong toả tài khoản
Phong toả tài khoản là biện pháp nghiệp vụ làm cho mọi hoạt động “tiền ra” từ
một tài khoản nhất định bị hạn chế và kiểm soát. Như vậy, việc phong toả tài khoản sẽ
ảnh hưởng đến các giao dịch đầu ra của chủ tài khoản thông qua tài khoản đó. Trước đây,
đã có cách hiểu chưa đúng về việc phong toả tài khoản để thi hành án là phong toả hoàn
toàn tài khoản đó, dừng mọi hoạt động “tiền ra” và “tiền vào”, chính điều này ảnh hưởng
đến quyền lợi hợp pháp của người phải thi hành án và tự làm bó hẹp khả năng thanh toán
nợ của chủ tài khoản.
Trong xu thế phát triển chung của nền kinh tế đất nước và chính sách hạn chế
thanh toán bằng tiền mặt của Nhà nước, thì biện pháp phong toả tài khoản sẽ ngày càng
được áp dụng phổ biến hơn. Việc nghiên cứu thấu đáo biện pháp phong toả tài khoản là
yêu cầu đặt ra đối với Chấp hành viên để có thể vận dụng vào giải quyết các vụ việc thi
hành án mà đương sự là các cá nhân, tổ chức kinh tế trong và ngoài nước.
Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004 quy định phong toả tài khoản là một trong
sáu biện pháp cưỡng chế thi hành án (khoản 3 Điều 37 Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm
2004). Trong khi đó, tại khoản 1 Điều 39 Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004 về biện
pháp cưỡng chế khấu trừ tiền trong tài khoản của người phải thi hành án quy định:
“Khi phát hiện người phải thi hành án có tiền trong tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín
dụng hoặc kho bạc nhà nước thì Chấp hành viên ra quyết định khấu trừ để thi hành
án”.


Quy định trên rõ ràng xác định phong toả tài khoản và khấu trừ tiền trong tài
khoản là hai biện pháp cưỡng chế độc lập. Tuy nhiên cũng tại khoản 1 Điều 39 Pháp lệnh
Thi hành án dân sự năm 2004 về biện pháp khấu trừ tiền trong tài khoản quy định “Khi
có căn cứ cho rằng người phải thi hành án có dấu hiệu tẩu tán tiền trong tài khoản thì
Chấp hành viên có thể ra quyết định phong toả tài khoản”, trong trường hợp này có thể

hiểu biện pháp phong toả tài khoản chỉ là một biện pháp mang tính hỗ trợ, là một bước
đệm, một bước đi cần thiết cho việc áp dụng biện pháp cưỡng chế khấu trừ tiền trong tài
khoản. Chính vì vậy, biện pháp phong tỏa tài khoản đã được chuyển từ nhóm các biện
pháp cưỡng chế sang nhóm các biện pháp bảo đảm thi hành án.
Luật Thi hành án dân sự quy định phong toả tài khoản là một biện pháp bảo đảm
thi hành án (điểm a khoản 3 Điều 66 Luật Thi hành án dân sự). Chấp hành viên áp dụng
phong tỏa tài khoản đối với người phải thi hành án có tiền, tài sản gửi tại ngân hàng, tổ
chức tín dụng, kho bạc nhà nước nhằm ngăn chặn việc tẩu tán tiền trong tài khoản của
người phải thi hành án (khoản 1 Điều 67 Luật Thi hành án dân sự).
Tại Khoản 1 Điều 66 Luật thi hành án dân sự đã quy định “Chấp hành viên có
quyền tự mình hoặc theo yêu cầu của đương sự” áp dụng các biện pháp bảo đảm thi hành
án. Rõ ràng, đây là quyền hoàn toàn chủ động của các Chấp hành viên trong việc phong
tỏa tài khỏan của người phải thi hành án và phải chịu trách nhiệm về quyết định của mình
(trừ trường hợp đương sự yêu cầu) với một mục đích duy nhất là nhằm kịp thời ngăn
chặn việc tẩu tán tiền (dưới mọi hình thức) trong tài khoản của người phải thi hành án. Về
thủ tục, quyết định này được giao ngay cho cơ quan, tổ chức đang quản lý tài khoản của
người phải thi hành án để thi hành và không phải thông báo trước cho đương sự. Theo đó,
sẽ hạn chế được việc người phải thi hành án tẩu tán số tiền đang có trong tài khoản. Có
thể nói những quy định về biện pháp bảo đảm phong tỏa tài khoản của người phải thi
hành án được quy định trong Luật thi hành án dân sự rất tiến bộ, phù hợp với thực tiễn
công tác thi hành án dân sự và chắc chắn sẽ ngăn chặn được mọi hành vi tẩu tán tiền
trong tài khoản của đương sự.
Việc phong tỏa tài khoản được thực hiện như sau:
Thứ nhất, Thu thập thông tin về tài khoản của người phải thi hành án tại ngân
hàng, tổ chức tín dụng, kho bạc nhà nước
Luật Thi hành án dân sự không quy định việc thu thập thông tin về tài khoản của
người phải thi hành án, nhưng tại Điều 11 Nghị định số 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009
quy định “Quyết định phong tỏa tài khoản phải xác định rõ số tiền bị phong tỏa” vì vậy
để ra quyết định phong toả tài khoản chính xác, khả thi cần phải tiến hành các hoạt động
thu thập thông tin như: Chủ tài khoản, số dư trong tài khoản đó... Trong thời gian qua, đã

xảy ra nhiều trường hợp, Chấp hành viên do thiếu thông tin hoặc thông tin không chính
xác, đầy đủ đã vội vàng ra quyết định phong toả tài khoản không đúng đối tượng, hoặc
phong tỏa cả những tài khoản không còn số dư... là không đúng với quy định của pháp
luật về thi hành án dân sự. Việc thu thập thông tin về tài khoản của người phải thi hành án
có thể do người yêu cầu áp dụng biện pháp phong toả tài khoản thực hiện hoặc cũng có
thể do Chấp hành viên thực hiện. Thông tin về tài khoản của người phải thi hành án có từ


rất nhiều nguồn khác nhau. Việc xác định người đó có tài khoản hay không có thể căn cứ
vào một trong những yếu tố như: lĩnh vực, ngành nghề hoạt động của người phải thi hành
án, các hợp đồng của người phải thi hành án với đối tác, đăng ký kinh doanh... Nhiều
trường hợp thông qua việc phân tích, nghiên cứu bản án, nhất là các bản án kinh tế, Chấp
hành viên cũng có được những thông tin cần thiết về tài khoản của người phải thi hành
án. Người được thi hành án, người có quyền, nghĩa vụ liên quan cũng có thể cung cấp
thông tin về tài khoản của người phải thi hành án cho cơ quan thi hành án.
Chấp hành viên có thể tiến hành việc thu thập thông tin qua đường công văn hoặc
trực tiếp gặp gỡ các tổ chức nơi người phải thi hành án có tài khoản. Các thông tin về tài
khoản của người phải thi hành án cần làm rõ được như, số tài khoản, ngày mở, người
đứng tên tài khoản, số liệu về tài khoản như số dư, số nợ....
Hiện nay, việc thu thập thông tin về tài khoản của người phải thi hành án do người
được thi hành án tiến hành gặp nhiều khó khăn do vướng phải các quy định về bảo mật
thông tin khách hàng của các tổ chức tín dụng, ngân hàng, kho bạc nhà nước. Các tổ chức
này viện dẫn các quy định tại Điều 17 và Điều 104 Luật các tổ chức tín dụng để từ chối
cung cấp thông tin về tài khoản, số dư tài khoản, tài sản của người phải thi hành án theo
yêu cầu của người được thi hành án. Tuy nhiên, hoạt động thu thập thông tin được thực
hiện bởi Chấp hành viên sẽ gặp nhiều thuận lợi do pháp luật quy định nghĩa vụ cung cấp
thông tin của ngân hàng, tổ chức tín dụng và kho bạc theo yêu cầu của Chấp hành viên
(điểm d khỏan 4 Điều 5 Nghị định số 70/2000/NĐ-CP ngày 21/11/2000 của Chính phủ về
việc giữ bí mật, lưu trữ và cung cấp thông tin liên quan đến tiền gửi và tài sản của khách
hàng) và Điều 176 Luật Thi hành án dân sự đã quy định rõ trách nhiệm của Kho bạc,

Ngân hàng và tổ chức tín dụng khác trong thi hành án dân
Thứ hai, ra quyết định và thực hiện quyết định phong toả tài khoản
Khoản 2 Điều 67 Luật Thi hành án dân sự quy định “Khi tiến hành phong toả tài
khoản, Chấp hành viên phải giao quyết định phong toả tài khoản cho cơ quan, tổ chức
đang quản lý tài khoản của người phải thi hành án”. Như vậy, việc phong toả tài khoản
được thể hiện dưới hình thức quyết định. Sau khi có thông tin về tài khoản của người phải
thi hành án, để ngăn chặn việc tẩu tán, huỷ hoại tài sản, trốn tránh việc thi hành án của
người phải thi hành án, Chấp hành viên tự mình hoặc theo yêu cầu của người được thi
hành án, người phải thi hành án ra ngay quyết định phong toả tài khoản. Chấp hành viên
là người duy nhất có thẩm quyền ra quyết định phong toả tài khoản và quyết định này
được giao cho cơ quan, tổ chức đang quản lý tài khoản của người phải thi hành án. Quyết
định phong tỏa tài khoản cần ghi rõ thông tin liên quan đến chủ tài khoản, số tài khỏan,
số tiền bị phong tỏa và căn cứ phong toả, thời hạn và hậu quả pháp lý xảy ra nếu cá nhân,
cơ quan, tổ chức đang quản lý tài khoản đó không thực hiện các yêu cầu trong quyết định
của Chấp hành viên.
Thứ ba, xử lý việc phong tỏa tài khoản
Theo quy định tại khoản 3 Điều 67 Luật Thi hành án dân sự thì thời hạn phong toả
tài khoản là 05 ngày làm việc. Hết thời hạn phong toả tài khoản, Chấp hành viên phải áp


dụng biện pháp cưỡng chế khấu trừ tiền trong tài khoản. Như vậy, sau thời hạn 05 ngày
làm việc kể từ ngày ra quyết định phong tỏa, Chấp hành viên phải ra một trong hai loại
quyết định sau để xử lý việc phong tỏa tài khoản của người phải thi hành án, đó là:
- Ra quyết định khấu trừ tiền trong tài khoản của người phải thi hành án theo quy
định tại Điều 76 Luật thi hành án dân sự;
- Ra quyết định chấm dứt phong tỏa tài khoản của người phải thi hành án. Theo
quy định tại Điều 77 Luật Thi hành án dân sự.
Lưu ý, Điều 77 Luật Thi hành án dân sự được áp dụng trong tất cả các giai đoạn
thi hành án, nếu có một trong ba căn cứ của Khoản 1 Điều 77 thì Chấp hành viên phải ra
ngay quyết định chấm dứt phong tỏa tài khoản của người phải thi hành án.

2.2. Biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự
Theo quy định tại khoản 1 Điều 68 Luật Thi hành án dân sự thì Chấp hành viên
đang thực hiện nhiệm vụ thi hành án có quyền tạm giữ hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá
nhân hỗ trợ để tạm giữ tài sản, giấy tờ mà đương sự đang quản lý, sử dụng.
Thứ nhất, xác định tài sản, giấy tờ của đương sự được tạm giữ
Đối tượng bị áp dụng biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự không chỉ là
người phải thi hành án mà cả người được thi hành án nếu họ đang quản lý, sử dụng
những tài sản, giấy tờ phục vụ cho quá trình thi hành án. Các tài sản, giấy tờ bị tạm giữ là
các tài sản, giấy tờ có liên quan đến việc thi hành án như: giấy đăng ký xe mô tô, giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất… hoặc các tài sản có thể xử lý được để thi hành án. Khi
áp dụng biện pháp này, Chấp hành viên cần lưu ý:
- Tạm giữ các tài sản của đương sự có giá trị tương ứng với nghĩa vụ thi hành án
theo quy định tại Điều 8 Nghị định số 58/2009/NĐ-CP quy định “Việc áp dụng biện pháp
bảo đảm, cưỡng chế thi hành án phải tương ứng với nghĩa vụ của người phải thi hành án
và các chi phí cần thiết” để quyết định tạm giữ các tài sản để thi hành án. Chẳng hạn,
người phải thi hành án có nghĩa vụ thi hành án 20 triệu đồng, xác minh tài sản của người
phải thi hành án hiện có nhiều tài sản để thi hành như, một ô tô có giá trị khoảng 300
triệu đồng, một xe máy có giá trị khoảng 25 triệu đồng... Chấp hành viên đã quyết định
tạm giữ ô tô của người phải thi hành án là không đúng quy định pháp luật. Trong trường
hợp này Chấp hành viên nên tạm giữ chiếc xe máy của người phải thi hành án là tương
ứng với nghĩa vụ phải thi hành án.
- Các tài sản tạm giữ phải đang do đương sự quản lý, sử dụng và không nên áp
dụng biện pháp tạm giữ tài sản đối với các tài sản không được kê biên theo quy định tại
Điều 87 Luật Thi hành án dân sự hoặc các tài sản là bất động sản. Do ưu tiên mục đích
ngăn chặn hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản, trốn tránh việc thi hành án mà Luật Thi hành
án dân sự không quy định bắt buộc phải xác định tài sản, giấy tờ bị tạm giữ thuộc quyền
sở hữu của đương sự trước khi áp dụng biện pháp này. Trong thời gian thực hiện nhiệm
vụ thi hành án, Chấp hành viên có thể áp dụng ngay biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ
của đương sự. Trường hợp tài sản, giấy tờ tạm giữ không thuộc quyền sở hữu của đương



sự thì Chấp hành viên trả lại tài sản, giấy tờ tạm giữ đó (điểm b khoản 3 Điều 68 Luật Thi
hành án dân sự).
Thứ hai, lập biên bản và tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự
Theo quy định tại khoản 2 Điều 68 Luật Thi hành án dân sự thì việc tạm giữ tài
sản, giấy tờ phải lập biên bản tạm giữ tài sản, giấy tờ có chữ ký của Chấp hành viên và
đương sự. Trường hợp đương sự không ký thì phải có người làm chứng. Người làm
chứng có thể là người hàng xóm, đại diện tổ dân phố, đại diện chính quyền địa phương…
đã chứng kiến việc tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự. Biên bản tạm giữ tài sản, giấy
tờ phải được giao cho đương sự.
Để thực hiện điều luật này, Điều 9 Nghị định số 58/2009/NĐ-CP đã cụ thể hóa như
sau:
Biên bản tạm giữ tài sản, giấy tờ phải ghi rõ họ tên người bị tạm giữ tài sản, giấy
tờ; loại tài sản, giấy tờ bị tạm giữ; số lượng, khối lượng, kích thước và các đặc điểm khác
của tài sản, giấy tờ bị tạm giữ. Nếu tài sản là tiền mặt thì phải ghi rõ số lượng tờ, mệnh
giá các loại tiền, nếu là ngoại tệ thì phải ghi rõ tiền nước nào và trong trường hợp cần
thiết còn phải ghi rõ cả số sê ri trên tiền. Tài sản tạm giữ là kim khí quý, đá quý phải
niêm phong trước mặt người bị tạm giữ tài sản hoặc nhân thân của họ. Trường hợp người
bị tạm giữ tài sản hoặc nhân thân của họ không đồng ý chứng kiến việc niêm phong thì
phải có mặt của người làm chứng. Trên niêm phong phải ghi rõ loại tài sản, số lượng,
khối lượng và các đặc điểm khác của tài sản đã niêm phong, có chữ ký của Chấp hành
viên, người bị tạm giữ hoặc nhân thân của họ hoặc người làm chứng. Việc niêm phong
phải ghi vào biên bản tạm giữ.
Sau đó, Chấp hành viên thực hiện việc giao bảo quản tài sản, giấy tờ tạm giữ theo
quy định tại Điều 58 Luật Thi hành án dân sự.
Về vấn đề có phải ra quyết định tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự không? Hiện
nay Luật thi hành án dân sự và Nghị định số 58 chưa quy định cụ thể mà chỉ quy định về
việc lập biện bản tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự. Cho nên trên thực tế cũng có hai
quan điểm, quan điểm thứ nhất phải ra quyết định tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự
thì mới tiến hành tạm giữ; quan điểm thứ hai, Điều 68 Luật thi hành án dân sự không quy

định việc ra quyết định tạm giữ giấy tài sản, giấy tờ của đương sự như hai biện pháp
phong tỏa tài khoản và tạm dừng việc việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay
đổi hiện trạng tài sản mà chỉ quy định Chấp hành viên lập biên bản tạm giữ tài sản, giấy
tờ của đương sự nên khi thực hiện việc tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự không cần
thiết phải ra quyết định. Quan điểm của chúng tôi nhất trí với quan điểm thứ hai vì Luật
Thi hành án dân sự đã quy định, mặt khác việc ra quyết định sẽ ảnh hưởng đến quá trình
tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự. Chẳng hạn, khi xuống nhà người phải thi hành án,
Chấp hành viên phát hiện có một xe máy đang để trong nhà, Chấp hành viên có quyền
tạm giữ chiếc xe này bằng cách lập biên bản tạm giữ chiếc xe máy và giao bảo quản theo
quy định tại Điều 58 Luật của Luật THADS. Việc làm này phù hợp với quy định của
Điều 68 Luật THADS. Nếu theo quan điểm thứ nhất cứ phải ra quyết định tạm giữ tài


sản, giấy tờ rồi mới được tiến hành việc lập biên bản tạm giữ thì trong trường hợp trên
Chấp hành viên không thực hiện được việc tạm giữ chiếc xe máy để trong nhà người phải
thi hành án. Và như vậy, điều 67 Luật thi hành án dân sự không mang lại hiệu quả như sự
mong đợi của các chấp hành viên.
Đây là điểm khác biệt với biện pháp bảo đảm thi hành án quy định tại Điều 67 và
69 Luật Thi hành án dân sự đó là, hình thức thể hiện của biện pháp tạm giữ tài sản, giấy
tờ của đương sự là Biên bản tạm giữ.
Thứ ba, xử lý tài sản, giấy tờ tạm giữ của đương sự
Thời hạn tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự là 15 ngày kể từ ngày tạm giữ tài
sản, giấy tờ của đương sự. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tạm giữ tài sản, giấy tờ,
Chấp hành viên ra một trong các quyết định sau đây:
- Áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án nếu xác định được tài sản, giấy tờ tạm
giữ thuộc sở hữu của người phải thi hành án mà người phải thi hành án vẫn không tự
nguyện thi hành các nghĩa vụ theo bản án, quyết định;
- Trả lại tài sản, giấy tờ tạm giữ cho đương sự trong trường hợp đương sự chứng
minh tài sản, giấy tờ tạm giữ không thuộc quyền sở hữu của người phải thi hành án. Việc
trả lại tài sản, giấy tờ tạm giữ phải lập biên bản, có chữ ký của các bên.

Như vậy, có thể hiểu, Chấp hành viên tạm giữ tài sản, giấy tờ do người phải thi
hành án đang sử dụng, quản lý ngay cả trong trường hợp chưa xác định được chủ sở hữu
của tài sản, giấy tờ. Trong thời gian 15 ngày, kể từ ngày tạm giữ tài sản, nếu chưa xác
minh về chủ sở hữu của tài sản, giấy tờ tạm giữ thì Chấp hành viên phải tiến hành xác
minh về chủ sở hữu của tài sản, giấy tờ đó để xử lý theo quy định tại Khoản 3 Điều 68
Luật thi hành án dân sự. Rõ ràng, Luật thi hành án dân sự đã kịp thời bổ sung quyền hạn
cho các Chấp hành viên trong việc tạm giữ tài sản, giấy tờ để đảm bảo thi hành án mà từ
trước tới nay pháp luật về thi hành án đã bỏ ngỏ.
2.3. Biện pháp tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi
hiện trạng tài sản
Cũng như biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự, biện pháp tạm dừng
việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản không được Pháp
lệnh Thi hành án dân sự năm 2004 quy định. Tuy nhiên, các cơ quan thi hành án trong
quá trình tổ chức thi hành án vẫn sử dụng với hình thức công văn đề nghị các cơ quan có
thẩm quyền tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng… Trên thực tế, việc
đề nghị của cơ quan thi hành án thường không đạt hiệu quả như mong muốn, vì công văn
đề nghị không phải là văn bản có giá trị pháp lý bắt buộc các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản mà
chỉ là một đề nghị phối hợp trong công tác thi hành án dân sự.
Luật Thi hành án dân sự chính thức quy định biện pháp tạm dừng việc đăng ký,
chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản là một trong ba biện pháp bảo
đảm thi hành án. Chấp hành viên khi tổ chức thi hành án xét thấy cần ngăn chặn hoặc


phát hiện đương sự có hành vi chuyển quyền sở hữu, sử dụng, tẩu tán, huỷ hoại, thay đổi
hiện trạng tài sản có thể ra quyết định tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử
dụng, thay đổi hiện trạng tài sản của người phải thi hành án thì có quyền ra quyết định
tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản của
người phải thi hành án. Khi thực hiện biện pháp này, Chấp hành viên cần thực hiện theo
các bước sau:

Thứ nhất, xác định loại tài sản bị áp dụng biện pháp tạm dừng việc đăng ký,
chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản
Đối với tài sản là quyền tài sản hoặc tài sản của người phải thi hành án mà việc
chuyển dịch phải đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì để ngăn chặn hành vi
tẩu tán, huỷ hoại, thay đổi hiện trạng tài sản,… Chấp hành viên ra quyết định tạm dừng
việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản.
Hiện nay, có rất nhiều tài sản, quyền tài sản việc chuyển dịch quyền sở hữu, sử
dụng phải đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền như: vốn góp của tổ chức, cá
nhân tại doanh nghiệp; quyền sử dụng đất; phương tiện xe cơ giới… Đối với những tài
sản này, để thực hiện mua bán, chuyển nhượng, các bên tham gia quan hệ mua bán,
chuyển nhượng phải thực hiện thông qua việc đăng ký tại phòng đăng ký kinh doanh, văn
phòng đăng ký quyền sử dụng đất và sở hữu nhà… Quyền sở hữu, sử dụng của bên mua,
bên nhận chuyển nhượng chỉ được xác lập khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền
đăng ký. Chính vì thế, để ngăn chặn việc chuyển dịch tài sản nhằm trốn tránh nghĩa vụ thi
hành án, Chấp hành viên ra quyết định tạm dừng việc đăng ký chuyển dịch tài sản và yêu
cầu các cơ quan có liên quan thực hiện, nhằm duy trì điều kiện thi hành án của người phải
thi hành án.
Thứ hai, ra quyết định và gửi quyết định tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền
sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản
Biện pháp tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện
trạng tài sản được thể hiện bằng quyết định của Chấp hành viên. Nội dung quyết định cần
phải thể hiện rõ tên đối tượng bị áp dụng, loại tài sản, thông tin về đối tượng bị áp dụng
và tài sản tạm dừng đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng,…
Chấp hành viên ra quyết định tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử
dụng, thay đổi hiện trạng tài sản và gửi cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan. Trong
trường hợp này, nơi được giao quyết định là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền đăng ký,
chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản như: Phòng công chứng, phòng
đăng ký giao dịch bảo đảm, văn phòng đăng ký quyền sở hữu nhà và sử dụng đấtđể thực
hiện. Kể từ thời điểm nhận được quyết định về việc tạm dừng việc đăng ký, chuyển
quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản, Cơ quan đăng ký, chuyển quyền sở

hữu, sử dụng và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan không được thực hiện việc
đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng hoặc thay đổi hiện trạng tài sản cho đến khi nhận
được quyết định của Chấp hành viên về việc kê biên tài sản hoặc chấm dứt việc tạm dừng
việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản.


Lưu ý, Đối với tài sản được đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện
trạng tài sản, sau thời điểm nhận được quyết định của Chấp hành viên thì Chấp hành viên
có quyền xử lý để thi hành án theo quy định của pháp luật, nếu có tranh chấp thì hướng
dẫn các bên khởi kiện để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự (quy định tại Điều 10
Nghị định số 58).
Thứ ba, xử lý việc tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng thay
đổi hiện trạng tài sản.
Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày ra quyết định, Chấp hành viên thực hiện việc
kê biên tài sản hoặc chấm dứt việc tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử
dụng, thay đổi hiện trạng tài sản. Theo đó, trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày ra quyết
định tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng thay đổi hiện trạng tài sản,
Chấp hành viên phải làm một trong hai việc sau:
- Ra quyết định kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án theo quy định tại
Khoản 3 Điều 71 Luật thi hành án dân sự nếu hết 15 ngày kể từ ngày ra quyết định người
phải thi hành án vẫn không tự nguyện thi hành án các nghĩa vụ dânn sự theo bản án,
quyết định.
- Ra quyết định chấm dứt việc tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử
dụng thay đổi hiện trạng tài sản của người phải thi hành án. Về vấn đề này Luật Thi hành
án dân sự và Nghị định số 58 đều chưa quy định trong trường hợp nào thì Chấp hành viên
ra quyết định chấm dứt việc tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng thay
đổi hiện trạng tài sản của người phải thi hành án mà chỉ quy định những trường hợp chấm
dứt việc phong tỏa tài khoản của người phải thi hành án (quy định tại Điều 77 Luật thi
hành án dân sự) cho nên tùy từng trường hợp mà chấp hành viên vận dung và khi vận
dụng chấp hành viên có thể tham khảo điều 77 Luật thi hành án dân sự. Ví dụ, trong thời

gian 15 ngày kể từ ngày ra quyết định người phải thi hành án đã thực hiện xong nghĩa vụ
dân sự trong bản án, quyết định thì Chấp hành viên ra quyết định chấm dứt việc tạm dừng
việc việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng thay đổi hiện trạng tài sản của người
phải thi hành án.
Tóm lại, nhóm biện pháp bảo đảm thi hành án mới được quy định trong Luật Thi
hành án dân sự là sự bổ sung cần thiết, kịp thời giúp Chấp hành viên có thêm nhiều giải
pháp để áp dụng trong quá trình thi hành án, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả
công tác thi hành án dân sự. Việc quy định các biện pháp bảo đảm thi hành án theo hướng
mở rộng quyền tự quyết định của Chấp hành viên tạo cơ hội Chấp hành viên áp dụng một
cách sáng tạo pháp luật trong quá trình thi hành án, giúp Chấp hành viên xử lý nhanh
chóng những tình huống phát sinh trong quá trình tổ chức thi hành bản án, quyết định của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền.



×