Tải bản đầy đủ (.doc) (77 trang)

Các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự việt nam từ thực tiễn tỉnh quảng ngãi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (310.79 KB, 77 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THANH TÂM

CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
TỈNH QUẢNG NGÃI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THANH TÂM

CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
TỈNH QUẢNG NGÃI

Chuyên ngành : Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số

: 8 38 01 04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN NGỌC HÀ


HÀ NỘI, năm 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu ghi trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả luận văn

Trần Thanh Tâm


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ BIỆN PHÁP
NGĂN CHẶN TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM......................7
1.1. Nhận thức chung về biện pháp ngăn chặn trong luật tố tụng hình sự Việt Nam. 7
1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về biện pháp ngăn chặn......................11
CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TRONG
GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA, TRUY TỐ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NGÃI 31

2.1. Tình hình, đặc điểm có liên quan đến áp dụng biện pháp ngăn chặn trên địa bàn
tỉnh Quảng Ngãi...................................................................................................... 31
2.2. Thực tiễn áp dụng biện pháp ngăn chặn trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi............32
2.3. Nhận xét, đánh giá khái quát............................................................................ 46
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG
BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NGÃI...............53
3.1. Dự báo về tình hình tội phạm và các yếu tố ảnh hưởng đến việc áp dụng biện
pháp ngăn chặn trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi trong thời gian tới...........................53

3.2. Giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp ngăn chặn trên địa
bàn tỉnh Quảng Ngãi............................................................................................... 55
KẾT LUẬN............................................................................................................. 64
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................. 66
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ANTT
BPNC

:An ninh trật tự
:
Biện pháp ngăn chặn

CSĐT

:

Cảnh sát điều tra

ĐTV

:

Điều tra viên

KSV

:


Kiểm sát viên

Nxb

:

Nhà xuất bản

THTT

:

Tiến hành tố tụng

TAND

:

Tòa án nhân dân

TTHS

:

Tố tụng hình sự

VAHS

:


Vụ án hình sự

VKS

:

Viện kiểm sát

XHCN

:

Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quảng Ngãi là một tỉnh ven biển miền Trung, bao gồm 14 đơn vị hành
chính (01 thành phố, 06 huyện miền núi, 06 huyện đồng bằng ven biển và 01
huyện đảo); trong những năm gần đây, cùng với cả nước, tỉnh Quảng Ngãi đã
không ngừng phát triển về mọi mặt của đời sống xã hội và đang dần trở thành
khu vực kinh tế trọng điểm của miền Trung.
Bên cạnh sự vươn lên của kinh tế, tình hình an ninh trật tự (ANTT) trên địa
bàn diễn biến ngày càng phức tạp, trung bình mỗi năm xảy ra khoảng 712 vụ
phạm pháp hình sự các loại với tính chất, mức độ, hành vi nguy hiểm cho xã hội
ngày càng tăng, gây tâm lý hoang mang, lo sợ trong nhân dân. Trong bối cảnh
đó, công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm trên địa bàn tỉnh Quảng
Ngãi luôn được các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương và các cơ quan bảo vệ
pháp luật quan tâm, giải quyết.

Các BPNC là một chế định pháp lý rất quan trọng trong Bộ luật TTHS Việt
Nam. Việc quy định và áp dụng đúng đắn các BPNC nhằm phòng ngừa tội phạm
và đảm bảo cho quá trình phát hiện kịp thời, nhanh chóng, chính xác; xử lý
nghiêm minh tất cả các hành vi phạm tội, không cho người phạm tội tiếp tục thực
hiện hành vi phạm tội cũng như các hành vi vi phạm pháp luật khác, không cho
họ trốn tránh, cản trở đến quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình
sự. Việc áp dụng BPNC rất nhạy cảm, đụng chạm trực tiếp đến quyền cơ bản của
công dân như: quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, thân thể, thư tín, bí mật đời
tư,... Thực tiễn những năm qua (từ năm 2013 đến năm 2018), việc áp dụng các
biện pháp ngăn chặn trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi cho thấy, các biện pháp này,
đặc biệt là các biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam được áp dụng khá phổ biến
trong các vụ án hình sự. Việc áp dụng BPNC trong nhiều trường hợp đã kịp thời
ngăn chặn hành vi phạm tội, chặn đứng việc trốn tránh pháp luật của người

1


thực hiện hành vi phạm tội hoặc bảo đảm cho quá trình thi hành án đạt hiệu quả.
Kết quả áp dụng BPNC đã mang lại nhiều kinh nghiệm quý báu, cần thường
xuyên tổng kết, bổ sung cho lý luận và nhân rộng trong thực tiễn.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được cũng còn những hạn chế, thiếu
sót nhất định trong đó có áp dụng các biện pháp ngăn chặn của các Cơ quan có
thẩm quyền THTT mà hậu quả là dẫn đến bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội,
vi phạm nguyên tắc pháp chế XHCN, xâm phạm các quyền cơ bản của công dân,
gây dư luận xấu trong xã hội, ảnh hưởng đến uy tín của Đảng, Nhà nước và các
Cơ quan có thẩm quyền THTT.
Thực tiễn đang đặt ra những yêu cầu mới cho công tác phòng ngừa và đấu
tranh chống tội phạm nói chung và việc áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với
người phạm tội nói riêng trong việc giải quyết các vụ án hình sự. Vì vậy, việc
nghiên cứu vấn đề áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự Việt

Nam một cách đầy đủ, hệ thống về mặt lý luận, đánh giá một cách toàn diện,
chính xác, khách quan việc áp dụng trong thực tiễn thời gian qua, từ đó đề xuất
các giải pháp phù hợp, trước hết là giúp cơ quan và người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng tỉnh Quảng Ngãi nắm vững và vận dụng tốt vào thực tiễn hoạt động
công tác là vấn đề cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn áp dụng.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, tác giả đã chọn đề tài “Các biện pháp
ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng
Ngãi” làm luận văn thạc sỹ luật học, chuyên ngành luật hình sự và tố tụng hình
sự.
2. Tình hình nghiên cứu
Các BPNC trong luật TTHS đã được nhiều học giả và các nhà khoa học
nghiên cứu, tiếp cận với nhiều góc độ khác nhau. Trong những năm gần đây, có
thể kể đến một số công trình như sau: Giáo sư, tiến sĩ Võ Khánh Vinh có sách
“Quyền con người tiếp cận đa ngành và liên ngành luật học” ; tiến sĩ Võ Thị
Kim Oanh đã chủ biên Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam, năm 2018; Viện

2


kiểm sát nhân dân tối cao có chuyên đề “Một số kinh nghiệm và biện pháp nâng
cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và thi hành
án hình sự 2014”; tác giả Nguyễn Quốc Doanh có Luận văn thạc sĩ “Kiểm sát
tạm giữ, tạm giam từ thực tiễn Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quy Nhơn, tỉnh
Bình Định” năm 2015; tác giả Khổng Minh Quân có Luận văn thạc sĩ “Các biện
pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Vĩnh Phúc”
năm 2018; tác giả Võ Bình Vương có Luận văn thạc sĩ “Kiểm sát việc áp dụng
biện pháp tạm giữ, tạm giam theo pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam từ thực
tiễn quận Tân Bình, TP Hồ Chí Minh” năm 2018.
Từ nghiên cứu các công trình khoa học nêu trên, tác giả nhận thấy nhiều
quan điểm mang tính lý luận phù hợp với thực tiễn nên tác giả có kế thừa và phát

triển khi thực hiện luận văn. Tuy nhiên, xuất phát từ thực tiễn áp dụng BPNC ở
tỉnh Quảng Ngãi, thông qua sự nghiên cứu những hạn chế, thiếu sót và những
khó khăn, vướng mắc của cấp cơ sở, từ đó phát hiện nguyên nhân để góp phần
xây dựng làm hoàn thiện hơn về cơ sở lý luận; đề ra quan điểm và giải pháp bảo
đảm đúng đắn trong quá trình áp dụng các BPNC.
Tình hình nghiên cứu trên cho thấy, vấn đề áp dụng “Các biện pháp ngăn
chặn theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi”
có nội dung đặc thù, cần tiếp tục được nghiên cứu không những để làm tiêu chí,
cơ sở cho hoạt động áp dụng pháp luật tại tỉnh Quảng Ngãi, mà còn là kinh
nghiệm áp dụng chung cho các tỉnh, thành khác trong phạm vi toàn quốc.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu của đề tài:
- Phân tích làm sáng tỏ một một số vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng các
biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra, truy tố từ thực tiễn tỉnh Quảng
Ngãi theo pháp luật tố tụng hình sự và làm rõ những kết quả đã đạt được, hạn
chế, vướng mắc, nguyên nhân của hạn chế, vướng mắc.
- Đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng các biện

3


pháp ngăn chặn trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài:
- Phân tích làm rõ những lý luận chung về các BPNC theo pháp luật TTHS
Việt Nam;
- Phân tích các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về việc áp dụng các
biện pháp ngăn chặn liên quan đến đối tượng, điều kiện, thẩm quyền, trình tự,
thủ tục áp dụng.
- Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng áp dụng các biện pháp ngăn chặn
theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự trong giai đoạn điều tra, truy tố của

Cơ quan CSĐT và VKS trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi;
- Rút ra những kết quả đạt được cũng như những khó khăn, vướng mắc về
mặt lý luận; hạn chế, thiếu sót trong thực tiễn áp dụng các biện pháp ngăn chặn
và nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót đó;
- Kiến nghị, đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng
biện pháp ngăn chặn trong thời gian tới trên phạm vi cả nước nói chung, địa bàn
tỉnh Quảng Ngãi nói riêng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý
luận, quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng biện pháp ngăn chặn do Cơ
quan CSĐT, VKS cấp huyện và cấp tỉnh ở tỉnh Quảng Ngãi thực hiện.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về nội dung: tập trung nghiên cứu lý luận, pháp luật và thực tiễn áp dụng
biện pháp ngăn chặn do Cơ quan CSĐT, VKS cấp tỉnh và cấp huyện ở tỉnh
Quảng Ngãi thực hiện trong giai đoạn điều tra, truy tố theo quy định của pháp
luật tố tụng hình sự.
+ Về thời gian: từ năm 2013 đến năm 2018.
+ Về chủ thể, địa bàn: Cơ quan CSĐT, VKS cấp tỉnh và cấp huyện ở tỉnh
Quảng Ngãi thực hiện.

4


5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên các quan điểm, đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác phòng ngừa tội phạm và áp dụng
các BPNC, đồng thời dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Các phương pháp nghiên cứu mà đề tài đã áp
dụng:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Tiến hành nghiên cứu phân tích
những tài liệu có liên quan đến áp dụng các BPNC. Từ đó, khái quát rút ra những

nhận định, nhận xét, kết luận có cơ sở, căn cứ khoa học.
- Phương pháp tổng kết thực tiễn: Nghiên cứu thực tiễn áp dụng các
BPNC trên địa bàn Quảng Ngãi thông qua các báo cáo sơ kết, tổng kết, báo cáo
chuyên đề, rút kinh nghiệm... để đánh giá, khái quát rút ra những bài học kinh
nghiệm.
- Phương pháp thống kê, so sánh: Thống kê, so sánh số liệu có liên quan
đến việc áp dụng các BPNC trên địa bàn Quảng Ngãi để đánh giá, rút ra những
kết quả đạt được, tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của công tác này.
- Phương pháp chuyên gia: Xin ý kiến các đồng chí lãnh đạo, chỉ huy
Công an, VKS một số đơn vị, địa phương và lãnh đạo Công an, VKS tỉnh có
chức năng, nhiệm vụ theo dõi, chỉ đạo, thực hiện việc áp dụng các BPNC để
nghiên cứu, xây dựng những luận điểm khoa học của luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Về mặt lý luận: Cung cấp thêm các luận điểm, luận cứ khoa học, góp
phần bổ sung, hoàn thiện lý luận về áp dụng các BPNC nói chung và trên địa bàn
Quảng Ngãi nói riêng.
- Về thực tiễn: Đề xuất được các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả áp
dụng các BPNC trên địa bàn Quảng Ngãi.
Từ những đóng góp đó của bản luận văn là tài liệu nghiên cứu có giá trị
tham khảo đối với đơn vị chức năng thuộc Công an, VKS tỉnh Quảng Ngãi và có

5


thể làm tài liệu nghiên cứu, tham khảo trong các trường Công an nhân dân, Kiểm
sát và các cơ sở đào tạo về Luật trong phạm vi cả nước.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn được kết cấu thành 3 chương, cùng với phần mở đầu và phần kết
luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về biện pháp ngăn chặn trong

Luật tố tụng hình sự Việt Nam.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra,
truy tố trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.
Chương 3: Giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp ngăn
chặn trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.

6


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN

1.1. Những vấn đề lý luận về biện pháp ngăn chặn trong luật tố tụng
hình sự Việt Nam
1.1.1. Khái niệm biện pháp ngăn chặn trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam

Tại Mục I, Chương VII Bộ luật TTHS năm 2015 quy định rõ các BPNC,
gồm: Giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt
tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh.
Khoản 1, Điều 109 Bộ luật TTHS năm 2015 quy định căn cứ áp dụng các
BPNC như sau: “Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ
người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp
tục phạm tội hoặc để bảo đảm thi hành án, cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng trong phạm vi thẩm quyền của mình có thể áp dụng biện pháp giữ
người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để
bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh” [7,tr.99].
Biện pháp ngăn chặn là biện pháp cưỡng chế TTHS rất nghiêm khắc, đòi
hỏi có sự phân định rõ ràng về chủ thể áp dụng, thẩm quyền áp dụng, về đối
tượng bị áp dụng, về căn cứ và mục đích áp dụng để từ mới có một cách nhận
thức đầy đủ, thấu đáo và vận dụng đúng đắn vấn đề vào thực tiễn.

Ngoài ra, còn có một số quan niệm khác nữa về BPNC của các nhà khoa
học nghiên cứu pháp luật, những người làm công tác thực tiễn phòng ngừa và
đấu tranh chống tội phạm được công bố trong các giáo trình luật TTHS Việt
Nam, sách chuyên khảo, tạp chí chuyên ngành luật học. Các quan điểm đó dựa
trên cơ sở phân tích lý luận quy phạm pháp luật tại điều 61 Bộ luật TTHS năm
1988 sửa đổi, bổ sung năm 1990, 1992, 2000, Điều 79 Bộ luật TTHS năm 2003
và Điều 109 Bộ luật TTHS năm 2015 và thực tiễn áp dụng BPNC trong công tác
phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.

7


Tổng hợp từ những quy định của Bộ luật TTHS và một số khái niệm trên,
qua phân tích có thể đưa ra khái niệm như sau: “Biện pháp ngăn chặn là biện
pháp do cơ quan hoặc người có thẩm quyền tiến hành tố tụng áp dụng để kịp
thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ gây
khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội hoặc để đảm
bảo thi hành án”.
1.1.2. Vai trò, ý nghĩa của việc áp dụng biện pháp ngăn chặn
Tội phạm là hành vi nguy hiểm nhất trong tất cả các loại hành vi vi phạm
pháp luật. Tính nguy hiểm của tội phạm là xâm phạm trực tiếp vào các quan hệ
xã hội được pháp luật bảo vệ, gây nên những thiệt hại cho xã hội ở mức đáng kể.
Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng nhiệm vụ đấu tranh, phòng chống
các loại tội phạm và hành vi vi phạm pháp luật, nên nhiệm vụ này luôn được tiến
hành thường xuyên, liên tục, chủ động, khôn khéo áp dụng các biện pháp khác
nhau để từng bước loại trừ chúng ra khỏi cuộc sống xã hội. Do người thực hiện
hành vi phạm tội nói chung luôn tìm mọi cách, đối phó, trốn tránh sự trừng phạt
của pháp luật nên áp dụng các BPNC trong quá trình giải quyết VAHS là cần
thiết, nhằm mang lại hiệu quả cao nhất cho cuộc đấu tranh, phòng chống tội
phạm. Vì vậy, vai trò, ý nghĩa của việc áp dụng BPNC trong TTHS là rất đặc

biệt, bao hàm những lý do sau:
Thứ nhất, nhằm loại bỏ những trở ngại trong quá trình thực hiện các
nhiệm vụ của TTHS như không cho tội phạm cản trở hoạt động điều tra, truy tố,
xét xử; đảm bảo việc thi hành án đối với người phạm tội, buộc họ phải chịu hình
phạt của pháp luật. Sẽ trở nên vô nghĩa nếu trải qua quá trình điều tra, truy tố,
xét xử mà vẫn bỏ lọt người phạm tội, không xử lý được hành vi phạm tội của họ
theo đúng quy định của pháp luật. Vì vậy, Điều 18 Bộ luật TTHS hiện hành đã
đưa ra yêu cầu là: “Khi phát hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm, trong phạm vi
nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có
trách nhiệm khởi tố vụ án, áp dụng các biện pháp do Bộ luật này quy định để

8


xác định tội phạm và xử lý người phạm tội, pháp nhân phạm tội”.
Thứ hai, việc áp dụng BPNC tước bỏ những khả năng, điều kiện thuận lợi,
không cho phép người phạm tội tiếp tục thực hiện tội phạm, gây nên những hậu
quả nguy hại cho xã hội nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân,
quyền lợi của nhà nước, xã hội. Thực tiễn đã chứng minh nếu không áp dụng
BPNC đối với những người đủ căn cứ và buộc phải áp dụng thì họ sẽ tiếp tục
thực hiện hành vi phạm tội gây nguy hại cho xã hội.
Thứ ba, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn góp phần tăng cường tính
pháp quyền và củng cố trật tự, quyền uy pháp luật ở nước ta trong giai đoạn hiện
nay. Muốn xây dựng Nhà nước pháp quyền, đòi hỏi mọi công dân phải nắm
vững và tuyệt đối tuân thủ pháp luật. Chính vì vậy, một trong những yêu cầu đặt
ra muốn xây dựng nhà nước pháp quyền thì cần quan tâm đến công tác tuyên
truyền, giáo dục pháp luật sâu rộng đến công dân để họ biết, nghiêm chỉnh chấp
hành pháp luật và tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa. Để
đạt được điều này thì việc áp dụng các BPNC trong TTHS cũng là một trong
những nhân tố quan trọng.

1.1.3. Căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn
Bộ luật TTHS hiện hành không trực tiếp quy định các căn cứ áp dụng biện
pháp ngăn chặn mà chỉ quy định áp dụng biện pháp ngăn chặn nói chung, cụ thể
tại Điều 109 quy định, gồm các căn cứ sau:
- Thứ nhất, để kịp thời ngăn chặn tội phạm
Để kịp thời ngăn chặn tội phạm có nghĩa là không để cho hậu quả của tội
phạm xảy ra hoặc tiếp tục xảy ra. Chính vì vậy, để kịp thời ngăn chặn tội phạm
thì CQĐT phải thu thập tài liệu, chứng cứ chứng minh tội phạm sắp xảy ra hoặc
đang xảy ra, phải kịp thời ngăn chặn. Tội phạm sắp xảy ra là tội phạm chưa được
bắt đầu thực hiện, tội phạm đó mới chỉ ở giai đoạn chuẩn bị những điều kiện cần
thiết cho việc thực hiện một trong các tội phạm được quy định tại Điều 14 của
Bộ luật hình sự hiện hành thì phải chịu trách nhiệm hình sự.

9


Như vậy, một người đang chuẩn bị thực hiện tội phạm không thuộc các
điều trên hoặc người thực hiện tội phạm, mà tội phạm đó đã ở giai đoạn kết thúc
thì không áp dụng BPNC thuộc căn cứ này.
Tội phạm đang xảy ra là tội phạm đã được bắt đầu thực hiện nhưng chưa
kết thúc. Tội phạm này đang xảy ra hoặc đang tiếp diễn, người phạm tội đang
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, đang gây ra những thiệt hại cho các
quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Vì vậy phải áp dụng BPNC để ngăn
chặn tội phạm.
Đối tượng bị áp dụng, thường là những người bị giữ trong trường hợp
khẩn cấp hoặc người bị bắt do phạm tội quả tang.
- Thứ hai, khi có căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho
hoạt động điều tra, truy tố, xét xử
Căn cứ, được hiểu là những tài liệu có thật, những tài liệu đó phải tồn tại
khách quan; thu thập đúng nguồn, căn cứ là chứng cứ của vụ án, có đủ ba thuộc

tính: khách quan; liên quan; hợp pháp.
Bộ luật TTHS hiện hành đã cụ thể hơn căn cứ cản trở điều tra, truy tố, xét
xử đối với người bị buộc tội bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử về tội phạm
nghiêm trọng, tội phạm ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù
trên 2 năm bằng các căn cứ cụ thể, theo đó, việc tạm giam chỉ có thể được áp
dụng khi thuộc một trong năm trường hợp được quy định tại Khoản 2 Điều 119.
- Thứ ba, khi có căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ tiếp tục phạm tội
Để xác định người bị buộc tội sẽ hay không tiếp tục phạm tội, các cơ quan
có thẩm quyền phải dựa vào nhân thân và hành vi của người bị buộc tội.
+ Về nhân thân, người bị buộc tội có nhân thân xấu như: Lưu manh
chuyên nghiệp; côn đồ hung hãn; nhiều tiền án, tiền sự…. nguy cơ tái phạm sẽ
cao hơn người có nhân thân tốt.
+ Về hành vi, người bị buộc tội có hành động như: Đe doạ, trả thù, mua
chuộc, khống chế người làm chứng, người bị hại…hoặc chuẩn bị thực hiện tội

10


phạm mới.
- Thứ tư, để bảo đảm thi hành án
Tuỳ theo tính chất, mức độ của tội phạm, tuỳ theo đặc điểm nhân thân của
bị cáo mà Toà án sẽ áp dụng BPNC cần thiết để bảo đảm thi hành án.
Toà án thường áp dụng căn cứ này trong những trường hợp sau:
+ Tòa án cấp sơ thẩm có thể quyết định bắt tạm giam bị cáo ngay sau khi
tuyên án nếu có căn cứ cho thấy bị cáo có thể trốn hoặc tiếp tục phạm tội.
+ Tòa án cấp phúc thẩm có thể bắt tạm giam bị cáo ngay sau khi tuyên án
đối với những bị cáo không bị tạm giam nhưng bị xử phạt tù.
1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về biện pháp ngăn chặn
Những BPNC trong luật tố tụng hình sự là những biện pháp cưỡng chế
được áp dụng đối với bị can, bị cáo hoặc trong một số trường hợp khác còn áp

dụng đối với người chưa bị khởi tố nhằm ngăn chặn hành vi nguy hiểm của họ,
ngăn ngừa họ bỏ trốn, tiếp tục phạm tội hoặc có những hành động khác làm cản
trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc thi hành án. Những BPNC là một trong
những công cụ hữu hiệu để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các Cơ
quan có thẩm quyền THTT đạt hiệu quả, đáp ứng được kịp thời yêu cầu đấu
tranh phòng chống tội phạm.
Vì những lý do như trên nên trong hệ thống các biện pháp cưỡng chế
TTHS thì BPNC chiếm vị trí đặc biệt quan trọng. Hiến pháp và Bộ luật TTHS có
những quy định cụ thể về BPNC nhằm góp phần tăng cường tính dân chủ, hiệu
lực của Nhà nước trong việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân hướng
đến xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Theo Điều 109 Bộ luật TTHS hiện hành, các BPNC trong tố tụng hình sự
gồm có 8 biện pháp bao gồm: Giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm
giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, tạm hoãn
xuất cảnh.

11


1.2.1. Quy định về biện pháp Giữ người trong trường hợp khẩn cấp
Giữ trong trường hợp khẩn cấp là trường hợp giữ người khi có căn cứ xác
định người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm
đặc biệt nghiêm trọng hoặc sau khi thực hiện tội phạm hay bị nghi thực hiện tội
phạm người đó bỏ trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ.
- Khoản 1 Điều 110 Bộ luật TTHS hiện hành quy định có 3 trường hợp
giữ trong trường hợp khẩn cấp, gồm:
+ Trường hợp thứ nhất: Có đủ căn cứ để xác định người đó đang chuẩn bị
thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng
Đây là trường hợp cơ quan có thẩm quyền đã có quá trình theo dõi, kiểm
tra, xác minh các tin tức thu được và có đủ căn cứ xác định một người đang

chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng nên cần giữ ngay, để ngăn chặn kịp thời việc người đó gây thiệt hại cho xã
hội.
Giữ người trong trường hợp này phải thỏa mãn hai điều kiện:
1) Phải có đủ căn cứ để xác định người đó đang chuẩn bị thực hiện tội
phạm. Hành vi chuẩn bị phạm tội nói trên mặc dù chưa trực tiếp xâm hại lợi ích
của Nhà nước và công dân nhưng nó đã đặt các lợi ích ấy vào tình trạng bị đe
dọa rất nghiệm trọng;
2) Tội phạm đang được chuẩn bị thực hiện là tội phạm rất nghiêm trọng
hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
+ Trường hợp thứ hai: Khi người cùng thực hiện tội phạm hoặc bị hại
hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt nhìn thấy và xác nhận đúng
là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó
trốn. Giữ người trong trường hợp này phải thỏa mãn hai điều kiện:
1)

Phải có người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm (có thể là người cùng thực

hiện tội phạm hoặc người bị hại hoặc người chứng kiến khác) chính mắt trông
thấy và trực tiếp xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm;

12


2) Xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn. Điều này yêu cầu Cơ
quan điều tra phải tiến hành Giữ ngay người thực hiện hành vi phạm tội nếu
không họ sẽ trốn, gây khó khăn cho việc điều tra, xử lý tội phạm.
+ Trường hợp thứ ba: Có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở
hoặc nơi làm việc hoặc trên phương tiện của người bị nghi thực hiện tội phạm và
xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ.

Giữ người trong trường hợp này phải thỏa mãn hai điều kiện:
1) Tìm thấy dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở hoặc nơi làm
việc hoặc trên phương tiện của người bị nghi thực hiện tội phạm;
2) Cần ngăn chặn người bị nghi thực hiện tội phạm trốn hoặc tiêu hủy
chứng cứ.
- Thẩm quyền ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp
Khoản 2 Điều 110 Bộ luật TTHS hiện hành quy định cụ thể những người
có quyền ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp.
- Thủ tục giữ người trong trường hợp khẩn cấp
Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp phải ghi rõ họ tên, địa chỉ của
người bị giữ, lý do, căn cứ giữ người quy định tại khoản 1 Điều 110 Bộ luật
TTHS và các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 132 của Bộ luật TTHS. Việc
thi hành lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp phải theo đúng quy định tại
khoản 2 Điều 113 của Bộ luật TTHS.
Lưu ý: Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi giữ người trong trường hợp khẩn
cấp hoặc nhận người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp thì Cơ quan điều tra, cơ
quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải lấy lời khai
ngay và những người quy định tại điểm a và điểm b khoản 2 Điều 110 Bộ luật
TTHS phải ra quyết định tạm giữ, ra lệnh bắt người bị giữ hoặc trả tự do ngay
cho người đó.
Sau khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp, những người quy định tại
điểm c khoản 2 Điều 110 Bộ luật TTHS phải giải ngay người bị giữ kèm theo tài

13


liệu liên quan đến việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp đến Cơ quan điều
tra nơi có sân bay hoặc bến cảng đầu tiên tàu trở về. Trong thời hạn 12 giờ kể từ
khi tiếp nhận người bị giữ, Cơ quan điều tra phải lấy lời khai ngay và những
người quy định tại điểm a khoản 2 Điều 110 Bộ luật TTHS phải ra quyết định

tạm giữ, ra lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp hoặc trả tự do ngay
cho người đó.
Viện kiểm sát phải kiểm sát chặt chẽ căn cứ giữ người quy định tại khoản
1 Điều 110 Bộ luật TTHS.
1.2.2. Quy định về biện pháp Bắt người
Bắt người là biện pháp hữu hiệu giúp cơ quan có thẩm quyền THTT kịp
thời ngăn chặn tội phạm, góp phần nâng cao hiệu quả công tác khám phá sự thật
vụ án, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.
Tuy nhiên, bắt người có liên quan và ảnh hưởng trực tiếp đến các quyền cơ bản
của công dân …Do đó, bắt người luôn phải đảm bảo đúng theo các quy định của
Hiến pháp và pháp luật.
Các trường hợp bắt người được quy định tại Khoản 2 Điều 109 Bộ luật
TTHS hiện hành.
- Bắt bị can, bị cáo để tạm giam
Bắt bị can, bị cáo để tạm giam là bắt người đã bị khởi tố về hình sự hoặc
người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử để tạm giam nhằm ngăn chặn bị can,
bị cáo tiếp tục phạm tội, cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều tra, truy
tố, xét xử và thi hành án.
+ Đối tượng và điều kiện áp dụng
Đối tượng bị bắt để tạm giam, chỉ có thể là bị can, bị cáo nhưng không
phải mọi bị can, bị cáo đều bị bắt để tạm giam, mà chỉ những bị can, bị cáo có
một trong ba điều kiện sau đây thì mới có thể bị bắt để tạm giam:
1) Bị can, bị cáo về tội đặc biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng;
2) Bị can, bị cáo về tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình

14


sự quy định hình phạt tù trên 02 năm khi có căn cứ xác định người đó thuộc một
trong các trường hợp:

* Đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng vi phạm;
* Không có nơi cư trú rõ ràng hoặc không xác định được lý lịch của bị
can;
* Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã hoặc có dấu hiệu bỏ trốn;
* Tiếp tục phạm tội hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội;
* Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối,
cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ
án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm
chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này;
3) Bị can, bị cáo về tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình
phạt tù đến 02 năm nếu họ tiếp tục phạm tội.
+ Thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam:
Điều 113 Bộ luật TTHS hiện hành quy định thẩm quyền bắt bị can, bị cáo
để tạm giam cho những người sau đây: Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan
điều tra các cấp (trường hợp này, lệnh bắt phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê
chuẩn trước khi thi hành); Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
và Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp; Chánh án, Phó
Chánh án Tòa án nhân dân và Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quân sự các cấp;
Hội đồng xét xử.
+ Thủ tục bắt bị can, bị cáo để tạm giam
Khoản 2 và khoản 3 Điều 113 Bộ luật TTHS hiện hành quy định: Việc bắt
bị can, bị cáo để tạm giam phải có lệnh bắt, quyết định phê chuẩn lệnh, quyết
định bắt phải ghi rõ họ tên, địa chỉ của người bị bắt; lý do bắt và các nội dung
quy định tại khoản 2 Điều 132 của Bộ luật TTHS.
Không được bắt người vào ban đêm, trừ trường hợp phạm tội quả tang
hoặc bắt người đang bị truy nã.

15



* Đối với người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi, Ðiều 419 Bộ luật TTHS
hiện hành quy định:
Chỉ áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp áp giải đối với người bị buộc
tội là người dưới 18 tuổi trong trường hợp thật cần thiết.
Thời hạn tạm giam đối với người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi bằng
hai phần ba thời hạn tạm giam đối với người đủ 18 tuổi trở lên quy định tại Bộ
luật TTHS hiện hành. Khi không còn căn cứ để tạm giữ, tạm giam thì cơ quan,
người có thẩm quyền phải kịp thời hủy bỏ, thay thế bằng biện pháp ngăn chặn
khác.
Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi có thể bị giữ trong trường hợp khẩn
cấp, bị bắt, tạm giữ, tạm giam về tội phạm quy định tại khoản 2 Điều 12 của Bộ
luật hình sự nếu có căn cứ quy định tại các điều 110, 111 và 112, các điểm a, b,
c, d và đ khoản 2 Điều 119 của Bộ luật TTHS hiện hành.
Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể bị giữ trong trường hợp khẩn
cấp, bị bắt, tạm giữ, tạm giam về tội nghiêm trọng do cố ý, tội rất nghiêm trọng,
tội đặc biệt nghiêm trọng nếu có căn cứ quy định tại các điều 110, 111 và 112,
các điểm a, b, c, d và đ khoản 2 Điều 119 của Bộ luật TTHS hiện hành.
Đối với bị can, bị cáo từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị khởi tố, điều tra,
truy tố, xét xử về tội nghiêm trọng do vô ý, tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình
sự quy định hình phạt tù đến 02 năm thì có thể bị bắt, tạm giữ, tạm giam nếu họ
tiếp tục phạm tội, bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã.
- Bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp
Bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp là bắt người khi có căn cứ xác
định người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm
đặc biệt nghiêm trọng hoặc sau khi thực hiện tội phạm hay bị nghi thực hiện tội
phạm người đó bỏ trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ.
Khoản 1 Điều 110 Bộ luật TTHS hiện hành quy định có 3 trường hợp bắt
người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, gồm:

16



* Trường hợp thứ nhất: Có đủ căn cứ để xác định người đó đang chuẩn bị
thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng
Đây là trường hợp cơ quan có thẩm quyền đã có quá trình theo dõi, kiểm
tra, xác minh các tin tức thu được và có đủ căn cứ xác định một người đang
chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng nên cần bắt ngay, để ngăn chặn kịp thời việc người đó gây thiệt hại cho xã
hội.
Bắt người trong trường hợp này phải thỏa mãn hai điều kiện:
1) Phải có đủ căn cứ để xác định người đó đang chuẩn bị thực hiện tội
phạm. Hành vi chuẩn bị phạm tội nói trên mặc dù chưa trực tiếp xâm hại lợi ích
của Nhà nước và công dân nhưng nó đã đặt các lợi ích ấy vào tình trạng bị đe
dọa rất nghiệm trọng.
2) Tội phạm đang được chuẩn bị thực hiện là tội phạm rất nghiêm trọng
hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
* Trường hợp thứ hai: Bắt người trong trường hợp này phải thỏa mãn hai
điều kiện:
1) Phải có người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy và
trực tiếp xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm.
2) Xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn.
Những căn cứ để xét và đi đến quyết định cần bắt để ngăn chặn ngay việc
người phạm tội trốn gồm các trường hợp sau đây: đang có hành động bỏ trốn
hoặc đang chuẩn bị bỏ trốn; tính chất tội phạm mà người đó thực hiện, thái độ
hành vi của người đó sau khi thực hiện tội phạm, không có nơi cư trú rõ ràng; có
nơi cư trú nhưng ở quá xa; là đối tượng lưu manh, côn đồ, hung hãn; chưa xác
định được thân nhân người đó (căn cước lý lịch không rõ ràng).
* Trường hợp thứ ba:Bắt người trong trường hợp này phải thỏa mãn hai
điều kiện:
1) Tìm thấy dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở hoặc nơi làm


17


việc hoặc trên phương tiện của người bị nghi thực hiện tội phạm;
2) Cần ngăn chặn người bị nghi thực hiện tội phạm trốn hoặc tiêu hủy
chứng cứ.
Dấu vết của tội phạm trong trường hợp này cần được hiểu về mặt pháp lý,
không chỉ là dấu vết vật chất được hình thành do kết quả tác động của vật này
này lên vật khác mà còn bao gồm: Vật chứng (Công cụ, phương tiện phạm tội,
vật mang dấu vết của tội phạm…); các dấu vết khác (Vết thương tích, máu, tinh
dịch…).
+ Thẩm quyền ra lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp
Khoản 2 Điều 110 Bộ luật TTHS hiện hành quy định cụ thể những người
có quyền ra lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp.
+ Thủ tục bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp
Thủ tục bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp được quy định tại
Khoản 4, Khoản 5 và Khoản 6 Điều 110 Bộ luật TTHS hiện hành, nhìn chung về
quy định và áp dụng tương tự như thủ tục bắt bị can, bị cáo để tạm giam. Tuy
nhiên cần lưu ý: Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi giữ người trong trường hợp
khẩn cấp hoặc nhận người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, Cơ quan điều tra,
Cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra và những người có thẩm
quyền theo luật định của những cơ quan này phải thực hiện: lấy lời khai của
người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp; nếu thấy có căn cứ thì ra quyết định tạm
giữ, lệnh bắt nguời bị giữ trong trường hợp khẩn cấp và chuyển hồ sơ đề nghị
Viện kiểm sát phê chuẩn bao gồm: văn bản đề nghị Viện kiểm sát phê chuẩn
Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp; lệnh giữ người trong trường
hợp khẩn cấp; lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp; quyết định tạm
giữ; biên bản giữ người trong trường hợp khẩn cấp; biên bản ghi lời khai người
bị tạm giữ trong trường hợp khẩn cấp và chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến

việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp. Viện kiểm sát phải kiểm sát chặt chẽ
căn cứ giữ người quy định tại khoản 1 Điều 110 Bộ luật TTHS hiện hành.

18


- Bắt người phạm tội quả tang và bắt người đang bị truy nã
+ Bắt người phạm tội quả tang
Bắt người phạm tội quả tang là bắt người khi người đó đang thực hiện tội
phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt.
Điều 111 Bộ luật TTHS hiện hành quy định cụ thể ba trường hợp phạm
tội quả tang sau đây:
* Trường hợp thứ nhất: Đang thực hiện tội phạm thì bị bắt.
Người đang thực hiện tội phạm là người đang thực hiện hành vi phạm tội
được quy định trong Bộ luật hình sự nhưng chưa hoàn thành tội phạm hoặc chưa
kết thúc việc phạm tội mà bị phát hiện.
Đối với những tội phạm mà hành vi phạm tội được thực hiện trong một
khoảng thời gian dài, không bị gián đoạn như tội tàng trữ trái phép vũ khí quân
dụng, tội tàng trữ trái phép chất nổ, chất độc, chất cháy, chất phóng xạ… thì
trong suốt thời gian đó bị coi là đang thực hiện tội phạm. Vì vậy, thời điểm nào
tội phạm bị phát giác cũng là phạm tội quả tang.
* Trường hợp thứ hai:
Đây là trường hợp người phạm tội vừa thực hiện tội phạm xong chưa kịp
chạy trốn hoặc đang cất giấu công cụ, phương tiện, đang xóa những dấu vết của
tội phạm trước khi chạy trốn mà bị phát hiện.
Cần lưu ý để bắt người phạm tội theo trường hợp quả tang này phải có
chứng cứ chứng minh là người đó vừa gây tội xong, chưa kịp chạy trốn và sự
phát hiện, bắt giữ người phạm tội phải xảy ra tức thời sau khi tội phạm được thực
hiện. Thông thường, các vật chứng (còn gọi là tang vật) mà người phạm tội chưa
kịp cất giấu, tẩu tán là những bằng chứng khiến người phạm tội không thể chối

cãi về hành vi phạm tội của mình vừa thực hiện xong. Nhưng trong các trường
hợp không có vật chứng, sự có mặt của những người làm chứng cũng cho phép
được bắt người phạm tội theo trường hợp quả tang này.
* Trường hợp thứ ba: Đang bị đuổi bắt.

19


Trong trường hợp phạm tội quả tang này, người phạm tội vừa thực hiện tội
phạm xong hoặc đang thực hiện tội phạm mà bị phát hiện nên đã chạy trốn và bị
đuổi bắt.
+ Bắt người đang bị truy nã
Theo quy định của Bộ luật TTHS hiện hành, khi bị can, bị cáo bỏ trốn thì
Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan điều tra ra quyết định truy nã. Trường hợp
người đang chấp hành hình phạt tù trốn khỏi nơi giam thì Giám thị trại giam ra
quyết định truy nã.
+ Thẩm quyền bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã
Điều 111 và Điều 112 Bộ luật TTHS hiện hành quy định bất kỳ người nào
cũng có quyền bắt người phạm tội quả tang hoặc người đang bị truy nã.
+ Thủ tục bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã
Sau khi bắt người phạm tội quả tang hoặc người đang bị truy nã, công dân
không được đánh đập, tra tấn người phạm tội và cũng không tự ý giam giữ họ
mà phải giải ngay đến cơ quan Công an, Viện kiểm sát hoặc Ủy ban nhân dân
nơi gần nhất. Sau khi nhận người bị bắt, cơ quan điều tra phải lời khai ngay,
trong thời hạn 12 giờ phải ra quyết định tạm giữ hoặc trả tự do cho người bị bắt.
Điều 114 Bộ luật TTHS hiện hành quy định thủ tục đối với trường hợp bắt
người đang bị truy nã: “Sau khi lấy lời khai người bị bắt theo quyết định truy nã
thì Cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải thông báo ngay cho Cơ quan đã ra
quyết định truy nã đến nhận người bị bắt, sau đó phải ra ngay quyết định đình nã.
Trường hợp cơ quan đã ra quyết định truy nã không thể đến nhận ngay

người bị bắt thì sau khi lấy lời khai, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải ra
ngay quyết định tạm giữ và thông báo ngay cho cơ quan đã ra quyết định truy nã
biết; nếu đã hết thời hạn tạm giữ mà cơ quan ra quyết định truy nã vẫn chưa đến
nhận thì Cơ quan điều tra nhận người bị bắt gia hạn tạm giữ và gửi ngay quyết
định gia hạn tạm giữ kèm theo tài liệu liên quan cho Viện kiểm sát cùng cấp để
xét phê chuẩn.

20


×