Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Phát triển dịch vụ ngân hàng hiện đại theo kịp xu hướng thế giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (416.52 KB, 29 trang )

Phát triển dịch vụ ngân hàng hiện đại theo kịp xu hướng thế giới
bài Đức đã lấy
ND - Hội nhập quốc tế đã mở ra nhiều cơ hội, nhưng cũng đặt ra không ít thách thức đối
với các tổ chức cung ứng dịch vụ ngân hàng khi phải cạnh tranh gay gắt với các ngân hàng
nước ngoài không chỉ mạnh về tiềm lực tài chính mà còn có nhiều kinh nghiệm trong việc
phát triển các dịch vụ ngân hàng (DVNH) hiện đại.
Ða dạng dịch vụ
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, do sức ép cạnh tranh giữa các tổ chức tài
chính ngày càng lớn, yêu cầu đòi hỏi của người sử dụng cũng ngày càng cao và nhất là do
sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin (CNTT), DVNH không ngừng được cải
tiến và DVNH hiện đại đã ra đời. Các ngân hàng có thể đưa ra thị trường những dịch vụ
hoàn toàn mới hoặc cung cấp những dịch vụ truyền thống theo phương thức mới có hàm
lượng công nghệ cao. DVNH hiện đại được hiểu bao gồm những DVNH truyền thống
được nâng cấp, phát triển trên nền tảng công nghệ hiện đại (process innovation) và những
dịch vụ hoàn toàn mới được cung cấp nhằm đem lại những tiện ích mới cho người sử dụng
(product innovation).
Thời gian qua, sự phát triển của thị trư ờng DVNH hiệ n đ ại ở Việ t Nam đ ã có nhữ ng
thay đ ổi tích cực. Những kết quả đ ạ t đư ợc có thể kể đ ến là:
Thứ nhất, với sự nỗ lực cố gắng không ngừng của các NHTM, vốn điều lệ của các NHTM
đã có sự cải thiện đáng kể. Ðến cuối năm 2008, 100% số NHTM cổ phần đã có vốn điều lệ
từ 1.000 tỷ đồng trở lên. Ðây là cơ sở quan trọng cho các NHTM có nguồn tài lực để áp
dụng công nghệ tiên tiến nhằm phát triển các DVNH hiện đại.
Thứ hai, số lượng dịch vụ được cung cấp ngày càng đa dạng và số lượng các NHTM tham
gia cung cấp cũng ngày một tăng lên, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng.
Dịch vụ thẻ thời gian qua đã đem lại hiệu quả đáng kể cho nền kinh tế xã hội. Ngoài những
loại thẻ truyền thống, các NHTM cũng đã đưa ra nhiều loại thẻ tích hợp mới với nhiều tính
năng mới làm cho thị trường thẻ thêm phong phú. Mạng lưới ATM và POS ngày càng
được đầu tư mở rộng, các dịch vụ gia tăng trên ATM ngày càng được chú trọng nhằm đem
lại cho khách hàng nhiều tiện ích hơn. Số lượng tài khoản cá nhân, doanh số giao dịch thẻ
tăng trong thời gian qua cho thấy, việc phát triển dịch vụ thẻ đã làm tăng khối lượng thanh
toán qua ngân hàng, người dân đang quen dần với các DVNH nói chung và dịch vụ thẻ nói


riêng.
Thứ ba, sự hợp tác trong hoạt động kinh doanh giữa các NHTM bước đầu đã hình thành
với sự ra đời của các liên minh. Sự liên minh giữa các NHTM trong kinh doanh thẻ đã cho
phép thẻ của một NHTM phát hành có thể rút tiền mặt tại máy ATM của một số ngân hàng
khác, hoặc thẻ của một ngân hàng này có thể thanh toán tại các POS của một số ngân hàng
khác trong cùng một liên minh.
Thứ tư, cơ sở hạ tầng, CNTT nhìn chung đã có sự phát triển vượt bậc trong thời gian qua,
tạo cơ sở quan trọng cho việc cải tiến quy trình nghiệp vụ, phát triển các dịch vụ mới, nâng
cao tính tiện ích cũng như chất lượng phục vụ khách hàng. Vốn đầu tư cho CNTT không
ngừng tăng lên. Ðây là nền tảng quan trọng để các NHTM nâng cao chất lượng dịch vụ,
tăng tốc độ xử lý thông tin, tăng cường tính bảo mật, đem lại nhiều tiện ích cho khách hàng
và tiết kiệm chi phí cho ngân hàng.
Chất lượng dịch vụ còn nhiều hạn chế
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, thị trường DVNH hiện đại vẫn còn khá manh mún,
chưa mang tính đồng bộ và chưa tạo ra những tiện ích thật sự đối với các đối tượng tiếp
cận và sử dụng dịch vụ.
Thứ nhất, vốn điều lệ hoạt động còn thấp. Tuy không còn NHTM cổ phần nào có mức vốn
điều lệ dưới 1.000 tỷ đồng nhưng nhìn chung, vốn điều lệ của các NHTM Việt Nam vẫn
còn hạn hẹp. Với mức vốn như vậy thì khả năng trang bị và ứng dụng các công nghệ hiện
đại rõ ràng còn hạn chế.
Thứ hai, chất lượng và số lượng các dịch vụ tuy đã được cải thiện nhưng vẫn còn nhiều
hạn chế. Có thể nói, một điểm yếu phổ biến và nổi bật của các NHTM Việt Nam là sự đơn
điệu trong hoạt động kinh doanh. Doanh thu của các NHTM vẫn dựa chủ yếu từ cho vay
trong khi hoạt động cho vay là một lĩnh vực nhiều rủi ro. Ðối với thị trường thẻ - một lĩnh
vực được đánh giá là có bước phát triển vượt bậc thời gian qua nhưng vẫn mang tính rời
rạc do có sự khác biệt trong quan điểm giữa các NHTM, các liên minh. Phạm vi phát hành
và sử dụng thẻ mới chủ yếu tập trung ở một số tỉnh, thành phố lớn; đối tượng sử dụng thẻ
chủ yếu tập trung vào những đối tượng đang làm việc trong lĩnh vực tài chính ngân hàng,
trong các khu công nghiệp, khu chế xuất và mới đây là đối tượng hưởng lương từ ngân
sách Nhà nước.

Thứ ba, hiệu quả tối đa mang lại cho từng ngân hàng từ việc ứng dụng công nghệ hiện đại
còn chưa cao. Trên thực tế, việc ứng dụng các công nghệ hiện nay còn nhiều bất cập, mặt
bằng trình độ công nghệ của các ngân hàng còn ở mức thấp, khoảng chênh lệch trình độ
công nghệ giữa các ngân hàng khá xa dẫn đến hai tình trạng trái ngược nhau: hoặc là chỉ có
thể ứng dụng công nghệ ở mức độ thấp do hạn chế về vốn hoặc lại chưa khai thác sử dụng
hết tính năng công nghệ hiện đại do một số quy trình, chuẩn mực nghiệp vụ chưa được ban
hành đầy đủ. Chính điều này cũng là nguyên nhân khiến các ngân hàng khó kết nối với
nhau.
Thứ tư, vấn đề quản lý rủi ro còn nhiều bất cập. Các DVNH hiện đại được sử dụng ngày
càng nhiều là một dấu hiệu khả quan, là thành công của ngân hàng, song cũng là thách thức
không nhỏ đối với các ngân hàng khi chưa có khả năng quản lý rủi ro có hiệu quả, chưa có
đủ các biện pháp phòng chống gian lận, bảo mật, an toàn tốt thì có khả năng rủi ro xảy ra
cho ngân hàng.
Những nguyên nhân đằng sau những bất cập này thì rất nhiều, cả nguyên nhân khách quan
và chủ quan, như nguồn nhân lực cho hoạt động kinh doanh DVNH hiện đại còn thiếu,
chưa có tính chuyên nghiệp; kỹ năng xử lý của các nhân viên ngân hàng cũng còn thấp;
hành lang pháp lý chưa hoàn thiện và đồng bộ; hạ tầng cơ sở thông tin viễn thông còn kém
phát triển, thiếu sự đồng bộ, kết nối giữa các ngân hàng,... Song có thể thấy, vấn đề năng
lực tài chính của các NHTM còn hạn chế, thiếu vốn để đầu tư cơ sở hạ tầng, CNTT phục
vụ cho việc triển khai các DVNH hiện đại và thói quen ưa thích sử dụng tiền mặt của
người dân cộng với những lo sợ vì DVNH hiện đại thường chứa đựng nhiều rủi ro là
những nguyên nhân cơ bản nhất cản trở sự phát triển của DVNH hiện đại.
Với một thị trường rộng lớn với hơn 85 triệu dân, đây là một tiềm năng to lớn để phát triển
các DVNH bán lẻ nói chung và DVNH hiện đại nói riêng. Tuy vậy, thói quen sử dụng tiền
mặt trong giao dịch thanh toán hàng ngày không dễ gì thay đổi trong một sớm một chiều và
chính tâm lý ngại thay đổi thói quen chi tiêu khiến nhiều người dân chưa muốn tiếp cận với
những dịch vụ mới. Mặt khác, nhu cầu đối với các DVNH hiện đại của nhiều bộ phận dân
cư không thật sự cấp bách. Ngay như đối với dịch vụ thẻ, nhiều người còn cảm thấy rắc rối
khi phải dùng thẻ bởi cho tới thời điểm hiện nay, khả năng thanh toán bằng thẻ chưa cao,
các tiện ích của thẻ chưa được khai thác hết, nhiều người vẫn quan niệm rằng thẻ ATM là

để rút tiền mặt.
Một hạn chế nữa là do tâm lý người Việt rất ngại để người khác biết thu nhập của mình, kể
cả trong trường hợp các nguồn thu nhập là hoàn toàn hợp pháp chứ chưa nói tới những
nguồn thu nhập "không tên". Vì thế, dù có rất nhiều phương thức thanh toán không dùng
tiền mặt như thẻ, ủy nhiệm chi, séc, nhưng khách hàng vẫn rút tiền để thanh toán và người
bán lại mang tiền đến nộp vào ngân hàng.
Ðể phát triển DVNH hiện đại, bên cạnh sự nỗ lực của mỗi NHTM trong việc tăng vốn, đổi
mới công nghệ, đa dạng hóa và cá biệt hóa các sản phẩm dịch vụ, đẩy mạnh hoạt động tiếp
thị, phát triển nguồn nhân lực, nâng cao năng lực quản trị và phòng ngừa rủi ro trong hoạt
động kinh doanh, cần phải tạo ra sự hợp tác, liên kết chặt chẽ giữa các tổ chức đơn vị có
liên quan; phải thực hiện quản lý thống nhất, bảo đảm tính đồng bộ và tiện ích trong việc
cung cấp dịch vụ tối ưu cho khách hàng. Có như vậy, các DVNH hiện đại mới có thể phát
triển và nhanh chóng trở thành những dịch vụ được khách hàng và ngân hàng chấp nhận
như một loại giao dịch không thể thiếu trong cuộc sống.
Theo Lao động online
Hệ thống các TCTD đã phát triển đa dạng về hình thức sở hữu và loại hình dịch vụ. Quy
mô và chất lượng hoạt động của các TCTD ngày càng tăng; năng lực tài chính, năng lực
quản trị điều hành, năng lực cạnh tranh, trình độ ứng dụng công nghệ thông tin ngày càng
được nâng lên. Các TCTD đã cơ bản thực hiện tốt vai trò trung gian, huy động và phân bổ
nguồn vốn có hiệu quả, cơ bản đáp ứng được nhu cầu vốn và tiện ích của nền kinh tế và xã
hội. Nhờ đó, hoạt động tín dụng ngân hàng đã đóng góp tích cực cho việc duy trì sự tăng
trưởng kinh tế với nhịp độ cao trong nhiều năm qua.
Hệ thống ngân hàng Việt Nam từ sau quá trình đổi mới đến nay đã có những bước phát
triển mạnh mẽ. Hiện có 5 ngân hàng thương mại (NHTM) nhà nước, 1 Ngân hàng chính
sách xã hội (NHCS XH), 06 ngân hàng liên doanh, 38 NHTM cổ phần, 47 chi nhánh ngân
hàng nước ngoài. Sự phát triển này còn thể hiện qua tốc độ tăng trưởng của tổng tài sản, dư
nợ, huy động vốn của hệ thống ngân hàng. Cơ cấu thu nhập cũng đã chuyển biến theo
hướng tích cực, tỷ lệ thu nhập phi lãi suất trong tổng thu nhập có xu hướng tăng lên. Sản
phẩm và dịch vụ ngân hàng hiện đại không ngừng phát triển đa dạng và phong phú. Trước
đây, khoảng mươi năm, sản phẩm dịch vụ chủ yếu của ngân hàng chỉ đơn thuần là tín dụng

thì ngày đã phát triển thành hàng trăm loại sản phẩm, dịch vụ khác nhau. Bên cạnh việc đa
dạng hóa các loại hình sản phẩm truyền thống như vay vốn trả góp mua ô tô, dịch vụ mua
nhà trả góp,… cũng đã xuất hiện các sản phẩm dịch vụ hiện đại khác như lưu ký chứng
khoán, thanh toán bù trừ chứng khoán, ngân hàng giám sát, nghiệp vụ bao thanh toán,
nghiệp vụ hoán đổi và quyền chọn, quản lý vốn, dịch vụ ngân hàng Internet Banking,
Mobile Banking, thẻ tín dụng,… Không chỉ quan tâm đến việc phát triển các sản phẩm và
dịch vụ ngân hàng hiện đại mà các ngân hàng còn chú trọng đến việc tăng cường các tiện
ích của sản phẩm, dịch vụ ngân hàng cung cấp.
Hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam và những vấn đề đặt ra
PGS.TS. Nguyễn Thị Mùi
Trường Đào tạo & PTNNL VietinBank
Thập kỷ qua, cùng với quá trình đổi mới và hội nhập, hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam
(NHTM) đã có nhiều thay đổi quan trọng. Sự xuất hiện của các ngân hàng (NH) 100% vốn nước
ngoài và việc loại bỏ dần các hạn chế đối với hoạt động của chi nhánh NH đã khiến mức độ cạnh
tranh ngày càng trở nên gay gắt, buộc các NH Việt Nam (VN) phải tái cấu trúc để tiếp tục phát
triển. 2 trong số 5 NHTM Nhà nước (NN) đã thực hiện cổ phần hóa và chính thức hoạt động theo
mô hình đa sở hữu được gần hai năm. Các NHTM cổ phần (CP) một mặt đang cấu trúc lại, có sự
tham gia của các nhà đầu tư chiến lược nước ngoài
i
cùng lộ trình tăng vốn điều lệ lên mức tối
thiểu là 3.000 tỉ VND
ii
. Tất cả các động thái này nhằm hướng tới sự phát triển bền vững trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế.
1. Vài nét về hệ thống NHTM trong quá trình hội nhập
Trong vài năm qua, những đóng góp của hệ thống NHTM VN vào quá trình đổi mới và thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá là rất lớn. Các NHTM
không chỉ tiếp tục khẳng định là một kênh dẫn vốn quan trọng cho nền kinh tế, mà còn góp phần
ổn định sức mua đồng tiền . Đến nay, vốn cho sản xuất kinh doanh chủ yếu vẫn do các NHTM đáp
ứng, với tổng tài sản của hệ thống lên tới khoảng 140% GDP.

Cùng với quá trình cải cách và đổi mới, số lượng các NHTM VN đã tăng nhanh
iii
, đã và đang từng
bước chuyển dần hướng tới một hệ thống tương thích của các nền kinh tế đang nổi và mới phát
triển.
Sự lớn mạnh của hệ thống NHTM VN thể hiện ở sự tăng lên của vốn chủ sở hữu, tổng tài sản,
mức độ đa dạng hóa các dịch vụ cung cấp và sự đóng góp của ngành vào GDP hàng năm: về
tổng vốn đăng ký đã tăng gấp 12 lần, tổng tài sản và tiền gửi tăng hơn 16 lần và các khoản vay
tăng khoảng 14 lần
iv
.
Bảng 1: Tỷ trọng tổng tài sản của các NHTM so với toàn hệ thống (%)
Loại hình TCTD 2006 2007 2008 2009 6t/ 2010
NHTM Nhà nước 62,3 53,3 51,48 49,4 48,2
NHTM cổ phần 22,8 31,5 32,45 33,2 34,7
Chi nhánh NHNN 9,8 9,6 10,26 11,43 11,89
NH liên doanh 1,1 1,2 1,25 1,36 1,38
Nguồn: Báo cáo số 49/BC-NHNN năm 2009 của NH Nhà nước về việc rà soát 10 năm thực hiện
Luật các TCTD và tính toán của tác giả.
Bảng 2: Thị phần tiền gửi của các NHTM (%)
Loại hình TCTD 2006 2007 2008 2009
NHTM Nhà nước 65,1 53,4 56,91 51,7
NHTM cổ phần 21,3 31,5 31,23 33,2
Chi nhánh NH nước ngoài 9,6 9,9 13,22 14,3
NH liên doanh 1,1 1,2 1,43 1,67
Nguồn: Báo cáo số 49/BC-NHNN năm 2009 của NH Nhà nước về việc rà soát 10 năm thực hiện
Luật các TCTD.
Các NHTM NN vẫn tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong việc đáp ứng vốn, đặc biệt trong điều
kiện khó khăn của nền kinh tế, của các doanh nghiệp. Chính họ là kênh chuyển tải nhanh nhất các
cơ chế chính sách hỗ trợ của Chính phủ cho các thành phần kinh tế, góp phần thúc đẩy nền kinh

tế phục hồi và phát triển. Vì vậy, GDP của sáu tháng đầu năm 2010 đã đạt khoảng 6,4%, mức
tăng cao nhất kể từ quí 4 năm 2008 đến nay. Song thị phần của các nhóm NH này từng bước
giảm và nhóm NHTM CP, NH nước ngoài tăng
v
, nhờ các cam kết mở cửa thị trường.
Năm 2009, lợi nhuận của các NH có mức tăng trưởng khá, tỉ suất lợi nhuận trên tài sản (ROA) của
6 NH lớn nhất lên mức 1,9% Tỉ suất này năm 2008 là 1,5%
( vi)
. Tuy nhiên, trong năm 2010, do
những khó khăn từ nền kinh tế, đã ảnh hưởng đến khách hàng có quan hệ tiền gửi và tiền vay tại
các NH, ảnh hưởng đến tăng trưởng tài sản, 6 tháng đầu năm 2010, nhiều NH chưa đạt được tốc
độ như năm 2009.
Về phát triển các sản phẩm dịch vụ
Hệ thống NHTM VN đã phát triển khá nhanh về số lượng các NH và số lượng chi nhánh/phòng
giao dịch, cùng với quá trình hoàn thiện các sản phẩm dịch vụ truyền thống và phát triển các dịch
vụ mới, nên doanh số và tỷ trọng dịch vụ tăng lên qua các năm. Cụ thể:
Dịch vụ huy động vốn và cho vay: Đây vẫn là dịch vụ mang lại nguồn thu chủ yếu cho các
NHTM hiện nay và có mức tăng trưởng khá.
Sơ đồ 1: Tăng trưởng huy động vốn và tăng trưởng tín dụng ở VN






Nguồn: Báo cáo hàng năm của NHNN
Huy động vốn của các NHTM có tăng trưởng khá qua các năm (trừ năm 2008, có giảm sút, do tác
động từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu) do việc đa dạng hóa sản phẩm huy động và phát
triển mạng lưới chi nhánh, phòng giao dịch. Măc dù có mạng lưới rộng và thương hiệu mạnh,
được người dân biết đến, nhưng tốc độ tăng trưởng về huy động vốn của các NHTM CP có sự

bứt phá mạnh, thị phần đã tăng lên 31,23% so với 21,3% năm 2006, khiến cho thị phần của các
NHTM NN giảm. Hoạt động cho vay cũng có tốc độ tăng trưởng cao, thậm chí còn tăng nóng
trong năm 2007 và năm 2008, một số NHTM CP có tốc độ tăng từ 60% trở lên. Nhưng 6 tháng đầu
năm 2010, tăng trưởng tín dụng đạt 10,8%, nhưng đến cưới tháng 7, tốc độ tăng trưởng đã khá
hơn, với mức tăng gần 13,0%
vii
cho 7 tháng đầu năm 2010. So với tốc độ tăng trưởng kinh tế, thì
tốc độ tăng trưởng tín dụng gấp 5 đến 6 lần được cho là tăng trưởng nóng, nhưng nhìn nhận một
cách sâu sắc có thể thấy, nếu không có sự tăng trưởng cao của tín dụng trong vài năm qua, thì
không có được tốc độ tăng GDP như ngày hôm nay.
Bảng 3. Thị phần tín dụng của các NHTM (đơn vị %)
Loại hình TCTD 2006 2007 2008 2009
NHTM Nhà nước 67,1 59,7 58,2 49,93
NHTM CP 19,6 27,5 26,54 30,4
Chi nhánh NHNN 8,3 8,56 10,27 12,8
NH liên doanh 1,39 1,2 1,3 1,48
Nguồn: Báo cáo số 49/BC-NHNN năm 2009 của NH Nhà nước về việc rà soát 10 năm thực hiện
Luật các TCTD.
Cho vay theo lĩnh vực kinh tế không thay đổi nhiều qua các năm. Trong tổng số dư nợ cho vay của
NH, nông lâm thủy sản vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất, khoảng trên dưới 30%,tiếp theo là công
nghiệp, thương mại và xây dựng.






Các dịch vụ phi tín dụng
* Dịch vụ thanh toán
Trong 3 năm trở lại đây, dịch vụ thanh toán đã có bước phát triển quan trọng. Nhiều dịch vụ thanh

toán mới đã ra đời, đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của người sử dụng. Trung tâm chuyển
mạch thẻ thống nhất được triển khai tích cực, việc kết nối hệ thống ATM, POS thành một hệ thống
thống nhất trên toàn quốc đạt kết quả kích lệ. 3 liên minh thẻ Banknet, VNBC và Smartlink đã kết
nối liên thông 10 thành viên là các NHTM có số lượng thẻ phát hành chiếm 87% tổng số thẻ phát
hành của các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán và 75% số lượng ATM trên toàn quốc là nền
tảng quan trọng cho việc thúc đẩy phát triển dịch vụ này.
Tính đến cuối tháng 7/2010, đã có trên 24 triệu thẻ với 48 tổ chức phát hành thẻ và hơn 190
thương hiệu thẻ, gần 11.000 ATM phát hành trên phạm vi cả nước và 37.000 thiết bị chấp nhận
thẻ POS
viii
. Các dịch vụ tiện ích đi kèm ngày càng được đa dạng hóa như thẻ mua xăng dầu, thẻ
mua hàng qua mạng, thanh toán tiền điện nước…; việc triển khai thí điểm cung ứng phương tiện
thanh toán “ví điện tử” của các tổ chức không phải tổ chức tín dụng cũng có bước phát triển
nhanh, trong đó số lượng phát hành đạt gần 84.500 “ví điện tử” của 17 NH tham gia triển khai dịch
vụ và được chấp nhận thanh toán tại 119 đơn vị cung ứng hàng hóa dịch vụ. Điều này đã góp
phần phát triển mạnh mẽ thanh toán điện tử trong thời gian tới, tạo tói quen thanh toán không dùng
tiền mặt cho người dân. Tỷ lệ tiền mặt trong tổng thanh toán có xu hướng giảm, từ 20,3% năm
2004 xuống còn 14,6% năm 2008 và 14,5% năm 2009. Sự phát triển của Hệ thống thanh toán điện
tử liên NH có vai trò quan trọng trọng việc nâng cấp cơ sở hạ tầng cho dịch vụ phát triển. Tài
khoản cá nhân có mức tăng trưởng hàng năm cao: 150% xét về số tài khoản và 120% xét về số
dư. Số lượng các tài khoản cá nhân đã tăng từ 135.000 năm 2000 lên khoảng 5 triệu vào năm
2005, trên 8 triệu vào năm 2007 và 14 triệu vào cuối năm 2009.
2. Một số vấn đề đặt ra trong phát triển hệ thống NHTM trong giai đoạn tới
Trong bối cảnh kinh tế Châu âu đang từng bước phục hồi sau những khủng hoảng về nợ công tại
một số quốc gia, việc phục hồi kinh tế Mỹ gặp nhiều khó khăn
ix
, CPI tháng 6 năm 2010 giảm 0,1%
thể hiện tiêu dùng của người dân giảm xuống. Trước diễn biến này, Fed đã dự báo, GDP của Mỹ
năm 2010 chỉ tăng 3,0 đến 3,2% thấp hơn dự báo đầu năm, tỷ lệ thất nghiệp 9,2% đến 9,5% cao
hơn mức dự báo trước đó. Kinh tế Trung Quốc đã có dấu hiệu tăng trưởng chậm lại trong quí

II/2010, với mức tăng trưởng 6 tháng đầu năm là 11,1%... Vấn đề này cho thấy diễn biến kinh tế
thế giới vẫn khó lường, sẽ tiếp tục ảnh hưởng đến vấn đề tăng trưởng kinh tế, lạm phát, xuất nhập
khẩu của VN. Như vậy, hoạt động của các NHTM VN sẽ tiếp tục chịu ảnh hưởng không chỉ của
nền kinh tế VN, mà còn chịu tác động từ các nhân tố từ bên ngoài. Điều này đặt ra một số vấn đề
mà các NHTM phải quan tâm.
Thứ nhất, về năng lực cạnh tranh
Một hệ thống NH không thể phát triển bền vững, năng lực cạnh tranh cao trong bối cảnh năng lực
cạnh tranh của nền kinh tế thấp. Về các chỉ số phát triển tài chính, Báo cáo phát triển tài chính
2009 của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) xếp hạng VN đứng thứ 49 trên 52 nước được đánh giá.
Hầu hết các chỉ số được xếp hạng cạnh tranh thấp, chỉ có chỉ số ổn định tài chính, chỉ số về quy
mô và hiệu quả của lĩnh vực NH được xếp hạng cao.
Bảng 4: Chỉ số phát triển tài chính năm 2008 của một số nước (xếp hạng trên 52)
Tên nước Xếp hạng Tên nước Xếp hạng
Hoa Kỳ 1 Thái Lan 29
Nhật Bản 4 Indonesia 38
Singapore 10 Philippine 48
Malaysia 20 Việt nam 49
Trung Quốc 24
Nguồn: WEF, 2009, Báo cáo phát triển tài chính
So với các nước khác trong khu vực, qui mô của các NH VN còn nhỏ, tổng tài sản ở mức thấp, các
chỉ số ROA, ROE cuối năm 2009 vẫn ở mức khiêm tốn nếu dựa trên tiêu chí đánh giá theo thông
lệ quốc tế.
Bảng 5: So sánh lĩnh vực NH VN với các nước trong khu vực
VN Malaysia Indonesia Philippines
Tổng tài sản (tỷ USD) 127,66 386,25 213,98 119,52
Tổng dư nợ tín dụng (tỷ USD) 73,10 208,85 119,42 61,59
ROE (%) 9,7 18,5 21,94* 6,91
ROA (%) 1,0 1,5 2,08* 0,77
NPLs (%) 3,5 2,2 3,8 4,51
Nguồn: Chiến lược tổng thể phát triển ngành dịch vụ VN đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm

2025, trang 264
Ghi chú: *: lợi nhuận trước thuế
Xét trong nội bộ ngành NH, sự có mặt của các NH nước ngoài đã làm tăng sức ép cạnh tranh
trong lĩnh vực NH. Các NH nước ngoài không chỉ cạnh tranh với các NH trong nước trong việc
cung cấp các dịch vụ NH hiện đại, mà còn cạnh tranh ngay cả về các sản phẩm truyền thống như
tín dụng, thanh toán, nhận tiền gửi v.v.. Mặc dù các NH VN có lợi thế so sánh về mạng lưới, về
khách hàng truyền thống nhờ vai trò lịch sử nhưng kém hơn so về năng lực cạnh tranh với các NH
nước ngoài về mức độ hiện đại hóa công nghệ NH, về nguồn nhân lực, về trình độ quản trị hoạt
động và vấn đề quản lý rủi ro.
Một số công trình nghiên cứu cho rằng: một tổ chức tín dụng có khả năng cạnh tranh cần có các
đặc điểm sau: (i) Năng lực sáng tạo; (ii) Năng lực phân bổ và tái phân bổ danh mục tài sản và nợ;
(iii) năng lực cải thiện năng suất và quản lý nguồn lực; (iv) khả năng thanh toán, vốn và thanh
khoản; và (v) Chủ sở hữu mạnh. Điều đó có nghĩa là, để nâng cao năng lực cạnh tranh, việc tăng
vốn là rất cần nhưng chưa đủ mà cần phải tạo năng lực và động lực để cạnh tranh.
Thứ hai, về chất lượng dịch vụ NH
Các dịch vụ mà các NH VN đang cung cấp hiện nay, dù đã được đa dạng hoá nhưng vẫn đơn
điệu, chủ yếu vẫn là các sản phẩm truyền thống. Các dịch vụ NH hiện đại chưa phát triển hoặc
phát triển nhưng đồng bộ. Rất nhiều dịch vụ phát triển chưa xứng với tiềm năng, đặc biệt là các
dịch vụ bán lẻ, dịch vụ dành cho khách hàng thượng lưu, dịch vụ quản lý tài sản, tư vấn và hỗ trợ
tài chính, trung gian tiền tệ, trao đổi công cụ tài chính, cung cấp thông tin tài chính và dịch vụ
chuyển đổi. Hoạt động NH đầu tư và kênh phân phối điện tử đã tăng trưởng nhanh chóng nhưng
tính tiện tích và hiệu quả kinh tế chưa cao. Các hoạt động tiền tệ, lãi suất, công cụ tỷ giá, công cụ
phát sinh ngoại hối, đầu tư vẫn trong giai đoạn đầu. Thị trường dịch vụ NH vẫn phát triển dưới
mức tiềm năng, các mô hình cạnh tranh còn đơn giản. Mức độ đáp ứng nhu cầu xã hội đối với
dịch vụ NH chưa cao do những hạn chế về số lượng, chất lượng và khả năng tiếp cận. Cạnh tranh
bằng chất lượng dịch vụ, công nghệ và thương hiệu chưa phổ biến, nên dễ dẫn tới sự bất ổn của
thị trường dịch vụ, do đó dễ tạo ra sự cạnh tranh về giá (lãi suất) để lôi kéo khách hàng của nhau.
Nếu dịch vụ NH không được cải tiến mạnh mẽ, phát triển dịch vụ chưa theo định hướng nhu cầu
của khách hàng, thì hệ thống NH trong nước sẽ khó duy trì thị phần của mình, nhất là khi sự phân
biệt giữa NHTM trong nước và nước ngoài căn bản được xóa bỏ vào năm 2011. Lợi thế về truyền

thống và mạng lưới sẽ khó giúp các NH trong nước phát triển các dịch vụ mới và các dịch vụ phi
tín dụng - những dịch vụ cần công nghệ và kỹ năng khai thác của các cán bộ NH. Báo cáo của
HSBC VN cho thấy: doanh thu từ thanh toán quốc tế chiếm 1/3 tổng doanh thu của NH. Cách đây
3 năm khách hàng là các công ty VN chỉ chiếm 3%, thì nay đã lên tới 50% trên tổng số khách hàng
của HSBC, dự đoán đến năm 2012, khách hàng là các doanh nghiệp VN tăng lên 70%.
Thời điểm tự do hóa hoàn toàn thị trường dịch vụ NH của VN đã đang đến rất gần, nhưng so với
các phương thức cung cấp dịch vụ trong GATS, các dịch vụ NH VN chủ yếu được cung cấp ở
trong nước. Việc cung cấp dịch vụ qua biên giới, hiện diện thương mại và hiện diện của thể nhân
còn hạn chế. Tổng doanh thu từ xuất khẩu dịch vụ tài chính của VN chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng
doanh thu xuất khẩu dịch vụ của VN.
Thứ ba, về năng lực quản trị và công nghệ.
Đến nay công tác quản trị rủi ro đối với mỗi NH tuy đã được chú trọng, nhưng chưa thực sự trở
thành công cụ hữu hiệu phục vụ quản trị điều hành. Tình trạng vay mượn với lãi suất lên xuống
thất thường trên thị trường tiền tệ liên NH trong thời gian qua suy cho cùng đều bắt nguồn từ việc
các NH chưa quản trị tốt tài sản và thanh khoản. Do sự yếu kém từ quản trị tài sản Nợ, tài sản Có
và sự thiếu hụt của các công cụ quản lý hữu hiệu, trong khi một số NHTM lại muốn sử dụng triệt
để phần vốn này để cho các hoạt động kinh doanh sinh lời, nên xảy ra thiếu thanh khoản cục bộ
tại một số NH.
Theo kinh nghiệm của các NH nước ngoài, yếu tố công nghệ có thể giúp giảm 76% chi phí hoạt
động của NH, nhưng để có được nền tảng công nghệ hiện đại, đòi hỏi phải đầu tư lớn, đây là việc
rất khó đối với các NHTM VN. Do vốn ít, năng lực tài chính còn hạn chế, nên một số NH không dễ
thực hiện
x
. Như vậy, quản trị hoạt động cũng như quản trị công nghệ NH đang là một thách thức
lớn trước sức ép hội nhập của hệ thống NH VN.
Với một một thị trường tài chính còn non trẻ, rất chật hẹp, số lượng NH và TCTD phi NH là không
nhỏ. Một khi mỗi phân đoạn thị trường có nhiều NH/ chi nhánh trong và ngoài nước khai thác, mức
độ canh tranh để giữ thị phần sẽ càng trở nên khốc liệt, nhưng đa số các NH VN chưa nâng cao
được chất lượng, tính tiện ích của dịch vụ, lợi thế công nghệ và trình độ quản lý để cạnh tranh, mà
chỉ dựa vào lãi suất và chính sách khuyến mại. Điều này đôi khi đã buộc NHNN phải xử lý bằng

các mệnh lệnh hành chính, để tránh những cú sốc nảy sinh từ nguy cơ bất ổn này.
Một số NH CP qui mô vốn nhỏ, mới ra đời chưa có điều kiện khảng định được uy tín và thương
hiệu với khách hàng, chưa có điều kiện để phát triển dịch vụ phi tín dụng, chỉ tập trung vào hoạt
động tín dụng, phát triển mạnh cho vay tiêu dùng, cho vay chứng khoán và bất động sản với lãi
suất thỏa thuận, nên đã tác động không nhỏ đến sự phát triển của thị trường này. Ttrước những
một số diễn biến bất ổn từ nền kinh tế, thì sự chậm trễ hay những can thiệp quá mức của cơ quan
quản lý, những bất ổn của hệ thống NH dễ nảy sinh.
3. Một số giải pháp
Với mục tiêu đảm bảo sự an toàn và hiệu quả trong hoạt động của mỗi NHTM nói riêng và toàn bộ
hệ thống nói chung, cần chú ý đến các giải pháp sau:
Một là, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho sự tăng trưởng của hoạt động NH, đảm
bảo tính thống nhất, đồng bộ trong hệ thống pháp luật NH phù hợp với các cam kết khi
hội nhập.
Nhanh chóng ban hành văn bản hướng dẫn Luật NH Nhà nước
xi
và Luật Các tổ chức tín dụng
xii
,
cần xây dựng, chỉnh sửa, bổ sung các quy định về cấp phép hiện diện thương mại, về tổ chức,
hoạt động, quản trị, điều hành của các NH trong và ngoài nước hướng tới nguyên tắc không phân
biệt đối xử, phù hợp với các cam kết và lộ trình gia nhập WTO. Tuân thủ nguyên tắc minh bạch
hoá và chuẩn xác thông tin về hoạt động NH.
Hoàn thiện các quy định về hình thức pháp lý, phạm vi hoạt động và loại hình dịch vụ được phép
cung cấp của các NH nước ngoài tại VN cũng như các quy định liên quan tới quản lý ngoại hối, cải
cách hệ thống kế toán NH phù hợp chuẩn mực kế toán quốc tế và các quy định về thanh toán
không dùng tiền mặt.
Tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện quy định về các dịch vụ NH mới như các dịch vụ uỷ thác, các sản
phẩm phái sinh, các hoạt động NH điện tử, quy định về hướng dẫn và quản lý các dịch vụ phái
sinh và các quy định liên quan đến các phương thức cung cấp dịch vụ NH qua biên giới, tiêu dùng
ở nước ngoài và hiện diện thể nhân... Cơ chế chính sách của các cơ quan quản lý Nhà nước cần

được ban hành kịp thời, phù hợp với với lộ trình thực hiện các cam kết quốc tế về lĩnh vực tiền tệ
và NH. Không những thế, một vấn đề rất quan trọng là cần xác định rõ lộ trình mở cửa thị trường
với các mốc thời gian cụ thể để đảm bảo tính tiên liệu của chính sách cũng như tạo điều kiện cho
các NHTM hoạt động theo nguyên tác thương mại – thị trường. Đây sẽ là một trong những cơ sở
đảm bảo hệ thống NH VN hội nhập hiệu quả.
Hai là, Nâng cao năng lực quản trị rủi ro và năng lực giám sát NH
Việc NH có một cơ cấu quản trị doanh nghiệp vững mạnh là rất quan trọng, vì NH có vai trò cốt
yếu trong nền kinh tế của mỗi quốc gia, NH được coi là ngành chịu sự quản lý, giám sát chặt chẽ
và có thể sử dụng mạng lưới an toàn của Chính phủ
xiii
. Vì vậy, quản trị hoạt động của NH nói
chung và quản trị rủi ro nói riêng, cần dựa trên một số nguyên tắc của kinh tế thị trường, nhưng khi
vận hành phải theo thực tế của nền kinh tế VN. Xây dựng văn hoá quản trị rủi ro, tạo môi trường
thuận lợi cho việc áp dụng các nguyên tắc và thông lệ quản trị rủi ro. Nâng cao chất lượng công
tác kiểm soát nội bộ, để phát hiện những tiềm ẩn rủi ro, có biện pháp ngăn chặn kịp thời. Nhưng
cũng không nên quá nhấn mạnh đến kiểm tra, kiểm soát nội bộ dễ làm mất tính sáng tạo trong
công việc. Xây dựng hệ thống khuyến khích hữu hiệu, bằng việc xây dựng mối quan hệ giữa
người lao động với người sử dụng lao động, trên cơ sở cơ chế thu nhập khen thưởng và xử phạt
nội bộ để khuyến khích người lao động năng động, sáng tạo, làm việc với năng suất và chất lượng
cao.
Ba là, xây dựng hệ thống thu thập dữ liệu đảm bảo các thông tin cung cấp là tin cậy.
Trong hoạt động NH, không phải mọi thông tin đều có thể công khai công bố, nhưng càng minh
bạch thông tin, đảm bảo tính cập nhật, độ chuẩn xác, sẽ càng củng cố được niềm tin của đông
đảo dân chúng. Thực tế do thiếu thông tin, hoặc thông tin không đầy đủ, đã có chỗ để tin đồn tồn
tại, làm đảo lộn thị trường. Vì vậy, cần qui định cơ chế cung cấp thông tin đầy đủ, minh bạch,
chính xác, kịp thời với hệ thống dữ liệu đầy đủ, cập nhật, điều này không chỉ phục vụ cho công tác
phân tích và dự báo, mà còn phục vụ cho việc điều chỉnh cơ chế chính sách sát với yêu cầu thực
tiễn. Chỉ khi có được hệ thống thông tin tốt, minh bạch, niềm tin sẽ tăng lên.
Bốn là, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao với công nghệ hợp lý.
Đây là yếu tố then chốt để nâng cao khả năng cạnh tranh cho ngành NH. Thực tế ở VN hiện nay,

sự thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao để quản lý và sử dụng công nghệ NH đang diễn ra ở
hầu hết các NH. Do đó đi đôi với đầu tư công nghệ phải bằng mọi biện pháp (tạo môi trường cho
nguời lao động tự học tập, tổ chức đào tạo chuyên sâu và nâng cao, có cơ chế thưởng, phạt thỏa
đáng trong công việc… ) để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, giáo dục đạo đức nghề nghiệp.
Đây là việc làm cấp thiết, nếu NH muốn hướng đến việc phát triển ổn định và bền vững./.
. .Các vấn đề căn bản về ngân hàng thương mại
1.1.Định nghĩa
Ngân hàng thương mại là tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và
các hoạt động khác có liên quan.Vay tiền của người gửi và cho các công ty và cá nhân vay
lại. Tiền huy động được của người gửi gọi là tài sản “nợ” của ngân hàng. Tiền cho công ty
và cá nhân vay lại cũng như tiền gửi ở các ngân hàng khác và số trái phiếu ngân hàng sở
hữu gọi là tài sản “có” của ngân hàng. Phần chênh lệch giữa số tiền huy động được và số
tiền đem cho vay, gửi ngân hàng và mua trái phiếu gọi là vốn tự có của ngân hàng thương
mại. Phần tài sản có tính thanh khoản được giữ để đề phòng trường hợp tiền gửi vào ngân
hàng bị rút ra đột ngột gọi là tỷ lệ dự trữ của ngân hàng. Toàn bộ số vốn của ngân hàng
được chia làm hai loại: vốn cấp 1 và vốn cấp 2. Vốn cấp 1, còn gọi là vốn nòng cốt, về cơ
bản bao gồm vốn điều lệ cộng với lợi nhuận không chia cộng với các quỹ dự trữ được lập
trên cơ sở trích lập từ lợi nhuận của tổ chức tín dụng như quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ,
quỹ dự phòng tài chính và quỹ đầu tư phát triển. Vốn cấp 2 về cơ bản bao gồm: (i) phần
giá trị tăng thêm do định giá lại tài sản của tổ chức tín dụng (ii) nguồn vốn gia tăng hoặc
bổ sung từ bên ngoài (bao gồm trái phiếu chuyển đổi, cổ phiếu ưu đãi và một số công cụ
nợ thứ cấp nhất định) và (iii) dự phòng chung cho rủi ro tín dụng.
1.2.Chức năng của NHTM
2.Phân loại NHTM
2.1.Dựa vao hình thức sở hữu
Ngân hàng thương mại nhà nước
Ngân hàng thương mại cổ phần
Ngân hàng liên doanh
Chi nhánh ngân hàng nước ngoài
2.2.Dựa vào chiến lược kinh doanh

2.3.Dựa vào quan hệ tổ chức
3.Cơ cấu tổ chức của một NHTM
4.Các hoạt động chủ yếu của NHTM
4.1.Hoạt động huy động vốn
4.2.Hoạt động tín dụng
4.3.Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ
4.4.Các hoạt động khác
5.Phân loại các nghiệp vụ NHTM
5.1.Dựa vào bảng cân đối tài sản
5.2.Dựa vào đối tượng khách hàng
5.2.1.Các nghiệp vụ đối với khách hàng doanh nghiệp
5.2.2.Các nghiệp vụ đối với khách hàng cá nhân
6.Tác động của luật các tổ chức tín dụng đến hoạt động của NHTM
6.1.Các quy định về vốn
6.2.Các quy định về dự trữ và bảo đảm an toàn
6.3.Các quy định về cho vay
Tổng quan về Ngân hàng và các dịch vụ Ngân hàng (Phần 1)
Ngân hàng là gì?
Ngân hàng là 1 loại hình tổ chức có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế nói chung và đối với từng cộng
đồng địa phương nói riêng. Vậy mà vẫn có sự nhầm lẫn trong việc định nghĩa ngân hàng là gì? Rõ ràng, các
ngân hàng có thể được định nghĩa qua chức năng (các dịch vụ) mà chúng thực hiện trong nền kinh tế. Vấn
đề là ở chỗ không chỉ chức năng của các ngân hàng đang thay đổi mà chức năng của các đối thủ cạnh tranh
chính sách của ngân hàng cũng không ngừng thay đổi. Thực tế là, rất nhiều tổ chức tài chính - bao gồm cả
các công ty kinh doanh chứng khoán, công tymôi giới chứng khoán, quĩ tương hỗ và công ty bảo hiểm hàng
đầu đều đang cố gắng cung cấp các dịch vụ của ngân hàng. Ngược lại, ngân hàng cũng đối phó với các đối
thủ cạnh tranh (các tổ chức tài chính phi ngân hàng) bằng cách mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ, hướng
về lĩnh vực bất động sản và môi giới chứng khoán, tham gia hoạt động bảo hiểm, đầu tư vào quĩ tương hỗ
và thực hiện nhiều dịch vụ mới khác.
Một ví dụ điển hình về nỗ lực của các tổ chức tài chính trong việc cung cấp dịch vụ ngân hàng được ghi
nhận vào những năm 1980 khi rất nhiều công ty bảo hiểm và kinh doanh chứng khoán lớn, bao gồm cả

Merrill Lynch và Dreyfus Corporation, Prudential nhảy vào lĩnh vực ngân hàng bằng cách thành lập cái mà

×