Tải bản đầy đủ (.docx) (115 trang)

Đặc điểm hình thái khuôn mặt trẻ em người việt 7 tuổi trên ảnh chuẩn hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (10.28 MB, 115 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Hình thái khuôn mặt có những nét đặc trưng khác nhau cho từng cá nhân,
độ tuổi, chủng tộc [1],[2]. Tuy các chủng tộc có các nét đặc trưng khác nhau
nhưng khuôn mặt của trẻ em luôn được ưa thích hơn cả. Có sự khác biệt dễ nhận
thấy giữa độ tuổi 7 tuổi và tuổi trưởng thành mặc dù trong giai đoạn này tốc độ
tăng trưởng không phải là mạnh nhất nhưng lại mang đến sự thay đổi lớn trong
khuôn mặt của mỗi cá nhân. Thời điểm 7 tuổi khi bắt đầu bộ răng hỗn hợp có thể
coi là mốc để đánh giá sự thay đổi trong giai đoạn phát triển chậm lại đến giai
đoạn trưởng thành khi sự tăng trưởng ngừng hẳn. Khi trẻ được 7 tuổi, răng hàm
lớn thứ nhất mọc làm thay đổi tầng mặt dưới theo cả ba chiều không gian: chiều
đứng với sự mọc răng hàm lớn thứ nhất đến khi chạm răng đối diện, chiều trước
sau với sự phát triển của lồi củ xương hàm trên và chiều ngang với sự phát triển
xương ổ răng. Cùng với sự phát triển của phức hợp sọ - xương hàm trên và
xương hàm dưới sẽ dẫn đến sự thay đổi mạnh mẽ về hình thái và kích thước
khuôn mặt của trẻ bắt đầu bộ răng hỗn hợp.
Khi bắt đầu đi học, các hoạt động về thể chất, nhận thức, tâm lý cùng với
sự tăng trưởng của cơ thể dẫn đến sự thay đổi trong hình thái khuôn mặt của
trẻ trong giai đoạn này.
Để phân tích về hình thái khuôn mặt, có ba phương pháp chính là: đo trực
tiếp trên cơ thể sống, gián tiếp qua ảnh chụp chuẩn hoá và trên phim X-quang từ
xa. Trong ba phương pháp trên, phương pháp ảnh chụp chuẩn hoá là phương
pháp ngày càng được sử dụng nhiều vì ưu điểm của nó về độ chính xác cũng như
tính kinh tế, không xâm lấn. Bằng cách đo đạc các chỉ số trên ảnh chuẩn hoá, ta
có thể đưa ra các đặc điểm chung về hình thái khuôn mặt và so sánh sự khác biệt


2

giữa các nhóm tuổi, giới, chủng tộc. Các đặc điểm hình thái này có giá trị thực


tiễn trong quá trình thực hành lâm sàng trong y khoa cũng như các lĩnh vực khác
như nhận dạng và thiết kế công nghiệp [1],[2],[3].
Trên thế giới và tại Việt Nam có nhiều nghiên cứu về đặc điểm hình thái
khuôn mặt trên ảnh như Farkas (1987) [4], Hoàng Tử Hùng (1999) [1], Võ
Trương Như Ngọc (2014) [5], Nguyễn Hữu Nhân (2001) [6] khẳng định tầm
quan trọng trong các can thiệp cải thiện hình thái khuôn mặt, giúp tiên lượng
sự tăng trưởng cũng như phát hiện sớm và can thiệp kịp thời các lệch lạc hàm
mặt. Phân tích mô mềm hoàn chỉnh sẽ mang giá trị hình thái quan trọng giúp
cho việc xác định thẩm mỹ khuôn mặt dễ dàng hơn. Nhưng tại Việt Nam, các
nghiên cứu về hình thái khuôn mặt chủ yếu thực hiện với đối tượng trong
độ tuổi trưởng thành và đánh giá hiệu quả của các phương pháp điều trị với
các đối tượng có các bất thường về khớp cắn. Các nghiên cứu về hình thái
khuôn mặt với đối tượng 7 tuổi chưa nhiều và chưa tổng quát. Các giá trị
về nghiên cứu này sẽ có giá trị lớn trong việc thăm khám cũng như tiên lượng
xu hướng phát triển của trẻ trong tương lai, đề xuất phương án điều trị sớm hay
thiết kế, sản xuất các sản phẩm phù hợp với kích thước của trẻ em người Việt.
Để nhận xét về đặc điểm hình thái khuôn mặt đặc trưng của người Việt 7 tuổi,
chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài: “Đặc điểm hình thái khuôn mặt trẻ
em người Việt 7 tuổi trên ảnh chuẩn hóa” với hai mục tiêu sau:
1. Mô tả một số đặc điểm hình thái khuôn mặt ở một nhóm trẻ em
người Việt 7 tuổi trên ảnh chuẩn hóa năm 2016 - 2017.
2. Phân tích một số đặc điểm hình thái khuôn mặt theo các loại khớp
cắn của Angle ở nhóm nghiên cứu trên.


3

Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. Giải phẫu khuôn mặt và sự tăng trưởng của khuôn m ặt

1.1.1. Các vùng giải phẫu
Tweed từng đưa ra quan điểm rằng thế giới nên là nơi tốt đẹp dành cho
thế hệ trẻ. Nếu một đứa trẻ phải chịu khuyết tật dị dạng mặt, niềm hạnh phúc
sống dường như bị tước đi, chúng ta cần dốc hết sức lực để tìm lại niềm hạnh
phúc đó cho trẻ. Những nghiên cứu được thực hiện vào năm 1972 bởi Barocas
và cộng sự đã chỉ ra rằng những đứa trẻ có gương mặt dễ thương, xinh xắn
thường được cho là hiền lành, ngoan ngoãn và được thầy cô cũng như bạn bè
giúp đỡ và quan tâm nhiều. Trong khi những đứa trẻ xấu hơn thường bị cho là
không hòa đồng, không trung thực và thường bị cô lập. Đối với những trẻ có
khuôn mặt bất thường, mức độ phân biệt đối xử càng nặng nề hơn. Vẻ đẹp
khuôn mặt của trẻ có mối tương quan một cách bản năng đối với sự quan tâm
thầy cô dành cho trẻ và việc học của những trẻ này cũng có nhiều khởi sắc
hơn, mặc dù rõ ràng không hề có mối liên quan giữa chỉ số thông minh IQ và
vẻ đẹp hình thể bên ngoài. Một đứa trẻ với gương mặt xinh đẹp bụ bẫm cũng
góp phần tạo dựng thêm hình ảnh cho cha mẹ trẻ, giúp họ tự tin hơn trong xã
hội và thành công hơn trong sự nghiệp [3],[7],[8].
Có ba yếu tố tạo nên một khuôn mặt: kiểu tóc, da mặt, cấu trúc xương và
mô mềm. Sự khác nhau giữa các khuôn mặt chính là vị trí, kích thước, hình
dạng và các góc tạo bởi xương, da, mô mềm và các yếu tố khác như lông mày,
mắt, má, mũi, môi và cằm [5]. Khi phân tích sự hài hòa của khuôn mặt nói
riêng chúng ta cần bỏ qua hai yếu tố là kiểu tóc và da.


4

Hình 1.1. Các đơn vị cấu trúc giải phẫu thẩm mỹ của khuôn mặt [5]
Chú thích: 1 – Trán

4 – Mũi


2 – Tai

5 – Miệng

3 – Mắt

6 – Cằm

Khuôn mặt được phân chia thành các đơn vị thẩm mỹ (hình 1.1), tiếp đó
các đơn vị này lại tiếp tục được chia thành các tiểu đơn vị (dưới đơn vị). Các
dưới đơn vị chính được xác định trong phân tích khuôn mặt là trán, mắt, mũi,
môi, cằm, tai và cổ. Các đơn vị và dưới đơn vị được dựa trên độ dày của da,
màu sắc, cấu trúc và các đường viền cấu trúc nằm dưới. Để lên được kế hoạch
phẫu thuật và tạo hình lại chính xác cần phải phân tích toàn bộ các đơn vị và
dưới đơn vị này [9],[10].
Khi phân tích tổng thể, bề mặt của mặt có thể được chia thành các vùng
hay cấu trúc cơ bản như hình. Các vùng này không phải lúc nào cũng được
phân chia rõ ràng.


5

1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.

9.
10.
11.
12.
13.
14.
15.
16.
17.
18.
19.

Vùng trán
Vùng thái dương
Cung gò má
Vùng gò má
Vùng ổ mắt
Vùng dưới ổ mắt
Vùng mũi
Tai ngoài
Vùng mang tai – cơ cắn
Vùng má
Vùng miệng
Vùng cằm
Vùng biên hàm dưới
Vùng góc hàm
Vùng trên móng
Góc tam giác dưới hàm
Tam giác cảnh
Hố sau hàm

Vùng cổ giữa

20.

Vùng ức đòn chũm

Hình 1.2. Các đơn vị giải phẫu của khuôn mặt [5]
1.1.1.1. Trán
Giới hạn của trán là từ đường chân tóc tới glabella và tạo nên tầng mặt
trên. Trán chiếm 1/3 trên của toàn bộ mặt. Độ rộng của trán khoảng gấp đôi
chiều cao của nó. Góc trán mũi là góc tạo bởi đường tiếp tuyến qua glabella,
nasion và đường thẳng tiếp tuyến với sống mũi.
Thành trên ổ mắt phối hợp với gờ trên ổ và gốc mũi là cấu trúc nâng đỡ
trực tiếp đối với các vùng này. Hình thể của nó khác nhau về độ rộng với sự
phát triển của xoang trán, ở nam thì góc cạnh hơn và nhô ra trước hơn nữ [5].
Gờ của hố thái dương thường có thể nhìn thấy và sờ thấy được, được gọi
là gờ thái dương và cũng là đường viền bên của trán. Đường chân tóc xác
định đường viền phía trên của trán khác nhau giữa các phái, nam thường bị
hói ở phía trước và có thể thay đổi theo tuổi [9],[10],[11].


6

Vùng trán được đánh giá như là một cấu trúc ổn định và rõ ràng để tham chiếu
trong các quá trình tiến hành phân tích hình thể, hình khối và vị trí trong không gian
với các cấu trúc khác như: mũi, phần giữa mặt, răng phía trước và cằm.
Vùng thái dương được xác định phía dưới bằng cung gò má, phía trước
bằng bờ sau của mỏm trán xương gò má và mỏm gò má xương trán, phía trên
bởi bờ của hố thái dương.
1.1.1.2. Mắt

Ổ mắt nằm ở 1/3 dưới của tầng mặt trên và 1/3 trên của tầng mặt giữa.
Chiều rộng một mắt tính từ khóe mắt trong đến khóe mắt ngoài bằng 1/5 tổng
chiều rộng của mặt [2],[5]. Khoảng cách giữa hai khóe mắt trong phải bằng
với chiều rộng của 1 mắt. Khoảng cách giữa hai khóe mắt trong ở nữ là 25,5 37,5mm và ở nam là 26,5 - 38,5mm (theo Steven trung bình là 30,7mm). Nhìn
nghiêng, khoảng cách từ đuôi mắt đến khóe miệng bằng khoảng cách từ mép
miệng đến tai [5],[12].
1.1.1.3. Mũi
Toàn bộ mũi nằm ở tầng mặt giữa. Khi nhìn nghiêng, mũi bắt đầu từ
điểm nasion, lí tưởng ngang mức nếp gấp mi mắt trên và kết thúc ở điểm
dưới mũi (sn). Vì mũi nằm ở trung tâm và là đơn vị thẩm mỹ lồi nhất của
khuôn mặt nên mũi có vai trò quan trọng trong thẩm mỹ khuôn mặt [5].
Góc mũi mặt đánh giá độ nghiêng của sống mũi với mặt phẳng mặt. Góc
tạo bởi một đường thẳng đứng qua điểm gl và pog cắt đường thẳng qua
nasion và đỉnh mũi. Giá trị lý tưởng của góc mũi mặt là 36 o nhưng có thể
dao động trong khoảng 30 - 40 o [12],[13].


7
1.1.1.4. Môi, cằm, cổ
Các đường giới hạn của môi nằm ở mặt dưới. Môi trên được đo từ sn đến
stomion trên (ss), môi dưới và cằm được đo từ stomion dưới đến gn. Tỷ lệ
chiều cao môi trên so với môi dưới khoảng 1 : 2. Việc thay đổi độ rộng miệng
ảnh hưởng lớn đến thẩm mỹ tầng mặt dưới [5],[14].
Cằm nằm ở tầng dưới của mặt và có thể được đo từ rãnh môi cằm đến
menton. Cằm là một đơn vị quan trọng của mặt trong phân tích các chỉ số
khuôn mặt cùng với mũi hoặc môi. Hầu hết các phân tích trong phẫu thuật tạo
hình mũi đều quan tâm đầu tiên đến tương quan vị trí cằm và độ nhô của mũi,
sự hài hòa của khuôn mặt [13],[14].
1.1.1.5. Tai
Chiều rộng của tai xấp xỉ 1/2 chiều dài tai. Chiều dài tai xấp xỉ chiều dài

mũi đo từ na đến sn. Điểm cao nhất của tai nằm ngang mức với lông mày,
ngược lại điểm thấp nhất của tai nằm ngang mức với điểm ala [5]. Trục dọc
của tai song song với trục của sống mũi [14].
1.1.2. Một số mốc giải phẫu trên khuôn mặt thường được sử dụng
Theo quy ước quốc tế, để phân biệt với các điểm môc trên phim tia X,
các điểm mốc trên ảnh (cũng giống như đo trực tiếp) được ký hiệu bằng các
chữ thường, khác với phim X-quang ký hiệu bằng chữ in. Dưới đây là các
điểm mốc giải phẫu thường được sử dụng. Trong đó, có những điểm là điểm
đôi có cả hai bên, có những điểm là điểm đơn [15],[16],[17].


8

Hình 1.3. Các điểm mốc giải phẫu trên ảnh thẳng và ảnh nghiêng [18]
1.1.2.1. Các điểm mốc giải phẫu trên ảnh thẳng [18]
1. Điểm khóe mắt trong en (endocanthus): Điểm nằm ở phía trong của
khóe mắt, nơi mi trên và mi dưới gặp nhau.
2. Điểm khóe mắt ngoài ex: Điểm nằm ở phía ngoài của khóe mắt, nơi
mí mắt trên và dưới gặp nhau.
3. Điểm mũi al (alar): Điểm ngoài nhất của đường viền cánh mũi hai bên.
4. Điểm khóe miệng ch (cheilion): Điểm ngoài cùng hai bên của khóe miệng.
5. Điểm giữa con ngươi pp (pupil): Điểm chính giữa đồng tử.
6. Điểm zy: Điểm ngoài nhất của cung gò má. Trên ảnh chính là giao
điểm của đường thẳng đi qua ex và đường viền của mặt.
7. Điểm go: Điểm ngoài nhất ở góc hàm xương hàm dưới. Trên ảnh chính là
điểm giao nhau giữa đường thẳng nằm ngang qua sto và đường viền mặt.


9
1.1.2.2. Các điểm mốc giải phẫu trên ảnh nghiêng [18],[19].

1. Điểm gla hoặc gl (glabel): Điểm lồi nhất của trán, tương ứng với bờ
trên của ổ mắt theo mặt phẳng dọc giữa.
2. Điểm tr (tritrion): Điểm chân tóc nằm trên đường giữa của trán.
3. Điểm n: Điểm sau nhất của mô mềm vùng khớp trán mũi theo mặt
phẳng dọc giữa.
4. Điểm pn (pronasale): Điểm đỉnh mũi là điểm nhô nhất của mũi.
5. Điểm cm (columella point): Điểm trước nhất của trụ mũi.
6. Điểm sn (subnasale): Điểm dưới mũi, điểm chân vách ngăn dưới mũi
và môi trên, là điểm sau nhất và cao nhất của góc mũi môi.
7. Điểm gn: Điểm dưới nhất của mô mềm vùng cằm trên mặt phẳng
dọc giữa.
8. Điểm pg (pogonion): Điểm nhô nhất của mô mềm vùng cằm.
9. Điểm ls (lip superius): Điểm môi trên, điểm nhô nhất của đường viền
môi trên theo mặt phẳng dọc giữa.
10. Điểm li (lip iníerius): Điểm môi dưới, điểm nhô nhất của đường
viền môi dưới theo mặt phẳng dọc giữa.
11. Điểm sto (stominon): Điểm nối liền môi trên và răng dưới trên mặt
phẳng dọc giữa khi hai môi khép nhẹ và răng ở tư thế cắn tự nhiên.
12. Điểm b: Điểm lõm nhất của môi dưới trên mặt phẳng dọc giữa.
13. Điểm c: Điểm giao nhau giữa đường viền cổ và bờ dưới cằm.


10
1.1.3. Các kích thước và tỷ lệ trên ảnh thẳng thường sử dụng
Bảng 1.1. Các kích thước trên ảnh mặt thẳng thường được sử dụng
[18]
TT
1

Các kích thước


Định nghĩa

Khoảng cách giữa Khoảng cách giữa mép mí trong trái - mép
hai mắt

mí trong phải
Điểm ngoài nhất ở cánh mũi trái - điểm

Kí hiệu
en-en

2

Chiều rộng mũi

3

Chiều rộng khe mí

Mép mí trong - mép mí ngoài

ex-en

4

Chiều rộng miệng

Điểm mép miệng trái - phải


ch-ch

5

Chiều rộng mặt

Khoảng gian điểm gò má

zy-zy

6

Chiều rộng hàm dưới

7

ngoài nhất của cánh mũi phải

Khoảng cách giữa điểm góc hàm trái - điểm
góc hàm phải

Chiều rộng vùng thái Khoảng cách giữa điểm thái dương trái và
dương

thái dương phải

al-al

go-go
ft-ft



11

Hình 1.4. Các kích thước trên ảnh thẳng [18]
1: ft-ft

5: en-en

2: zy-zy

6: al-al

3: ex-ex

7: go-go

4: en-ex

8: ch-ch

Để so sánh sự tương quan của các kích thước trên mặt và tìm ra sự hài
hòa nhất của các tương quan đó, các tác giả trên thế giới đã sử dụng rất nhiều
các tỷ lệ khác nhau, những tỷ lệ thường được sử dụng nhất được trình bày
trong bảng 1.2 như sau:


12
Bảng 1.2. Các tỷ lệ trên ảnh mặt thẳng thường được sử d ụng [18]
ST


Tên gọi

Kí hiệu

T
1

Chiều rộng mũi/khoảng cách giữa hai mắt

al-al/en-en

2

Khoảng cách giữa hai mắt/chiều rộng khe mí

en-en/ex-ex

3

Chiều rộng mũi/chiều rộng miệng

al-al/ch-ch

4

Chiều rộng mũi/chiều rộng mặt

al-al/zy-zy


5

Chiều rộng khe mí/chiều rộng mặt

ex-en/zy-zy

1.1.4. Các kích thước, góc, tỷ lệ trên ảnh nghiêng
Các kích thước thường được sử dụng:
Bảng 1.3. Các kích thước trên ảnh mặt nghiêng thường được sử dụng
[19]
TT Các kích thước

Định nghĩa

Kí hiệu

1 Chiều cao trán I

Khoảng cách điểm tritrion - điểm gl tr-gl

2 Chiều dài tai

Điểm sa - điểm sba

sa- sba

3 Chiều dài mũi

Điểm nasion - điểm subnasal


n-sn

4 Chiều cao tầng mặt trên

Điểm tritrion - điểm nasion

tr-n

5 Chiều cao tầng mặt dưới

Điểm dưới mũi - điểm menton

sn-gn

6 Chiều cao tầng mặt giữa

Điểm glabella - điểm dưới mũi

n-sn

7 Chiều cao mặt

Điểm nasion - điểm gnathion

n-gn

8 Chiều cao xương hàm dưới

Điểm stomion - điểm gnathion


sto-gn


13

Hình 1.5. Các kích thước trên ảnh nghiêng [19]
1: tr-gl

4: n-gn

2: tr-n

5: n-gn

3: n-sn

6: sa-sba

Các góc thường được sử dụng:
Bảng 1.4. Các góc trên ảnh mặt nghiêng thường được sử d ụng [20],
[21]
STT

Các góc

Định nghĩa

Kí hiệu

1


Góc mũi trán

Góc qua 3 điểm gl, n và pn

gl-n-pn

2

Góc mũi môi

Góc qua 3 điểm cm, sn và ls

cm-sn-ls

Góc qua 3 điểm n, pn và sn

pn-n-sn

3

Góc lồi mặt
qua mũi

4

Góc lồi mặt

Góc qua 3 điểm n, sn và pg


n-sn-pg

5

Góc hai môi

Góc tạo bởi 2 đường qua sn-ls và li-pg

pg-n-pn

6

Góc môi cằm

Góc qua 3 điểm li, b và pg

li-b-pg


14

Hình
1.6.

Các

góc

trên


ảnh

nghiêng [22]
1: góc mũi trán

4: góc lồi mặt

2: góc mũi môi

5: góc hai môi

3: góc lồi mặt qua mũi

6: góc môi cằm

Các đường thẩm mỹ được dùng [23],[24]:
- Đường S (đường Steiner): đường nối điểm giữa của bờ dưới mũi cm và
điểm pg
- Đường E (đường Ricketts): đường nối đỉnh mũi với pg. Theo tiêu
chuẩn, đường này cách môi dưới khoảng 2mm, môi trên 4mm.


15
1.1.5. Sự tăng trưởng của khuôn mặt
1.1.5.1. Sự tăng trưởng của xương hàm trên và xương khẩu cái

Hình 1.7. Xương hàm trên chuyển xuống dưới và ra trước [25]
Sự tăng trưởng của xương hàm trên (XHT) theo hai cách: bồi đắp xương
ở đường khớp nối xương hàm trên với xương sọ và nền sọ và bằng sự bồi đắp
xương/tiêu xương bề mặt. Bề mặt xương hàm trên, trái với vòm sọ, có những

thay đổi đáng kể và do đó, những thay đổi ở bề mặt cũng không kém phần
quan trọng so với những thay đổi ở đường khớp. Sự tăng trưởng của xương
hàm trên theo ba chiều trong không gian (chiều rộng - chiều cao - chiều trước
sau) ảnh hưởng lớn đến tầng giữa mặt và kích thước khuôn mặt sau này.
Mặt tăng trưởng theo kiểu “từ phía dưới xương sọ tăng trưởng ra phía
ngoài”, có nghĩa là xương hàm trên khi tăng trưởng phải di chuyển đáng kể
xuống dưới và ra trước so với các xương sọ và nền sọ.


16
1.1.5.2. Sự tăng trưởng của xương hàm dưới

Hình 1.8. Hình minh họa các vị trí trí bồi xương, tiêu xương,
hướng tăng trưởng của xương hàm dưới [25]
Xương hàm dưới (XHD) tăng trưởng từ xương màng và xương sụn. Sau
khi xương đã thành hình, tế bào sụn xuất hiện thành những vùng riêng biệt
(lồi cầu, mỏm vẹt, góc hàm). Sau khi sinh, chỉ có sụn lồi cầu là còn tồn tại và
hoạt động cho tới năm 16 tuổi, có khi tới 25 tuổi (cả sau khi mọc răng khôn).
Mặc dù sụn lồi cầu không giống bản sụn ở đầu chi hay đường khớp sụn, sự
tăng sản, sự tăng dưỡng và sự hình thành xương từ sụn đều xảy ra ở nơi này.
Tất cả những vùng khác của xương hàm dưới đều hình thành và tăng trưởng
bằng sự bồi đắp xương, tiêu xương trực tiếp ở bề mặt [25].
Sự tăng trưởng của xương hàm dưới theo ba chiều (chiều rộng - chiều
cao - chiều trước sau) ảnh hưởng đến tầng dưới của mặt. Sự tăng trưởng của
xương hàm dưới nhìn từ nền sọ: cằm di chuyển xuống dưới và ra trước. Quan
niệm đúng về sự tăng trưởng của xương hàm dưới là trong khi dịch chuyển
xuống dưới và ra trước, xương hàm dưới gia tăng kích thước bằng sự tăng
trưởng hướng lên trên và ra sau để duy trì mối tiếp xúc với sọ.



17
1.1.5.3. Sự tăng trưởng của mô mềm
Nếu sự tăng trưởng chiều dày mô mềm rất nhanh và khác nhau từ lúc đẻ
tới 3 tuổi thì từ 3 tuổi đến khi dậy thì nó phát triển đều và đến tuổi trưởng
thành thì kết thúc và đôi khi có những thay đổi rất lớn. Chiều dày mô mềm
của trẻ nam hơn trẻ nữ là 3,0 - 4,0mm [25],[26].
- Điểm giữa trên gốc mũi tăng trưởng nhiều hơn ở trẻ nam.
- Điểm nasion mô mềm có tương quan đều hoặc hơi giảm so với nasion xương.
- Điểm A ở da tăng khoảng 5mm từ 3 - 8 tuổi do trưởng thành của vành môi.
- Môi trên chịu ảnh hưởng bởi sự phát triển của mũi.
- Điểm pogonion da từ 3 - 18 tuổi tăng ít, ở nam: 2,4mm, nữ: 1mm theo
C’. Burstone [26],[27].
1.1.5.4. Thời gian của sự tăng trưởng
Sự tăng trưởng của cả hai xương hàm theo ba chiều trong không gian
hoàn tất (hay giảm dầm đến tốc độ tăng trưởng chậm ở người trưởng thành)
theo một thứ tự nhất định. Theo Bjork (1966): Ở giai đoạn trẻ em (dưới 7
tuổi) thì tốc độ tăng trưởng tụt dốc, nó thay đổi chậm lại ở giai đoạn thiếu
niên. Điều này còn tiếp tục cho đến giai đoạn trước tuổi dậy thì (khoảng 12
đến 13 tuổi). Trong giai đoạn thanh thiếu niên, tốc độ tăng lên đến đỉnh dậy
thì và sau đó có chiều hướng giảm dần đến tuôỉ trưởng thành khi sự tăng
trưởng ngừng lại. Các giai đoạn tăng trưởng này kết hợp chặt chẽ với hormon
tăng trưởng và kiểm soát bởi yếu tố di truyền [25],[28].


18

Hình 1.9. Tốc độ tăng trưởng của cơ thể qua các giai đoạn [25]
Sự tăng trưởng theo chiều rộng hoàn tất trước, đến sự tăng trưởng theo
chiều trước sau và cuối cùng là sự tăng trưởng theo chiều cao. Sự tăng trưởng
theo chiều rộng ở cả hai xương hàm bao gồm chiều rộng của hai cung răng,

có khuynh hướng chấm dứt trước đỉnh tăng trưởng dậy thì và chỉ bị ảnh
hưởng rất ít nếu có bởi những thay đổi do sự tăng trưởng dậy thì. Cả hai
xương hàm tiếp tục tăng trưởng theo chiều trước sau và chiều cao qua giai
đoạn dậy thì. Ở trẻ gái, trung bình xương hàm trên tăng trưởng xuống dưới và
ra trước chậm dần đến tuổi 14 hay 15 (chính xác hơn là 2 - 3 năm sau khi xuất
hiện kinh nguyệt lần đầu), sau đó có khuynh hướng tăng trưởng nhẹ hầu như
theo hướng ra trước. Đối với cả bé trai và bé gái, sự tăng trưởng mặt theo


19

chiều cao chấm dứt trễ hơn sự tăng trưởng theo chiều trước sau, chủ yếu là do
sự tăng trưởng trễ theo chiều cao của xương hàm dưới. Sự gia tăng chiều cao
mặt và sự trồi răng kèm theo diễn ra trong suốt cuộc đời, nhưng khi đến 20
tuổi ở nam, và có thể sớm hơn ở nữ, tốc độ gia tăng này sẽ bằng với tốc độ
tăng trưởng chậm của người trưởng thành [25].
Đối với giai đoạn vị thành niên, tương ứng với đó là sự tăng trưởng của
xương hàm luôn tương quan với các giai đoạn phát triển sinh lý. Khuôn mặt
của người trưởng thành bớt nhô hơn do xương hàm dưới và cằm được đưa ra
trước nhiều hơn. Về mặt lâm sàng, sự tăng trưởng của xương hàm trước đỉnh
cao tăng trưởng vị thành niên là một lý do quan trọng để xác định cẩn thận
tuổi sinh học trong quá trình điều trị chỉnh hình [24],[29].
1.2. Các kích thước, góc và tỷ lệ thường được sử dụng khi nghiên
cứu
Theo quan niệm trước đây, khuôn mặt được chia thành ba tầng như minh
họa của Leonardo Da Vinci. Tầng thứ nhất còn gọi là tầng mặt trên, tính từ
đường chân tóc đến điểm nasion (điểm sau nhất của khớp trán mũi trên mặt
phẳng dọc giữa). Tầng thứ hai còn gọi là tầng mặt giữa, tính từ điểm nasion đến
điểm subnasal (điểm dưới mũi, chân vách ngăn giữa mũi và môi trên). Tầng
thứ ba còn gọi là tầng mặt dưới, tính từ điểm subnasal đến điểm menton (điểm

dưới nhất của mô mềm vùng cằm). Theo những công trình nghiên cứu của các
tác giả nước ngoài, chiều cao ba tầng mặt là bằng nhau. Do đường chân tóc ở
mỗi người có sự thay đổi gây khó khăn cho việc đo đạc, đặc biệt là ở những
người hói hay không mọc tóc, nên hiện tại người ta thường quan niệm không
tính chiều cao tầng mặt trên, chỉ tính chiều cao tầng mặt giữa và dưới [30].
Về tính thẩm mỹ của một khuôn mặt hài hòa, người ta cho rằng một
khuôn mặt có ba điểm: điểm gốc mũi (nasion), điểm dưới mũi (sn) và điểm
lõm giữa môi dưới và cằm (b) tạo nên một đường cong lồi ra ngoài là khuôn


20

mặt đạt độ hài hòa cao nhất [9]. Còn ở khuôn mặt kém hài hòa hơn thì đường
này là một đường thẳng và ở khuôn mặt không hài hòa thì là một đường cong
lõm vào trong (kiểu khuôn mặt đĩa lõm) [2],[31].
Về tính đối xứng của khuôn mặt, hiếm khi có sự đối xứng hoàn hảo qua
mặt phẳng dọc giữa. Tuy nhiên, các điểm trên đường giữa thường nằm trên
một trục. Các đường thẳng đi qua hai điểm ổ mắt, đồng tử, gò má, góc hàm
phải song song với nhau và vuông góc với trục giữa của mặt. Chiều rộng của
khuôn mặt được đánh giá bằng cách chia khuôn mặt thành năm phần bằng
nhau [10]. Chiều rộng một bên mắt nên bằng 1/5 chiều rộng cả khuôn mặt,
cũng như bằng khoảng cách hai cánh mũi [5],[32].

Hình 1.10. Theo Da Vinci - đo ba tầng

Hình 1.11. Đo kích thước các tầng mặt

mặt có kích thước bằng nhau [5]

theo quan niệm hiện đại - tầng mặt giữa


chiếm 43% chiều cao mặt na-gn [5]
Trước đây, khi phân tích thẩm mỹ trên khuôn mặt, các chuyên gia thường
đo chiều cao ba tầng mặt, đánh giá rằng khuôn mặt có ba tầng mặt bằng nhau
là khuôn mặt hài hòa lý tưởng nhất (theo như minh họa của Leonardo da
Vinci) [33]. Ngày nay các tác giả lại quan niệm không xét tầng mặt trên bởi vị
trí của đường chân tóc thường rất thay đổi, các phép đo ba tầng mặt được thực
hiện trên đường giữa từ trichion tới glabella, từ glabella tới subnasale và từ
subnasal đến menton. Các phép đo được thực hiện từ nasion tới subnasale và
từ subnasale đến menton. Với quan niệm mới hiện đại, tầng mặt giữa chiếm


21

43% chiều cao và tầng mặt dưới chiếm 57% [2]. Có sự khác biệt giữa phương
pháp đo trên ảnh chuẩn hóa và đo trực tiếp trên mặt. Theo Võ Trương Như
Ngọc (2010) [2], kích thước ba tầng mặt khi đo trực tiếp thì khác nhau, mặc
dù mức độ khác biệt không nhiều. Còn đối với phương pháp đo trên ảnh chuẩn
hóa nghiêng, kích thước các tầng mặt xấp xỉ bằng nhau [34],[35].
Về hình dạng khuôn mặt theo Celebie và Jerolimov: dựa vào mối tương
quan giữa ba kích thước ngang của mặt: chiều rộng xương thái dương, chiều
rộng giữa hai xương gò má, chiều rộng hàm dưới để xác định hình dạng khuôn
mặt. Theo ông mặt hình vuông nếu go = zy = ft hoặc ft = zy hoặc zy = go, mặt
hình oval nếu zy > ft và zy > go, mặt hình tam giác nếu ft > zy > go hoặc ft < zy
< go (nếu hai kích thước chênh nhau khoảng 2mm thì coi như là bằng nhau) [2].

Hình 1.12. Phân loại mặt theo Celébie và Jerolimov [2]
Từ các kích thước đo được, tính ba chỉ số mặt theo Martin và Saller
[24].
- Chỉ số mặt toàn bộ:

Chỉ số mặt toàn bộ = Cao mặt hình thái ( n-gn) x 100/Rộng mặt (zyzy)


22

Theo thang phân loại độ rộng mặt chia thành năm mức: rất rộng: <
80; rộng: 80 - 84,9; trung bình: 85 - 89,9; dài: 90 - 94,9; rất dài: > 95.
- Chỉ số hàm dưới:
Chỉ số hàm dưới = Rộng hàm dưới (go-go) x 100/Rộng mặt (zy-zy)
Theo thang phân loại của Martin có ba dạng: hẹp: < 76; trung bình:
76 - 77,9; rộng: > 78.
- Chỉ số mũi:
Chỉ số mũi = Rộng cánh mũi (al-al) x 100/Cao tầng mũi (n-sn)
Theo thang phân loại của Martin có bẩy mức: mũi cực hẹp: < 40;
mũi rất hẹp: 40 - 54,9; mũi hẹp: 55 - 66,9; mũi trung bình: 70 - 84,9; mũi
rộng: 85 - 99,9; mũi rất rộng: 100 - 114,9; mũi cực rộng: > 115.
Thêm vào đó, chúng tôi sử dụng ba chuẩn tân cổ điển để đánh giá
hình thái khuôn mặt của đối tượng trẻ 7 tuổi bao gồm [36]:
- Khoảng gian góc mắt trong (en-en) bằng độ rộng mũi (al-al).
- Chuẩn tỷ lệ mũi mặt: chiều rộng mũi (al-al) bằng 1/4 khoảng gian
điểm gò má (zy-zy).
- Chiều cao mũi (n-sn) bằng 0,43 chiều cao mặt đặc biệt (n-gn).
Đối với trẻ em 7 tuổi, bắt đầu bộ răng hỗn hợp bằng mọc răng hàm lớn
thứ nhất, chiều cao của tầng mặt dưới bắt đầu tăng cho tới độ tuổi trưởng
thành nên tỉ lệ giữa các tầng mặt không giống với người trưởng thành. Khi
mọc răng hàm lớn thứ nhất chiều rộng hàm trên và hàm dưới tăng lên do có
sự bồi đắp xương ổ răng phía mặt ngoài. Thêm vào đó, sự tăng trưởng của
hàm dưới trong giai đoạn thiếu niên mạnh hơn, xương hàm trên theo hướng ra
trước và xuống dưới làm cho cung răng dưới di chuyển ra trước nhiều hơn,
cùng với sự đóng kín khoảng Leeway thay đổi tương quan của các răng hàm

lớn thứ nhất.
Mối tương quan của các răng hàm lớn thứ nhất có thể ảnh hưởng tới sự
mọc răng của các răng vĩnh viễn khác trong giai đoạn hàm răng hỗn hợp, qua


23

đó quyết định sự ổn định của khớp cắn. Trong các trường hợp mất răng hàm
sữa thứ hai sớm hay tổn thương phần lớn tổ chức cứng hoặc mất sớm răng hàm
lớn thứ nhất làm giảm khả năng ăn nhai, biến dạng cung răng, thay đổi hình
thái khuôn mặt bởi mất cân đối hoạt động chức năng hai bên. Ngoài ra các thói
quen xấu của trẻ như mút môi, cắn bút cũng ảnh hưởng đến khớp cắn, tác động
đến tương quan giữa các răng và mô mềm, đặc biệt là sai lệch tương quan vùng
răng cửa. Chính vì thế tương quan của răng hàm lớn thứ nhất cũng ảnh hưởng
tới các chỉ số kích thước, hình thái khuôn mặt của trẻ em 7 tuổi [28].
Phân loại khớp cắn theo Angle:
- Khớp cắn loại I: núm ngoài gần răng hàm lớn thứ nhất hàm trên khớp với
rãnh ngoài của răng hàm lớn thứ nhất hàm dưới.
- Khớp cắn loại II: đỉnh núm ngoài gần của răng hàm lớn thứ nhất hàm trên
ở về phía gần so với rãnh ngoài của răng hàm lớn thứ nhất hàm dưới.
- Khớp cắn loại III: đỉnh núm ngoài gần của răng hàm lớn thứ nhất hàm
trên ở phía xa so với rãnh ngoài của răng hàm lớn thứ nhất hàm dưới.

Hình 1.13. Phân loại khớp cắn theo Angle: khớp cắn Angle I (A và B), khớp
cắn Angle II (C và D), khớp cắn Angle III (E và F) [25]


24

Răng hàm lớn thứ nhất trong tương quan của Angle là chìa khóa của

vấn đề khớp cắn. Tuy chỉ đề cập đến tương quan hai hàm răng theo chiều
trước sau nhưng cũng phản ánh quan hệ chặt chẽ giữa hàm trên và hàm dưới
về mặt chức năng. Những sai lệch trong khớp cắn kéo theo di lệch các răng
bên cạnh và răng đối diện gây nên các tổn thương ở răng và sang chấn vùng
lồi cầu cùng hệ thống nhai hai bên. Những sai lệch này được thích ứng trong
các hoạt động chức năng như ăn nhai, phát âm có hiệu quả nhưng sẽ gây nên
các khác biệt về mặt hình thái như ăn nhai một bên làm mất sự cân đối của
khuôn mặt, miệng không vuông góc với trục giữa mặt. Sự mất cân đối có xu
hướng tăng lên khi trưởng thành và khó phục hồi nên việc phát hiện và điều
trị phòng ngừa phải tiến hành ở tuổi vị thành niên.
Tuy nhiên, thời điểm 7 tuổi chưa yêu cầu điều trị về mặt chức năng trừ
các trường hợp có sự sai lệch nghiêm trọng trong khớp cắn nên việc phát hiện
và dự đoán sự phát triển của khớp cắn trong mối liên hệ với hình thái khuôn
mặt trên ảnh số hóa là rất cần thiết trong chẩn đoán và điều trị sớm. Với các
sai lệch lớn hơn hoặc nhỏ hơn giới hạn được đưa ra theo kích thước trong mỗi
loại khớp cắn thì phim X-quang mặt nghiêng từ xa chỉ ra nguyên nhân các bất
thường này để có thể theo dõi và điều trị sớm [37],[38],[39].
1.3. Lịch sử nghiên cứu về hình thái khuôn mặt
1.3.1. Ba phương pháp nghiên cứu hình thái khuôn mặt
- Đo trực tiếp trên lâm sàng: là phương pháp cơ bản nhất, thực hiện bằng
đo đạc trực tiếp bằng dụng cụ đo trên mô mềm. Hạn chế của phương pháp này
là: sự nhạy cảm của một số tổ chức phần mềm với việc đo trực tiếp như mắt;
độ đàn hồi, độ dày và mật độ của tổ chức phần mềm, lực ấn khi sử dụng dụng
cụ đo đạc cũng ảnh hưởng đến độ chính xác của kết quả [2].


25

- Đo trên phim X-quang: được sử dụng từ sau khi phim X-quang sọ mặt
ra đời, và phổ biến vào những năm 80 của thế kỷ trước. Khắc phục được

những nhược điểm của phương pháp đo trên lâm sàng truyền thống như: có
độ chính xác, độ tin cậy cao, có thể hồi cứu lại, đảm bảo tính chính xác hơn
do đo đạc trên phim X-quang. Nhưng nhược điểm của phương pháp này vẫn
còn như: phụ thuộc vào chất lượng phim, kỹ thuật chụp phim, không chính
xác khi đo đạc mô mềm, bảo quản khó khăn [24].
- Đo trên ảnh chụp: được sử dụng nhiều từ sau năm 1990, là phương
pháp đo đạc chính xác dựa trên những bức ảnh chuẩn. Cho đến nay, những
chuẩn hóa về vị trí khuôn mặt giúp cải thiện rất lớn độ tin cậy của phương pháp
này [10]. Gavan và cộng sự chỉ ra những hạn chế của việc dùng ảnh trong đo
đạc gồm có những sai sót trong quá trình chụp ảnh (sự biến dạng), ánh sáng và
khoảng cách chụp. Đã có những kỹ thuật được đưa ra để hạn chế tối đa những
vấn đề phát sinh và những chỉ số cần đo đạc có thể áp dụng cho không gian hai
chiều [40],[41].
1.3.2. Lịch sử nghiên cứu hình thái khuôn mặt trên thế giới
Phép đo ảnh chụp là một kỹ thuật hỗ trợ cho các nghiên cứu nhân trắc
học có từ rất lâu nhưng người ta luôn nghi ngờ mức độ chính xác của nó. Mãi
đến thập niên 40, người ta mới cho rằng nếu các ảnh chụp được chuẩn hóa
thì sẽ đưa ra những số đo chính xác hơn. Phương pháp đo đạc trên ảnh càng
ngày càng nhận được nhiều sự quan tâm hơn nhờ các ưu điểm sau: tiết
kiệm được nhiều thời gian, nhân lực và ít phức tạp hơn so với việc đo trực
tiếp trên người [41],[42].
Áp dụng với điều kiện hiện tại của nước ta, phương pháp đo đạc
trên ảnh chuẩn hóa hoàn toàn có khả năng thực hiện và mở ra nhiều
hướng đi mới cho công tác nghiên cứu. Nghiên cứu đặc đi ểm nhân tr ắc


×