Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ và TÍNH AN TOÀN của DIENOGEST 2MG (VISANNE) TRONG điều TRỊ lạc nội mạc tử CUNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (543.16 KB, 37 trang )

BỆNH VIỆN PHỤ SẢN TRUNG ƯƠNG

THUYẾT MINH ĐỀ CƯƠNG ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP CƠ
SỞ

Tên Đề tài:

ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ VÀ TÍNH AN TOÀN CỦA
DIENOGEST 2MG (VISANNE) TRONG ĐIỀU
TRỊ LẠC NỘI MẠC TỬ CUNG

Chủ nhiệm đề tài : PGS.TS. Lê Hoài Chương
Cơ quan chủ trì: BỆNH VIỆN PHỤ SẢN TRUNG ƯƠNG

1


Hµ Néi, 2019

2


THUYẾT MINH ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
KHOA HỌC VÀ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHỆ
I. Thông tin chung về đề tài
1. Tên đề tài

2. Mã số

Đánh giá hiệu quả và tính an toàn của
Dienogest 2 mg (Visanne) trong điều trị lạc



5.

nội mạc tử cung
3. Thời gian thực hiện

4. Cấp quản lý

(Từ tháng 7/2019 đến tháng 12/2019 )

Nhà nước

Bộ

Cơ sở

Tỉnh

Kinh phí: 10 triệu đồng
Tổng số: 10 triệu đồng
Trong đó, từ Ngân sách

6.
7

SNKH: 10 triệu đồng

Thuộc Chương trình(nếu có)
Chủ nhiệm đề tài
Họ và tên: Lê Hoài Chương

Học hàm/học vị: Phó Giáo sư, tiến sỹ
Chức danh khoa học:
Điện thoại: 0913213411
(CQ)/
(NR)
Fax:
Mobile:
E-mail:
Địa chỉ cơ quan: Bệnh viện Phụ sản Trung ương, số 43- Tràng Thi – P.Hàng Bông – Q.
Hoàn Kiếm – TP.Hà Nội
Địa chỉ nhà riêng: 17/155 phố Mai Anh Tuấn – Đống Đa – Hà Nội

8

Cơ quan chủ trì đề tài
Tên tổ chức KH&CN

Bệnh viện Phụ sản Trung ương
Điện thoại 024- 39346742

Fax: 024 38254638

E-mail:
Địa chỉ: số 43- Tràng Thi – P.Hàng Bông – Q. Hoàn Kiếm – TP.Hà Nội
9 Đội ngũ cán bộ thực hiện đề tài :
A PGS. TS Lê Hoài Chương PGĐ Bệnh viện phụ sản trung ương
B Thư Ký đề tài : Bs Vũ Ngân Hà Khoa Phụ Ngoại Bệnh viện Phụ sản trung ương

II. Nội dung KH&CN của đề tài
9


Mục tiêu của đề tài

3


Đánh giá hiệu quả của Dienogest 2 mg (Visanne) trong điều trị lạc
nội mạc tử cung.
Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước

10

 Tình trạng đề tài


Mới

Kế tiếp đề tài đã kết thúc giai đoạn trước

Tổng quan tình hình nghiên cứu thuộc lĩnh vực của đề tài (thể hiện sự hiểu biết cần
thiết của tổ chức, cá nhân đăng ký chủ trì đề tài về lĩnh vực nghiên cứu - nắm được
những công trình nghiên cứu đã có liên quan đến đề tài, những kết quả nghiên cứu
mới nhất trong lĩnh vực nghiên cứu đề tài, nêu rõ quan điểm của tác giả về tính bức
xúc của đề tài,...)

Đặt vấn đề
Lạc nội mạc tử cung là một bệnh thường gặp ở phụ nữ. Ở Việt Nam
cũng như trên thế giới, tỷ lệ phụ nữ bị Lạc nội mạc tử cung khá cao chiếm
10% phụ nữ trong độ tuổi sinh sản và chiếm 50% phụ nữ hiếm muộn. Tuy
là một bệnh lành tính nhưng LNMTC gây ra nhiều lo lắng cho chị em phụ

nữ, có thể kèm theo các biến chứng như rối loạn kinh nguyệt, rong kinh
rong huyết, thiếu máu, đau do chèn ép, bí tiểu tiện… Ngoài ra LNMTC
còn ảnh hưởng đến quá trình thai nghén và khả năng sinh sản của người
phụ nữ.
Có nhiều phương pháp điều trị LNMTC như điều trị nội khoa, nút
mạch, phẫu thuật… trong đó phẫu thuật cắt tử cung là một phương pháp
điều trị triệt để nhất. Tuy nhiên việc cắt bỏ tử cung gây ảnh hưởng lớn đến
sức khỏe cũng như tâm lý của người phụ nữ. Trên thực tế, có nhiều bệnh
nhân bị LNMTC nhưng kích thước khối u còn nhỏ, chưa có biến chứng, còn
có nguyện vọng sinh đẻ hoặc gần đến giai đoạn mãn kinh thì chỉ định phẫu
thuật không được đặt ra. Trong những trường hợp đó, điều trị nội khoa được
ưu tiên hơn nhằm trì hoãn hoặc ngừng phát triển khối u hoặc giúp khối u
thoái triển.
Ngoài các phương pháp điều trị theo y học hiện đại như dùng các
hoocmon, các chất đồng vận… còn có thuốc Vissane 2mg.

4


Sản phẩm thuốc Vissane với thành phần chính là Dienogest đã được
xử dụng để điều trị LNMTC. Với mong muốn có thêm một loại thuốc nữa
để điều trị LNMTC, cần thiết phải có các nghiên cứu với qui mô lớn hơn để
có những bằng chứng khoa học về hiệu quả điều trị và độ an toàn của
Vissane. Chính vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: Đánh giá hiệu
quả và tính an toàn của Dienogest trong điều trị bệnh tuyến cơ tử cung
với mục tiêu sau:
- Đánh giá hiệu quả của Dienogest trong điều trị lạc nội mạc tử cung
10 Tổng quan tài liệu :
Định nghĩa và thuật ngữ :
Lạc nội mạc tử cung (LNMTC) được định nghĩa là sự hiện diện của mô

tuyến nội mạc tử cung (NMTC) và mô đệm ở bên ngoài tử cung gây ra tình
trạng viêm mạn tính, phát triển và thoái triển theo chu kỳ kinh nguyệt và
chịu ảnh hưởng của nội tiết tố sinh dục [Error: Reference source not found],
[Error: Reference source not found], [1], [2], [3], [4], [5], [6]
1.2.1. Triệu chứng cơ năng
Do có sự đa dạng về tổn thương và vị trí tổn thương nên biểu hiện của
lạc nội mạc tử cung cũng đa dạng, 15-30% lạc nội mạc tử cung là tiềm tàng,
không có triệu chứng triệu chứng [Error: Reference source not found], bệnh
nhân thường đi khám vì đau hoặc hiếm muộn.
- Đau: Đau bụng kinh, đau mãn tính vùng chậu, đau khi giao hợp sâu
là những triệu chứng hàng đầu của lạc nội mạc tử cung [Error: Reference
source not found], [Error: Reference source not found], trong nghiên cứu
của Bellelis (2010) [Error: Reference source not found], đau bụng kinh ảnh
hưởng đến khả năng lao động và làm việc chiếm tỉ lệ 62% phụ nữ có lạc nội
mạc tử cung, tỷ lệ đau vùng chậu mãn tính là 57%, giao hợp sâu đau là 55%
[Error: Reference source not found]. Các triệu chứng của LNMTC phụ
thuộc vào vị trí của LNMTC, lạc nội mạc tử cung sâu vùng sau xương chậu

5


liên quan với tăng mức độ nghiêm trọng đau bụng vùng chậu mãn tính, lạc
nội mạc tử cung sâu của vách trực tràng – âm đạo liên quan chặt chẽ với
giao hợp đau [Error: Reference source not found].
Đau bụng kinh nguyên phát ở các cô gái trẻ có thể là dấu hiệu gợi ý
lạc nội mạc tử cung sau này, nghiên cứu của Davis và cộng sự cho thấy:
các thiếu nữ bị lạc nội mạc tử cung (được chẩn đoán qua nội soi sau này)
có tỉ lệ tử cung co thắt lên tới 100%, đau theo chu kỳ 67%, không theo
chu kỳ đau 39% [Error: Reference source not found].
- Vô sinh: Các nghiên cứu chỉ ra rằng, có đến 50% những trường hợp

vô sinh có lạc nội mạc tử cung và 30% những trường hợp lạc nội mạc tử
cung kèm vô sinh (trong khi tỉ lệ vô sinh ở phụ nữ độ tuổi sinh sản nói
chung là 2 – 10%) Do đó, trước mỗi trường hợp vô sinh nên xem xét có lạc
nội mạc tử cung hay không [Error: Reference source not found], [4].
- Triệu chứng tiêu hóa: thường mơ hồ, có thể buồn nôn, nôn, chướng
bụng, khó tiêu, đau khi đại tiện có thể gợi ý tổn thương LNMTC ở vách trực
tràng âm đạo hoặc ở cùng đồ Douglas, đại tiện ra máu có thể gợi ý tổn
thương ruột, tuy nhiên các triệu chứng tiêu hóa không được coi là đặc trưng
của LNMTC [Error: Reference source not found].
- Các triệu chứng khác: liên quan đến vị trí LNMTC như triệu chứng
đường tiết niệu với tiểu tiện ra máu khi hành kinh, đau khi đi tiểu, triệu
chứng đường hô hấp như ho ra máu cũng có thể gặp [Error: Reference
source not found], [2].
Mặc dù lạc nội mạc tử cung gây ra nhiều triệu chứng nhưng các nghiên
cứu chỉ ra rằng, không có triệu chứng nào đủ mạnh mẽ để chẩn đoán lạc nội
mạc tử cung, sự kết hợp nhiều triệu chứng cơ năng làm tăng cơ hội chẩn
đoán lạc nội mạc tử cung. Việc sớm nghĩ đến bệnh lý LNMTC từ các triệu
chứng lâm sàng sẽ giúp cho bệnh nhân có cơ hội được chẩn đoán sớm, tiếp
cận quản lý và điều trị sớm giúp cải thiện chất lượng cuộc sống [2], [4],

6


[Error: Reference source not found].
1.2.2. Khám lâm sàng
Khám lâm sàng rất quan trọng để chẩn đoán và đánh giá tổn thương
LNMTC. Tuy nhiên những tổn thương mức độ nhẹ và trên phúc mạc không
thể đánh giá được trên lâm sàng. Khám lâm sàng không thấy dấu hiệu đặc
trứng, tùy vị trí tổn thương có thể có các dấu hiệu:
- Đặt mỏ vịt: đôi khi cho thấy lạc nội mạc tử cung tại cổ tử cung với

hình ảnh có các u màu vàng hay xanh, hay lạc nội mạc tử cung ở túi cùng
Douglas dưới dạng nang chứa dịch xanh đen.
- Thăm âm đạo và trực tràng: đôi khi thấy tử cung sâu, ít di động, khi
di động tử cung đau, đôi khi một khối ở dây chằng tử cung cùng, cảm giác
thâm nhiễm vách trực tràng âm đạo, nếu có u lạc nội mạc tử cung buồng
trứng có thể sờ thấy khối buồng trứng to.
- Vị trí khác: ngoại lệ thấy lạc nội mạc tử cung tại sẹo mổ thành bụng
hay chỗ cắt khâu tầng sinh môn.
Tất cả dấu hiệu khám được gợi ý hơn khi nó rõ hơn, nặng hơn trong
vòng kinh, có tính chất chu kỳ [Error: Reference source not found].
Nhìn chung, các bằng chứng về giá trị của khám lâm sàng để chẩn
đoán lạc nội mạc tử cung là yếu, tuy nhiên khám lâm sàng hữu ích cho một
chẩn đoán lạc nội mạc tử cung nhanh hơn và giúp bác sĩ lâm sàng đưa ra
các chỉ định cận lâm sàng cụ thể và hợp lý. Khám lâm sàng cũng có một số
hạn chế như phụ thuộc vào các kỹ năng và kinh nghiệm của các bác sĩ lâm
sàng, không đánh giá được tổn thương LNMTC ở nông và ở phúc mạc…
nhưng với gánh nặng tài chính thấp, khám lâm sàng được khuyến cáo thực
hiện cho tất cả các bệnh nhân nghi ngờ LNMTC. Với những trường hợp
không phù hợp cho việc thăm khám qua âm đạo (như thiếu nữ tuổi vị thành
niên hay phụ nữ chưa quan hệ tình dục), nên thăm khám qua trực tràng hay
sử dụng các phương pháp cận lâm sàng hỗ trợ cho chẩn đoán [2].
7


1.2.3. Các phương pháp cận lâm sàng
Việc chẩn đoán lạc nội mạc tử lần đầu tiên dựa trên tiền sử, các triệu
chứng và dấu hiệu, kết quả khám lâm sàng, sau đó được khẳng định bằng
các phương pháp cận lâm sàng và cuối cùng được chứng minh bằng kiểm
tra mô bệnh học của mẫu bệnh phẩm thu thập được trong quá trình mổ nội
soi. Sự kết hợp của nội soi và kiểm tra mô bệnh học được coi là tiêu chuẩn

vàng để chẩn đoán lạc nội mạc tử cung, tuy nhiên, trong nhiều trường hợp
sự xuất hiện điển hình của xâm nhiễm lạc nội mạc tử cung trong khoang
bụng cũng được coi là bằng chứng có lạc nội mạc tử cung hiện diện [2].
1.2.3.1. Các phương pháp hình ảnh
- Siêu âm: Siêu âm dễ thực hiện nên thường là chỉ định hình ảnh học
đầu tiên trong chẩn đoán lạc nội mạc tử cung
+ Siêu âm 2 chiều:
Siêu âm trên mu với bàng quang đầy cho phép đánh giá tổng quan hình
thái vùng tiểu khung, đặc biệt khi khối tổn thương nằm ở cao hay ở sau
phúc mạc [Error: Reference source not found].
Siêu âm qua đường âm đạo: có thể cho thấy được u LNMTC ở buồng
trứng với hình ảnh đặc trưng là khối khối echo kém, thành trơn láng, chứa
dịch dạng vân mây, những nang lâu ngày có thể có hình dạng thay đổi,
thành nang có thể có góc cạnh do bị dính, co kéo, thành nang trở nên dày,
echo đặc [Error: Reference source not found], [Error: Reference source not
found]. Có rất nhiều nghiên cứu về giá trị của siêu âm qua đường âm đạo
trong chẩn đoán u lạc nội mạc tử cung tại buồng trứng, tổng quan hệ thống
và phân tích gộp của Moore và cộng sự [Error: Reference source not found]
từ 1257 phụ nữ có khối u ở buồng trứng, giá trị của siêu âm qua đường âm
đạo được đánh giá khi so sánh với mô bệnh học, kết quả cho thấy, siêu âm
qua đường âm đạo có độ nhạy 64-89%, độ đặc hiệu 89-100% khi chẩn đoán
u lạc nội mạc tử cung tại buồng trứng [Error: Reference source not found].

8


Siêu âm qua đường âm đạo cũng rất có giá trị để chẩn đoán lạc nội
mạc tử cung ở trực tràng, tổng quan hệ thống và phân tích gộp của Hudelist
và cộng sự (2011) [Error: Reference source not found] từ 1105 phụ nữ, giá
trị của siêu âm qua đường âm đạo chẩn đoán LNMTC ở trực tràng được

đánh giá khi so sánh với mô bệnh học, kết quả cho thấy, siêu âm qua đường
âm đạo có độ nhạy 91% (88,1-93,5); độ đặc hiệu 98% (96,7-99,0); giá trị
chẩn đoán dương tính 98% (96,7-99,6); giá trị chẩn đoán âm tính 95%
(92,1-97,7) khi chẩn đoán lạc nội mạc tử cung ở trực tràng [Error:
Reference source not found].
+ Siêu âm 3 chiều: Giá trị của siêu âm 3D trong việc chẩn đoán lạc nội
mạc tử cung được đánh giá trong nghiên cứu loạt ca của Pascual và cộng sự
(2010) [Error: Reference source not found] với 39 phụ nữ nghi ngờ lạc nội
mạc tử cung ở vách trực tràng âm đạo, sử dụng tiêu chuẩn vàng để chẩn
đoán là nội soi và mô bệnh học, kết quả thu được siêu âm 3D có độ nhạy
89,5% (95% CI: 73,3- 94,5), độ đặc hiệu 94,7% (95%CI: 78,6-99,7), tuy
nhiên, độ lưu hành của lạc nội mạc tử cung ở vách trực tràng âm đạo lên tới
50%, do đó giá trị của siêu âm 3D trong chẩn đoán LNMTC ở vách trực
tràng – âm đạo là chưa được rõ ràng.
- Chụp cổng hưởng từ
Chụp cộng hưởng (MRI) từ cho phép đánh giá tổng quan vùng chậu
với độ đặc hiệu và độ nhạy cao, giúp phát hiện LNMTC thể sâu, thể
adenomyosis, và đánh giá đầy đủ về vị trí và mức độ tổn thương, thường
được dùng để đánh giá trước phẫu thuật như mức độ xâm lấn, cơ quan bị
xâm lấn (ruột, bàng quang) và giúp chản đoán phân biệt với các u khác.
Năm 2006, CNGOF [Error: Reference source not found] khuyến cáo
MRI là kỹ thuật được chọn để đánh giá những tổn thương sâu sâu phúc
mạc, năm 2010 cả hai hiệp hội LNMTC Hoa Kỳ [5] và Canada [6] đều
khuyến cáo mở dụng sử dụng MRI, đây là kỹ thuật hình ảnh thứ hai, được
sử dụng khi nghi ngờ LNMTC ở sâu, tuy nhiên, siêu âm qua đường âm đạo
9


được thực hiện bởi các chuyên gia kinh nghiệm có thể giúp tránh nhiều chỉ
định MRI không cần thiết.

Giá trị của chụp cộng hưởng từ (MRI) trong việc chẩn đoán lạc nội mạc tử
cung ở sâu sau phúc mạc trong nghiên cứu của Stratton và cộng sự [Error:
Reference source not found] với 44 phụ nữ nghi ngờ LNMTC, sử dụng tiêu
chuẩn vàng chẩn đoán LNMTC là nội soi ổ bụng và mô bệnh học. Kết quả cho
thấy cộng hưởng từ có độ nhạy là 69%, độ đặc hiệu là 75% khi chẩn đoán lạc
nội mạc tử cung ở phúc mạc. Như vậy giá trị của MRI trong chẩn đoán lạc nội
mạc tử cung ở sâu sau phúc mạc là chưa rõ ràng.
- Các phương pháp khác:
Soi đại tràng, chụp đại tràng cản quang: áp dụng cho LNMTC sâu
thâm nhiễm vào ruột, vách trực tràng âm đạo gây đại tiện khó, giao hợp
đau.
Soi bàng quang: chỉ định khi nước tiểu có máu liên quan đến chu kỳ
kinh.
1.2.3.2. Xét nghiệm
- Định lượng CA-125:
CA 125 tăng cao trong một số bệnh lý phụ khoa – trong đó có lạc nội
mạc tử cung và đã được đề xuất như là một dấu ấn sinh học ứng cử viên cho
chẩn đoán bệnh lý này, tuy nhiên, bằng chứng của các nghiên cứu chỉ ra
rằng CA 125 ít có giá trị chẩn đoán LNMTC.
Mol và cộng sự [Error: Reference source not found] thực hiện một
tổng quan hệ thống và phân tích gộp để đánh giá giá trị lâm sàng của huyết
thanh CA-125 trong việc chẩn đoán LNMT với 2.131 bệnh nhân đã trải qua
phẫu thuật nội soi vì đau và/hoặc vô sinh, kết quả thu được: sự phổ biến của
nội mạc tử cung là từ 19 đến 86%; CA125 có độ nhạy 4-100%, độ đặc hiệu
38-100% trong việc chẩn đoán LNMTC, đường cong ROC cho thấy rằng
10


giá trị của huyết thanh CA125 trong chẩn đoán phân độ LNMTC là có hạn,
trong khi hiệu quả của nó trong việc chẩn đoán LNMTC độ III / IV là tốt

hơn. Mặc dù chất lượng chẩn đoán giới hạn của nó, Mol và đồng nghiệp tin
rằng thói quen sử dụng huyết thanh CA-125 đo ở bệnh nhân vô sinh có thể
được biện minh, vì nó có thể xác định một nhóm bệnh nhân có nhiều khả
năng được hưởng lợi từ nội soi sớm.
- Xét nghiệm miễn dịch
May và cộng sự (2010) [Error: Reference source not found] đã thực
hiện một tổng quan hệ thống để đánh giá giá trị lâm sàng của tất cả các chỉ
dấu sinh học miễn dịch đề xuất cho chẩn đoán LNMTC trong huyết thanh,
huyết tương và nước tiểu, 161 nghiên cứu được đưa vào phân tích, kết quả
hiện tại không có chỉ dấu sinh học miễn dịch được biết đến có khả năng
chẩn đoán lạc nội mạc tử cung một cách không xâm lấn.
- Xét nghiệm khác
May và cộng sự (2011) [Error: Reference source not found] đã thực
hiện một tổng quan hệ thống để đánh giá giá trị lâm sàng của các marker lấy
từ mô nội mạc tử cung, dịch kinh nguyệt hay chất dịch trong buồng tử cung
để chẩn đoán lạc nội mạc tử một cách không xâm lấn. Tất cả 182 nghiên
cứu được đưa vào phân tích, kết luận chung của các tác giả: không có
marker nào có giá trị chẩn đoán LNMTC, tuy nhiên vai trò của các sợi thần
kinh nội mạc tử cung và các phân tử tham gia vào sự điều khiển có chu kỳ
của kinh nguyệt, các tế bào kết dính và sự hình thành mạch máu là nhứng
dấu ấn sinh học đầy hứa hẹn trong tương lai.
1.2.3.3. Phẫu thuật nội soi ổ bụng
Soi ổ bụng là xét nghiệm rất có giá trị khẳng định chẩn đoán, tiên
lượng và điều trị LNMTC, ngày nay phẫu thuật nội soi ổ bụng được sử
dụng rộng rãi trong phụ khoa nói chung và LNMTC nói riêng [Error:
Reference source not found], [2], [4], [5], [6], [Error: Reference source not

11



found].
Hình thái tổn thương lạc nội mạc tử cung qua nội soi: xác định theo vị
trí, mức độ tổn thương [Error: Reference source not found]:
+ Tổn thương phúc mạc: vị trí hay gặp là túi cùng Douglas, dây chằng
tử cung cùng, hố buồng trứng... Các dạng tổn thương có thể là mảng, những
điểm đỏ, nâu, socola, sẹo xơ tuỳ theo giai đoạn. Giai đoạn sớm: có hình ảnh
mảng trắng mờ, thể đang viêm: phúc mạc mất bóng, nhiều ổ non, màu đỏ,
giầu mạch máu, chạm vào dễ chảy máu.
+ Tổn thương dính: do phản ứng viêm, không khác so với dính nhiễm
khuẩn, thường thấy sau tử cung, hố buồng trứng làm tử cung, buồng trứng
không di động. Quá trình tạo màng dính được cho là do ổ lạc nội mạc tử
cung hoạt động, chảy máu tạo nên hiện tượng viêm, lúc đầu tạo nên màng
mỏng, ít mạch máu, càng về sau càng nhiều màng dính dày, nhiều mạch
máu, mạc nối lỏn, ruột đến dính vào.
+ Tổn thương buồng trứng: hay gặp nhất, tổn thương có thể tại bề mặt
hay sâu trong buồng trứng tạo nên nang chứa dịch máu đậm đặc như dịch
chocholate nóng, thành nang mỏng, chỉ có một lớp tế bào hạt với phản ứng
viêm xung quanh nên khó bóc tách khi phẫu thuật.
+ Tổn thương vòi tử cung: có thể tổn thương ở tất cả các đoạn vòi tử
cung, tổn thương vòi tử cung thường kết hợp với tổn thương phúc mạc,
cũng có thế nguyên phát do tế bào niêm mạc tử cung bám lại gây nhiễm
khuân.
+ Tổn thương sâu dạng u thâm nhiễm vào thành trực tràng, âm đạo, có
thể ở túi cùng sau [Error: Reference source not found].
Cho đến nay, phẫu thuật nội soi ổ bụng có hoặc không có xác minh mô
bệnh học được sử dụng rộng rãi để chẩn đoán và loại trừ sự hiện diện của
lạc nội mạc tử, xét nghiệm mô bệnh học âm tính không loại trừ chẩn đoán
lạc nội mạc tử cung vì còn phụ thuộc vào kinh nghiệm của bác sĩ trong việc

12



lấy bệnh phẩm, bảo quản mẫu, đọc kết quả. Tuy nhiên, một kết quả phẫu
thuật nội soi âm tính cũng không loại trừ bệnh lý LNMTC vì phụ thuộc
nhiều vào kinh nghiệm của bác sĩ phẫu thuật trong việc đánh giá hình ảnh,
tìm kiếm lạc nội mạc tử cung ở các vị trí – đặc biệt vị trí khó trong ổ bụng
[2], [Error: Reference source not found].
Các dữ liệu về giá trị chẩn đoán LNMTC của nội soi ổ bụng là rất hạn
chế, dữ liệu về các biến chứng và tác dụng phụ cũng tương tự, tuy nhiên, từ
các dữ liệu hiện có, kết quả nội soi âm tính (không có dấu hiệu LNMTC),
kết hợp với các dấu hiệu lâm sàng (không có dấu hiệu gợi ý LNMTC) có độ
tin cậy của việc loại trừ chẩn đoán lạc nội mạc tử (Wykes, et al., 2004)
[Error: Reference source not found].
Phân loại lạc nội mạc tử cung
Có rất nhiều cách phân loại giai đoạn (hay độ nặng) của lạc nội mạc tử
cung, nhưng cho đến nay phân loại giai đoạn LNMTC theo Hiệp hội Sinh
sản Hoa Kỳ (ASRM) - 1996 vẫn được áp dụng rộng rãi (Bảng 1) [2], [4],
[5], [6], [Error: Reference source not found], [Error: Reference source not
found].

Bảng 1: Phân loại giai đoạn LNMTC theo ASRM 1996 [Error: Reference
source not found]
Phúc mạc

LNMTC

<1cm

1-3cm


>3cm

Nông

1

2

4

Sâu

2

4

6

1

2

4

4

16

20


1

2

4

4

16

20

Buồng trứng Phải: Nông
Sâu
Trái: Nông
Sâu

13


Tổn thương Một phần

Hoàn toàn

cùng đồ sau

40

4
Bao phủ <1/3


Buồng trứng Dính

Bao phủ 1/3- Bao phủ >2/3
2/3

Phải: Mỏng
Dày
Trái: Mỏng
Dày
Vòi tử cung

Phải: Mỏng
Dày
Trái: Mỏng
Dày

1

2

4

4

8

16

1


2

4

4

8

16

1

2

4

4*

8*

16

1

2

4

4*


8*

16

* Nếu như màng mỏng nhưng bao bọc hết vòi tử cung thì chuyển
điểm thành 16.
Phân giai đoạn LNMTC như sau:
Giai đoạn I (Rất nhẹ) : 1 – 5 điểm

Giai đoạn III (trung bình): 16 – 40 điểm

Giai đoạn II (nhẹ)

Giai đọan IV (nặng)

: 6 – 15 điểm

: > 40 điểm

1.2.3.4. Giải phẫu bệnh
Là tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán lạc nội mạc tử cung, một kết quả
mô bệnh học dương tính cho phép chẩn đoán chắc chắn LNMTC nhưng một
kết quả mô bệnh học âm tính, bác sĩ lâm sàng cần thận trọng khi kết luận
bệnh nhân có bị LNMTC hay không vì còn phụ thuộc vào cách lấy bệnh
phẩm, qui trình bảo quản mẫu và độ chính xác của đọc kết quả [2], [Error:
Reference source not found].
Hình ảnh vi thể của LNMTC có cấu trúc giống niêm mạc tử cung
bình thường, là biểu mô tuyến hình trụ cổ điển, nhiều tế bào và tổ chức đệm
dày đặc, hai thành phần này không phải hài hòa nhau mà luôn thay đổi theo

nội tiết [Error: Reference source not found].
1.3. Điều trị lạc nội mạc tử cung
Bệnh lý lạc nội mạc tử cung chỉ nên điều trị khi có triệu chứng đau

14


hoặc vô sinh với mục tiêu giảm đau, tăng khả năng có thai, giảm mức độ
diễn tiến và tái phát của bệnh.
Đau trong LNMTC ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng cuộc
sống của người bệnh với nhiều dạng thức khác nhau, có mối liên hệ mật
thiết giữa viêm và tình trạng cường estrogen trong bệnh sinh LNMTC, do
đó việc điều trị đau không được tách rời hai đặc điểm sinh bệnh học này.
Điều trị đau và điều trị vô sinh là hai điều trị trái chiều nhau, nếu
bệnh nhân đến khám có kèm theo tình trạng vô sinh, phải xem điều trị vô
sinh là ưu tiên [2], [4], [Error: Reference source not found], [Error:
Reference source not found].
1.3.1. Điều trị đau liên quan đến lạc nội mạc tử cung
Điều trị đau trong bệnh lý LNMTC bao gồm: điều trị dựa trên kinh
nghiệm, điều trị nội khoa, điều trị ngoại khoa, phối hợp điều trị nội khoa –
ngoại khoa và chiến lược quản lý không dùng thuốc.
Lạc nội mạc tử cung là một bệnh mãn tính và không thể chữa khỏi
trong một số lượng đáng kể phụ nữ, các phương pháp điều trị có thể làm
giảm các triệu chứng đau, nhưng các triệu chứng thường tái phát sau khi
ngưng điều trị.
1.3.1.1. Các giải pháp Nội khoa
* Điều trị theo kinh nghiệm
- Đây là phương pháp điều trị được chỉ định khi chưa có hay chưa
nhất thiết phải có được bằng chứng cụ thể về tình trạng bệnh lý hiện tại
nhưng ước đoán rằng việc sử dụng phương pháp điều trị này sẽ mang lại

kết quả mong muốn.
- Do dựa theo kinh nghiệm nên hiệu quả điều trị chưa rõ ràng.
- Phương pháp: tư vấn, thuốc giảm đau, thuốc nội tiết và liệu pháp dinh
dưỡng. Phụ nữ bị đau vùng chậu với một sự nghi ngờ cao lạc nội mạc tử
cung sử dụng thuốc giảm đau theo kinh nghiệm và thuốc tránh thai mà không
có một chẩn đoán nội soi dứt khoát trước, một phần là do sự xâm lấn của

15


phẫu thuật nội soi và còn do sự dễ dàng của việc quy định biện pháp tránh
thai nội tiết.
- Lưu ý khi điều trị đau theo kinh nghiệm: trước khi bắt đầu điều trị
theo kinh nghiệm, các nguyên nhân khác gây triệu chứng đau vùng chậu
nên được loại trừ, càng xa càng tốt, đồng thời nên tư vấn cho bệnh nhân
nguy cơ lạc nội mạc tử cung. Nghiên cứu của Chapron và cộng sự (2011)
[Error: Reference source not found] cho rằng việc sử dụng thuốc tránh thai
trong các cô gái trẻ vì đau bụng kinh có thể là dấu hiệu của việc lạc nội mạc
tử sâu trong cuộc sống sau này.
* Liệu pháp Hormone điều trị đau trong lạc nội mạc tử cung
Lạc nội mạc tử cung là một bệnh lý phụ thuộc estrogen, cơ chế trong
điều trị hormone hay điều trị nội khoa là làm giảm lượng estrogen huyết
thanh từ đó làm cho tổn thương LNMTC teo đi, không có khả năng phát
triển theo chu kỳ kinh nguyệt tương tự như niêm mạc tử cung trong buồng
tử cung nữa.
Thuốc tránh thai nội tiết phối hợp
- Thuốc tránh thai phối hợp (Combined Oral Contraceptives COCs) là
thuốc tránh thai có estrogen và progestagen mà không đề cập đến một dạng
thức phối hợp đặc biệt nào, công thức thường là một sự phối hợp giữa liều
thấp 20 - 30µg ethinyl estradiol và một progestagen bất kỳ.

- Cơ chế: Viên tránh thai phối hợp có tác dụng làm niêm mạc tử cung
trong buồng tử cung và niêm mạc tử cung lạc chỗ hóa mang rụng, sau đó
teo dần, từ đó làm giảm các dấu hiệu lâm sàng của LNMTC. Giả thuyết về
việc tại sao thuốc tránh thai phối hợp có thành phần estrogen lại có thể điều
trị được LNMTC – một bệnh lý phụ thuộc estrogen cho rằng: thành phần
estrogen trong viên thuốc có thể che dấu hiệu của progestin (thành phần có
thể kích hoạt bệnh), mặt khác, có thể hiểu rằng các liều ethinylestradiol trong
thuốc tránh thai phối hợp hiện đại là quá thấp để đạt tới một ngưỡng kích
hoạt [2].
16


- Tác dụng giảm đau của COCs đã được chứng minh qua nhiều nghiên
cứu. Vercellini và cộng sự (1993) [Error: Reference source not found] đã
chứng minh COCs có tác dụng giảm thống kinh tốt hơn GnRH đồng vận
trên 57 bệnh nhân, một nghiên cứu khác cũng của cùng tác giả (2002) trên
90 bệnh nhân có triệu chứng đau vùng chậu (mức độ trung bình và nặng) tái
phát sau phẫu thuật LNMTC bảo tồn cho thấy COCs có tác dụng giống như
Cyproterone Acetate (CPA) trong điều trị triệu chứng đau, 73% nhóm CPA
và 67% nhóm COCs hài lòng với điều trị.
- Các hiệp hội quốc tế đều đồng thuận về hiệu quả giảm đau của COCs
và khuyến cáo được dùng ngay ở bước 1 và có thể dùng kéo dài, liệu trình
dùng thuốc liên tục không có khoảng nghỉ để tăng hiệu quả giảm đau đang
được quan tâm nghiên cứu.
Progestagens và kháng progestagens [Error: Reference source not
found], [2]
- Progestin đã được sử dụng từ hơn 40 năm trước để điều trị LNMTC
với cơ chế:
+ Ức chế trục hạ đồi – tuyến yên, buồng trứng làm cho nang noãn
không phát triển, không trưởng thành và không rụng trứng do đó nồng độ

estrogen huyết thanh thấp.
+ Tác dụng trực tiếp lên mô nội mạc tử cung trong tử cung hay lạc
chỗ gây hiện tượng màng rụng hóa rồi teo đi.
+ Có thể ngăn chặn hiện tượng tăng sinh mạch máu nên giảm được sự
tồn tại, phát triển và viêm của LNMTC lạc chỗ.
+ Làm cho lượng máu kinh giảm nên giảm lượng máu kinh trào
ngược qua hai vòi tử cung giúp hạn chế LNMTC phát triển thêm.
- Có nhiều dạng Progestin như dạng uống, dạng tiêm, que cấy hay
dụng cụ đặt trong tử cung, với kháng Progestagen, thuốc được dùng có tác
dụng giảm đau liên quan đến LNMTC là gestrinone.

17


+ Nhóm Progestin đường uống:
 Norethidrone acetate: uống 5-20mg/ ngày, có hiệu quả trong đa số
trường hợp đau do thống kinh và viêm vùng chậu mạn tính. Có tác dụng
duy trì mật độ xương tuy nhiên tác động tiêu cực lên HDL- cholesterol.
 Dienogest: uống 2mg/ngày, có thể là lựa chọn lâu dài của LNMTC,
có hiệu quả tương đương với đồng vận GnRH trong giảm đau do LNMTC.
+ Nhóm Progestin đường tiêm: Depot Medroxyl Progesteron Acetate
(DMPA): tiêm bắp hoặc dưới da, có hiệu quả giảm đau vùng chậu do
LNMTC trên 75% bệnh nhân, chỉ định lý tưởng trong LNMTC sót lại sau
phẫu thuật cắt TC có hoặc không cắt phần phụ. Không nên sử dụng trên
bệnh nhân mong muốn có thai, đôi khi gây chảy máu bất thường, giảm mật
độ xương nếu dùng lâu dài.
+ Dụng cụ tử cung phòng thích Progestin (vòng Megyna)
Levonorgestrel phóng thích 20µg mỗi ngày, có thể sử dụng liên tục trong 5
năm, dễ dàng lấy ra khi cần thiết, ít tác dụng phụ, kết quả hài lòng sau 6
tháng điều trị khoảng 50% bệnh nhân đau vùng chậu mạn tính và LNMTC

nhẹ đến trung bình.
- Danazol
+ Cơ chế tác dụng: Danazol – 17anpha ethinyl testosterone làm tăng
nồng độ testosterone tự do bằng cách chiếm chỗ của testosterone gắn với
SHBG (sex hormone binding globulin), ngăn chặn đỉnh LH giữa chu kỳ,
ngăn chặn tổng hợp estrogen và progesterone tại buồng trứng từ đó gây ra
tình trạng thiếu hụt estrogen.
- GnRH agonist
- Cơ chế tác dụng: GnRH đồng vận chiếm chỗ của GnRH đối với thụ
thể GnRH tại thùy trước tuyến yên nên gây ra tình trạng suy giảm hạ đồi,
tuyến yên, buồng trứng và từ đó tạo tình trạng thiếu hụt estrogen.

18


- Hiệu quả giảm đau của GnRH được chứng minh qua một tổng quan
của Chochrane năm 2010 [Error: Reference source not found], tuy nhiên rất
nhiều tác dụng phụ giống như tình trạng mãn kinh do thiếu hụt estrogen đã
được chỉ ra như bốc hỏa, mất ngủ, khô teo niêm mạc tiết niệu – sinh dục,
đau nhức xương khớp, loãng xương… việc phối hợp với những thuốc hỗ trợ
có thể cải thiện tình trạng này. Các thuốc nhóm GnRH đồng vận thông dụng
được dùng gồm: nafarelin, leuprolide, buserelin, goserelin và triptorelin.
- GnRH đồng vận + add-back: Cơ chế của sự phối hợp này là bổ sung
sự thiếu hụt estrogen và / hoặc progestagen hoặc tibolone để điều trị tác
dụng không mong muốn của GnRH đồng vận. Điều này được dựa trên lý
thuyết ngưỡng, theo đó mức estrogen thấp là cần thiết để bảo vệ xương và
chức năng nhận thức và tránh / giảm thiểu các triệu chứng mãn kinh như
bốc hoả, giấc ngủ xáo trộn, thay đổi tâm trạng, mức estrogen thấp này
không đủ kích hoạt mô endometriotic, do đó vẫn có hiệu quả giảm đau vì đã
khống chế được estrogen. Các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, việc phối hợp

GnRH đồng vận với các thuốc như MPA (progestin), tibolone, COCs có
hiệu quả trong việc giảm tác dụng phụ của GnRHa, tuy nhiên, chưa đủ bằng
chứng mạnh để khuyến cáo về thời điểm phối hợp và có thể dùng kéo dài
bao lâu [2], [4], [5], [6], [Error: Reference source not found], [Error:
Reference source not found].
Một số thuốc khác [Error: Reference source not found]
- GnRH đối vận, có tác dụng ức chế tổng hợp gonadotropins trong
thời gian rất ngắn, do đó giảm estrogen, triệu chứng được cải thiện ngay
khi điều trị.

- SERMs là nhóm chất non – steroids, kháng estrogen, có tác dụng
đồng vận hay đối vận tùy theo mô đích. SERMs có tác dụng đối kháng
estrogen tại NMTC nhưng lại đồng vận với estrogen tạ xương và trên

19


chuyển hóa lipoprotein trong huyết thanh, do đó được hi vọng có hiệu quả
trong điều trị đau do LNMTC với ít tác dụng phụ.
Tuy nhiên, chưa có nhiều các nghiên cứu về các thuốc này trong thời
gian gần đây.
* Thuốc kháng viêm không steroid và các thuốc giảm đau khác
Các nghiên cứu đã chứng minh có nồng độ prostaglandin cao dịch
màng bụng và mô lạc nội mạc tử cung ở phụ nữ bị lạc nội mạc tử, do đó,
thuốc kháng viêm không steroid - thuốc giảm đau được sử dụng rộng rãi
trong thực hành lâm sàng cũng được dùng để giảm đau do LNMTC.
Cơ chế tác dụng: thuốc kháng viêm không steroid có hiệu quả giảm
đau do LNMTC bởi 2 tác dụng: (1) tác dụng trên 2 men COX-1 và COX-2
để giảm tổng hợp prostaglandin, tác nhân gây ra hành kinh đau và gây kích
thích ruột, (2) giảm hiện tượng viêm do LNMTC gây ra.

Marjoribanks và cộng sự (2010) [Error: Reference source not found]
chứng minh rằng kháng viêm không steroid có tác dụng giảm thống kinh
nguyên phát, tuy nhiên thiếu những chứng cứ mạnh để khẳng định có tác
dụng điều trị đau trong LNMTC, đồng thời cũng cần lưu ý các tác dụng phụ
khi điều trị bằng các thuốc này như: nguy cơ loét dạ dày, bệnh tim mạch [2].
1.3.1.2. Các giải pháp ngoại khoa
Mặc dù điều trị ngoại khoa giúp chẩn đoán xác định LNMTC nhưng
phẫu thuật thường đặt ra khi đau vùng chậu thất bại với điều trị nội khoa với
mục tiêu: lấy bỏ hết các tổn thương LNMTC, phục hồi giải phẫu vùng chậu,
ngăn ngừa dính sau mổ và nội soi là phương tiện tối ưu để xử trí ngoại khoa
với việc ít đau hơn, thời gian nằm viện ngắn hơn, phục hồi nhanh hơn vì thế
nó thường được ưa chuộng hơn mổ mở, nếu cơ sở không có đủ kinh nghiệm
thực hiện phẫu thuật nội soi, bệnh nhân nên được chuyển đến một trung tâm
chuyên môn cao hơn [2], [Error: Reference source not found]. [Error:
Reference source not found].

20


1.3.1.3. Liệu pháp Hormone trước và sau phẫu thuật điều trị đau và dự
phòng tái phát LNMTC
Không có dữ liệu khuyến khích việc điều trị trước phẫu thuật với thuốc
ức chế với mục đích tạo thuận lợi cho phẫu thuật hay cải thiện kết quả của
phẫu thuật, tuy nhiên điều trị hậu phẫu có thể hữu ích khi nghi ngờ còn sót
tổn thương LNMT, khi triệu chứnng đau không giảm, hoặc kéo dài khoảng
cách giữa các cơn đau sau phẫu thuật.
Có ít nghiên cứu về hiệu quả của liệu pháp hormone trước phẫu thuật
đến kết quả của phẫu thuật, tổng quan Cochrane năm 2004 của Funess và
cộng sự [Error: Reference source not found] chỉ ra rằng, việc điều trị trước
và sau phẫu thuật cho những phụ nữ bị LNMTC không cho thấy bất kỳ lợi

ích lâu dài nào. Sử dụng kéo dài các chất đồng vận (GnRHa) có thể có
nhiều lợi ích hơn nhưng kèm theo đó là tác dụng phụ lâu dài và vấn đề chi
phí, tuy nhiên chưa có nghiên cứu đánh giá hỗ trợ này [2].
1.3.2. Điều trị vô sinh liên quan đến lạc nội mạc tử cung
Điều trị vô sinh và điều trị đau là hai điều trị theo hai chiều trái ngược
nhau, nếu bệnh nhân đến về vô sinh thì phải xem điều trị vô sinh là ưu tiên.\
Điều trị vô sinh liên quan đến hiếm muộn bao gồm tất cả các phương
pháp điều trị để cải thiện khả năng có thai tự nhiên hay khi sử dụng các kỹ
thuật hỗ trợ sinh sản ở phụ nữ bị lạc nội mạc tử.
1.3.2.1. Liệu pháp Hormone
Lạc nội mạc tử cung gây ảnh hưởng đến khả năng sinh sản theo nhiều
cách như: môi trường phúc mạc bị thay đổi với nồng độ cao của cytokine và
đại thực bào làm ảnh hưởng xấu đến chức năng của tinh trùng, kể cả gây tổn
thương ADN của tinh trùng và nang noãn, nồng độ Anti -Mullerian
Hormone - một chỉ số giá trị đánh giá dự trữ buồng trứng, bị giảm cho thấy
chức năng buồng trứng bị ảnh hưởng, lạc nội mạc tử cung cũng gây viêm
dính vùng chậu, làm thay đổi về cấu trúc giải phẫu có thể gây hậu quả bất

21


thường lên chức năng vòi tử cung do đó ảnh hưởng đến chức năng sinh sản
của người phụ nữ [4]. Do đó các phương pháp điều trị làm giảm bớt tình
trạng nặng của LNMTC có hi vọng cải thiện tình trạng có thai của người
bệnh.
Tổng quan hệ thống và phân tích gộp của Hughes và cộng sự [Error:
Reference source not found] tổng hợp từ 18 nghiên cứu đánh giá khả năng
mang thai ở những trường hợp được điều trị LNMTC bằng hormone, tỉ lệ
mang thai được xem xét phân tích. Kết quả cho thấy tỉ lệ mang thai và khả
năng sinh sống không được cải thiện cho tất cả các thuốc được dùng để điều

trị LNMTC [Error: Reference source not found]. Vai trò của liệu pháp
hormone trong điều trị vô sinh liên quan đến LNMTC là hạn chế, các liệu
pháp hormone trong một chừng mực nhất định đều có khả năng chống lại
khả năng có thai của người bệnh do các thuốc nội tiết điều trị LNMTC đều
ức chế hoạt động của trục hạ đồi – tuyến yên - buồng trứng nhằm ngăn cản
hoạt động chức năng của buồng trứng sản xuất ra hormone sterpid và phóng
noãn. lượng cuộc sống - đặc biệt với những phụ nữ còn trẻ tuổi, mãn kinh
do hậu quả của điều trị LNMTC.
Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng mặc dù liệu pháp hormone thay thế có
thể dẫn đến đau và/hoặc bệnh tái phát nhưng các bằng chứng không đủ
mạnh mẽ để từ chối điều trị này cho phụ nữ có triệu chứng mãn kinh trầm
trọng, vì vậy vẫn có dùng nội tiết thay thế cho bệnh nhân mãn kinh bị
LNMTC, đặc biệt với bệnh nhân trẻ tuổi bị mãn kinh liên quan đến
LNMTC, nội tiết thay thế nên được dùng ít nhất đến tuổi mãn kinh tự nhiên
[2].
Dienogest: cơ sở sử dụng trong adenomyosis
• Dẫn xuất từ 19-nortestosterone với tính chọn lọc cao trên receptor
progesterone
• Gây ra ức chế nhẹ chức năng buồng trứng với hiệu quả giảm estrogen
mức độ vừa

22


• Hiệu quả chống tăng sinh trên mô nội mạc bao gồm thay đổi các yếu
tố bệnh sinh của bệnh như giảm tăng sinh tế bào, giảm bộc lộ và mức
độ các yếu tố tăng trưởng thần kinh
Thử nghiệm Phase 3 đánh giá Dienogest trong adenomyosis: Thiết
kế nghiên cứu


Hiệu quả
• Giảm đau so với trước điều trị ( mức độ đau, độ nặng, thay đổi thuốc
giảm đau , thay đổi VAS ) ở thời điểm cuối điều trị (16 weeks) Khác
biệt có ý nghĩa thống kê (P<0.001)
• Thay đổi được xác định là ưu việt hơn với Dienogest ở tất cả các
điểm đánh giá.
• Giảm kích thước tử cung từ baseline đến cuối điều trị nhiều hơn trên
nhóm Dienogest so với placebo.
• 20.0 ± 28.8% vs 9.6 ± 23.0% (P=0.103)

23


Tính an toàn
• Dienogest có liên quan đến tỉ lệ cao hơn biến cố ngoại ý và tương tác
thuốc so với placebo
– AE: 100% vs 76%
– ADR: 100% vs 76%
• Không có biến cố ngoại ý nặng được ghi nhận
• ADRs hay gặp nhất ở nhóm dienogest là:
– Chảy máu tử cung bất thường (97% vs 39%)
– Cơn nóng bừng mặt (6% vs 0%)
• 2 bệnh nhân dừng điều trị bởi vì ADR bao gồm:
– Nóng bừng mặt và các triệu chứng mãn kinh trên 1 bệnh nhân
nhánh Dienogest
– Chảy máu tử cung bất thường ở 1 bệnh nhân nhóm placebo.

24



Dienogest hiệu quả và dung nạp tốt đối với các triệu chứng đau trên
bệnh nhân có lạc nội mạc trong cơ tử cung
– Dienogest làm giảm điểm số đau nhiều hơn có ý nghĩa so với
placebo, cho thấy một hiệu quả lâm sàng có thể nhận biết
– Điểm số đau và điểm số VAS giảm với dienogest dược duy trì
trong suốt điều trị
– Dienogest dung nạp tốt với tỉ lệ ngưng điều trị thấp (6%
[2/34])
• Không có các biến cố bất lợi nghiêm trọng hay các
trường hợp nặng được quan sát thấy
• Chảy máu tử cung bất thường là biến cố bất lợi thường
gặp nhất (97% [33/34])
– Dienogest cải thiện có ý nghĩa QoL đối với các triệu chứng đau
– Trung bình nồng độ E2 trong huyết thanh vẫn nằm trong giới
hạn bình thường (42.1 pg/mL)
– Dienogest có thể tác động lên sự kiểm soát triệu chứng và
không tác động lên sự tiến triển của bệnh

10.1.1. Các nghiên cứu liên quan
EM liệt kê các nghiên cứu trong và ngoài nước về Dienogest 2 mg
(Visanne) trong điều trị lạc nội mạc tử cung nhé. Đề cương của em thiếu
hoàn toàn cái này, đây là PHA II của nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng anh
nghĩ em nên mượn báo cáo trước để tham khảo, sẽ có rất nhiều nghiên cứu
liên quan hoặc em liệt kê các nghiên cứu về hoạt chất thôi cũng được.
10.1.1.1. Nghiên cứu trong nước
Ts.Bs Bùi Chí Thương .Quản lý đau trên bệnh nhân adenomyosis.
Xử trí tác dụng ngoại ý do Dienogest. Hội nghị sản phụ khoa Việt pháp
Châu Á Thái Bình Dương lần thứ 19
25



×