Tải bản đầy đủ (.docx) (177 trang)

NGHIÊN CỨU TÁC DỤNG CỦA HÀO CHÂM TRONG PHỤC HỒI CHỨC NĂNG TÂM - VẬN ĐỘNG Ở BỆNH NHI SAU VIÊM NÃO CẤP DO VI RÚT HERPES SIMPLEX VÀ VIRÚT ĐƯỜNG RUỘT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.72 MB, 177 trang )

1

B GIO DC V O TO

B Y T

TRNG I HC Y H NI
------- -------

PHM NGC THY

NGHIÊN CứU TáC DụNG CủA HàO CH
ÂM
TRONG PHụC HồI CHứC NĂNG TÂM VậN ĐộNG ở BệNH NHI SAU VIÊM NãO
CấP DO VI RúT HERPES SIMPLEX Và
VIRúT ĐƯờNG RUộT
LUN N TIN S Y HC

1


2

H NI 2017
B GIO DC V O TO

B Y T

TRNG I HC Y H NI

PHM NGC THY



NGHIÊN CứU TáC DụNG CủA HàO CH
ÂM
TRONG PHụC HồI CHứC NĂNG TÂM VậN ĐộNG ở BệNH NHI SAU VIÊM NãO
CấP DO VI RúT HERPES SIMPLEX Và
VIRúT ĐƯờNG RUộT
Chuyờn ngnh : Y hc c truyn
Mó s

: 62720201

[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[

LUN N TIN S Y HC
Ngi hng dn khoa hc:
1.
2.

2

TS. ng Minh Hng
PGS.TS. Nguyn Vn Thng


3

HÀ NỘI – 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi là Phạm Ngọc Thủy, nghiên cứu sinh khóa 33 Trường Đại học Y Hà
Nội, chuyên ngành Y học cổ truyền, xin cam đoan:

1. Đây là luận án do bản thân tôi trực tiếp thực hiện dưới sự hướng dẫn
của Cô TS. Đặng Minh Hằng và Thầy PGS.TS. Nguyễn Văn Thắng.
2. Công trình này không trùng lặp với bất kỳ nghiên cứu nào khác đã
được công bố tại Việt Nam.
3. Các số liệu và thông tin trong nghiên cứu là hoàn toàn chính xác, trung
thực và khách quan, đã được xác nhận và chấp thuận của cơ sở nơi
nghiên cứu
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về những cam kết này.
Hà Nội, ngày tháng 7 năm 2017.

Phạm Ngọc Thủy

3


4

LỜI CẢM ƠN
Để có được luận án hoàn thiện ngày hôm nay, xin cho phép tôi được
dành những trang đầu tiên để bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc
nhất đến:
PGS.TS. Nguyễn Văn Thắng, TS. Đặng Minh Hằng Trường Đại học Y
Hà Nội. Người Thầy đã trực tiếp hướng dẫn khoa học, hết lòng dìu dắt tôi từ
những bước đầu tiên trong nghiên cứu. Thầy đã tận tình, tận tâm, nghiêm
khắc, giúp tôi giải quyết những khó khăn trong quá trình nghiên cứu, chỉ bảo
cho tôi những kinh nghiệm quý báu trong học tập nghiên cứu, giúp tôi hoàn
thành luận án này.
Xin được bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đến Thầy GS.
Hoàng Bảo Châu, GS.TS. Lê Đức Hinh, PGS.TS Phạm Văn Trịnh,
PGS.TS.Dương Trọng Hiếu, tuy tuổi cao nhưng quý Thầy luôn tận tụy, tận

tâm, hết lòng vì học trò chúng em. Những bài học quý báu, những dòng chữ,
những chỉ dẫn tận tình của Thầy… công ơn đó, học trò luôn trân trọng và ghi
nhớ trong cuộc đời mình.
Cảm ơn Ban giám hiệu Trường Đại học Y Hà Nội, Phòng Đào tạo Sau
đại học, Khoa Y học cổ truyền cùng các phòng ban của nhà Trường đã tạo
điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập nghiên cứu.
Các Thầy Cô trong Khoa Y học cổ truyền Trường Đại học Y Hà Nội,
những người thầy luôn nhiệt tình hướng dẫn, giảng dạy, giúp đỡ và tạo điều
kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Ban giám đốc, phòng Kế hoạch tổng hợp, phòng Tổ chức cán bộ, lãnh
đạo cùng tập thể nhân viên khoa Nhi Bệnh viện Y học cổ truyền Trung ương,
Khoa Truyền Nhiễm Bệnh viện Nhi Trung ương đã nhiệt tình giúp đỡ, tạo
điều kiện cho tôi trong quá trình nghiên cứu, thu thập số liệu nghiên cứu.
Cảm ơn những bệnh nhân, người nhà bệnh nhân cho phép tôi thực hiện
nghiên cứu, cung cấp cho tôi những số liệu vô cùng quý giá để giúp tôi hoàn
thành luận án.

4


5

Quý Thầy Cô trong Hội đồng chấm luận án đã đóng góp cho tôi những
ý kiến quý báu, để tôi hoàn thiện luận án này.
Ban lãnh đạo, Phòng Quản lý nhân sự, tập thể Khoa Y - Dược Trường
Đại học Trà Vinh nơi tôi công tác, đã nhiệt tình giúp đỡ, tạo điều kiện thuận
lợi trong thời gian tôi đi học.
Cuối cùng tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cha mẹ, những
người thân trong gia đình, chồng, con đã luôn bên cạnh hỗ trợ, động viên, là
chỗ dựa vững chắc cho tôi trong suốt những năm tháng theo học tại Trường

Đại học Y Hà Nội. Cảm ơn những người bạn thân thiết, đồng nghiệp đã cùng
tôi chia sẻ những tháng ngày khó khăn vất vả trong học tập và nghiên cứu.

Hà Nội, ngày tháng 7 năm 2017
Phạm ngọc Thủy

5


6

DANH MỤC VIẾT TẮT
CHT

: Cộng hưởng từ (Magnetic resonance imaging)

CLVT

: Chụp cắt lớp vi tính (Computerd Tomography Scanner)

CTM

: Công thức máu

DNA

: Deoxy Ribo Nucleic Acid

ĐNĐ


: Điện não đồ

DNT

: Dịch não - tuỷ

DQ

: Developmental Quotient (Chỉ số phát triển)

EBV

: Estain barr virus.

ELISA

: Enzyme-Linked Immuno Sorbent Assay

EV

: Enterovirus (vi rút đường ruột)

HIV

: Human Immunodipiciency virus

HSV

: Herpes simplex virus


JE

: Japanese Encephalitis (viêm não Nhật Bản)

PCR

: Polymerase chain reaction (phản ứng khuyếch đại chuỗi gen)

PHCN

: Phục hồi chức năng

TB

: Tế bào

TC

: Tiểu cầu

HC
BC
Hct
Hb
T0
T12
YHHĐ
YHCT
WHO


: Hồng cầu
: Bạch cầu
: Hematocrit
: Hemoglobin
: Thời điểm vào viện
: Thời điểm vào viện sau mười hai tuần điều trị
: Y học hiện đại
: Y học cổ truyền
: World Health Organization (Tổ chức Y tế Thế giới).

6


7

MỤC LỤC

DANH MỤC BẢNG

DANH MỤC BIỂU ĐỒ

7


8

DANH MỤC HÌNH

8



9

ĐẶT VẤN ĐỀ
Viêm não là một bệnh cấp tính của hệ thần kinh trung ương, thường gặp ở
trẻ em với các độ tuổi khác nhau và do nhiều căn nguyên gây nên [1],[2],[3].
Trong đó căn nguyên thường gặp nhất là do vi rút. Vi rút gây viêm não lây
truyền theo các phương thức khác nhau như nhóm lây truyền do côn trùng đốt
(Arbovirus như viêm não Nhật Bản), qua đường hô hấp (như vi rút Herpes simplex) hoặc qua đường tiêu hoá (như Entero vi rút) [2].
Trên thế giới tỷ lệ mắc viêm não dao động từ 3,5 đến 7,4 trường hợp trên
100.000 dân mỗi năm (Johnson 1996) [4], Nicolosi và cs (1986) thông báo tỷ
lệ mắc là 7,4 trường hợp trên 100.000 dân tại Minnesota, Mỹ [5]. Anh là nước
có tỷ lệ viêm não thấp nhất thế giới 1,5 trường hợp trên 100.000 dân (Davison
và cs 2003) [6].
Theo Fidan Jmor và cộng sự (2008), tỷ lệ mắc viêm não cấp tại các nước
phương Tây và các nước vùng nhiệt đới là 10.5 - 13.8/100.000 trẻ em [7]. Tuy
tỷ lệ mắc không cao nhưng tỷ lệ tử vong trong bệnh viêm não có thể lên đến
30% [8],[9],[10]. Những trường hợp được cứu sống cũng có thể để lại di
chứng gây ảnh hưởng nặng nề đến chất lượng cuộc sống của trẻ là gánh nặng
cho gia đình và xã hội [9],[11].
Tại khoa truyền nhiễm Bệnh viện Nhi Trung ương, hàng năm có
khoảng 500 – 600 ca viêm não nhập viện điều trị. Một số căn nguyên đã
được xác định như vi rút viêm não Nhật Bản (VNNB), vi rút Herpes
simplex, vi rút đường ruột, Rubella, Cytomegalovirus, quai bị, thủy đậu, một
vài loại ký sinh trùng [1].
Ở Việt Nam, việc đưa vacxin VNNB vào chương trình tiêm chủng mở
rộng cho trẻ em từ năm 1997 đã giảm dần tỷ lệ VNNB xuống còn 30 – 45%
tổng trường hợp viêm não do vi rút. Bên cạnh đó vi rút herpes simplex, vi rút



10

đường ruột gây viêm não lại nổi lên, đứng thứ hai sau VNNB. Viêm não do vi
rút herpes simplex và vi rút đường ruột đang đang tăng dần, thu hút sự chú ý
của cộng đồng và ngành y tế vì thường mắc ở trẻ nhỏ và để lại nhiều di chứng
nặng nề cho trẻ.
Cuối thế kỷ XX, ở nước ta, đã có rất nhiều nghiên cứu tập trung vào
VNNB. Đầu thế kỷ XXI, các nghiên cứu đang chuyển dần sang viêm não do
vi rút herpes simplex và vi rút đường ruột.
Viêm não do vi rút herpes simplex là loại viêm não khu trú thường tổn
thương vùng thái dương, thái dương - trán, với tính chất hoại tử, hoặc chảy
máu. Những vùng tổn thương nếu điều trị muộn thường không thể hồi phục.
Viêm não do vi rút đường ruột trong giai đoạn cấp thường tổn thương
lan tỏa nói chung, nhẹ hơn viêm não do vi rút herpes simplex.
Theo Y học cổ truyền (YHCT), viêm não thuộc phạm vi chứng ôn bệnh.
Bệnh chuyển biến theo các giai đoạn: vệ, khí, dinh, huyết và thương âm, thấp
trở ở kinh lạc. Thời kỳ thương âm tương ứng với giai đoạn di chứng của Y
học cổ truyền, nhiệt vào phần huyết kéo dài làm tân dịch bị hao tổn, không
nuôi dưỡng được cân cơ, kinh lạc bế tắc do thấp trở gây các di chứng vận
động, tâm thần.
YHCT phục hồi chức năng vận động thường dùng châm cứu như, hào
châm, nhĩ châm, điện châm, thủy châm, xoa bóp… và đã khẳng định được tác
dụng điều trị đối với di chứng của bệnh. Trong đó hào châm là một phương
pháp kinh điển của châm cứu. Cho đến nay, phương pháp này vẫn đang được
tiếp tục sử dụng ở nhiều cơ sở y tế, nhất là tuyến cơ sở. Trong các phương
pháp châm cứu đây là phương pháp dễ sử dụng, thích hợp với việc phục hồi
di chứng cho trẻ một cách kiên trì và lâu dài.
Hai loại viêm não do vi rút herpes simplex và vi rút đường ruột xảy ra ở
trẻ nhỏ cùng lứa tuổi. Hiện nay các nghiên cứu chủ yếu đánh giá phục hồi di



11

chứng viêm não chung, chưa có nghiên cứu phục hồi di chứng viêm não do
hai loại vi rút này bằng hào châm.
Để tìm hiểu mức độ hồi phục khi hào châm phục hồi chức năng tâm vận động cho trẻ di chứng viêm não do vi rút herpes simplex và vi rút đường
ruột, với mong muốn nâng cao hiệu quả phục hồi chức năng cho các bệnh nhi,
sớm đưa trẻ tái hòa nhập với gia đình và xã hội, đề tài: “Nghiên cứu tác dụng
của hào châm trong phục hồi chức năng tâm - vận động ở bệnh nhi sau
viêm não cấp do vi rút Herpes simplex và vi rút đường ruột” đã được đặt
ra với ba mục tiêu sau:
1. Mô tả một số đặc điểm lâm sàng theo Y học cổ truyền ở các bệnh nhi
sau viêm não cấp do vi rút Herpes simplex và vi rút đường ruột.
2. Đánh giá tác dụng của hào châm trong phục hồi chức năng tâm -vận
động ở bệnh nhi sau viêm não cấp dưới 6 tuổi do vi rút Herpes simplex
và vi rút đường ruột.
3. Nhận xét một số yếu tố ảnh hưởng đến kết quả điều trị.


12

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1. BỆNH VIÊM NÃO THEO Y HỌC CỔ TRUYỀN
1.1. Bệnh danh
Y học cổ truyền không có bệnh danh cho bệnh viêm não. Tuy nhiên khi
đối chiếu so sánh với những mô tả trong y văn kinh điển của Y học cổ truyền,
ta thấy bệnh thuộc phạm vi chứng Ôn bệnh [12],[13,[14],[15].
Ôn bệnh là các bệnh cảm phải ôn tà. Ôn bệnh nằm trong phạm trù của
bệnh có tính chất nhiệt như: Nóng, khát, miệng khô, mồ hôi ra nhiều, họng

đau, tâm phiền, đại tiện táo, xuất huyết, điên cuồng, mê sảng, co giật, mạch
sác [16].
Ôn bệnh có thể gây ra ôn dịch là bệnh hàng loạt người bị do lây nhau,
Chu Dương Tuấn nói: “Một người bị gọi là ôn, một địa phương nhiều người
bị bệnh giống nhau gọi là dịch” [14].
1.2. Nguyên nhân và cơ chế bệnh sinh
Do nhiệt tà xâm nhập từ biểu vào lý, nhiệt cực sinh phong, tân dịch giảm
sinh đàm nên xuất hiện các chứng sốt cao, co giật, mê sảng. Đàm làm tắc các
khiếu gây hôn mê, chứng nội bế ngoại thoát (trụy tim mạch, co mạch ngoại biên).
Tùy theo bệnh phát vào mùa nào mà có tên gọi khác nhau, như mùa
xuân: Xuân ôn, Phong ôn; mùa hạ: Thử ôn; mùa thu: Thu táo; mùa đông:
Đông ôn.
Bệnh chuyển biến qua các giai đoạn: vệ (khởi phát), khí (toàn phát chưa
có biến chứng), dinh, huyết (toàn phát có biến chứng mất nước, rối loạn điện
giải, nhiễm độc thần kinh, rối loạn thành mạch), thương âm thấp trở ở kinh
lạc (hồi phục và di chứng thần kinh, tâm trí).


13

Nếu nhiệt vào đến phần huyết, rối loạn tuần hành khí huyết, ảnh hưởng
đến dinh dưỡng của cân cơ và các khiếu sẽ để lại di chứng liệt tứ chi, câm,
điếc, thần trí bất minh [18],[19],[20],[21].
1.3. Các thể lâm sàng
1.3.1. Ôn tà vào phần vệ
− Triệu chứng:
+ Sốt, sợ gió, nhức đầu, hơi khát, ho.
+ Đầu lưỡi đỏ, rêu mỏng.
+ Mạch phù sác.
− Pháp điều trị: thanh nhiệt, giải biểu.

1.3.2. Ôn tà vào phần khí
− Triệu chứng:
+ Sốt cao, ra mồ hôi nhiều, nhức đầu, choáng váng, gáy cứng, buồn nôn,
nôn.
+ Mặt đỏ, tâm phiền, đại tiện bí kết.
+ Mặt bẩn, răng khô, miệng khát, thích uống nước mát.
+ Mạch hồng đại.
− Pháp điều trị: thanh nhiệt tả hỏa.
1.3.3. Ôn tà vào phần dinh
− Triệu chứng:
+ Sốt cao gây co giật, mê sảng, hôn mê.
+ Mặt đỏ, khát, thích uống nước lạnh, uống vào vẫn không hết khát.
+ Tiểu tiện ngắn đỏ, đại tiện bí.
+ Rêu lưỡi vàng khô, mạch hồng hoạt sác.
− Pháp điều trị: thanh thiệt tả hỏa, khai khiếu tỉnh thần, bình can tức phong,
lưu thông kinh mạch.

1.3.4. Ôn tà vào phần huyết
− Triệu chứng:
+ Sốt cao, co giật, hôn mê.


14
+ Chân tay co cứng.
+ Chảy máu: chảy máu cam, nôn ra máu, đại tiện ra máu, ban chẩn
chảy máu dưới da.
+ Đại tiểu tiện không tự chủ.
+ Chất lưỡi đỏ tím, mạch tế sác.
− Pháp điều trị: thanh nhiệt tả hỏa, dưỡng âm, lương huyết chỉ huyết.
1.4. Thời kỳ thương âm và di chứng:

− Nhiệt vào phần huyết kéo dài làm tân dịch bị hao tổn, không nuôi dưỡng được
cân cơ, kinh lạc bế tắc, các khiếu không thông gây liệt tứ chi, suy giảm trí tuệ.
− Ở giai đoạn này bệnh diễn biến rất phức tạp, tùy từng thời kỳ bệnh nhi sẽ
có những biểu hiện lâm sàng khác nhau như sau:
+ Thiên về âm hư (thiên về hư chứng): trẻ đêm nóng sáng mát, da thịt
gầy róc, miệng họng khô, hết sốt hoặc chỉ còn sốt nhẹ mà không có mồ hôi,
lòng bàn tay bàn chân nóng và đỏ, tinh thần mờ tối , nằm yên ít cử động. Đại
tiện táo, nước tiểu vàng. Miệng họng khô, môi lưỡi đỏ,, ít rêu không rêu,
mạch tế sác. Pháp điều trị: dưỡng âm thanh nhiệt.
+ Nếu âm huyết hư sinh phong (thiên về thực chứng): trẻ thêm chân tay co
cứng, co vặn, co giật. Tương đương với bệnh nhi giai đoạn bán cấp, có các rối
loạn vận động, như các cơn tăng trương lực cơ, xoắn vặn, lệch trục chi hoặc cơ
thể, múa vờn múa giật hoặc động kinh [18],[19],[20],[21].
Nếu âm hư hỏa vượng trẻ thêm mặt mắt đỏ, miệng môi khô đỏ, quấy
khóc la hét, vật vã, mất ngủ nặng có thể đập phá, đánh những người xung
quanh. Tương đương với bệnh nhi giai đoạn bán cấp có loạn thần do rối
loạn tâm chí.
Pháp điều trị: tư âm dưỡng huyết, chỉ kinh phong.


15

+ Thiên về khí huyết hư (còn gọi là thể khí âm lưỡng hư, thiên về hư chứng):
đần độn, không nói, chân tay co cứng hoặc liệt, sắc mặt trắng nhợt, lưỡi nhợt,
mạch tế sáp. Pháp điều trị: bổ khí dưỡng huyết.
Các pháp điều trị trên là để chữa vào gốc bệnh. Ngoài ra, tùy theo các
triệu chứng kèm theo mà dùng thêm các pháp điều tri như trừ đàm thông lạc,
khai khiếu tỉnh thần.
1.5. Điều trị viêm não sau giai đoạn cấp bằng Y học cổ truyền:
Viêm não là bệnh thuộc về ôn bệnh, do ôn nhiệt tà xâm nhập vào cơ thể

thành bệnh. Mặc dù sau giai đoạn cấp tà nhiệt đã được đẩy lui, nhưng tân dịch
bị tổn thương nặng, thủy hỏa bất điều, khí huyết suy giảm, cân mạch suy tổn,
kinh lạc bế tắc, thanh khiếu chưa khai thông được, để lại nhiều di chứng ôn
bệnh. Vì vậy, pháp điều trị tùy theo gốc bệnh sẽ phải tư âm thanh nhiệt, dưỡng
huyết chỉ kinh phong, hay bổ khí dưỡng huyết, kết hợp với điều trị triệu
chứng bằng pháp khai khiếu tỉnh thần, trừ đàm thông kinh lạc.
1.5.1. Các phương pháp không dùng thuốc ch©m cøu


Châm cứu:
Là một trong những phương pháp điều trị bệnh có nhiều hiệu quả. Theo

lý luận y học Đông phương, cơ thể phát sinh bệnh tật là do sự mất thăng bằng
âm dương, châm cứu có tác dụng cơ bản là điều khí, khí hòa thì huyết hòa,
cân bằng âm dương. Châm cứu là tác động vào huyệt để điều khí, điều chỉnh
các rối loạn chức năng của kinh mạch, tạng phủ. [22],[23],[24].
Kinh lạc là nơi khí huyết vận hành để nuôi dưỡng và làm cho cơ thể
khỏe mạnh và chống lại các tác nhân gây bệnh. Mỗi đường kinh mang tính
chất và hoạt động tuỳ theo công năng của các tạng phủ mà nó mang tên; bệnh
lý của tạng phủ được phản ánh sự thay đổi bệnh lý trên các đường kinh mang
tên tạng phủ đó, hoặc trên các đường kinh có liên quan biểu lý với nó. Châm
cứu còn đề cập đến phản ứng tại chỗ đó là phương pháp điều trị A thị huyệt.


16

Khi châm cứu phải đạt được cảm giác đắc khí, châm bổ hoặc tả tuỳ
theo bệnh lý hư thực. Phải vận dụng thích hợp châm hay cứu: hàn thì cứu, hư thì
bổ, thực thì tả.
Nguyên tắc chọn huyệt là "kinh mạch sở quá, chủ trị sở cập "nghĩa là

kinh lạc đi qua vùng nào thì chữa bệnh vùng đó và "tuân kinh thủ huyệt"
nghĩa là chọn huyệt trên đường kinh đi qua nơi bị bệnh.
Châm cứu thông qua huyệt vị để điều chỉnh biến hoá bệnh lý. Khi châm
cứu phải chọn đường kinh cho chính xác, chọn đường kinh vô cùng quan
trọng, sau đó sẽ lấy huyệt, người xưa nhấn mạnh: “Ninh thất kỳ huyệt, vô thất
kỳ kinh” nghĩa là thà mất huyệt, không mất kinh.
Châm cứu là tác động vào huyệt để điều chỉnh các rối loạn chức năng của
kinh mạch. Khí thúc đẩy vận hành của huyết, huyết là mẹ của khí, chở khí đi,
khi khí hư thì huyết không vận hành tốt, do đó nó sẽ ứ trệ không lưu hành nữa,
châm cứu là tác động vào huyệt để điều khí dẫn huyết tới nơi bị bệnh.
Mục đích của châm cứu là điều khí và giảm đau làm cho khí huyết lưu
thông, đưa sự mất cân bằng âm dương của cơ thể trở lại trạng thái thăng bằng.
Sau khi đã châm đắc khí (đúng huyệt) thì phải tiếp tục kích thích nhằm đạt
mục đích bổ đối với chứng hư và tả đối với chứng thực.
Với trạng thái hư nhược thì cần phải bổ, tức là dùng thủ pháp bổ để nâng
dần khí lên. Với trạng thái thực (thịnh) thì phải dùng thủ pháp tả để giảm khí ở
phần quá thịnh xuống. Có nhiều thủ pháp bổ tả, nhưng thường dùng trên lâm
sàng là: tả là châm theo hướng ngược chiều với đường kinh và bổ là châm cùng
chiều với đường kinh; châm tả thì châm kim hướng theo chiều ngược đường
kinh và vê kim ngược chiều kim đồng hồ; châm bổ thì châm kim hướng xuống
xuôi theo đường kinh và vê kim cùng chiều với kim đồng hồ. Thường dùng tay
để vê kim nhằm mục đích thực hiện thủ pháp bổ hoặc tả.
Trong di chứng viêm não thường dùng châm để PHCN như sau:


17

* Pháp điều trị: dưỡng âm, thanh dư nhiệt, khai khiếu, tỉnh thần, trừ
đàm thông kinh lạc.
Các phương pháp châm thường sử dụng:

Các phương pháp kinh điển: Hào châm, nhĩ châm, mai hoa châm.
Tân châm: Điện châm , trường châm, thủy châm, cấy chỉ…
* Huyệt điều trị:
+ Tả: Bách hội, Đại chùy, Khúc trì, Thủ tam lý, Hợp cốc, Dương lăng
tuyền, Phong thị, Hoàn khiêu, Thừa sơn, Ngoại quan.
+ Bổ: Hội âm, Tam am giao, Túc tam lý.
Sử dụng các huyệt khu phong, thanh nhiệt, khai khiếu, khai thông kinh lạc…
- Khu phong: Phong trì, Phong môn, Hợp cốc.
- Thanh nhiệt: Đại chùy, Khúc trì, Hợp cốc.
- Khai khiếu, tỉnh thần: Bách hội, Á môn, Thượng liêm tuyền.
- Khai thông kinh lạc:
+ Vận động cổ: Phong trì, Đại chùy, Giáp tích C3 - C6, Á môn.
+ Vận động tay: Giáp tích C3 - C6, Kiên ngung, Khúc trì, Thủ tam lý,
Hợp cốc, Lao cung, Bát tà.
+ Vận động lưng: Mệnh môn, Giáp tích L5 - S3, Thận du, Đại trường du.
+ Vận động chân: Giáp tích L2 - S3, Trật biên, Hoàn khiêu, Ủy trung,
Thừa sơn, Côn lôn, Dương lăng tuyền, Giải khê.
- Bổ khí: Khí hải ,Túc tam lý, Quan nguyên.
- Bổ huyết: Cách du, Can du, Tam âm giao, Huyết hải, Thái xung.
- Liệu trình: hào châm 1 lần/ngày, vào buổi sáng. Mỗi liệu trình: châm
5 ngày/tuần, nghỉ hai ngày.
- Chống chỉ định: tạm thời ngừng châm khi bệnh nhi sốt do nhiễm trùng
cơ hội như viêm phế quản, viêm phổi, viêm đường tiết niệu...


18

-

- Thủ pháp châm: có hai cách:

Châm bổ: thỉnh thoảng vê kim bằng tay cùng chiều kim đồng hồ, lưu kim

20-30 phút.
Châm bình bổ bình tả: Tiến kim chậm, vê kim nhẹ nhàng, khi rút kim đến
sát ngoài da nghỉ 1 chút rồi rút kim nhanh, lưu kim 15- 20 phút.
Điện châm
- Hiện nay thường dùng dòng xung điện với tần số và cường độ thích
hợp để điều hòa sự vận hành của khí huyết từ đó ảnh hưởng tới sự hoạt động
của các cân cơ, dây thần kinh, các tổ chức...
- Dòng điện được kích thích vào những chỗ gọi là “Huyệt”, là nơi kinh khí đi
qua, nơi có mối quan hệ chặt chẽ với tạng phủ và toàn cơ thể để điều trị
bệnh.
- Khi bị dòng điện xung tác động, phản ứng đầu tiên của cơ thể là sự hưng phấn
các cơ quan cảm thụ da, cơ và các tổ chức dòng điện đi qua. Sự hưng phấn
này là điểm xuất phát của nhiều phản xạ như giãn mạch, tăng tuần hoàn, dinh
dưỡng, chuyển hóa.
- Sự thay đổi đột ngột cường độ các xung điện của từng đợt xung sẽ dẫn đến
các cơ co rút không theo ý muốn tùy nhịp độ co rút từng cái hoặc co rút liên
tục. Kèm theo sự co rút cơ là sự tăng cường các phản ứng oxy hóa khử của
cơ, sự tiêu hao các chất glycogen, v.v.
- Đối với các cơ quan thần kinh, sau sự hưng phấn ban đầu, nếu tác dụng
dòng điện kéo dài, cơ thể sẽ phản ứng bằng hiện tượng giảm hưng phấn, thậm
chí đi đến ức chế dẫn truyền xung động từ ngoại vi vào trung ương, làm da
mất cảm giác v.v.
+ Các dòng điện xung nói chung đều có tác dụng tổng hợp sau:
+ Tăng cường cảm giác.
+ Tăng cường tuần hoàn tại chỗ (do kích thích mạch máu trực tiếp và do
co cơ gián tiếp).



19

+ Giảm đau (do tác dụng ức chế thần kinh giao cảm tại chỗ, do tác dụng
ức chế trung tâm cảm giác, do giảm phù nề, chèn ép, hoặc giảm các chất
chuyển hóa có hại tại tại chỗ).
+ Giảm phù nề, giảm thẩm xuất tại chỗ các dịch tràn ra.
+ Tăng cường trương lực (nếu cơ bị bại liệt), giảm co thắt.
+ Giảm viêm.
 Thủy châm
Có thể sử dụng vitamin nhóm B thủy châm vào các huyệt.
Thời gian điện châm kéo dài 30 phút/lần. Mỗi đợt điều trị kéo dài từ 2030 ngày, sau đó bệnh nhi được nghỉ ngơi 2- 4 tuần và quay lại điều trị cho đến
khi khỏi bệnh.
 Mãng châm
Là phương pháp dùng kim to và kim dài châm xuyên nhiều huyệt trên
một đường kinh hoặc nhiều đường kinh nhằm điều khí nhanh hơn, mạnh hơn
để điều trị các chứng bệnh khó như chứng đau, châm tê trong phẫu thuật và
điều trị các chứng liệt.
Như vậy mãng châm chính là sự tận dụng trường châm và đại châm
nhằm mục đích “điều khí” như các hình thức châm khác. Những đặc điểm là
“điều khí trên huyệt đạo” nghĩa là dùng kim to và dài châm cùng một lúc trên
nhiều huyệt của một kinh lạc hoặc hai ba kinh lạc. Do đó mục đích bổ tả
mạnh hơn, tả ở nơi trệ khí, bổ ở nơi khí thiểu như vậy nhanh chóng tiêu trừ
được bệnh tà, lấy lại trạng thái cân bằng âm dương, bệnh nhanh khỏi.
 Kỹ thuật mãng châm:
Châm kim dài, to, châm xuyên huyệt ta cần phải chọn kim thích hợp
theo chiều dài các huyệt đạo và tùy theo độ nông sâu của huyệt. Khi châm
kim vào huyệt ta phải qua da nhanh để tránh đau cho bệnh nhi.
Sau khi châm xong huyệt thứ nhất “đắc khí” thì kích thích nhằm “dẫn
khí, từ từ đẩy kim đến huyệt thứ hai “đắc khí” có thể sau tiếp đến huyệt thứ
ba…trên cùng một đường kinh hoặc hai đường kinh khác nhau.



20

 Cấy chỉ (chôn chỉ)
Cấy chỉ vào huyệt là một phương pháp chữa bệnh, phục hồi chức năng
rất độc đáo, kết hợp giữa đông và tây y, trên nền tảng châm cứu của đông y.
Phương pháp này dùng dụng cụ đưa chỉ catgut (có khả năng tự tiêu sau một
thời gian nhất định) vào huyệt vị, sự tồn lưu của chỉ tại huyệt trong thời gian
đó đã phát huy vai trò kích thích huyệt đạo nhằm tạo được sự cân bằng âm
dương, điều chỉnh chức năng tạng phủ, hành khí hoạt huyết, khai uất trệ, giảm
đau…Ngoài ra, cấy chỉ catgut có tác dụng tăng cường đồng hóa, giảm dị hóa,
kèm theo tăng cao protein và hydratcarbon ở cơ, giảm nồng độ acid lactic cũng
như giảm sự phân giải acid ở cơ. Vì vậy, cấy chỉ catgut góp phần tăng chuyển
hóa và dinh dưỡng ở cơ, làm tăng sinh lưới mao mạch, lưu thông máu trong lòng
mạch ở các chi, kích thích miễn dịch, tăng sức đề kháng của cơ thể.
Một trong những ưu điểm của phương pháp cấy chỉ vào huyệt làm tăng
hiệu quả trong điều trị và phục hồi chức năng là một lần cấy chỉ 10 - 20 phút,
khoảng cách giữa 2 lần 10 - 20 ngày, người bệnh không cần nằm viện và có
thể điều trị nhiều bệnh cùng lúc. Bên cạnh đó, phương pháp này hầu như
không gây phản ứng phụ do không dùng thuốc.
Điều đáng mừng là hiện nay kỹ thuật châm cứu để điều trị các bệnh về
não đã được triển khai đến tuyến cơ sở. Bệnh nhi dưới 6 tuổi được miễn phí
hoàn toàn.
Ngoài điện châm, thủy châm các cháu nhỏ còn được xoa bóp các huyệt
trên để tăng tác dụng điều trị.
 Xoa bóp bấm huyệt
Dùng hỗ trợ thêm cho việc PHCN vận động bằng châm cứu.
Người thầy thuốc dùng bàn tay, ngón tay tác động lên huyệt, da, cơ, gân,
khớp của người bệnh. Xoa bóp cổ truyền thông qua tác động vào huyệt và

kinh lạc có thể đuổi được ngoại tà, điều hòa được dinh vệ, thông được kinh
lạc, điều hòa được chức năng tạng phủ mà chữa khỏi được bệnh tật.


21

Xoa bóp bấm huyệt cần dùng các động tác nhẹ nhàng phù hợp với thể
trạng suy kiệt ở trẻ mắc bệnh (xoa, xát, day, bóp,…) mục đích làm mềm cơ.
Sau đó tiến hành vận động các đoạn chi theo nguyên tắc từ từ, tăng dần, vừa
sức chịu đựng của trẻ và trong tầm vận động của khớp.
Xoa bóp bấm huyệt mỗi ngày từ 2-3 lần. Chú trọng các động tác ở huyệt
vùng đầu mặt cổ và cột sống, bàn tay, bàn chân. Xoa bóp bấm huyệt cũng ở tư
thế nằm sấp và nằm ngửa. Xoa bóp cục bộ rồi đến toàn thân. Chú ý bấm huyệt
tùy sức chịu đựng của bệnh nhi. Tùy từng bệnh mà xoa bóp theo hướng bổ hay
tả. Nếu bệnh nhân thể lực còn khỏe, bệnh mới (thể thực) thì xoa bóp tả (xoa bóp
ngược chiều kim đồng hồ, ngược đường kinh) nhiều hơn. Còn bổ xoa bóp cho
những trường hợp yếu, nằm lâu ngày (thể hư) [20],[21],[22], [23],[24].
Bố mẹ các cháu có thể áp dụng để xoa bóp cho các cháu tại gia đình
(sau khi được các thầy thuốc hướng dẫn).
1.5.2. Phương pháp dùng thuốc
Thường sử dụng các vị có tác dụng tư âm dưỡng huyết (Sinh địa,
Thục địa, Đương quy, Bạch thược, Mạch môn,…), bổ khí dưỡng huyết
(Hoàng kỳ, Đại táo, Đảng sâm,…), trừ đàm, khai khiếu tỉnh thần (Thạch
xương bồ, Viễn trí, Uất kim,…), tư âm thanh nhiệt (Tri mẫu, Hoàng bá,...).
Trong đó, các vị thuốc tư âm dưỡng huyết, bổ khí dưỡng huyết là những vị
thuốc chính [20],[22], [23],[24].

1.6. Một số nghiên cứu điều trị viêm não bằng Y học cổ truyền.
1.6.1. Nghiên cứu nước ngoài
Hà Triệu Kỳ tổng kết kinh nghiệm của các thầy thuốc Trung Quốc từ

thập kỷ 60 đến 1994 có một số nghiệm phương và phương pháp châm cứu
hiệu quả rất tốt điều trị di chứng viêm não theo (Đặng Minh Hằng [29])


22

Về thuốc thường dung bài Tỉnh não thang, Trị mạn kinh thang với các vị
khai khiếu tỉnh thần như Xương bồ, Uất kim…, chỉ kinh phong như Địa long,
Toàn yết…để chữa trẻ em di chứng viêm não đần độn, không nói, người gầy
yếu, liệt nửa người, hoặc tứ chi, thỉnh thoảng lên cơn co giật hoặc co cứng.
Về châm sử dụng 14 huyệt điều trị rối loạn vận động và các huyệt sau:
- Thần trí không tỉnh, co rút, chân rãy rụa: Đại chùy (GV.14), Á môn
(GV.15), Nhân trung (GV.26), Hợp cốc (LI.4), Túc tam lý (ST.36).
- Tay co quắp: Kiên ngung (LI.15), khúc trì (LI.1), Thiếu hải (HT.3), Hợp
cốc (LI.4), Thượng quan (GB.3).
- Chân co quắp: Hoàn khiêu (GB.30), Dương lăng tuyền (GB.34), Âm lăng
tuyền (SP.9), Tam âm giao (SP.6).
- Mất tiếng: Đại chùy (GV.14), Á môn (GV.15)
- Nuốt khó: Liêm tuyền (CV.23), Giáp xa (ST.6)
- Liệt mặt: Ế phong (TE.17), Địa thương (ST.4), Giáp xa (ST.6), Hợp cốc (LI.4).
- Co cứng: Đại chùy (GV.14), Túc tam lý (ST.36), Dương lăng tuyền
(GB.34), Giản sử (PC.5), Hợp cốc (LI.4).
Trong những năm gần đây Trung Quốc đã có nhiều công trình nghiên cứu
điều trị di chứng viêm não.
Trương Hiểu Luy và cộng sự (2001) đã tiến hành đánh giá tác dụng phục
hồi di chứng sau VNNB ở 41 bệnh nhi tại tỉnh Hồ Bắc Trung Quốc. 19 trường
hợp được điều trị bằng thể châm, đầu châm kết hợp xoa bóp với các huyệt
kiện não, tỉnh thần, ích trí. Các bệnh nhi còn lại điều trị PHCN kết hợp với
châm cứu và luyện tập tại nhà nhằm cải thiện chức năng vận động và ngôn
ngữ. Sau điều trị nhóm kết hợp tập PHCN cải thiện về vận động tốt hơn, thời

gian hồi phục rút ngắn hơn so với nhóm điều trị bằng Trung y đơn thuần [30].
Lý Trung Thành (2007) dùng bài Thanh nhiệt lương huyết giải độc thang
kết hợp YHHĐ, điều trị cho 86 trường hợp viêm não thấy có hiệu quả tốt 86


23

trường hợp 100%, so với nhóm điều trị đơn thuần bằng YHHĐ cho 89 bệnh
nhân có hiệu quả là 74 trường hợp (83%) [31].
Lý Lệ Hoa, Tống Lê Vĩ (2008) dùng bài Thanh khai linh kết hợp
YHHĐ điều trị cho 41 trường hợp viêm não thấy có hiệu quả tốt là 37
trường hợp (90%) [32].
Châu Hải Lan, Lý Hóa Đông (2011) nghiên cứu 90 trường hợp bị viêm
não, trong đó 60 trường hợp kết hợp với Trung y chia làm hai nhóm, nhóm
1 dùng bài Tỉnh não thang điều trị 30 trường hợp, nhóm 2 dùng An cung
ngưu hoàng hoàn điều trị 30 trường hợp, còn 30 trường hợp xếp vào nhóm
3 dùng đơn thuần YHHĐ. Kết quả điều trị cho thấy ở nhóm 1 và 2 đạt kết
quả tốt 100%, ở nhóm 3 đạt kết quả tốt ít hơn (83%) [33].
Trong nghiên cứu nhằm đánh giá hiệu quả kết hợp Trung y và YHHĐ
điều trị di chứng viêm não virút của tác giả Trương Thúy Hoa (2013), hai
nhóm đối tượng đều được điều trị nền với các thuốc YHHĐ kháng vi rút và
các thuốc điều trị triệu chứng. Nhóm nghiên cứu gồm 80 bệnh nhi được
dùng thêm Thanh não thang sắc uống hàng ngày, kết hợp đầu châm và thể
châm. Nhóm chỉ dùng YHHĐ đơn thuần gồm 90 bệnh nhi. Kết quả thu
được: Nhóm có kết hợp Trung y có tỷ lệ khỏi là 93,7%, nhóm chỉ dùng
YHHĐ đơn thuần thì tỷ lệ khỏi thấp hơn 77,7% [34].
Tại Bệnh viện Đại học Bắc Hoa (Cát Lâm, Trung Quốc). Hồ Lâm Xuân
và cộng sự (2013) theo dõi hiệu quả phối hợp YHHĐ và Trung y (đầu châm)
trong điều trị di chứng viêm não vi rút cho 80 bệnh nhi từ tháng 1/2010 đến
tháng 5/2012. Sau điều trị nhóm kết hợp hiệu quả đạt 90%. Trong khi sử dụng

YHHĐ đơn thuần hiệu quả chỉ đạt 77,5%. Như vậy, phương pháp kết hợp
YHHĐ và Trung y có hiệu quả rõ rệt trong điều trị di chứng viêm não virút ở
trẻ em [35].


24

Các nghiên cứu này đều cho thấy điều trị viêm não và di chứng viêm não
bằng kết hợp YHHĐ với Trung y cho hiệu quả tốt hơn so với sử dụng YHHĐ
đơn thuần.
1.6.2. Nghiên cứu ở Việt Nam.
Châm cứu là một trong những phương pháp chữa bệnh không dùng
thuốc đã sử dụng lâu đời .
Đã có nhiều công trình phục hồi chức năng cho các bệnh nhi di chứng
viêm não, chủ yếu tập trung vào phục hồi vận động bằng châm cứu. Các phương
pháp đã sử dụng như hào châm, gõ kim hoa mai châm, nhĩ châm, điện châm..đã
khẳng định được tác dụng điều trị của châm cứu mang lại kết quả tốt [22,[24].
Năm 1993, Hoàng Bảo Châu, Trịnh Thị Nhã và cộng sự đã báo cáo đề
tài “ Nghiên cứu hồi cứu 70 bệnh án điều trị bệnh VNNB” bằng hào châm cho
thấy tỷ lệ tốt 26%, khá là 60% [36].
Năm 1994 – 1996, nguyễn Tài Thu và cộng sự tiến hành đề tài cấp Bộ:
“Tân châm phục hồi di chứng vận động sau viêm não”, cho kết quả khỏi, đỡ
cao. Tháng 11 năm 1997, Nguyễn Tài Thu tiếp tục tiến hành đề tài cấp nhà
nước “Điện châm phục hồi vận động cho 120 bệnh nhân di chứng viêm não”
với tỷ lệ khỏi và đỡ nhiều chiếm 82,5%, bệnh nhân đỡ ít 17,5% [37].
Nguyễn Tài Thu, Phạm Văn Giao và cộng sự (1996). Khoa Nhi Viện
Châm cứu, điện châm phục hồi vận động cho 125 trẻ di chứng viêm não Nhật
Bản bị bệnh dưới 1 năm [37]. Kết quả thấy số khỏi của rối loạn vận động cơ cổ
là 45/128 trẻ, cơ lưng là 21/58 trẻ, tứ chi là 50/156 trẻ, còn lại đa số đều đỡ [23].
Năm 1999, Nguyễn Viết Thái, Bệnh viện Châm cứu Trung ương,

điện châm phục hồi vận động cho 104 trẻ em VNNB sau giai đoạn cấp, có
so sánh với nhóm đối chứng được phục hồi bằng vật lý trị liệu, thấy kết quả
tốt hơn hẳn [24].


25

Nguyễn Thị Tú Anh (2001). Bệnh viện Châm cứu Trung ương nghiên
cứu, dùng điện châm phục hồi chức năng vận động cho 116 trẻ VNNB sau
giai đoạn cấp cho kết quả tốt. Tỷ lệ khỏi bệnh là 39%, trẻ còn di chứng nhẹ
là 45%, di chứng vừa 14% và không còn trẻ nào di chứng nặng. Bệnh nhi
được điều trị càng sớm thì khả năng phục hồi càng nhanh và bệnh nhi ở
nhóm tuổi nhỏ phục hồi tốt hơn ở nhóm tuổi lớn. Tỷ lệ thành công đạt tới
90% nếu điều trị sớm [38]. Huyệt điều trị:
Ở chi trên:
Châm tả: Kiên ngung (LI.15), xuyên Tý nhu (LI.14), khúc trì (LI.11)
xuyên Thủ tam lý (LI.10), Hợp cốc (LI.4) xuyên Lao cung (PC.8), Bát tà
(EX), Kiên trinh (SI.9), Kiên tỉnh (GB21), Giáp tích C3 - C7 (EX), Đại
chùy (GV.14), Phong phủ (GV.16).
Châm bổ: Ngoại quan (TE.5) xuyên Chi câu (TE6), Tam âm giao
(SP.6) xuyên Trung đô (LR.6).
Ở chi dưới:
Châm tả: Giải khê (ST.41), Côn lôn (BL.60), Trật biên (BL.54)
xuyên Hoàn khiêu (GB.30), Thứ liêu (BL.32), Ân môn (BL.37), Ủy trung
(BL.40), Thừa sơn (BL.57), Giáp tích L2 - L5 (EX).
Châm bổ Túc tam lý (ST.36) xuyên Thượng cự hư (ST.37) , Huyết
hải (SP.10), Tam âm giao (SP.6), Thái xung (LR), Âm lăng tuyền (SP.9),
Trung đô (LR.6), Âm cốc (LR.10).
Ở mặt: Toản trúc (BL.2) xuyên Tình minh (BL.1), Dương bạch
(GB.14) xuyên Ngư yêu, Thái dương (EX) xuyên Đồng tử liêu (GB.1),

Quyền liêu (SI.18), Địa thương (ST.4), Ế phong (TE.17), Giáp xa (ST.6).
Đặng Minh Hằng (2003). Trường Đại học Y Hà Nội, nghiên cứu phối
hợp hào châm và xoa bóp bấm huyệt cổ truyền PHCN vận động cho 60 bệnh
nhi di chứng VNNB cho kết quả 12,5% khỏi liệt hoàn toàn, chỉ còn 21,8% trẻ
liệt độ III – V. Từ tháng 6 năm 1997 đến tháng 10 năm 2001, Đặng Minh


×