Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Pháp luật tương trợ tư pháp về dân sự Việt Nam trong giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.8 KB, 19 trang )

MỤC LỤC

1


A. PHẦN MỞ ĐẦU
Theo Luật Quốc tế, nghĩa vụ hợp tác giữa các quốc gia là một trong bảy
nguyên tắc cơ bản và hoạt động tương trợ tư pháp là một biểu hiện cho nghĩa vụ
hợp tác này. Trong bối cảnh hội nhập toàn cầu như hiện nay, các mối quan hệ
giữa pháp nhân, công dân của các nước với nhau xuất hiện ngày càng phổ biến
trong đời sống quốc tế, kéo theo sự gia tăng các tranh chấp về dân sự, kinh
doanh thương mại có yếu tố nước ngoài, … đòi hỏi phải được giải quyết kịp
thời. Vấn đề này được đặt ra yêu cầu hoạt động tương trợ tư pháp trong lĩnh vực
dân sự phải dần được hoàn thiện, đáp ứng việc giải quyết các vụ việc dân sự có
yếu tố nước ngoài. Trên cơ sở đó, đề tài: “Pháp luật tương trợ tư pháp về dân
sự Việt Nam trong giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài” sẽ đi sâu
vào phân tích các hoạt động tương trợ tư pháp cần thiết trong việc giải quyết
một vụ việc có yếu tố nước ngoài, đồng thời chỉ ra một số vấn đề bất cập hiện
nay và kiến nghị hoàn thiện.

B. PHẦN NỘI DUNG
I. Các vấn đề lý luận
Tương trợ tư pháp nói chung và trong dân sự nói riêng có thể coi là một
trong những nội dung quan trọng của nghĩa vụ hợp tác giữa các quốc gia thành
viên Liên hợp quốc. Mặc dù vấn đề tương trợ tư pháp giữa các quốc gia đã xuất
hiện từ lâu trong lịch sử và ngày càng phát triển trong xu thể hội nhập, hợp tác
quốc tế hiện nay. Nhưng thực tế về mặt pháp lý quốc tế vẫn không có một khái
niệm thống nhất về tương trợ tư pháp nói chung hay cụ thể về tương trợ tư pháp
về dân sự cũng như phạm vi hoạt động tương trợ tư pháp về dân sự.
Từ thực tiễn nghiên cứu lý luận của các nước cũng như pháp luật Việt Nam,
có thể hiểu, tương trợ tư pháp về dân sự là việc cơ quan nhà nước có thẩm


quyền của các nước trợ giúp lẫn nhau thực hiện các hành vi tố tụng riêng biệt
theo những trình tự, thủ tục, thể thực nhất định trên cơ sở Điều ước quốc tế giữa

2


các nước hữu quan hoặc trên cơ sở nguyên tắc có đi có lại, nhằm giải quyết các
vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài.1
Theo khái niệm nêu trên, việc thực hiện các hoạt động tương trợ tư pháp về
dân sự nhằm mục đích giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài. Vậy
vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài được hiểu như thế nào? Pháp luật tố tụng
dân sự không nêu định nghĩa “Vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài” mà chỉ liệt
kê các trường hợp một vụ việc dân sự được xem là có yếu tố nước ngoài (Theo
Khoản 2 Điều 464 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015), bao gồm:
a) Có ít nhất một trong các bên tham gia là cá nhân, cơ quan, tổ chức nước
ngoài;
b) Các bên tham gia đều là công dân, cơ quan, tổ chức Việt Nam nhưng việc
xác lập, thay đổi, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ đó xảy ra tại nước ngoài;
c) Các bên tham gia đều là công dân, cơ quan, tổ chức Việt Nam nhưng đối
tượng của quan hệ dân sự đó ở nước ngoài.
Bộ luật tố tụng dân sự 2004 dành hẳn chương 36 - Tương trợ tư pháp trong
tố tụng dân sự gồm các Điều từ 414 đến 418 quy định về nguyên tắc, trình tự thủ
tục trong hoạt động ủy thác tư pháp. Tuy nhiên đến Bộ luật Tố tụng dân sự 2015,
cùng với sự ra đời của Luật tương trợ tư pháp 2007, đã bỏ chương này và dẫn
chiếu “Các hoạt động tương trợ tư pháp trong tố tụng dân sự được thực hiện
theo quy định của pháp luật về tương trợ tư pháp.” (Khoản 3 Điều 464 Bộ luật
tố tụng dân sự 2015)
Theo đó, có thể hiểu, trong giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài,
cần thực hiện các hoạt động tương trợ tư pháp về dân sự, hay ủy thác tư pháp (là
yêu cầu bằng văn bản của cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam hoặc cơ quan

có thẩm quyền của nước ngoài về việc thực hiện một hoặc một số hoạt động
tương trợ tư pháp theo quy định của pháp luật nước có liên quan hoặc điều ước
1 Xem Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, giáo trình Luật Tương trợ tư pháp, Nxb. Chính trị Quốc gia sự
thật, Hà Nội, 2016, tr.61

3


quốc tế mà Việt Nam là thành viên – Khoản 1 Điều 6 Luật Tương trợ tư pháp
2007). Đồng thời, theo quy định tại Điều 13 Luật Tương trợ tư pháp năm 2007,
thì Tòa án, cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam trong quá trình giải quyết các
vụ việc dân sự có thể yêu cầu cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài thực hiện
tương trợ tư pháp trong các trường hợp sau đây: Tống đạt giấy tờ, hồ sơ, tài liệu
cho người đang ở nước được yêu cầu; Triệu tập người làm chứng, người giám
định ở nước được yêu cầu; Thu thập, cung cấp chứng cứ ở nước được yêu cầu
để giải quyết vụ việc dân sự tại Việt Nam; Các trường hợp khác theo quy định
của pháp luật Việt Nam.
Tuy nhiên, cần phải hiểu rằng, không phải mọi “vụ việc dân sự có yếu tố
nước ngoài” Tòa án đều phải tiến hành ủy thác tư pháp và ngược lại, nhiều vụ
việc dân sự khi Tòa án tiến hành thụ lý, giải quyết thì không phải là “vụ việc dân
sự có yếu tố nước ngoài” và không phải tiến hành ủy thác tư pháp nhưng sau đó
một hoặc nhiều đương sự ra nước ngoài công tác, học tập, lao động dẫn đến Tòa
án phải tiến hành ủy thác tư pháp. Do vậy, trong quá trình giải quyết vụ việc dân
sự nói chung cũng như đối với các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài nói
riêng, cần căn cứ vào từng trường hợp cụ thể, từ đó xác định có phải tiến hành
các hoạt động tương trợ tư pháp hay không, để giải quyết nhanh chóng, chính
xác vụ việc dân sự.
II. Hoạt động tương trợ tư pháp trong giải quyết vụ việc dân sự có yếu
tố nước ngoài.
Về quy trình, thủ tục, hoạt động ủy thác tư pháp về dân sự từ Việt Nam ra

nước ngoài theo thông tư liên tịch số 12/2016 /TTLT-BTP-BNG-TANDTC được
thực hiện như sau:
(i). TAND tỉnh → Bộ Tư pháp → Bộ Ngoại giao → Bộ Ngoại giao của
nước ngoài (cơ quan được ủy quyền của Nhà nước) → Cơ quan tư pháp của
nước ngoài → Công dân nước ngoài.
(ii). TAND tỉnh → Bộ Tư pháp → Bộ Ngoại giao → Cơ quan đại diện của
Việt Nam ở nước ngoài → Công dân Việt Nam
4


Cụ thể, trong giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài, cơ quan có
thẩm quyền của Việt Nam có thể thực hiện các hoạt động tương trợ tư pháp sau:
1. Tống đạt giấy tờ, hồ sơ, tài liệu liên quan cho đương sự ở nước ngoài.
Trong giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài, về nguyên tắc, các
văn bản tố tụng có liên quan đến quyền, nghĩa vụ của những người tham gia vào
quá trình Tòa án giải quyết các vụ việc dân sự và thi hành án dân sự đều phải
được cấp, tống đạt hoặc thông báo kịp thời, đúng pháp luật để bảo đảm cho
những người này có thể thực hiện được các quyền và nghĩa vụ của mình trong
hoạt động tố tụng.1 Trong đó, có thể hiểu, tống đạt là thủ tục thông báo chính
thức cho một người về giấy tờ tư pháp. Như vậy, đối với giải quyết vụ việc dân
sự có yếu tố nước ngoài, thực hiện ủy thác tư pháp cũng được xem như một giai
đoạn tố tụng. Ví dụ vụ việc cụ thể trong hôn nhân và gia đình, khi một trong hai
bên vợ hoặc chồng đang sinh sống, học tập, công tác hoặc có công việc kinh
doanh ở nước ngoài. Khi phát sinh vấn đề ly hôn xuất phát từ yêu cầu của vợ
hoặc chồng, thì đây được xác định là vụ việc có yếu tố nước ngoài, và để giải
quyết, Tòa án phải thực hiện ủy thác tư pháp để thông báo cho bên còn lại về
việc vợ/chồng đang gửi đơn xin ly hôn mình.
Về tống đạt giấy tờ, hồ sơ tài liệu bao gồm các nội dung:
1.1. Các loại tài liệu cần tống đạt
Các loại tài liệu cần tống đạt được quy định cụ thể tại Điều 171 Bộ luật Tố

tụng dân sự 2015
1. Thông báo, giấy báo, giấy triệu tập, giấy mời trong tố tụng dân sự.
2. Bản án, quyết định của Tòa án.
3. Quyết định kháng nghị của Viện kiểm sát; các văn bản của cơ quan thi
hành án dân sự.
4. Các văn bản tố tụng khác mà pháp luật có quy định.
1 Trường đại học Kiểm sát Hà Nội, Giáo trình Luật Tố tụng dân sự, Nxb Chính trị Quốc gia sự thật, Hà
Nội. 2017, tr.168

5


1.2. Phương thức tống đạt
Điều 474 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định Các phương thức tống
đạt, thông báo văn bản tố tụng của Tòa án cho đương sự ở nước ngoài liệt
kê ra sáu phương thức và cũng tại khoản 2 nêu rõ, với phương thức tại khoản a,
b thì thực hiện theo pháp luật tương trợ tư pháp. Cụ thể:
a) Theo phương thức được quy định tại điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Ví dụ: Theo Công ước Tống đạt giấy tờ
(Công ước La Hay năm 1965) có hiệu lực với Việt Nam từ ngày 01/10/2016,
trong giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài, Tòa án thực hiện tống đạt
văn bản tố tụng theo kênh chính thức của Công ước tống đạt giấy tờ quy định tại
Thông tư liên tịch số 12/2016 khi đương sự có nơi cư trú hoặc có trụ Sở tại 70
nước thành viên của Công ước này.1 Cụ thể, quy trình ủy thác tư pháp được ưu
tiên áp dụng: Cơ quan có thẩm quyền UTTP Bộ Tư pháp Việt Nam Cơ quan
TW của nước được yêu cầu  Cơ quan có thẩm quyền thực hiện của nước được
yêu cầu.2
b) Theo đường ngoại giao đối với đương sự cư trú ở nước mà nước đó và
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chưa cùng là thành viên của điều ước quốc
tế. Phương thức này được thực hiện trên cơ sở nguyên tắc có đi có lại trong hoạt

động tương trợ tư pháp.
c) Theo đường dịch vụ bưu chính đến địa chỉ của đương sự đang cư trú ở
nước ngoài với điều kiện pháp luật nước đó đồng ý với phương thức tống đạt
này. Tại các quốc gia theo hệ thống ‘Common Law’, các tài liệu sẽ được gửi trực
tiếp ra nước ngoài cho các đương sự đang cư trú ở nước ngoài bởi lẽ theo các
nước này, việc tống đạt giấy tờ cho đương sự là nghĩa vụ của các bên tranh chấp
chứ không phải của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.3
1 Xem Công văn số 33/TANDTC-HTQT về việc tống đạt văn bản tố tụng cho đương sự ở nước ngoài
trong các vụ việc dân sự, vụ án hành chính
2 Xem Công văn số 2368/BTP-PLQT hướng dẫn thực hiện một số quy định về UTTP trong lĩnh vực dân
sự ra nước ngoài
3 Xem Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, giáo trình Luật Tương trợ tư pháp, Nxb Chính trị Quốc gia sự
thật, Hà Nội, 2016, tr.68

6


Ngoài ra, các điểm d, đ, e còn quy định các phương thức tống đạt giấy tờ,
tài liệu cho đương sự nước ngoài nhưng các phương thức này không thuộc phạm
vi của hoạt động tương trợ tư pháp. Tuy nhiên, cần lưu ý quy định tại điểm d:
d) Theo đường dịch vụ bưu chính đến cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài để tống đạt cho đương sự là công dân Việt
Nam ở nước ngoài. Phương thức tống đạt này được xác định theo Khoản 9 Điều
3 Thông tư liên tịch số 12/2016/TTLT-BTP-BNG-TANDTC là qua kênh ngoại
giao trực tiếp. Phương thức này chỉ áp dụng đối với yêu cầu ủy thác tư pháp
tống đạt giấy tờ cho công dân Việt Nam ở tại nước nhận, còn đối với công dân
nước nhận hoặc công dân nước thứ ba ở tại nước nhận chỉ được áp dụng khi
nước đó tuyên bố không phản đối theo quy định tại Công văn số 2368/BTPPLQT ngày 10/07/2017 hướng dẫn thực hiện một số quy định về ủy thác tư pháp
trong lĩnh vực dân sự ra nước ngoài. Tuy nhiên, cũng theo công văn này, việc
tống đạt văn bản cho công dân Việt Nam ở nước ngoài thông qua cơ quan đại

diện của Việt Nam ở nước ngoài không được xem là tương trợ tư pháp, và hoạt
động này sẽ được thực hiện theo một thông tư liên tịch giữa Tòa án nhân dân tối
cao và Bộ ngoại giao. Và đến nay, Thông tư này vẫn chưa được ban hành.
2. Thu thập chứng cứ, tài liệu
Trong việc giải quyết các vụ việc dân sự, các đương sự có nghĩa vụ cung
cấp chứng cứ để chứng minh cho các yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp
pháp. Đối với các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài, có nhiều trường hợp cần
phải tiến hành các hoạt động xác minh, thu thập chứng cứ ở nước ngoài để phục
vụ cho hoạt động tố tụng của mình. Để thực hiện được hoạt động này cần phải
ủy thác cho một cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài thực hiện các hoạt động
xác minh, thu thập chứng cứ nói trên.
Khi giải quyết một vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài phát sinh việc phải
có thu thập chứng cứ ở nước ngoài, cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam không
có thẩm quyền thu thập trực tiếp chứng cứ ở nước ngoài mà phải gửi yêu cầu về
thu thập và cung cấp chứng cứ tới cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài. Dựa
7


trên yêu cầu tương trợ này của phía Việt Nam, cơ quan có thẩm quyền của nước
ngoài sẽ xem xét việc có hay không thực hiện yêu cầu tương trợ.
Các trường hợp cần tương trợ tư pháp về dân sự của nước ngoài như đã nêu
ở trên phải được thực hiện thông qua cơ quan đầu mối về tương trợ tư pháp về
dân sự. Điều 62 Luật Tương trợ tư pháp quy định “Bộ Tư pháp là cơ quan giúp
Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về hoạt động tương trợ tư pháp; tiếp
nhận, chuyển giao, theo dõi, đôn đốc việc thực hiện các uỷ thác tư pháp về dân
sự”. Do vậy, Bộ Tư pháp chính là cơ quan đầu mối của Việt Nam trong việc giải
quyết các yêu cầu về tương trợ tư pháp về dân sự đối với nước ngoài. Qua đó,
khi yêu cầu cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài tương trợ tư pháp về dân sự,
cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam phải gửi yêu cầu tương trợ tới Bộ Tư
pháp. Thủ tục yêu cầu nước ngoài tương trợ tư pháp về dân sự được quy định cụ

thể tại Điều 14 Luật Tương trợ tư pháp.
Về các quy định cụ thể đối với hoạt động thu thập chứng cứ, tài liệu có thể
dẫn một số ví dụ từ các quy định trong Hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt
Nam với một số nước như: Trong Hiệp định tương trợ tư pháp trong lĩnh vực
dân sự giữa nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa CaDắc-Xtan dành hẳn chương 3 quy định về Thu thập và cung cấp chứng cứ. Đầu
tiên, về yêu cầu thu thập cần bao gồm các nội dung:
- Chứng cứ được yêu cầu cần cung cấp.
- Các câu hỏi mà đương sự cần trả lời hoặc bản miêu tả về những vụ việc
dân sự liên quan.
- Giấy tờ hoặc tài sản cần được kiểm tra.
- Những phương pháp hoặc thủ tục đặc biệt cần được thực hiện để thu
thập chứng cứ.
Về thực hiện yêu cầu thu thập chứng cứ, Bên được yêu cầu thông báo bằng
văn bản cho Bên yêu cầu kết quả thực hiện yêu cầu thu thập và cung cấp chứng
cứ, kèm theo chứng cứ và các tài liệu có tính chất chứng cứ được yêu cầu; hoặc
thông báo cho Bên yêu cầu về lý do cản trở việc thực hiện một phần hoặc toàn
bộ yêu cầu thu thập và cung cấp chứng cứ.
8


3. Triệu tập người làm chứng, người giám định đang ở nước ngoài
Đối với một số vụ việc dân sự cần đến lời khai hoặc chứng cứ của người
người làm chứng, bản kết luận chuyên môn của người giám định như một vụ
việc về truy nhận cha cho con, tranh chấp tài sản trong hôn nhân, đòi quyền thừa
kế… nhưng người làm chứng, người giám định đang ở nước ngoài, thì cơ quan
có thẩm quyền của Việt Nam phải gửi đề nghị triệu tập người làm chứng, người
giám định tới cơ quan có thẩm quyền của nước nơi người làm chứng, người
giám định đang có mặt để yêu cầu người làm chứng, người giám định có mặt tại
Việt Nam trong một thời gian nhất định để họ tham gia vào việc giải quyết vụ
việc dân sự có liên quan.

Điều 8 Luật Tương trợ tư pháp quy định cụ thể về triệu tập và bảo vệ người
làm chứng, người giám định. Theo đó:
- Trong giấy triệu tập phải ghi rõ điều kiện làm chứng, giám định và cam
kết về việc bảo đảm an toàn tính mạng, sức khỏe, điều kiện ăn ở, đi lại cho
người làm chứng, người giám định.
- Người làm chứng, người giám định được tạo điều kiện thuận lợi trong
nhập cảnh, xuất cảnh theo quy định của pháp luật Việt Nam;
- Cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam phải cam kết về việc bảo đảm an
toàn tính mạng, sức khoẻ, điều kiện ăn ở, đi lại cho người làm chứng, người
giám định; người làm chứng;
- Người làm chứng, người giám định được triệu tập đến Việt Nam sẽ không
bị bắt, bị tam giam, tạm giữ hoặc bị điều tra, truy tố, xét xử vì những hành vi
trước khi đến Việt Nam như cung cấp lời khai làm chứng, bản kết luận chuyên
môn đối với vụ án mà người đó được triệu tập; phạm tội ở Việt Nam; có quan hệ
với đối tượng đang bị điều tra, truy tố, xét xử về hình sự của Việt Nam; có liên
quan đến một vụ việc dân sự hoặc hành chính khác ở Việt Nam.
Các điều ước quốc tế Việt Nam ký với các nước cũng đề cập một cách chi
tiết về việc triệu tập người làm chứng, người giám định. Ví dụ trong Hiệp định
9


tương trợ tư pháp Về các vấn đề dân sự và hình sự giữa Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam và Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, Điều 13, 14 quy định việc
triệu tập người làm chứng, người giám định và vấn đề bảo hộ những người này:
Nếu xét thấy cần thiết phải có người làm chứng hoặc người giám định đến Cơ
quan tư pháp của nước mình, Bên ký kết yêu cầu sẽ đề cập trong văn bản yêu
cầu tống đạt giấy triệu tập các chi phí có thể thanh toán, điều kiện và thời hạn
thanh toán cho những người đó. Giấy triệu tập được gửi cho Bên ký kết được
yêu cầu không chậm quá 60 ngày trước ngày người có liên quan được yêu cầu
cần có mặt tại Cơ quan tư pháp của Bên ký kết yêu cầu. Bên ký kết được yêu

cầu tống đạt giấy triệu tập đến người có liên quan và thông báo cho Bên ký kết
yêu cầu ý kiến của người được triệu tập; Nếu người làm chứng hoặc người giám
định từ chối cung cấp chứng cứ hoặc từ chối giám định, Bên ký kết yêu cầu
không được áp dụng bất cứ hình phạt hoặc biện pháp cưỡng chế nào, cũng như
không được đe doạ dùng hình phạt hoặc biện pháp cưỡng chế trong giấy triệu
tập; Người làm chứng hoặc người giám định có mặt ở Cơ quan tư pháp của Bên
ký kết yêu cầu theo quy định của Hiệp định này, sẽ không bị truy tố hình sự, tạm
giữ hoặc không bị bắt chấp hành bất cứ biện pháp hạn chế tự do thân thể nào
trên lãnh thổ cuả Bên ký kết đó về các hành vi phạm tội hoặc bản án đã có trước
khi rời khỏi lãnh thổ của Bên ký kết được yêu cầu. Người đó cũng không bị truy
tố hình sự, bị tạm giữ hoặc không bị xử phạt vì những lời khai làm chứng hoặc
kết luận với tư cách là người giám định; Việc bảo hộ sẽ chấm dứt khi người làm
chứng, người giám định, trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày họ được cơ quan có
thẩm quyền thông báo rằng sự có mặt của họ là không cần thiết nữa, có khả
năng rời, nhưng vẫn tiếp tục ở lại, hoặc tình nguyện trở lại lãnh thổ của Bên ký
kết yêu cầu sau khi đã rời đi. Không tính vào thời hạn đó thời gian mà người làm
chứng hoặc người giám định không thể rời khỏi lãnh thổ của Bên ký kết yêu cầu
vì những nguyên nhân không phụ thuộc vào họ.

10


4. Ý nghĩa của tương trợ tư pháp về dân sự đối với giải quyết vụ việc
dân sự có yếu tố nước ngoài.
Đối với các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài cần thực hiện ủy thác, thì
hoạt động tương trợ tư pháp có vai trò quan trọng trong việc giải quyết vụ việc
dân sự, là một giai đoạn bắt buộc của quá trình tố tụng.
Trong thực tiễn đời sống luôn xảy ra các yêu cầu, các tranh chấp cần đến sự
giải quyết của cơ quan có thẩm quyền. Đối với các vụ việc dân sự có yếu tố
nước ngoài, vấn đề giải quyết càng đặt ra nhiều khó khăn so với các vụ việc

trong nước. Do đó, tương trợ tư pháp về dân sự, với tư cách là một hoạt động hỗ
trợ cho việc giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài, có ý nghĩa hết
sức quan trọng.
Như đã phân tích, không phải mọi vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài đều
cần thực hiện ủy thác tư pháp. Tuy nhiên, đối với những vụ việc cần thực hiện
tống đạt hồ sơ, tài liệu cho đương sự ở nước ngoài, cần thu thập tài liệu ở nước
ngoài hay triệu tập người làm chứng, người giám định, khi những hoạt động này
mang ý nghĩa là một giai đoạn cần trong quá trình tố tụng, thì tương trợ tư pháp
về dân sự chính là một trong những hoạt động cần thiết để Tòa án giải quyết các
vụ việc có yếu tố nước ngoài. Có thể kể riêng ý nghĩa các hoạt động này như về
việc tống đạt hồ sơ, tài liệu: Đối với các đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức
liên quan đến vụ việc, thông qua hoạt động cấp, tống đạt các hồ sơ, tài liệu cần
thiết giúp cho họ nhận được, hoặc biết được nội dung của vụ việc dân sự. Qua
đó, biết được các quyền và nghĩa vụ của mình để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của họ; Đối với các cơ quan tiến hành tố tụng, thông qua việc cấp, tống đạt
các hồ sơ, tài liệu cần thiết sẽ đảm bảo giúp họ thực hiện được nhiệm vụ và
quyền hạn giải quyết vụ việc dân sự của mình. Như vậy, cấp, tống đạt các hồ sơ,
tài liệu cần thiết có ý nghĩa rất lớn đối với việc giải quyết các vụ việc dân sự.
Cũng tương tự với các hoạt động thu thập tài liệu, chứng cứ hay triệu tập người
làm chứng, người giám định. Trong một vụ việc dân sự, các hoạt động này nhằm

11


để nội dung các yêu cầu, tranh chấp dân sự trở nên rõ ràng, từ đó giúp Tòa án ra
được các phán quyết chính xác, đảm bảo được quyền và lợi ích các bên.
Trong thực tế, có rất nhiều vụ việc dân sự, Tòa án phải tạm đình chỉ giải
quyết vụ việc do các yêu cầu thực hiện ủy thác ra nước ngoài chưa hoặc không
nhận được kết quả. Như vậy, rõ ràng đối với những vụ việc dân sự có yếu tố
nước ngoài cần thực hiện ủy thác tư pháp, thì tương trợ tư pháp về dân sự mang

ý nghĩa quan trọng là một hoạt động không thể thiếu để giải quyết các vụ việc
này.
III. Thực tiễn ủy thác tư pháp trong giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố
nước ngoài
1. Tình hình thực hiện ủy thác tư pháp trong giải quyết vụ việc dân sự
có yếu tố nước ngoài
Theo thống kế về tình hình thực hiện ủy thác tư pháp trong năm 2015, số
lượng yêu cầu ủy thác tư pháp về dân sự của Việt Nam gửi đi vẫn duy trì ở mức
tương đương với năm 2014. Cụ thể:
- Tổng số yêu cầu ủy thác tư pháp của các cơ quan có thẩm quyền của
Việt Nam đã gửi đi qua đầu mối Bộ Tư pháp là 3149 yêu cầu. Trong đó có 2661
yêu cầu (chiếm gần 85% tổng số yêu cầu ủy thác tư pháp) được gửi đến những
nước chưa có điều ước quốc về Tương trợ tư pháp với Việt Nam.
- Tổng số yêu cầu ủy thác tư pháp có trả lời là 2126/3149 yêu cầu (chiếm
gần 68%).1
Các hồ sơ ủy thác tư pháp theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền của Việt
Nam vẫn chủ yếu là tống đạt giấy tờ, tài liệu, bản án, các quyết định của Tòa án,
yêu cầu về thu thập chứng cứ, lấy lời khai của đương sự hoặc người có quyền lợi
và nghĩa vụ liên quan đến vụ việc, tập trung ở các lĩnh vực hôn nhân và gia đình,
hành chính, lao động và các vụ việc về hộ tịch.

1 Xem Bộ Tư Pháp, “Giới thiệu sơ lược về hoạt động tương trợ tư pháp năm 2015”

12


Các nước và vùng lãnh thổ mà Việt Nam gửi yêu cầu ủy thác tư pháp nhiều
nhất vẫn là Hoa Kỳ, Ca-na-đa, lãnh thổ Đài Loan, Ốt-xtờ-rây-li-a và Hàn Quốc.
So sánh kết quả chung thực hiện yêu cầu ủy thác tư pháp gửi ra nước ngoài
năm 2015 với năm 2014 cho thấy tỷ lệ yêu cầu ủy thác tư pháp gửi đi có trả lời

tăng gần 15%. Tuy nhiên, tỷ lệ có trả lời từ những nước đã có điều ước quốc tế
với Việt Nam lại giảm 6%.
Ủy thác tư pháp theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam:
Nội dung

Số yêu cầu

Kết quả

Có Hiệp định TTTP

488

376

Không có Hiệp định TTTP

2661

1750

Tổng số

3149

2126

Về thực hiện các yêu cầu ủy thác tư pháp về dân sự, những bất cập mang
tính “kinh niên” trong thực hiện ủy thác tư pháp đã được nêu tại Báo cáo hoạt
động Tương trợ tư pháp năm 2014 và Báo cáo tổng kết 6 năm thi hành Luật

Tương trợ tư pháp vẫn chưa được giải quyết triệt để, cụ thể là: Tỷ lệ yêu cầu ủy
thác tư pháp không có trả lời mặc dù đã giảm so với những năm trước nhưng
vẫn ở mức cao (như trong lĩnh vực dân sự là gần 40%); thời gian thực hiện Uỷ
thác tư pháp vẫn kéo dài; Uỷ thác tư pháp cho công dân Việt Nam ở nước ngoài
không đáp ứng được yêu cầu của cơ quan tố tụng trong nước. Việc không có
hoặc chậm có kết quả thực hiện Uỷ thác tư pháp đã ảnh hưởng đến tiến độ giải
quyết các vụ việc dân sự, vụ án hình sự, một số trường hợp có thể ảnh hưởng
đến quan hệ đối ngoại của Nhà nước và uy tín của các cơ quan tư pháp Việt
Nam.
2. Đánh giá hạn chế, nguyên nhân và một số kiến nghị
2.1. Hạn chế
Thứ nhất, thời gian thực hiện ủy thác tư pháp về cơ bản còn chậm so với
yêu cầu, không đáp ứng được yêu cầu về thời gian xét xử trong nước, làm ảnh
13


hưởng đến quá trình tố tụng. Thực tế cho thấy, nhiều trường hợp không thể thực
hiện việc ủy thác tư pháp hoặc khi Tòa án ủy thác tư pháp để thu thập chứng cứ,
tài liệu thường mất rất nhiều thời gian, do đương sự thay đổi địa chỉ hoặc thiếu
thiện chí hợp tác. Nhiều trường hợp, tuy có hợp tác nhưng không thể khai báo
địa chỉ vì họ đang sống “bất hợp pháp” không có giấy tờ hợp lệ tại nước sở tại...
Điều này dẫn tới việc kéo dài thời gian trong quá trình giải quyết vụ án. Vướng
mắc này tập trung nhiều ở các vụ án hôn nhân gia đình có yếu tố nước ngoài.
Thứ hai, nhiều trường hợp ủy thác tư pháp cho công dân Việt Nam ở nước
ngoài dù đã có kết quả trả lời, nhưng nội dung vẫn không đáp ứng được yêu cầu
của cơ quan tố tụng.
Thứ ba, nhiều hồ sơ ủy thác tư pháp không nhận được kết quả. Từ bảng số
liệu thống kê tại mục III.1, có thể thấy, trường hợp giữa Việt Nam và nước được
yêu cầu không có Hiệp định về tương trợ tư pháp, số Uỷ thác tư pháp không có
kết quả khá nhiều.

Thứ tư, quá trình thụ lý, giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài,
các cơ quan tố tụng còn gặp những vướng mắc từ phương thức tống đạt cho
đương sự ở nước ngoài, uỷ thác tư pháp ra nước ngoài.
Ngoài ra, cũng còn tồn tại một số hạn chế về ngôn ngữ trong hồ sơ ủy thác
tư pháp nói chung và vấn đề người chi trả các chi phí thực hiện ủy thác tư pháp
còn chưa rõ ràng.
2.2. Nguyên nhân
Những hạn chế nêu trên của hoạt động tương trợ tư pháp xuất phát từ một
số nguyên nhân sau:
Trước hết phải kể đến nguyên nhân chưa có các Hiệp định tương trợ tư pháp
về dân sự giữa Việt Nam với nước ngoài. Khi các cơ quan có thẩm quyền của
Việt Nam gửi hồ sơ yêu cầu tương trợ tư pháp ra nước ngoài hầu như chỉ nhận
được kết quả từ các nước có Hiệp định với nước ta trong tương trợ tư pháp. Điển
hình với một số quốc gia như Ấn Độ quy định, các yêu cầu tương trợ tư pháp
14


của một nước sẽ không được thực hiện nếu giữa nước đó và Ấn Độ chưa có
Hiệp định tương trợ tư pháp.
Nguyên nhân thứ hai phải để đến là có những ủy thác không thể thực hiện
được do không thể tìm được địa chỉ của đương sự, hoặc đương sự đã chuyển nơi
ở, thậm chí có những trường hợp đương sự vẫn đang sống bất hợp pháp tại nước
có Tòa án gửi ủy thác, hoặc đã trốn sang tỵ nạn tại các nước khác.
Thứ ba, tình trạng hồ sơ bị bộ Tư pháp trả lại còn nhiều do thiếu tính hợp lệ.
Đây xuất phát từ năng lực, trách nhiệm của hệ thống cán bộ thực hiện việc ủy
thác tư pháp.
Đặc biệt, quy trình ủy thác tư pháp hiện hành còn qua nhiều khâu, nhiều cơ
quan như: Nếu trong quá trình giải quyết Tòa án cấp huyện thấy cần thiết ủy
thác tư pháp thì phải làm hồ sơ chuyển lên cấp tỉnh để thực hiện ủy thác tư pháp
theo thủ tục chung. Đối với công dân Việt Nam ở nước ngoài vẫn phải ủy thác tư

pháp qua Bộ tư pháp, Bộ ngoại giao mới đến cơ quan đại diện Việt Nam ở nước
ngoài là qua nhiều khâu, mất nhiều thời gian trung chuyển. Mặt khác, thời gian
thực hiện ủy thác tư pháp chưa phù hợp với thời gian yêu cầu tống đạt một số
loại tài liệu, giấy tờ của Tòa án như Thông báo thụ lý vụ án phải trả lời trong
thời hạn 30 ngày, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, giấy triệu tập phiên tòa 30
ngày...trong khi thời gian để ủy thác tư pháp tống đạt các loại giấy tờ trên có thể
lên đến vài tháng, đặc biệt có vụ án đã chờ kết quả thực hiện ủy thác tư pháp lên
đến hàng năm.
Thêm nữa, việc chưa ban hành Thông tư giữa Tòa án nhân dân tối cao và
Bộ Ngoại giao hướng dẫn việc thực hiện tống đạt theo kênh ngoại giao, lãnh sự
trực tiếp theo Công ước Tống đạt cho công dân Việt Nam hoặc công dân nước
ngoài nếu nước đó không phản đối hoặc pháp luật nước đó cho phép thực hiện
(theo khoản 3 Điều 14 Thông tư liên tịch 12/2016/TTLT) cũng là lý do khiến
Tòa án gặp khó khăn trong ủy thác cho cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước
ngoài để tống đạt và lấy lời khai đối với đương sự ở nước ngoài.

15


2.3. Một số giải pháp
Một, tiếp tục đẩy mạnh hoạt động đàm phán, ký kết các Điều ước quốc tế
song phương và đa phương về hoạt động ủy thác tư pháp nói chung cũng như
trong lĩnh vực dân sự nói riêng.
Hai, nâng cao chất lượng đội ngũ hoạt động trong lĩnh vực ủy thác tư pháp.
Cần thường xuyên tổ chức tập huấn nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ …
Ba, nên rút ngắn quy trình thực hiện ủy thác tư pháp qua các cơ quan khác
nhau như Tòa án cấp huyện trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự nếu thấy
cần thiết thực hiện việc ủy thác tư pháp ra nước ngoài thì có thể trực tiếp lập hồ
sơ theo quy định chung (không cần thông qua Tòa án cấp tỉnh). Đối với việc ủy
thác tư pháp cho công dân Việt Nam ở nước ngoài không nhất thiết ủy thác tư

pháp qua Bộ tư pháp, Bộ ngoại giao mà ủy thác tư pháp trực tiếp qua cơ quan
đại diện Việt Nam (hoặc tổ chức có thẩm quyền) ở nước thực hiện việc ủy thác
tư pháp.
Vấn đề hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp luật nói chung cũng như pháp
luật tương trợ tư pháp nói riêng cũng luôn là kiến nghị giải pháp cho mọi vấn đề.

16


C. KẾT LUẬN
Hiện nay, nước ta vừa chính thức trở thành thành viên của Công ước Tống
đạt (Công ước La Hay 1965) từ ngày 01/10/2016. Việc gia nhập Công ước Tống
đạt sẽ góp phần giúp Việt Nam hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến tư
pháp quốc tế thông qua việc áp dụng những chuẩn mực quốc tế về tương trợ tư
pháp, đưa hệ thống pháp luật, quy trình tố tụng của Việt Nam đến gần và phù
hợp với hệ thống pháp luật quốc tế. Trên cơ sở đó, hi vọng pháp luật tương trợ
tư pháp nói chung cũng như trong dân sự nói riêng của nước ta sớm giải quyết
được những tồn đọng, khó khăn trong việc giải quyết các vụ việc dân sự có yếu
tố nước ngoài tại Tòa án Việt Nam, qua đó đảm bảo quyền lợi chính đáng cho cả
công dân Việt Nam và người nước ngoài.

17


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật Tố tụng dân sự 2015;
2. Bộ luật tố tụng dân sự 2004, sửa đổi bổ sung 2011;
3. Luật Tương trợ tư pháp 2007;
4. Thông tư liên tịch số 12/2016/TTLT-BTP-BNG-TANDTC;
5. Công văn số 33/TANDTC-HTQT về việc tống đạt văn bản tố tụng cho

đương sự ở nước ngoài trong các vụ việc dân sự, vụ án hành chính;
6. Công văn số 2368/BTP-PLQT hướng dẫn thực hiện một số quy định về
ủy thác tư pháp trong lĩnh vực dân sự ra nước ngoài;
7. Hiệp định tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự giữa nước Cộng Hòa
Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Ca-Dắc-Xtan;
8. Hiệp định tương trợ tư pháp Về các vấn đề dân sự và hình sự giữa Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hoà nhân dân Trung Hoa;
9. Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, giáo trình Luật Tương trợ tư pháp,
Nxb. Chính trị Quốc gia sự thật, Hà Nội, 2016;
10. Bộ Tư Pháp, “Giới thiệu sơ lược về hoạt động tương trợ tư pháp năm
2015”
11. Bộ Tư Pháp, “Giới thiệu sơ lược kết quả tổng kết 6 năm thi hành Luật
Tương trợ tư pháp”
11. Th.S Nguyễn Sơn Hà, “Thực hiện ủy thác tư pháp về dân sự tại Việt
Nam – Một số khó khăn và giải pháp”, Tạp chí Tòa án Nhân dân, số 2/2016;
12. />13. />
18


19



×