Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

t­u lieu ngu van

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.67 KB, 15 trang )

Thử phân tích một bài thơ bốn câu của bác
Chế Lan Viên
Thơ tứ tuyệt hình thức đã rất bé mà nội dung lại bé nốt thì nó còn gì? Bắt buộc nó
phải bé hạt tiêu theo qui luật nghịch: hình thức càng bé, nội dung càng phải lớn. Nghĩa
là bằng số chữ ít nhất, nó phải đem đến khối lợng thông tin nhiều nhấttrong vài câu
phải gói ghém chất chứa bao nhiêu điều. Ngời viết gói lại, ngời đọc mở ra. Tôi thử cố
mở ra bài Tức cảnh Pác Bó của Bác.
Nh phần lớn các bài thơ của Bác, Bài thơ này mở đầu bằng cách nói đến cảnh vật.
Tâm hồn á đông, Việt Nam của tác giả hoà hợp với thiên nhiên. Nhng thiên nhiên ở
đây khác với ở Non xa xa, nớc xa xa hay Tiếng suối trong nh tiếng hát xa. Thiên nhiên
ở đây không phải đối tợng thởng thức. Tơi mát lắm, nhng suối thế thôi, là một địa
điểm, chứ không suối mát, suối trong, suối ca gì cả. Nhng Bác là ngời hay thởng thức
thiên nhiên kia mà ! Bị trói vẫn thởng thức, bị còng vẫn còn thởng thức!
Nhng không, ở đây suối, hang chỉ là nơi làm việc và ẩn náu, sáng tối chỉ là thời
khắc biểu chứ không phải là vào ra, lên xuống du ngoạn qua lại của ngời du ngoạn của
thi nhân.
Cuộc sống thời bí mật đó hình nh đã đợc khá ổn định trên một khoảng thời gian
khá lâu, đủ để thành nếp, đều đặn, nhịp nhàng, cân đốisáng ra, tối vào, vào hang, ra
suối. Câu thơ vừa nói lên việc tổ chức cuộc sống khéo léo, nền nếp vừa nói lên tâm hồn
của con ngời đã sống nhịp nhàng cùng khung cảnh ấy, tự tại, ung dung.
Để thử lại bài toán, ta tạm sửa đi ít chữ, thay đổi cấu trúc câu thơ xem sao.
Nếu viết: Tối vào hang,sáng ra bờ suốicâu thơ sáng sủa quá, không hợp với tình
hình lịch sử lúc ấy, nhởn nhơ quá, không hợp với tâm hồn tác giả lúc ấy. Câu thơ mở
về phía suối, phíahang , phía căn cứ hoạt động của nhà cách mạng. Nhng ở Bác, con
ngời thứ hai này mới là chính: Bác lai vô ảnh, khứ vô hình.
Tình hình lúc ấy nửa suối nửa hang, đang vơn ra ánh sáng. Nhng dộng cái là phải
nhanh chóng rút vào bí mật. Nhìn trên toàn bộ hình thang vẫn là chính, bí mật vẫn là
chính. Vì thế câu thơ phải khép lại bằng tối vào hang.
Nếu lại viết: Sáng ra rừng rậm, tối vào hang thì cũng không đúng với tình hình
lịch sử và tâm hồn tác giả. Tình hình không bao giờ đen tối với Bác cả. Ngay trong tù,
Ngời vẫn có thể ngồi trên hố xí đợi ngày mai. Câu thơ sẽ đánh mất suối, đánh mất vần


thơ, phần góp thành tâm hồn vĩ đại Hồ Chí Minh.
Còn nếu viết Sáng ra, tối vào, suối với hangthì thực xô bồ nói cho xong chuyện,
không còn trật tự gì nữa. Hay đấy là trật tự lặp đi lặp lại khá chán chờng.
Câu thơ khái quát toàn bộ mở cửa thấy núi (khai môn kiến sơn). Tiếp câu hai cần
nhiều chi tiết cụ thể. Nhng Bác chỉ dùng 4 chữ đầu để gói vẻn vẹn hai chi tiết: cháo
bẹ, rau măng. 3 chữ sau thì nhời đã vội nói ý vẫn sẵn sàng. Cuộc sống hồi ấy của Bác
có bao nhiêu chi tiết gian khổ, nhng Ngời đều bỏ qua. Nói một cách nhẹ nhàng. Gian
khổ nhẹ tênh, mhẹ nhabgf, nhịp nhàng với cảnh sinh hoạt nhịp nhàng lúc đó: sớm tối,
ra vào suối hang, bẹ măng, rau cháo.
1
Những chi tiết gian khổ nhất, Bác đã bỏ qua. Nhng chúng ta không thể bỏ qua:
Bắt con ốc khe, chặt nõn chuối ngàn,
Một bát cơm khô giữa ngày bệnh yếu
Bác chia cùng dân tộc buổi lầm than
Cháo bẹ, rau măng, vây lùng bủa quét
Ba chữ vẫn sẵn sàng, có ngời giải thích là rau cháo vẫn đầy đủ, sẵn sàng. Ngời
khác lại cho là tinh thần cách mạng vẫn sẵn sàng, dù rau măng cháo bẹ! Câu thơ xê
xích giữa hai ý đó, trong cái cánh quạt, quãng cách mở ra giữa hai ý đó. Nhng bất cứ
nghĩa nào, câu thơ vẫn nói lên tinh thần lạc quan của tác giả. Không có 3 chữ này, làm
sao chuyển đợc xuốn câu thơ thứ ba.
Từ không khí thiên nhiên, suối hang sớm tối, chuyển sang không khí xã hội:
Đảng, sủ, dịch sử Đảng. Từ những chữ mềm mại, Suối, măng, rau, cháo, chuyển qua
bàn đá, chất đá rắn chắc. Từ những âm thanh êm đềm, chuyển qua những âm thanh
trắc, nặng, sắc, hỏi, đanh thép, rắn rỏi. Chuyển nhng rất hông nhiên, nhẹ nhàng, chả có
gì gãy đứt với bên trên. Trong khung cảnh ấy, ngời xa san thi, định kinh (Kinh Dịch
chấm son mài)Ngày nay Bác Hồ ngồi dịch sử Đảng. Khác nhau một vực một trời.
Tôi đã về Pác Pó. Không có tấm đá nào nh bàn cả. Chỉ có tấm lòng vững nh bàn
thạch của ngời cách mạng đã nhìn đá bàn. Tình thế cách mạng trong nớc lúc ấy khá
chông chênh. Nhng chông chênh mấy, dựa trên tấm lòng cách mạng, Bác vẫn tiến hành
sáng tạo lịch sử. Dịch là chữ khiêm tốn của Ngời. Bác đang viết sử Việt Nam, sử thế

giới bằng thơ lục bát dân tộc. Chữ dịch còn nói lên sự gắn bó với phong trào cách
mạng quốc tế của Bác.
Cuộc đời cách mạng thật là sang!
Một nhà thơ nào khác có thể kết thúc bài thơ bằng một câu thơ tả tình, tả cảnh,
chìm trong phong cảnh, nhập vào cảnh. Bác không làm văn nghệ.Bác làm thơ là để nói
lên ý của mình, nói trắng ra ý mình. Nhng câu thơ không khô khan nh một ý thẳng
dựng mà vẫn tơi mát nhẹ nhàng, vì trong đó có cái mỉm cời. Bác lạc quan, hay cời, nh-
ng đôi lúc không khỏi cời chua chát. Nhng lần này thì không thế. Lần này cái cời hơi
triết lí một chút của một ngời từng chứng kiến tất cả sang trọng, giàu sang nhất trên
đời. Với tấm lòng từng trải và baodung đó, Bác đánh gía sự vật. Cuộc đời cách mạng
thật là sang nh thế là so với tất cả cuộc đời khác mà Bác đã từng chứng kiến, hay từng
sống.
Đó là bài thơ mà hình nh trên đờng đi tiện tay ngời hái bên đờng, để lại bên đờng
rồi tiếp tục đi. Với Bác, con đờng và cái đích mới là chính.
( Nghiên cứu, học tập thơ văn Hồ Chí Minh
NXBKHXH,Hà Nội, 1979,tr.341 - 345 )
tiếng ngày xa và cả tiếng mai sau
Nguyễn Đăng Mạnh
2
Một trong những nét độc đáo của phong cách nghệ thuật thơ trữ tình của Bác là
quan hệ hoà hợp giữa bút pháp cổ điển và bút pháp hiện đại, trên cơ sở sự thống nhất
biện chứng giữa tính truyền thống sâu sắc và tính đảng vững vàng. Sự hoà hợp này th-
ờng thể hiện một cách thú vị trong những bài thơ tức cảnh của Ngời. Chẳng hạn, có thể
tìm thấy trong bài thơ Tức cảnh Pác Bó ( mùa xuân 1941 ).
Không phải ngẫu nhiên mà Tố Hữu đã chọn đa nguyên văn bài thơ này vào trong
bài thơ dài Theo chân Bác của mình. Đó là một trong những bài thơ hay nhất và tiêu
biểu nhất của ngời: một bài thơ khẩu chiến, tức cảnh sinh tình mà đọc lên một cách tự
nhiên. Lời lẽ thì không thể giản dị hơn đợc. Vậy mà càng đọc, càng thấm thía bao tình
sâu, ý lớn, tởng chừng khai thác mãi không cùng. Mới hay thơ Bác cũng nh con ngời
Bác, bề ngoài cứ trong suốt nh ánh sáng ban ngày vậy thôi, mà phân tích ra thì có đủ

cả bảy sắc cầu vồng.
Bài thơ trớc hết là một lời đùa vui của Bác Hồ với cái nghèo của cách mạng,
phảng phất nh bút pháp nói nghèo mà hoá ra sang thờng thấy ở các nhà thơ cổ điển để
nêu cao cái triết lí lạc đạo vong bần. ở thì trong núi, trong hang, ăn thì rau măng cháo
bẹ, làm việc thì mợn ngay một phiến đá thiên tạo chông chênh bên bờ suối. Kể nghèo
thì quả thực là nghèo, vì đến những tiện nghi tối thiểu của đời sống thông thờng cũng
không có. nhng nói sang thì cũng đúng là sang chứ sao! Còn gì đàng hoàng hơn la
flàm chủ cả một cơ ngơi rộng lớn và kì thú nh thế để ngày ngày sáng ra, tối vào ung
dung mặc thích. còn ăn uống thì sản vật sơn lâm đó, lúc nào cũng sẵn sàng. Cũng có
ngời hiểu câu thơ này theo nghĩa khác: sinh hoạt tuy kham khổ nhng tinh thần (ta) vẵn
sẵn sàng tinh thần cách mạng. Cách giải thích có vẻ nghiêm trang, khắc khổ và hơi lên
gân nh thế e không phù hợp với phong cách thơ tơi vui của bài thơ, cũng không ăn
nhập với bài thơ tự sự từ câu đầu đến câu 3, và nhất là không tơng xứng với tầm cỡ t t-
ởng của bác hồ vĩ đại.
Đọc câu thơ thấy nụ cời của Bác càng hồn nhiên, thoải mái bao nhiêu, càng cảm
động trớc nghị lực phi thờng của Bác bấy nhiêu. Ngày xa, gặp phải lúc âm thịnh dơng
suy, bọn gian tà ngang ngợc tung hoành, những nhà nho tiết tháo thờng từ bỏ công
danh, phú quí để lánh đục về trong, cũng đã biết vui với đạo lí của mình trong cảnh
nghèo túng thanh bạch. Nhng chắc chắn cha có vị nào phải nếm trải cái nghèo đến
mức nh Bác Hồ trong những ngày hàn vi của cách mạng ở hang Pác Bó đầu năm 1941.
Hồi ấy, hàng tuần, Bác chỉ đợc ăn vài bữa cơm, còn thì toàn cháo ngô độn với măng
tre, đọt bí. Vài ngày một lần, Bác lại cùng với chú liên lạc lội suối, mò ốc để cải thiện.
Đêm đêm, Bác ngủ trong hang lạnh, trải ổ rơm trên một tấm ván. Sáng dậy có khi thấy
cả rắn rết bò vào. Vậy mà hồn thơ của Ngời vẫn cứ thanh thản, đờng hoàng nh sống
trong cảnh giàu sang thật sự. Bởi vì cũng là lạc đạo nhng đạo của Ngời là đáo lí tất
thắng của giai cấp vô sản. Chỉ có thể đứng trên đỉnh cao của t tởng thời đại ấy Bác mới
có thể đùa vui, thoải mái nh thế với chính những điều kiện sống vô cùng cực khổ của
mình.
Ta nghe thấy tiếng nói của cha ông trong tiếng nói của Hồ chủ tịch. Nhận xét của
thủ tớng Phạm Văn Đồng rất đúng với bài thơ này về phong cách thơ Bác: kết hợp hài

hoà gia\ữa tinh cổ điển và tính hiện đại.
3
Chẳng phải ngay từ câu đầu bài thơ đã vẽ ra trớc mắt ta hình ảnh một nhà hiền
triết thủa xa đang khoan thai dạo bớc một vùng nớc non thanh tinh đó sao?
Sáng ra bờ suối, tối vào hang.
Bác Hồ đến nơi hang động này từ thủa nào vậy? Sáng sáng Ngời ra bờ suối hái
thuốc hay ngồi câu trên một mỏm đá nào? Sinh hoạt của nhà hiền sĩ cố nhiên bao giờ
cũng thanh bạch:
Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng.
Cái phong vị đạm bạc a thích đó đối với các nhà ẩn sĩ chẳng vẫn thờng đợc nhắc
đến trong thơ cổ đó sao?
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao
(Nguyễn Bỉnh Khiêm)
Thì ra trong số những yếu tố tạo nên tâm hồn phong phú của Bác Hồ, vẫn có cái
yếu tố truyền thống mà ngời xa thờng gọi là thú lâm tuyền này. Có điều các nhà hiền
triết xa nhiều khi chỉ ăn rau rừng, măng núi trong tởng tợng, trong thơ mà thôi! Còn
Bác Hồ thì cứ phải thởng thức thờng xuyên trong thực tế. Câu thơ có cái gì nửa h nửa
thực, phù hợp với không khí vui tơi, hóm hỉnh rất thích của bài tứ tuyệt.
Tình cảm thiên nhiên cổ điển đó lại biểu hiện một cách khác trong câu thơ tha ba:
Bàn đá chông chênh, dịch sử Đảng.
Có lẽ một trong những chi tiết viu nhất của bài thơ là hai chữ chông chênh này.
Cần nhớ rằng bút pháp chung của bài thơ là kể và gợi hơn là miêu tả trực tiếp. Nhng
đến cái chi tiết chông chênh này thì nhà thơ thấy cần phải tả, phải vẽ- Đó là tính từ
miêu tả duy nhất của bài thơ. Chính nhờ cái hình dáng chông chênh cụ thể đó của tảng
đá mà ta có thể hình dung đợc cặp mắt Bác Hồ đang nheo cời trớc cái bàn đá độc đáo
của mình. Sống giữa thiên nhiên, làm việc giữa đất trời khoáng đạt lại tựa luôn vào
chiếc bàn đá thiên tạo kia mà viết, mà dịch sử Đảng,thì kể cũng thú vị chứ sao? Chắc
hẳn đó là ý nghĩ rất vui của Bác khi ứng khẩu đọc lên hai tiếng chông chênh ấy. Nhớ
khúc hát Côn Sơn của Nguyễn Trãi xa:

Côn Sơn có suối nớc trong,
Ta nghe suối chảy nh cung đàn cầm
Côn Sơn có đá tần vần
Ma tuôn, đá sạch ta nằm ta chơi
Dĩ nhiên giữa hai nhà thơ của hai thời đại vẫn có khoảng cáhc dài dặc của mấy
trăm năm lịch sử. Cho nên, một ngời lấy đá Côn Sơn làm chiếu, một ngời lấy đá Pác
Bó làm bàn, tuy cùng chung một tình cảm gắn bó, chan hoà vói tạo vật, nhng thái độ
xã hội, triết lí nhân sinh vẫn có những chỗ khác nhau về căn bản. Ngời này tin ở thiên
cơ, thiên mệnh, gặp khi thời thế đảo điên, không thể phò đời cứu nớc, đành lui về bầu
bạn với mây ngàn hạc nội, phách suối đàn thông. Ngời kia nắm chắc qui luật khách
quan của lịch sử, đoán trớc thời cơ của cách mạng, mợn nơi núi rừng làm căn cứ địa để
4
xây dựng lực lợng, nhen nhóm phong trào, chuẩn bị cho những cơn bão táp của lịch sử.
Một đằng là triết lí của ngời ẩn sĩ, từng nếm trải bao phen vinh nhục, cảm thấy đời ng-
ời nh mây nổi, nh chiêm bao, muốn dấn mình trong chốn lâm tuyền, nhập thân vào cái
vĩnh cửu, mênh mông của tạo vât. Một đằng là triết lí của ngời chiến sĩ, triết lí cải tạo
thế giới để con ngời có thể làm chủ thiên nhiên, làm chủ lịch sử, làm chủ vận mệnh
của mình. Đó cũng là quan niệm thẩm mĩ của Bác Hồ trong bài Tức cảnh. Chẳng phải
trên bức tranh Pác Bó kia, trung tâm chú ý của nhà hoạ sĩ vẫn là con ngời đang hành
động đó sao? Một nét đậm duy nhất (chông chênh ) và gân guốc ( dịch sử Đảng) đã đa
hình ảnh nhà hiền triết vô sản lên bình diện chính giữa nơi bức tranh, để đẩy lùi lại
phía sau cái nền phông chấm phá của suối hang sơn thuỷ. Với nét vẽ quyết định đó,
Bác Hồ không ẩn đi mà hiện lên, không chỉ lạc đạo mà hành đạo, không phải là ẩn sĩ
mà là chiến sĩ. Tinh thần chiến sĩ đó, chất thép cách mạng đó đã xác định tính hiện đại
sâu sắc của bài thơ đúng nh quan niệm của Ngời:
Nay ở trong thơ nên có thép,
Nhà thơ cũng phải biết xung phong.
(Nhật kí trong tù)
Tinh thần thép đó không chỉ thể hiện ở câu này, câu khác, hoặc một số hình ảnh
nổi trên bề mặt. Nó thấm sâu vào toàn bộ kết cấu âm thanh, nhịp điệu của bài tứ tuyệt

trên cái nền rộng rãi, bề thế của một vùng căn cứ địa cách mạng tạo nên bởi một loạt
âm vận vang xa, toả rộng theo chiều ngang: Sáng, ra, hang, măng,bài thơ đã cắm
xuống, đã đóng xuống theo chiều dọc, bằng sức mạnh dồn lại rất khoẻ của ba thanh
trắc liên tiếp (dịch sử Đảng), một khối đá hiên ngang, sừng sững trên đó, Bác Hồ vĩ đại
ngồi dịch Lịch sử Đảng cộng sản Liên Xô và đồng thời cũng viết lên những trang sử vẻ
vang của cách mạng Việt Nam đang chuyển sang một bớc ngoặt quyết định. Cái dáng
ung dung, tự hào, tự chủ của vị lãnh tụ khiến ta có thể hiểu nh vậy. Và đó là sự thật.
*
* *
Nh thế là trên những bức tranh thiên nhiên của Hồ Chủ Tịch, Con ngời bao giờ
cũng là trung tâm, cũng là chủ thể. Đó là tinh thần làm chủ thiên nhiên, cải tạo thế giới
của ngời cộng sản. Tinh thần ấy càng thể hiện nổi bật trong bài Pác Bó hùng vĩ:
Non xa xa, nớc xa xa,
Chẳng phải thênh thang mới gọi là
Đây suối Lê - nin, kia núi Mác,
Hai tay xây dựng một sơn hà.
Một bài tứ tuyệt rất chính trị mà cũng rất thơ. ở đây chủ nghĩa Mác Lê nin đã
thể hiện lên thành sơn thuỷ hữu tình.
(Nhà văn, t tởng và phong cách
NXB Tác phẩm mới, Hà Nội, 1979, tr.28 33)
5
Trêng PTDL §«ng §«
Tæ bé m«n Ng÷ v¨n
6

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×