Tải bản đầy đủ (.doc) (157 trang)

tu lieu ngu van 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.49 MB, 157 trang )

NguyÔn D÷ vµ truyÒn kú m¹n lôc
Lµ Nh và ăn Việt Nam, người xã Đỗ Tùng, huyện Trường Tân, nay thuộc Thanh Miện,
Hải Dương. Thuộc dòng dõi khoa hoạn, từng ôm ấp lý tưởng hành đạo, đã đi thi và
có thể đã ra làm quan. Sau vì bất mãn với thời cuộc, lui về ẩn cư ở núi rừng Thanh
Hóa, từ đó "trải mấy mươi sương, chân không bước đến thị thành". Chưa rõ Nguyễn
Dữ sinh và mất năm nào, chỉ biết ông sống đồng thời với thầy học là Nguyễn Bỉnh
Khiêm, và bạn học là Phùng Khắc Khoan, tức là vào khoảng thế kỷ XVI và để lại tập
truyện chữ Hán nổi tiếng viết trong thời gian ở ẩn, Tryền kỳ mạn lục (in 1768,
A.176/1-2). Truyện được Nguyễn Bỉnh Khiêm phủ chính và Nguyễn Thế Nghi sống
cùng thời dịch ra chữ nôm. Truyền kỳ mạn lục gồm 20 truyện, viết bằng tản văn, xen
lẫn biền văn và thơ ca, cuối mỗi truyện thường có lời bình của tác giả, hoặc của một
người cùng quan điểm với tác giả. Hầu hết các truyện xảy ra ở đời Lý, đời Trần, đời
Hồ hoặc đời Lê sơ từ Nghệ An trở ra Bắc. Lấy tên sách là Truyền kỳ mạn lục (Sao
chép tản mạn những truyện lạ), hình như tác giả muốn thể hiện thái độ khiêm tốn
của một người chỉ ghi chép truyện cũ. Nhưng căn cứ vào tính chất của các truyện thì
thấy Truyền kỳ mạn lục không phải là một công trình sưu tập như Lĩnh Nam chích
quái, Thiên Nam vân lục... mà là một sáng tác văn học với ý nghĩa đầy đủ của từ
này. Đó là một tập truyện phóng tác, đánh dấu bước phát triển quan trọng của thể
loại tự sự hình tượng trong văn học chữ Hán. Và nguyên nhân chính của sự xuất hiện
một tác phẩm có ý nghĩa thể loại này là nhu cầu phản ánh của văn học. Trong thế kỷ
XVI, tình hình xã hội không còn ổn định như ở thế kỷ XV; mâu thuẫn giai cấp trở nên
gay gắt, quan hệ xã hội bắt đầu phức tạp, các tầng lớp xã hội phân hóa mạnh mẽ,
trật tự phong kiến lung lay, chiến tranh phong kiến ác liệt và kéo dài, đất nước bị các
tập đoàn phong kiến chia cắt, cuộc sống không yên ổn, nhân dân điêu đứng, cơ cực.
Muốn phản ánh thực tế phong phú, đa dạng ấy, muốn lý giải những vấn đề đặt ra
trong cuộc sống đầy biến động ấy thì không thể chỉ dừng lại ở chỗ ghi chép sự tích
đời trước. Nhu cầu phản ánh quyết định sự đổi mới của thể loại văn học. Và Nguyễn
Dữ đã dựa vào những sự tích có sẵn, tổ chức lại kết cấu, xây dựng lại nhân vật, thêm
bớt tình tiết, tu sức ngôn từ... tái tạo thành những thiên truyện mới. Truyền kỳ mạn
lục vì vậy, tuy có vẻ là những truyện cũ nhưng lại phản ánh sâu sắc hiện thực thế kỷ
XVI. Trên thực tế thì đằng sau thái độ có phần dè dặt khiêm tốn, Nguyễn Dữ rất tự


hào về tác phẩm của mình, qua đó ông bộc lộ tâm tư, thể hiện hoài bão; ông đã phát
biểu nhận thức, bày tỏ quan điểm của mình về những vấn đề lớn của xã hội, của con
người trong khi chế độ phong kiến đang suy thoái.
Trong Truyền kỳ mạn lục, có truyện vạch trần chế độ chính trị đen tối, hủ bại, đả
kích hôn quân bạo chúa, tham quan lại nhũng, đồi phong bại tục, có truyện nói đến
quyền sống của con người như tình yêu trai gái, hạnh phúc lứa đôi, tình nghĩa vợ
chồng, có truyện thể hiện đời sống và lý tưởng của sĩ phu ẩn dật... Nguyễn Dữ đã
phản ánh hiện thực mục nát của chế độ phong kiến một cách có ý thức. Toàn bộ tác
phẩm thấm sâu tinh thần và mầu sắc của cuộc sống, phạm vi phản ánh của tác
phẩm tương đối rộng rãi, khá nhiều vấn đề của xã hội, con người được đề cập tới.
Bất mãn với thời cuộc và bất lực trước hiện trạng, Nguyễn Dữ ẩn dật và đã thể hiện
quan niệm sống của kẻ sĩ lánh đục về trong qua Câu chuyện đối đáp của người tiều
phu trong núi Nưa. ở ẩn mà nhà văn vẫn quan tâm đến thế sự, vẫn không quên đời,
vẫn nuôi hy vọng ở sự phục hồi của chế độ phong kiến. Tư tưởng chủ đạo của
Nguyễn Dữ là tư tưởng Nho gia. Ông phơi bày những cái xấu xa của xã hội là để cổ
vũ thuần phong mỹ tục xuất phát từ ý thức bảo vệ chế độ phong kiến, phủ định triều
đại mục nát đương thời để khẳng định một vương triều lý tưởng trong tương lai, lên
án bọn "bá giả" để đề cao đạo "thuần vương", phê phán bọn vua quan tàn bạo để ca
ngợi thánh quân hiền thần, trừng phạt bọn người gian ác, xiểm nịnh, dâm tà, để biểu
dương những gương tiết nghĩa, nhân hậu, thủy chung. Tuy nhiên Truyền kỳ mạn lục
không phải chỉ thể hiện tư tưởng nhà nho, mà còn thể hiện sự dao động của tư tưởng
1
ấy trước sự rạn nứt của ý thức hệ phong kiến. Nguyễn Dữ đã có phần bảo lưu những
tư tưởng phi Nho giáo khi phóng tác, truyện dân gian, trong đó có tư tưởng Phật
giáo, Đạo giáo và chủ yếu là tư tưởng nhân dân. Nguyễn Dữ đã viết truyền kỳ để ít
nhiều có thể thoát ra khỏi khuôn khổ của tư tưởng chính thống đặng thể hiện một
cách sinh động hiện thực cuộc sống với nhiều yếu tố hoang đường, kỳ lạ. Ông mượn
thuyết pháp của Phật, Đạo, v.v. để lý giải một cách rộng rãi những vấn đề đặt ra
trong cuộc sống với những quan niệm nhân quả, báo ứng, nghiệp chướng, luân hồi;
ông cũng đã chịu ảnh hưởng của tư tưởng nhân dân khi miêu tả cảnh cùng cực, đói

khổ, khi thể hiện đạo đức, nguyện vọng của nhân dân, khi làm nổi bật sự đối kháng
giai cấp trong xã hội. Cũng chính vì ít nhiều không bị gò bó trong khuôn khổ khắt
khe của hệ ý thức phong kiến và muốn dành cho tư tưởng và tình cảm của mình một
phạm vi rộng rãi, ông hay viết về tình yêu nam nữ. Có những truyện ca ngợi tình yêu
lành mạnh, chung thủy sắt son, thể hiện nhu cầu tình cảm của các tầng lớp bình
dân. Có những truyện yêu đương bất chính, tuy vượt ra ngoài khuôn khổ lễ giáo
nhưng lại phản ánh lối sống đồi bại của nho sĩ trụy lạc, lái buôn hãnh tiến. Nguyễn
Dữ cũng rất táo bạo và phóng túng khi viết về những mối tình si mê, đắm đuối, sắc
dục, thể hiện sự nhượng bộ của tư tưởng nhà nho trước lối sống thị dân ngày càng
phổ biến ở một số đô thị đương thời. Tuy vậy, quan điểm chủ đạo của Nguyễn Dữ
vẫn là bảo vệ lễ giáo, nên ý nghĩa tiến bộ toát ra từ hình tượng nhân vật thường mâu
thuẫn với lý lẽ bảo thủ trong lời bình. Mâu thuẫn này phản ánh mâu thuẫn trong tư
tưởng, tình cảm tác giả, phản ánh sự rạn nứt của ý thức hệ phong kiến trong tầng
lớp nho sĩ trước nhu cầu và lối sống mới của xã hội. Truyền kỳ mạn lục có giá trị hiện
thực vì nó phơi bày những tệ lậu của chế độ phong kiến và có giá trị nhân đạo vì nó
đề cao phẩm giá con người, tỏ niềm thông cảm với nỗi khổ đau và niềm mơ ước của
nhân dân. Truyền kỳ mạn lục còn là tập truyện có nhiều thành tựu nghệ thuật, đặc
biệt là nghệ thuật dựng truyện, dựng nhân vật. Nó vượt xa những truyện ký lịch sử
vốn ít chú trọng đến tính cách và cuộc sống riêng của nhân vật, và cũng vượt xa
truyện cổ dân gian thường ít đi sâu vào nội tâm nhân vật. Tác phẩm kết hợp một
cách nhuần nhuyễn, tài tình những phương thức tự sự, trữ tình và cả kịch, giữa ngôn
ngữ nhân vật và ngôn ngữ tác giả, giữa văn xuôi, văn biền ngẫu và thơ ca. Lời văn
cô đọng, súc tích, chặt chẽ, hài hòa và sinh động. Truyền kỳ mạn lục là mẫu mực của
thể truyền kỳ, là "thiên cổ kỳ bút", là "áng văn hay của bậc đại gia", tiêu biểu cho
những thành tựu của văn học hình tượng viết bằng chữ Hán dưới ảnh hưởng của
sáng tác dân gian.
Nguyễn Dữ là con trai cả Nguyễn Tường Phiêu, Tiến sĩ khoa Bính Thìn, niên hiệu
Hồng Đức thứ 27 (1496), được trao chức Thừa chánh sứ, sau khi mất được tặng
phong Thượng thư. Lúc nhỏ Nguyễn Dữ chăm học, đọc rộng, nhớ nhiều, từng ôm ấp
lý tưởng lấy văn chương nối nghiệp nhà. Sau khi đậu Hương tiến, Nguyễn Dữ thi Hội

nhiều lần, đạt trúng trường và từng giữ chức vụ Tri huyện Thanh Tuyền nhưng mới
được một năm thì ông xin từ quan về nuôi dưỡng mẹ già. Trải mấy năm dư không
đặt chân đến những nơi đô hội, ông miệt mài "ghi chép" để gửi gắm ý tưởng của
mình và đã hoàn thành tác phẩm "thiên cổ kỳ bút" Truyền kỳ mạn lục. Nguyễn Dữ
sinh và mất năm nào chưa rõ, nhưng căn cứ vào tác phẩm cùng bài Tựa Truyền kỳ
mạn lục của Hà Thiện Hán viết năm Vĩnh Định thứ nhất (1547) và những ghi chép
của Lê Quý Đôn trong mục Tài phẩm sách Kiến văn tiểu lục có thể biết ông là người
cùng thời với Nguyễn Bỉnh Khiêm, có thể lớn tuổi hơn Trạng Trình chút ít. Giữa
Nguyễn Dữ và Nguyễn Bỉnh Khiêm tin chắc có những ảnh hưởng qua lại về tư tưởng,
học thuật... nhưng e rằng Nguyễn Dữ không thể là học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm
như Vũ Phương Đề đã ghi. Đối với nhà Mạc, thái độ Nguyễn Dữ dứt khoát hơn
Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông không làm quan với nhà Mạc mà chọn con đường ở ẩn và
ông đã sống cuộc sống lâm tuyền suốt quãng đời còn lại. Truyền kỳ mạn lục được
hoàn thành ngay từ những năm đầu của thời kỳ này, ước đoán vào khoảng giữa hai
thập kỷ 20-30 của thế kỷ XVI. Theo những tư liệu được biết cho đến nay, Truyền kỳ
2
mạn lục là tác phẩm duy nhất của Nguyễn Dữ. Sách gồm 20 truyện, chia làm 4
quyển, được viết theo thể loại truyền kỳ. Cốt truyện chủ yếu lấy từ những câu
chuyện lưu truyền trong dân gian, nhiều trường hợp xuất phát từ truyền thuyết về
các vị thần mà đền thờ hiện vẫn còn (đền thờ Vũ Thị Thiết ở Hà Nam, đền thờ Nhị
Khanh ở Hưng Yên và đền thờ Văn Dĩ Thành ở làng Gối, Hà Nội). Truyện được viết
bằng văn xuôi Hán có xen những bài thơ, ca, từ, biền văn, cuối mỗi truyện (trừ
truyện 19 Kim hoa thi thoại ký) đều có lời bình thể hiện rõ chính kiến của tác giả.
Hầu hết các truyện đều lấy bối cảnh ở các thời Lý-Trần, Hồ, thuộc Minh, Lê sơ và
trên địa bàn từ Nghệ An trở ra Bắc. Thông qua các nhân vật thần tiên, ma quái, tinh
loài vật, cây cỏ..., tác phẩm muốn gửi gắm ý tưởng phê phán nền chính sự rối loạn,
không còn kỷ cương trật tự, vua chúa hôn ám, bề tôi thoán đoạt, bọn gian hiểm nịnh
hót đầy triều đình; những kẻ quan cao chức trọng thả sức vơ vét của cải, sách nhiễu
dân lành, thậm chí đến chiếm đoạt vợ người, bức hại chồng người. Trong một xã hội
rối ren như thế, nhiều tệ nạn thế tất sẽ nảy sinh. Cờ bạc, trộm cắp, tật dịch, ma quỷ

hoành hành, đến Hộ pháp, Long thần cũng trở thành yêu quái, sư sãi, học trò,
thương nhân, nhiều kẻ đắm chìm trong sắc dục. Kết quả là người dân lương thiện,
đặc biệt là phụ nữ phải chịu nhiều đau khổ. Nguyễn Dữ dành nhiều ưu ái cho những
nhân vật này. Dưới ngòi bút của ông họ đều là những thiếu phụ xinh đẹp, chuyên
nhất, tảo tần, giàu lòng vị tha nhưng luôn luôn phải chịu số phận bi thảm. Đến cả
loại nhân vật "phản diện" như nàng Hàn Than (Đào thị nghiệp oan ký), nàng Nhị
Khanh (Mộc miên phụ truyện), các hồn hoa (Tây viên kỳ ngộ ký) và "yêu quái ở
Xương Giang" cũng đều vì số phận đưa đẩy, đều vì "nghiệp oan" mà đến nỗi trở
thành ma quỷ. Họ đáng bị trách phạt nhưng cũng đáng thương.
Dường như Nguyễn Dữ không tìm được lối thoát trên con đường hành đạo, ông quay
về cuộc sống ẩn dật, đôi lúc thả hồn mơ màng cõi tiên, song cơ bản ông vẫn gắn bó
với cõi đời. Ông trân trọng và ca ngợi những nhân cách thanh cao, cứng cỏi, những
anh hùng cứu nước, giúp dân không kể họ ở địa vị cao hay thấp.
Truyền kỳ mạn lục ngay từ khi mới hoàn thành đã được đón nhận. Hà Thiện Hán
người cùng thời viết lời Tựa, Nguyễn Thế Nghi, theo Vũ Phương Đề cũng là người
cùng thời, dịch ra văn nôm. Về sau nhiều học giả tên tuổi Lê Quý Đôn, Bùi Huy Bích,
Phan Huy Chú đều ghi chép về Nguyễn Dữ và định giá tác phẩm của ông. Nhìn chung
các học giả thời Trung đại khẳng định giá trị nhân đạo và ý nghĩa giáo dục của tác
phẩm. Các nhà nghiên cứu hiện đại phát hiện thêm giá trị hiện thực đồng thời khai
thác tinh thần "táo bạo, phóng túng" của Nguyễn Dữ khi ông miêu tả những cuộc
tình si mê đắm đuối đậm màu sắc dục. Hành vi ấy tuy trái lễ, trái đạo trung dung
nhưng lại đem đến chút hạnh phúc trần thế có thực cho những số phận oan nghiệt.
Về mặt thể loại mà xét thì Truyền kỳ mạn lục là tác phẩm đỉnh cao của truyện truyền
kỳ Việt Nam. Nguyễn Dữ chịu ảnh hưởng của Cù Hựu nhưng Truyền kỳ mạn lục vẫn
là "áng văn hay của bậc đại gia", là sáng tạo riêng của Nguyễn Dữ cũng như của thể
loại truyện truyền kỳ Việt Nam.
Tran Thi Bang Thanh
NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG ( LÀ BÓNG HAY LÀ HÌNH)
Nghĩ chuyện trên đời kì lạ thật. Chuyện tình duyên, sống chết, số phận của con người lại được
định đoạt tù một câu chuyện đùa về một cái bóng. Ngày xưa, thân mẫu của Trịnh Trang Công

trong Ðông Chu liệt quốc đã gây ra bao chuyện phiền phức dẫn đến cảnh đầu rơi máu chảy chỉ vì
bà ghét Trịnh Trang Công khi xưa sinh ngược khiến bà phải đau đớn. Chuyện đời vẫn thế, đó là
chỗ éo le phức tạp trong đời sống tâm hồn con người. Chỗ kì bút của Nguyễn Dữ là đã bắt nắm
được một tình huống éo le như vậy. Trong văn chương nước ta cũng như thế giới không hiếm
những câu chuyện xen những yếu tố truyền kì. Nét riêng của Chuyện người con gái Nam Xương
là hai yếu tố thực và truyền kì không đan xen vào nhau mà kết cấu thành hai phần. Phần truyền
kì vùa làm cho câu chuyện thêm lung linh hư ảo, vùa góp phần làm rõ những yếu tố ở phần
thực. Phần thực là cơ sở để xây dựng phần truyền kì (phần thực, tôi muốn nói thực của văn
3
học). Bằng mối liên hệ giữa hai phần, nhà văn làm nổi bật tính cách nhân vật và thể hiện chủ đề
của tác phẩm.
Người con gái Nam Xương Vũ Thị Thiết là nhân vật chính xuyên suốt hai phần của tác phẩm.
Nguyễn Dữ không chú trọng việc miêu tả hình thức, chúng ta chỉ biết Vũ nương là người “có tư
dung tốt đẹp”. Tính cách nhân vật được thể hiện qua hai mối quan hệ cơ bản là quan hệ với
chồng và mẹ chồng. Mối quan hệ đó diễn ra ở những thời điểm khác nhau. Ở tùng thời điểm ấy,
nhân vật bộc lộ cá tính của mình. Mối quan hệ với Trương Sinh diễn ra trên bốn thời điểm: khi
chồng ở nhà, khi chia tay, khi xa chồng và khi chồng trở về. Khi chung sống với nhau, biết
Trương Sinh là người có tính đa nghi, hay ghen nên “nàng giữ gìn khuôn phép” cho gia đình hoà
thuận. Khi tiễn chồng đi tòng quân, tính cách của Vũ nương được thể hiện ở lời đưa tiễn. Nàng
nói với chồng: “Lang quân đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu trở về quê
cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên”. Nàng nghĩ đến những khó nhọc, gian
nguy của người chồng trước rồi mới nhận ra sự lẻ loi của mình. Tù cách nói đến nội dung của
những câu nói hiện lên một Vũ nương dịu dàng, thiết tha với hạnh phúc, không hư danh, thương
chồng và giàu lòng vị tha, một tâm hồn có văn hoá. Trong những ngày xa chồng, nàng nuôi con
thơ, chăm sóc mẹ chồng như mẹ đẻ của mình. Ngòi bút Nguyễn Dữ tỏ ra già dặn, nhà văn đã để
cho chính người mẹ chồng ấy nhận xét về tấm lòng hiếu thảo của nàng trước khi bà cụ qua đời:
“Sau này trời giúp người lành ban cho phúc trạch, giống giòng tươi tốt… xanh kia quyết chẳng
phụ con, cũng như con đã chẳng nỡ phụ mẹ”. Trong con mắt của người mẹ chồng ấy, nàng là
“người lành”. Ðến khi người chồng đi chinh chiến trở về nghi oan cho nàng, Vũ nương tỏ bày
không được thì tự vẫn, chứ không sống “chịu tiếng nhuốc nhơ”.

Khi thì cách xủ thế, khi thông qua lời nói, khi hành động, khi thái độ hình ảnh Vũ nương hiện lên
là một người trong trắng thuỷ chung, giàu lòng vị tha, hiếu thảo nhưng cũng là một người phụ
nữ khí khái, tự trọng. Ðó là một tâm hồn đẹp, đẹp một cách có văn hoá. Dường như Nguyễn Dữ
đã tập trung những nét đẹp điển hình của người phụ nữ Việt Nam vào hình tượng Vũ nương. Con
người đẹp, thiết tha với hạnh phúc này phải chết - Ðó chính là bi kịch về số phận con người. Vấn
đề này biết bao nhà văn xưa nay tùng trăn trở. Có lẽ đó cũng là bi kịch của muôn đời. Bởi vậy,
vấn đề mà Chuyện người con gái Nam Xương đặt ra là vấn đề có tính khái, quát giàu ý nghĩa
nhân văn. Phía sau tấn bi kịch của Vũ nương có một cuộc sống chinh chiến, loạn li, gây cách biệt,
nhưng căn bản là người chồng mù quáng đa nghi, thiếu sáng suốt. Những kẻ như thế xưa nay
tùng gây ra bao nỗi oan trái, đổ vỡ trong đời. Ðó cũng là một thứ sản phẩm hằng có trong xã hội
con người. Cho nên vấn đề tưởng chùng rất riêng ấy lại là vấn đề điển hình của cuộc sống. Tất
nhiên trong tấn bi kịch này có phần của Vũ nương. Nàng vùa là nạn nhân nhưng cũng là tác
nhân. Bởi chính nàng đã lấy cái bóng làm cái hình, lấy cái hư làm cái thật. Âu đó cũng là một bài
học sâu sắc của muôn đời vậy.
Phần truyền kì trong câu chuyện là chuyện Vũ nương không chết, trở về sống trong Quy động
của Nam Hải Long Vương… đó là cuộc sống đời đời. Nhà văn đã tạo ra một cuộc gặp gỡ kì thú
giữa Phan Lang - một người dương thế - với Vũ Nương nơi động tiên. Cuộc gặp gỡ ấy đã làm
sáng tỏ thêm những phẩm chất của Vũ nương. Khi Phan Lang nhắc đến chuyện nhà của tổ tiên
thì Vũ nương “ứa nước mắt khóc”. Nàng quả thật là một con người thiện căn, thiết tha gắn bó
với quê hương đời sống mà không được sống. Tính cách của nàng và bi kịch như được tô đậm
khơi sâu một lần nữa. Nhưng dụng ý của nhà văn đưa phần truyền kì vào câu chuyện không chỉ
có thế. Nguyễn Dữ muốn khẳng định một chân lí nghệ thuật: cái Ðẹp là bất tủ. Vũ nương không
sống được ở cõi đời thì sẽ sống vĩnh hằng ở cõi tiên, vì nàng là cái Ðẹp.
Nói cho cùng, hiện thực của câu chuyện là hiện thực về tấm lòng của nhà văn trước những vấn
đề của cuộc sống. Nhà văn đã đi sâu khai thác những vẻ đẹp và nỗi đau khổ xót xa phức tạp của
tâm hồn con người, nhất là người phụ nữ trong xã hội đương thời như Vũ nương. Cũng qua đó,
nhà văn khẳng định một chân lí nghệ thuật phảng phất như trong các truyện cổ dân gian…
Thánh Gióng về trời, An Dương Vương xuống biển… kì lạ mà cũng rất thực.
TRƯƠNG THAM Ðịa chỉ: Trường PTTH Trương Vương,
4

Vũ trung tùy bút (có nghĩa là "Tùy bút trong những ngày mưa") là một tác
phẩm đặc sắc của Phạm Đình Hổ. Tác phẩm này được viết vào đầu thời nhà
Nguyễn (đầu thế kỷ 19), gồm 88 mẫu chuyện nhỏ, viết theo thể tùy bút, hiểu
theo nghĩa là ghi chép tùy hứng, tản mạn, không cần hệ thống kết cấu gì.
Ông bàn về các thứ lễ nghi, phong tục, tập quán... ghi chép những việc xảy
ra trong xã hội lúc đó, viết về một số nhân vật, di tích lịch sử, khảo cứu về
địa dư, chủ yếu về vùng Hải Dương quê ông. Toàn bài được viết trên một
giọng văn sinh động, giản dị mà rất hấp dẫn. Tác phẩm này được đánh giá là
có giá trị văn chương đặc sắc mà còn cung cấp những tài liệu quý về văn
học, sử học, địa lý, xã hội
Hoàng Lê Nhất Thong chi
1.Tác giả. Ý kiến truyền thống: Một số nhà nghiên cứu cho rằng tác giả của Hoàng Lê nhất
thống chí là ba anh em thuộc dòng họ Ngô Thì, người làng tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, tỉnh
Hà Ðông cũ (nay là tỉnh Hà Sơn Bình). Ngô Thì Chí là người khởi thảo viết bảy hồi đầu. Ngô Thì
Du và Ngô Thì Thiến viết mười hồi cuối. Các tác giả này đều là cựu thần của nhà Lê. Bản thân
Ngô Thì Chí từng làm quan văn dưới thời Lê Chiêu Thống và là người đã trung thành với vua Lê
cho đến phút cuối cùng của đời mình.
2.Tác phẩm: Hoàng Lê nhất thống chí ghi chép các sự kiện lịch sử lớn nhất của xã hội phong
kiến Việt Nam vào khoảng ba mươi năm cuối thế kỷ XVIII và mấy năm đầu của thế kỷ XIX. Cụ
thể tác phẩm ghi chép các sự kiện từ khi Trịnh Sâm lên ngôi chúa, Ðặng Thị Huệ lộng quyền cho
đến khi Nguyễn Aïnh lật đổ nhà Tây Sơn lập nên triều đại nhà Nguyễn (1768-1802). Cuốn sách
được viết bằng chữ Hán và theo lối diễn nghĩa của tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc. Tác phẩm
do nhiều người viết nhưng về nội dung và hình thức vẫn có được một sự thống nhất bởi vì người
khởi thảo cũng như người tục biên đều tuân thủ một phương pháp: ghi chép người thực và việc
thực theo một chủ đề nhất định. Và các tác giả này đều có thái độ tôn trọng sự thật lịch sử
khách quan. Cho đến nay Hoàng Lê nhất thống chí đã có tới bốn bản dịch trong đó có hai bản
dịch được coi là thành công nhất là bản dịch của Ngô Tất Tố (1942) và bản dịch của Kiều Ðức
Vân và Nguyễn Thu Hoạch(1964).
II.NỘI DUNG
1.Sự sụp đổ không gì cưỡng lại được của tập đoàn phong kiến thống trị Lê-Trịnh.

Mặc dù lập trường tư tưởng là lập trường tư tưởng phong kiến và với tư cách là bề tôi trung
thành của nhà Lê, momg ước cho chính quyền nhất thống về tay nhà Lê, các tác giả Hoàng Lê
nhất thống chí vẫn phải ghi nhận một sự thật lịch sử:Sự sụp đổ của tập đoàn phong kiến thống
trị Lê-Trịnh là không thể tránh khỏi. Tác phẩm có đến hàng trăm nhân vật và các sự kiện lớn nhỏ
nhưng tất cả chỉ xoay quanh thể hiện mấy ông vua, mấy ông chúa và các bề tôi miếu đường của
chúng. Hàng ngày tất cả những con người này vây quanh chiêïc ngai vàng đã mục nát, ọp ẹp để
tranh giành quyền lực, địa vị. Có khi đó là cuộc tranh giành trong nội bộ nhà vua Lê hoặc trong
nội bộ nhà chúa Trịnh, có khi đó là cuộc tranh giành giữa vua Lê và chúa Trịnh. Ngay từ thế kỷ
XVI, giai cấp phong kiến thống trị đã bộc lộ bản chất xấu xa bên trong của mình. Nhưng có lẽ
không lúc nào bằng lúc này- những ngày mạt vận, chúng bộc lộ một cách đầy đủ nhất, sâu sắc
nhất bản chất xấu xa của mình. Dưới ngòi bút miêu tả hiện thực sắc sảo của các tác giả, bọn vua
5
chúa, những thần tượng vốn được coi là thiêng liêng, tôn quí thì nay chỉ còn là những con người
bế tắc về trí tuệ, sa đọa về đạo đức, cùng mòn trong đường lối chính trị.
- Vua chúa: Vua Lê Hiển Tông: Ông vua đầu tiên của giai đoạn này bề ngoài có đầy đủ khí tượng
đế vương, nào là râu rồng, mũi cao, tóc hạc, mắt phượng, đi nhẹ như nước, ngồi vững như non
nhưng bốn mươi năm trên ngôi là bốn mươi năm khoanh tay rủ áo, quẩn quanh trong một xó
hoàng cung. Tiêu phí thời gian bằng cách sai các cung nữ mặc áo trận, cầm giáo mác, chia thế
ba nước: Ngụy, Thục, Ngô rồi dạy cho họ cách ngồi, đứng, đâm, đỡ để mua vui. Ðáng sợ nhất là
ở chỗ ông taý thức được thân phận bù nhìn của mình nhưng vẫn không lấy đó làm điều sỉ nhục,
trái lại vẫn vui vẻ như thường vì triết lí sống của vua ta là: Trời sai chúa phò ta, chúa gánh cái lo,
ta hưởng cái vui, mất chúa tức cái lo lại về ta, ta còn vui nỗi gì. Y là hiện thân đầy đủ cho sự bất
tài, bất lực của tập đoàn phong kiến nhà Lê.
-Vua Lê Chiêu Thống: Ðây là một tên vua bán nước cầu vinh mà lịch sử dân tộc muôn đời lên án.
Nhờ Tây Sơn mà y được lên ngôi vua. Thực tế những ngày ngồi trên ngai vàng, y cũng chẳng
làm được gì. Vì quyền lợi ích kỷ của bản thân mà y sẵn sàng bán rẻ quyền lợi dân tộc. Nổi bật ở
con người này vẫn là sự bất tài, tham lam, bạc nhược. Ðứng trên lập trường dân tộc, tác giả đã
phê phán tên vua này như sau: Nước Nam ta từ khi có đế có vương đến nay chưa có ông vua
nào đê hèn và luồn cúi như vậy . Bởi vì tiếng là làm vua nhưng niên hiệu vẫn viết Càn Long, việc
gì cũng do viên tổng đốïc họ Tôn khác gì phụ thuộc vào Trung Quốc. Có thể nói khi bán rẻ quyền

lợi dân tộc, Lê Chiêu Thống cũng bán rẻ luôn nhân cách của mình. Những ngày cuối đời y sống ở
Trung Quốc thật là nhục nhã, cái chết mà y phải đón nhận thật xứng đáng với phần đời mà y đã
sống và làm hại dân tộc.
Trịnh Sâm: Tác giả giới thiệu y là một người cứng rắn, thông minh, quyết đoán, sáng suốt, trí tuệ
hơn người, có đủ tài cả văn lẫn võ. Nhưng thực tế y chỉ là một kẻ chuyên quyền, cậy thế. Ðọc
tác phẩm, chúng ta không thấy tài cán của chúa được thể hiện ở đâu hết, chỉ thấy lúc nào chúa
cũng ăn chơi trác táng, cung điện đầy ắp cung nữ để chúa mặc ý vui chơi thỏa thích. Trịnh Sâm
cũng đã trở thành đầu mối của mọi cuộc biến loạn trong phủ chúa với tội trạng bỏ con trưởng,
lập con thứ. Y say mê Ðặng Thị Huệ mà đi đến bỏ bê cả triều chính. Trịnh Tông: Là người nối
tiếp Trịnh Sâm. Nhờ đám kiêu binh mà y dành lại được ngôi chúa và thực ra y cũng chỉ là con rối
trong tay đám kiêu binh mà thôi
- xung quanh bọn vua chúa trên là những quan lớn , quan nhỏ. Tất cả chỉ là một lũ bất tài, hám
danh, tâm địa tráo trở. Có thể nói nguyên tắc sống cao nhất của đám quan lại lúc bấy giờ là
quyền lợi, là địa vị, vì những cái đó chúng sẵn sàng làm tất cả: vu oan, tố cáo, hãm hại, chém
giết, sát phạt, lẫn nhau. Và nếu cần, buôn vua bán chúa chúng cũng không nề hà. Có nhiều kẻ
đã trở thành bọn đầu cơ chính trị, nhân việc nước trôi giạt mà mưu cầu phú quí.
+Ðinh Tích Nhưỡng: Là một võ tướng, con nhà dòng dõi mười tám đời làm quận công, trước y
theo chúa chống vua, thấy chúa thất thế y ngã về phía vua, khi vua không còn sức lực để tồn tại
nữa thì y ngã về phía Tây Sơn và cho quân đi báo với Tây Sơn chỗ ở của vua và xin sai quân đến
bắt. Chỉ cần với một câu nói của y mà tác giả đã khái quát được nhân cách bỉ ổi của tên võ
tướng này: Vua không thương ta, ta còn cần gì vị nể nhà vua nữa. Ở đây tác giả Hoàng Lê nhất
thống chí đã thấy được tính chất cơ hội chủ nghĩa hết sức bỉ ổi là nét tâm lí hếøt sức điển hình
của bọn người này mà tập trung ngòi bút của mình, xoáy sâu vào phê phán.
+Nguyễn Hữu Chỉnh: con người này hiện lên trong tác phẩm như một tên gian hùng của đời
loạn. Là một con người có tài, nhưng xuất thân từ tầng lớp thương nhân nên lúc nào y cũng
mang trong mình những ý nghĩ đen tối, tham lam. Vì địa vị, quyền lợi của mình, y sẵn sàng làm
tất cả- phản chủ, giết bạn, giết người thân thích. Gió chiều nào y xoay theo chiều đó.
6
- Binh lính: Từ chỗ là đội quân ưu binh, là đội quân đặc biệt đã từng là nanh vuốt của triều đình,
đến giai đoạn này chỉ còn là bọn kiêu binh. Một đội quân kiêu căng, hống hách, tàn phá triều

đình từ bên trong. Tất cả triều đình phải bó tay, ai cũng e sợ trước sức tàn phá của bọn này.
Trên cái đà tàn lụi đó của chế độü thì tất cả những cái được gọi là cương thường đạo lí, nền
móng của xã hội đều bị đảo lộn: Nghĩa cả vua tôi, tình thầy trò, cha con, vợ chồng, anh em, mẹ
con không còn gì là thiêng liêng nữa
Tóm lại, một xã hội từ vua chúa, quan lại, binh lính cho đến nền móng đều thối nát, sụp đổ như
thế thì còn sức nào đứng vững được nữa. Như thế về khách quan Hoàng Lê nhất thống chí đã
nêu được xu thế tất yếu của lịch sử: Sự sụp đổ của tập đoàn vua Lê- chúa Trịnh là không thể
tránh khỏi. Nguyên nhân thì có nhiều nhưng trước hết vẫn do bản chất xấu xa thối nát của chính
giai cấp này gây nên. Và rồi chính bão tố của phong trào nông dân khởi nghĩa đã nhanh chóng
đưa chúng đến sào huyệt của mình
2.Khí thế quật khởi quyết liệt chống thù trong giặc ngoài của phong trào khởi nghĩa Tây
Sơn. Có thể nói các tác giả của Hoàng Lê nhất thống chí đã dũng cảm phản ánh phong trào,
dám ghi lại khí thế quật khởi của cuộc khởi nghĩa. Mặc dù chưa thật hiểu, chưa miêu tả và phản
ánh được một cách đúng đắn và đầy đủ về phong trào như nó vốn có trong lịch sử, nhưng cho
đến nay Hoàng Lê nhất thống chí vẫn là tác phẩm duy nhất ghi lại được khí thế quật khởi của
cuộc khởi nghĩa này.
- Thành công của tác phẩm khi phản ánh sự kiện này là ở chỗ: Bằng hình tượng nghệ thuật
Hoàng Lê nhất thống chí đã dựng lên được hình ảnh Nguyễn Huệ và phong trào khởi nghĩa trên
một bối cảnh lịch sử rộng lớn với giai đoạn phát triển khá dài, từ khi Tây Sơn dựng cơ dấy
nghiệp, trải qua nhiều chiến công hiển hách cho đến lúc bị bại vong.
Tác phẩm đã khẳng định sức mạnh vô địch của cuộc khởi nghĩa Tây Sơn, khẳng định Nguyễn
Huệ như một anh hùng chân chính có nhiều công lao đối với dân tộc, đất nước. Ðặc biệt ở hồi
thứ XIV của tác phẩm, các tác giả đã miêu tả cuộc hành quân, tiến quân ra Bắc đánh tan hơn hai
mươi vạn quân Thanh của nghĩa quân Tây Sơn. Hồi thứ XIV đã được xem như một bản anh hùng
ca nổi bật giữa những trang văn xám xịt miêu tả sự khủng hoảng thối nát của tập đoàn phong
kiến thống trị Lê- Trịnh. Từ chỗ là người chứng kiến, tác giả đã nhập thân vào cuộc chiến đấu,
theo sát từng trận đánh, miêu tả thật tỉ mỉ. Ðặc biệt họ đã tập trung khắc họa Nguyễn Huệ, vua
Quang Trung đã trở thành linh hồn của cuộc chiến đấu. Ba chữ vua Quang Trung cứ trở đi trở lại
như một điệp khúc tự hào trong hồi XIV này. Chính nhiệt tình yêu nước ở các tác giả đã giúp họ
phần nào chiến thắng được định kiến giai cấp của mình. Họ không đồng tình với khởi nghĩa Tây

Sơn nhưng họ lại tán đồng, lại ca ngợi hành động chống xâm lược của nghĩa quân.
3.Nguyên nhân thành công và hạn chế của tác phẩm.
2.3.1.Nguyên nhân thành công : Nguyên nhân chính làm nên phần thành công của tác phẩm
là lập trường dân tộüc và sự tác độüng của đời sống thực tế.
2.3.2. Hạn chế của tác phẩm: Tác phẩm có những hạn chế là tất yếu bởi vì những người cầm
bút đều mang tư tưởng chính thống phò Lê. Các tác giả còn rơi vào duy tâm siêu hình khi đánh
giá các sự kiện lịch sử. Họ cắt nghĩa những biến cố lịch sử bằng vai trò của cá nhân và tư tưởng
thiên mệnh
III.NGHỆ THUẬT: 1.Thể loại. Cũng có thể là không nên gò ép tác phẩm thuộc thể loại nào
nhưng chúng ta vẫn phải xác định Hoàng Lê nhất thống chí là một tác phẩm thuộc thể loại kí sự
lịch sử. Khẳng định như vậy là xét về hoàn cảnh ra đời, nội dung phản ánh hiện thực và đặc
trưng kết cấu cuả tác phẩm
7
2.Nghệ thuật miêu tả. Ðiểm đáng chú ý nhất trong Hoàng Lê nhất thống chí vẫn là nghệ thuật
miêu tả. Ðọc tác phẩm ta thấy tất cả các sự kiện lịch sử chính xác như những sự kiện trong một
cuốn sách sử học nhưng không phải được kể lại một cách khô khan, trần trụi mà được các tác
giả miểu tả, dựng lên thành những bức tranh cụ thể, sinh động và có ý nghĩa khái quát hóa, có
giá trị về mặt mĩ học.
Hiện thực được phản ánh ở đây phong phú đa dạng cho nên ngòi bút miêu tả của các tác giả
cũng trở nên đa dạng, phong phú và mang nhiều sắc thái thẩm mĩ khác nhau. Ðối với bọn vua
chúa, quan lại bao giờ tác giả cũng dùng ngòi bút miêu tả có tính chất trào phúng, khôi hài và
cũng có khi châm biếm sâu cay. Khi miêu tả cảnh kiêu binh phò Trịnh Tông lên ngôi chúa, tác giả
đã dùng ngòi bút so sánh để làm nổi bật tính chất khôi hài, trò hề trong hành động của Tông.
Ðây cũng là một trong những cảnh có ý nghĩa trong tác phẩm.
Ngòi bút miêu tả đó cũng có khi mang không khí trang trọng hùng tráng của anh hùng ca. Ðó là
trường hợp nhà văn miêu tả Nguyễn Huệ duyệt binh và ra lệnh cho quân lính trong buổi lễ xuất
quân tiến thẳng ra Thăng Long tiêu diệt quân ngoại xâm. Dưới ngòi bút của tác giả, chiến dịch
này như một bản anh hùng ca bất diệt, tác giả miêu tả nó với một thái độ hả hê, sảng khoái.
Chính ngòi bút miêu tả hiện thực phong phú đa dạng với nhiều sắc thái thẩm mĩ đã góp phần tạo
nên giá trị phản ánh hiện thực lớn lao của tác phẩm.

3.Nghệ thuật xây dựng nhân vật:Các nhân vật tuy chưa đạt tới tính cách hoàn chỉnh nhưng
mỗi nhân vật đã có được vẻ mặt riêng, cuộc sống riêng độc đáo, gây ấn tượng ở người đọc.
Chẳng hạn cùng tính toán đêí bảo vệ lợi ích cá nhân nhưng cách làm của Lê Hiển Thông khác với
cách làm của Lê Chiêu Thống, cách làm của quận Huy khác với cách làm của Nguyễn Hữu Chỉnh.
IV.TỔNG KẾT: Trong văn xuôi chữ Hán của văn học dân tộc, trước và sau Hoàng Lê nhất thống
chí không có một tác phẩm thứ hai nào có qui mô lớn và đạt nhiều thành công như tác phẩm này
Nguyễn Du (chữ Hán: 阮攸; 1766–1820), tên tự Tố Như (素如), hiệu Thanh Hiên
(清軒), biệt hiệu Hồng Sơn lạp hộ (鴻山獵戶), là một nhà thơ nổi tiếng thời Lê mạt,
Nguyễn sơ ở Việt Nam. Tác phẩm lớn nhất của ông là tập Truyện Kiều dài 3.254 câu, một
tập truyện thơ nôm viết theo thể lục bát với ý nghĩa thăng trầm, từ ngữ giai điệu phong phú
mà hầu hết người Việt Nam đều biết tới. Ngoài ra những tập Bắc hành tạp lục, Thanh hiên
thi tập, Văn tế thập loại chúng sinh của ông cũng rất nổi tiếng. Ông được xem như là một
nhà thơ lớn nhất Việt Nam từ trước đến nay, người Việt kính trọng gọi ông là "Đại thi hào
dân tộc". Năm 1965, ông được UNESCO tôn vinh là danh nhân văn hóa thế giới.
Cuộc đời : Ông sinh ngày 03 tháng 01 năm 1766 tức ngày 23 tháng 11 năm Ất Dậu,
quê làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, phủ Đức Quang, trấn Nghệ An (nay thuộc tỉnh
Hà Tĩnh), nhưng sinh ra ở quê mẹ- làng Kim Thiều, xã Hương Mặc, huyện Từ Sơn,
tỉnh Bắc Ninh [1] và trải qua thời thơ ấu ở Thăng Long. Ông thuộc dòng dõi trâm
anh thế phiệt: cha là Xuân Quận Công Nguyễn Nghiễm làm tới tể tướng dưới triều
Lê; mẹ là bà Trần Thị Tần, vợ thứ ba của Nguyễn Nghiễm, người xứ Kinh Bắc
(Nguyễn Nghiễm có 8 vợ, 21 người con). Anh khác mẹ (con bà chính) của ông là Toản
Quận Công Nguyễn Khản làm tới Tham Tụng, Thái Bảo trong triều. Do là con thứ
bảy nên Nguyễn Du còn được gọi là cậu Chiêu Bảy Năm 1771, ông cùng gia đình Tể
tướng Nguyễn Nghiễm chuyển về ở làng Tiên Điền Năm 1775, lúc 10 tuổi Nguyễn Du
mồ côi cha. Năm 1778, lúc mười ba tuổi mồ côi mẹ, ông phải ra Thăng Long ở với anh cả
là Nguyễn Khản Năm 1780, Nguyễn Du trở về làng Tiên Điền ở với người chú là Tiến sĩ
8
Nguyễn Hành Năm 1783, Nguyễn Du thi hương tại trường thi Nghệ An và đậu Tam
trường. Vì lẽ gì không rõ, ông không tiếp tục thi lên nữa, mà đi nhận một chức quan võ ở
Thái Nguyên, kế chân người cha nuôi của ông vừa mới từ trần. Năm 1789, Nguyễn Huệ

kéo binh ra Bắc, đại thắng quân nhà Thanh. Nguyễn Du, vì tư tưởng trung quân phong
kiến, không chịu ra làm quan cho nhà Tây Sơn Từ năm 1789 đến năm 1795, ông sống ở
Thái Bình- quê vợ Năm 1796: Nguyễn Du dự định vào Gia Định cộng tác với Chúa
Nguyễn, âm mưu bị bại lộ, bị nhà Tây Sơn bắt giam ba tháng. Từ 1797 đến năm 1802:
Nguyễn Du ẩn dật tại Tiên Điền. Khi Nguyễn Phúc Ánh lật đổ nhà Tây Sơn Nguyễn
Quang Toản, rồi mời Nguyễn Du ra làm quan; ông từ mãi mà không được nên miễn cưỡng
tuân mệnh. Năm Gia Long nguyên niên (1802),ông làm tri huyện huyện Phù Dực (nay
thuộc Tỉnh Thái Bình), rồi được ít lâu thăng tri phủ Thường Tín (Hà Đông). Năm 1805,
ông được thăng Đông Các điện đại học sĩ, tước Du Đức Hầu. Năm 1809, ông làm cai bạ
tỉnh Quảng Bình Năm 1813, thăng Cần Chánh điện đại học sĩ, được cử làm Chánh Sứ đi
Trung Quốc. Sau khi về nước, năm 1815, ông được thăng Lễ Bộ Hữu Tham Tri. Theo Đại
Nam Liệt Truyện: "Nguyễn Du là người ngạo nghễ, tự phụ, song bề ngoài tỏ vẻ giữ gìn,
cung kính, mỗi lần vào chầu vua thì ra dáng sợ sệt như không biết nói năng gì..." Năm
1820, Minh Mạng lên ngôi, cử ông đi sứ lần nữa, nhưng lần này chưa kịp đi thì ông đột
ngột qua đời. Đại Nam Liệt Truyện viết: "Đến khi đau nặng, ông không chịu uống thuốc,
bảo người nhà sờ tay chân. Họ thưa đã lạnh cả rồi. Ông nói "được" rồi mất; không trối lại
điều gì."
Tác phẩm tiêu biểu: Ngoài Truyện Kiều nổi tiếng ra, Nguyễn Du còn để lại
• Văn tế thập loại chúng sinh
• Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu
• Thanh Hiên thi tập : viết khi làm quang dưới triều Nguyễn
• Nam Trung tạp ngâm : viết khi làm quan ở Quảng Bình
• Bắc hành tạp lục : viết khi đi sứ Trung Quốc
Truyện Kiều là tên gọi phổ biến của tác phẩm Đoạn Trường Tân Thanh (chữ Hán: 斷腸
新聲) của đại thi hào Nguyễn Du. Tác phẩm này đã đưa Nguyễn Du lên hàng danh nhân
văn hoá thế giới. Theo Đại Nam chính biên liệt truyện, truyện được viết ra sau khi ông đi
sứ nhà Thanh về và theo lời truyền thì Phạm Quý Thích đã cho khắc in vào khoảng từ năm
1820 đến năm 1825. Bản khắc in đó nay không còn nữa. Tác phẩm này được viết bằng chữ
Nôm, gồm 3.254 câu thơ theo thể lục bát. Nội dung của truyện dựa theo tác phẩm Kim Vân
Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, Trung Quốc. Hiện nay, ở Việt Nam lưu truyền một

số dị bản của tác phẩm này. Bản nôm cổ nhất còn lưu giữ là bản "Liễu Văn Đường" khắc
in năm Tự Đức thứ 19 (1866), mới phát hiện ở tỉnh Nghệ An [1]
Truyện Kiều là tiểu thuyết viết bằng thơ lục bát. Truyện phản ánh xã hội đương thời thông
qua cuộc đời của nhân vật chính Vương Thuý Kiều. Xuyên suốt tác phẩm là chữ "tâm"
theo như Nguyễn Du đã tâm niệm "Linh Sơn chỉ tại nhữ tâm đầu" (nghĩa là "Linh Sơn chỉ
ở lòng người thôi"). Ngày nay, Truyện Kiều của Nguyễn Du là một trong những tác phẩm
văn học Việt Nam được giới thiệu rộng rãi nhất đến với các du khách cũng như các nhà
nghiên cứu nước ngoài.
9
Truyện Kiều đã từng được in ngược bởi Nhà xuất bản Thanh Niên để có thể đọc mạch
truyện ngược chiều thời gian từ "tái hồi Kim Trọng" trở về đoạn mở đầu truyện lúc hai
người còn chưa biết nhau.
Truyện Kiều cũng là tác phẩm được viết và đóng thành quyển sách nặng nhất ở Việt Nam
do nhà thư pháp Nguyệt Đình thực hiện. Truyện nặng 50 kg, làm trên trên khổ giấy 1 m ×
1,6 m và hiện được trưng bày tại Khu di tích Nguyễn Du huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
Hoàn cảnh ra đời
Theo Giáo sư Nguyễn Lộc ("Từ điển Văn học" tập II - Nhà xuất bản Khoa học Xã hội,
1984) trang 455 viết: "Đoạn trường tân thanh là một truyện thơ Nôm viết bằng thể lục bát,
dựa theo tác phẩm Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, Trung Quốc. Có thuyết
nói Nguyễn Du viết Truyện Kiều sau khi đi sứ Trung Quốc (1814-1820). Có thuyết nói
Nguyễn Du viết trước khi đi sứ, có thể vào thời gian làm Cai bạ ở Quảng Bình (1804-
1809). Thuyết sau này được nhiều người chấp nhận"[2].
Nội dung chính Nội dung chính của truyện xoay quanh quãng đời lưu lạc sau khi bán mình
chuộc cha của Thuý Kiều, nhân vật chính trong truyện, một cô gái "sắc nước hương trời"
và có tài "cầm kỳ thi họa".
Nhận xét về Nguyễn Du và tác phẩm Truyện Kiều
• Tiên Phong Mộng Liên Đường Chủ Nhân: "... Xem chỗ giấc mộng
đoạn trường tỉnh dậy mà căn duyên vẫn gỡ chưa rồi; khúc đàn bạc
mệnh gảy xong mà oán hận vẫn còn chưa hả, thì dẫu đời xa người
khuất, không được mục kích tận nơi, nhưng lời văn tả ra hình như

máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thắm ở trên tờ giấy, khiến ai đọc
đến cũng phải thấm thía ngậm ngùi, đau đớn như đứt ruột. Thế thì gọi
tên là Đoạn Trường Tân Thanh cũng phải.
"Ta nhân lúc đọc hết cả một lượt, mới lấy làm lạ rằng: Tố Như sử
dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả cảnh đã hệt, đàm tình đã thiết, nếu
không phải có con mắt trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả
nghìn đời, thì tài nào có cái bút lực ấy..."
• Phong Tuyết chủ nhân: "Đem bút mực tả lên trên tờ giấy nào những
câu vừa lâm ly, vừa ủy mị, vừa đốn tỏa, vừa giải thư, vẽ hệt ra người
tài mệnh trong mười mấy năm trời, cũng là vì cái cảnh lịch duyệt của
người ấy có lâm ly, ủy mị, đốn tỏa, giải thư, mới có cái văn tả hệt ra
như vậy..."
• Phạm Quỳnh : "Truyện Kiều còn, tiếng ta còn; Tiếng ta còn, nước ta
còn..."
10
• Georges Boudarel : "Ít nhà thơ trên thế giới có khả năng đạt được tiếng
vang sâu đậm trong dân chúng của mình như Nguyễn Du ở Việt Nam.
Truyện Kiều của ông là cuốn sách kinh điển của văn chương Việt Nam
nhưng là một thứ kinh điển mọi người đều biết, không có ai là ngoại
lệ."
Chị em Thuý Kiều Giúp các em ôn thi THPT môn Ngữ văn.
I/ VỊ TRÍ ĐOẠN TRÍCH
Đoạn trích thuộc phần mở đầu Truyện Kiều, giới thiệu gia cảnh Vương viên ngoại. Đó là một gia
đình trung lưu , có 3 người con. Con trai út là Vương Quan và hai cô con gái là Thúy Kiều và Thúy
Vân . . Đoạn trích gồm 24 câu ( từ câu 15 đến câu 38 ) nói về Chị em Thúy Kiều.
II/ BỐ CỤC:
a/4 câu đầu : Khái quát về ngoại hình và cốt cách hai chị em Kiều.
b/4 câu tiếp : Vẻ đẹp của Thúy Vân.
c/16 câu còn lại : Vẻ đẹp của Thúy Kiều .
III/PHÂN TÍCH ( Đọc và hiểu văn bản)

1/Đoạn trích kết cấu chặt chẽ thể hiện rõ trình tự miêu tả nhân vật tài tình của Nguyễn Du :
-Giới thiệu khái quát.
-Tả Thúy Vân để làm nền tả Thúy Kiều.
-Tả tài sắc vẹn toàn, hiếm có của Thúy Kiều.
2/Vẻ đẹp của Thúy Vân : Ta thấy gì qua việc tác giả chọn trình tự “tả Vân trước rồi mới tả Kiều" ?
Trước tiên tác giả chỉ nói khái quát. Chỉ với “ Mai cốt cách, tuyết tinh thần” ông đã khái quát được
vẻ đẹp chung ai cũng hoàn thiện, toàn mỹ (mười phân vẹn mười) tuy là “mỗi người một vẻ” với
những tính cách rất riêng.
Để làm việc này, tác giả đã dùng bút pháp ước lệ, tuợng trưng, lấy vẻ đẹp thiên nhiên để làm
chuẩn mực so sánh gián tiếp với vẻ đẹp của Vân, Kiều ( mai ,mây, tuyết…)
Chỉ với 4 câu miêu tả ngắn gọn, ngòi bút thơ của Nguyễn Du làm hiển thị một Thúy Vân từ khuôn
mặt, nét mày, màu da, mái tóc đến nụ cười của một cô gái xinh đẹp, thùy mỵ, nết na, dịu dàng,
đoan trang, phúc hậu và khiêm nhường . Biện pháp tu từ ẩn dụ ước lệ, đặc biệt là các từ “trang
trọng, đầy đặn, đoan trang, thua, nhường” đã phác hoạ ra một Thúy Vân phúc hậu, đẹp người đẹp
nết và nhất là đã ngầm dự báo một tương lai sáng sủa của nàng.
3/Vẻ đẹp Thuý Kiều :
Sau khi đã “chiêm ngưỡng” Thuý Vân “tài sắc vẹn toàn”như thế. Ta càng ngưỡng mộ hơn “tài sắc
Thuý Kiều” khi đọc đến “Kiều càng sắc sảo mặn mà. So bề tài sắc lại là phần hơn”. Thậm chí nếu
tác giả không nói thêm một lời nào nữa thì qua Thúy Vân tuyệt sắc kia ta cũng có thể hình dung ra
một Thuý Kiều “tài sắc tuyệt vời” như thế nào. Cái dụng ý của Nguyễn Du là ở chỗ này.
Vẻ đẹp của Thuý Kiều ẩn chứa trong đôi mắt :
“Làn thu thủy, nét xuân sơn”
Ánh mắt trong xanh như làn nước mùa thu. Lông mày xinh tươi như vẻ núi mùa xuân. Nhan sắc
đó đã làm cho hoa, liễu vô tri kia cũng muốn ganh tị, hờn ghen:
“Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”
Nhan sắc ấy đã làm cho tạo hoá phải ghét lây, các vẻ đẹp khác phải đố kỵ phải chăng để ngầm dự
báo cho một tương lai u ám, đầy éo le đau khổ của Kiều ?
Không chỉ có thừa “chỉ số” về nhan sắc, Kiều còn là một cô gái thông minh và tài hoa rất mực:
“Thông minh vốn sẵn tính trời. Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm”
Đủ tài “cầm kỳ thi họa” Kiều lại còn là một hảo cầm thủ mà tuyệt xảo là khúc “ Bạc mệnh" mà nàng

tự sáng tác ra:
“Cung thương làu bậc ngủ âm. Nghề riêng ăn đứt, hồ cầm một trương. Khúc nhà tay lựa nên
chương. Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân”.
11
Bằng lối tu từ ẩn dụ, ước lệ, thậm xưng, Nguyễn Du đã dựng nên một bức tranh tuyệt tác về nhan
sắc “nghiêng nước, nghiêng thành” của Kiều .
Qua đoạn trích này, Nguyễn Du đã hết sức trân trọng đề cao vẻ đẹp một con người, một vẻ đẹp
hoàn thiện , hoàm mỹ. Đây chính là một trong những biểu hiện của cảm hứng nhân đạo, nhân văn
trong Truyện Kiều vậy.
Cảnh ngày xuân
I/VỊ TRÍ ĐOẠN TRÍCH:
Đây là đoạn tiếp liền theo đoạn tả vẻ đẹp hai chị em Kiều.Đoạn này tả cảnh chị em
Kiều du xuân trong tiết Thanh minh. Cũng là một lễ hội ngày xuân theo phong tục
Trung Quốc
II/BỐ CỤC: a/4 câu đầu : Tả cảnh ngày xuân.
b/ 8 câu kế : Khung cảnh lễ hội trong tiết thanh minh.
c/6 câu cuối : Chị em Kiều du xuân trở về
III/ ĐỌC VÀ HIỂU VĂN BẢN1/ Khung cảnh ngày xuân :
Bốn câu thơ đầu gợi lên khung cảnh mùa xuân :
“Ngày xuân con én đưa thoi . Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.
Cỏ non xanh rợn chân trời. Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”
Ý câu đầu là ngày xuân qua đi nhanh như chiếc thoi dệt cửi do cái thoi
thường làm giống như con chim én . Nhưng cũng có thể hiểu là cảnh ngày
xuân chim én bay lượn đầy trời như con thoi đưa ngụ ý tiếc nuối ngày xuân
qua nhanh quá. Như thế hai câu đầu vừa nói về thời gian mà còn gợi tả
không gian mùa xuân.
Hai câu còn lại là một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp.
“Cỏ non xanh rợn chân trời. Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”
Bát ngát trải rộng đến tận chân trời là thảm cỏ non tơ xanh rợn. Đó chính là
gam màu nền của bức tranh ngày xuân tươi đẹp. Trên nền thảm cỏ xanh ấy

điểm thêm vài bông lê trắng. Màu sắc của bức tranh thật hài hòa. Tất cả cho
12
thấy ngày xuân ở đây thật mới mẻ, thanh tân, dạt dào sức sống trong một
không khí trong lành, thanh thoát. Từ “điểm” dùng ở đây làm cho bức tranh
thêm sinh động, có hồn.
3/ Chị em du xuân trở về :
Cảnh vật, không khí mùa xuân trong sáu câu này so với mấy câu đầu đã có
sự khác biệt.
Cái không khí rộn ràng náo nức của buổi sáng không còn . Mọi thứ đều đã
lắng xuống, nhạt dần. Cảnh vật lúc này từ nắng cũng “nhạt” đi, khe suối nhỏ,
nhịp cầu bắc ngang tuy vẫn giữ nét thanh diụ của mùa xuân với mọi chuyển
động nhẹ nhàng, nhưng mặt trời ngả bóng về Tây, bước chân người thẩn thơ
lưu luyến, tiếc nuối, dòng nước uốn quanh. Nhưng tất nhiên thời gian khác
thì không gian cũng khác. Nếu cảnh trong bốn câu đầu là cảnh buổi sáng lúc
lễ hôi mới bắt đầu thì ở đây là cảnh chiều tan hội . Tâm trạng mọi người theo
đó cũng khác hẳn. Những từ láy “nao nao”, “tà tà”, “thanh thanh” đâu chỉ tả
cảnh mà còn ngụ tình … Một cái gì đó lãng đãng, bâng khuâng, xuyến xao
và tiếc nuối…Ngày vui nào rồi cũng qua, cuộc vui nào rồi cũng tàn...Bởi lẽ
"Sự vật chảy trôi không ngoái đầu nhìn lại...Sự vật chảy trôi không quyền
nào ngăn cản nỗi" ( R.
Mã GIám Sinh mua Kiều
I/VỊ TRÍ ĐỌAN TRÍCH
Sau khi gặp gỡ, đính ước cùng Kim Trọng thì thình lình gia đình gặp tai họa. Cha và em bị bắt bớ,
hành hạ. Không đành lòng để gia đình tan nát, Kiều đã tự nguyện bán mình để lấy tiền lo lót cho
bọn tham quan để chuộc cha và em ra khỏi vòng lao lý. Chẳng may, kẻ đếm mua nàng lại là Mã
giám sinh, mộttên buônngười .
Đọan trích gồm 34 câu từ câu 619 đến câu 652
II/ĐẠI Ý:
Tả chuyện Mả giám sinh mua Kiều để lộ dần chân tướng con buôn của gả đồng thời cũng thể hiện
nỗi ê chề, nhục nhã trong tai họa bất hạnh đầu tiên của cuộc đời Kiều.

III/BỐ CỤC:
a/ Bốn câu đầu :Kiều quyết định bán mình. Gia đình nàng bắn tin cho người mối.
13
b/Hai mươi sáu câu giữa. Cuộc mua bán Kiều.
c/Bốn câu kết : Cuộc mua bán kết thúc và lời bình của tác giả.
IV/ GƠI Ý TỰ HỌC:
1/ Chân tướng của Mã giám sinh :
Xuất hiện trong vai một chàng sinh viên đi lấy vợ lẻ. Mã giám sinh đến nhà Kiều đển dạm hỏi Kiều
qua lễ “vấn danh”. Hắn là người phương xa, cả quê quán, lí lịch đều không rõ ràng. Tuy tuổi đã
ngoài bốn mươi nhưng hình thức diện mạo v‰n như trai lơ, bảnh chọe (Quá niên tạc ngoại tứ tuần.
Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao).
Ngoài ra còn có một đám tôi tớ lao xao nhâng nháo đi theo. Tất cả đều được mời vào nhà một
cách trang trọng . Thế nhưng ngay từ phút đầu tiên, Mã đã không dấu được bộ mặt thật của mình.
Đặc biệ với cŠ chỉ thô lỗ, không văn hoá “Ghế trên ngồi tót sổ sàng”. Chỉ với từ “ngồi tót, tác giả đã
vạch mặt gã cho mọi người thấy rõ đó không phải là “giám sinh” gì cả mà chỉ là một tên vô học,
thiếu lịch sự, thiếu văn hoá, một tên con buôn đúng ngh‹a “buôn thịt bán người” .
Tiếp đến là cách Mã nhìn, ngắm Kiều. Không phải là cách thức, tâm trạng của người đi “xem mặt
vợ” mà là cách nhìn, xem xét và đánh giá một một mòn hàng “đặc biệt”. Hắn đã “đắn đo cân sắc
cân tài. Œp cung đàn nguyệt, thŠ bài quạt thơ”. Hắn đã nhấc lên, đặt xuống, xoay sở đủ điều với
Thuý Kiều. Khi đã tạm hài lòng với “món hàng”, Mã lại che đậy bản chất của mình bằng những lời
khách sáo, mỹ miều, giả dối:
“Rằng mua ngọc đến Lam Kiều. Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường”
Nhưng nói là nói vậy chứ không phải vậy. Bởi ngay sau đó gã lại bộc lộ tính “con buôn” của mình
bằng cách thức “mua bán”, thách giá – trả giá như ngoài chợ trước “món hàng”
“Cò kŽ bớt một thêm hai. Giờ lâu ngả giá vàng ngoài bốn trăm”. Trong khi người ra giá (mụ mối) “
thách” đến “ Chữ trinh đáng giá ngàn vàng” (!!)
Lúc này Mã giám sinh đã hiện nguyên hình là một “con buôn thứ thiệt”, ghê tởm và đê tiện.
2/ Tâm trạng đau thương tủi hổ của Kiều:
Trong đoạn này, nếu hình ảnh Mã giám sinh càng xấu xa, đê tiện bao nhiêu thì hình ảnh Kiều càng
tội nghiệp bấy nhiêu.

Là một tiểu thư đài các “phong lưu rất mực hồng quần”. Kiều đang sống yên vui trong cảnh “Êm
đềm trướng rũ màn che” , lại đang say men hạnh phúc với mối tình đầu vừa chớm nở, trong sạch
nhưng cũng nồng ấm và mãnh liệt thì tai hoạ bất ngờ đổ xuống biến nàng thành món hàng cho
bọn “buôn người” trao tay “cò kŽ bớt một thêm hai” mua bàn, bán mua. Vốn là một người con gái
thông minh và nhạy cảm, kiều cảm nhận rất sâu sắc tình cảnh của mình trong lúc này là đáng hổ
thẹn , nhục nhã tột cùng.
“Nỗi mình thêm tức nỗi nhà. Thềm hoa một bước lệ sa mấy hàng.
Ngại ngùng rợn gió e sương. Nhìn hoa thẹn bóng, soi guơng mặt dầy”
Trong màn kịch “lễ vấn danh” , dưới tay đạo diễn của mụ mối. Kiều đã nhất cŠ nhất động làm
theo : đánh đàn, làm thơ như những việc làm máy móc, vô cảm , trơ lì chịu đựng, đành chấp nhận
tất cả, miễn sao đạt được mục đích là “có tiền” đễ chuộc cha và em ra khỏi vòng lao lý, để gia đình
không tan nát. Với dáng vẻ “Nét buồn như cúc, dáng gầy như mai”, hình ảnh của Kiều hiện ra thật
đáng thương, tội nghiệp. Tuy nín lặng rất mực nhưng cô gái nàuy đã không sao giấu được nỗi
niềm cay đắng , xót xa và tủi nhục tột bực của mình.
Qua đoạn trích này ta càng thấy rõ tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du qua thái độ đau đớn, xót xa
trước thực trạng thân phận và nhân phẩm con người, cụ thể ở đây là Kiều, bị chà đạp, bị hạ thấp.
Ngòi bút bất bình của tác giả phẩn nộ trong từng câu, từng chữ khi phải nói đến tên “buôn nguời”
Mã giám sinh. Cũng có thể nói đây là một lời tố cáo thực trạng xã hội xấu xa, lời lên án thế lực
đồng tiền thật mạnh mẽ
kieu o lầu Ngưng bich
I/ VỊ TRÍ ĐỌAN TRÍCH : Sau khi nhận Kiều từ tay Mã giám sinh, Tú Bà buộc nàng tiếp khách
nhưng Kiều không chịu. Mụ đã đánh đập thúc ép nên nàng đã tự sát để mong thóat
khỏi cảnh ô nhục nhưng không được. Tú Bà đành giam lỏng nàng trong lầu Ngưng
Bích nói là để tìm nơi xứng đáng gả chồng cho nàng nhưng kì thật là đợi để thực
14
hiện mưu ma chước quỷ băt nàng phải làm gái lầu xanh kiếm lợi cho mụ. Đọan trích
gồm 22 câu từ câu 1033 đến câu 1054.
II/ ĐẠI Ý trích đọan :Tả cảnh nơi lầu Ngưng Bích và tâm trạng cô đơn, buồn khổ, nhớ nhà,
nhớ người yêu của Kiều
III/ BỐ CỤC :

a/ 6 câu đầu : Giới thiệu thời gian không gian.
b/ 8 câu kế : Tâm trạng cô đơn, buồn khổ nhớ người yêu, nhớ cha mẹ của Kiều.
c/ 8 câu cuối : Ngọai cảnh trong mắt Kiều.
là IV/ĐỌC VÀ HIỂU VĂN BẢN .
1/Hòan cảnh cô đơn của Kiều :
Sáu câu đầu là bức tranh thiên nhiên tại lầu Ngưng Bích . Gợi tả hòan cảnh cô đơn của Kiều
Trước hết là hình ảnh bị giam lỏng : “Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân”.
Khóa xuân là khóa kín tuổi xuân, ý nói là bị cấm cung. Hai chữ cấm cung cho thấy Kiều bị giam
trong lầu Ngưng Bích như co gái bị cấm cung . Nàng trơ trọi giữa một khung cảnh thiên nhiên vắng
lặng, heo hút , không một bóng người :
“Vẻ non xa tấm trăng gần soi chung.
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia”.
Câu thơ "Bốn bề bát ngát xa trông” như mở ra trước mắt Kiều một không gian rợn ngợp. Từ lầu
cao nhìn ra là những dãy núi bát ngát điệp trùng xa mờ và mảnh trăng gần gũi như sắp chạm đầu.
Trước mắt nàng là cảnh vật bốn bề xa trông bát ngát, bên thì từng đụn cát vàng nhấp nhô như
sóng lượn , bên thì những đám bụi hồng trải khắp dặm xa.
Cảnh thiên nhiên mênh mông hoang vắng đó càng làm nổi bật hơn nỗi niềm cô đơn, buồn tủi của
Kiều khiến nàng thêm bẻ bàng chua xót :
“Bẽ bàng mây sớm đŽn khuya. NŠa tình nŠa cảnh như chia tấm lòng”
Cụm từ “mây sớm đŽn khuya” là từ thời gian khép kín. Khuya và sớm, đêm và ngày Kiều lẻ loi trơ
trọi chỉ biết làm bạn với mây và đŽn . Có thể nói đây là lúc nàng cô đơn tuyệt đối.
2/ Tâm trạng Thúy Kiều :
a/ Buồn và nhớ:
Trong xúc cảm, trước hết, nàng nhớ đến Kim Trọng. Nàng hình dung ra người yêu đang sầu tư
ngóng đợi. Có lẽ hơn lúc nào hết, trong lúc này, Kiều thương Kim Trọng vô hạn. Trong tình thương
ấy có một chút ân hận ,nàng cảm thấy như mình có lỗi với chàng. Để chàng phải ngày đêm trông
ngóng, đau khổ, mòn mõi “rày trông mai chờ”, Kiều xót xa, ân hận như một kẻ phụ tình.
“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng. Tin sương luống những rày trông mai chờ”.
Càng thương nhớ người yêu , càng tiếc nuối mối tình đầu không trọn vẹn, Kiều càng thấm thía tình

cảnh bơ vơ nơi đất khách quê người của mình và càng hiểu tấm lòng sắt son của mình đối với
Kim sẽ không bao giờ phai nhạt.
“Bên trời góc bểbơ vơ. Tấm son gột rŠa bao giờ cho phai”.
Ở bốn câu thơ còn lại , Kiều xót xa thương nhớ cha mẹ :
“Xót người tựa cŠa hôm mai . Quạt nồng ấm lạnh những ai đó giờ ? Sân Lai cách mấy nắng mưa.
Có khi gốc tŠ đã vừa người ôm”
Với cha mẹ, nỗi nhớ thương của Kiều cũng ngập tràn xót xa, da diết . Tuy đã bán mình cứu cha và
em khỏi cảnh ngục tù nhưng Kiều v‰n thấy mình chưa trọn đạo làm con . Nàng hình dung ra bóng
song thân giàyếu đang ngày đên “tựa cŠa” ngóng trông mình và xót xa tự ngh‹ ai sẽ là người thay
mình chăm sóc cha mẹ . Chỉ với bốn câu thơ độc thọai nội tâm, tác giả đã thể hiện một cách sinh
động , cao đẹp và đầy xúc cảm tấm lòng hiếu thảo của Kiều.
Trong đọan thơ này , tài năng của thi hào Nguyễn du còn thể hiện ở chỗ đã đặt tình trước hiếu khi
viết về tâm trạng Kiều. Để nàng nhớ người yêu trước rồi mới nhớ đến cha mẹ. Điều này thật
chuẩn xác và khách quan vì đối vơi cha mẹ Kiều đả tự bán mình, như vậy cũng đã đền đáp được
một phần chữ hiếu, công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ. Còn đối với Kim Trọng, Kiều đã
thấy mình lỗi hẹn như một người bạc tình:
“Kim lang ơi, hỡi Kim lang. Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”
15
Đây là một chi tiết nhỏ nhưng nó cho thấy cái tinh tế trong tâm lý nhân vật mà Nguyễn Du nhận ra
đã thể hiện một cách cực kỳ chính xác.
b/ Buồn và lo :
Tám câu cuối là tâm trọang buồn lo của Kiều qua nghệ thuật tả cảnh ngụ tình :
“Buồn trông cŠa bể chiều hôm. Thuyền ai thấp thóang cánh buồm xa xa.
Buồn trông ngọn nước mới sa. Hoa trôi man mác biết là về đâu.
Buồn trông nội cỏ dàu dàu. Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”.
“Buồn” và “trông”. Buồn và cô đơn, nhìn đâu cũng thấy cảnh vật như có hồn, như cũng buồn theo
mình. Cụm từ “buồn trông” như một điệp khúc vừa tạo ra nhạc điệu du dương vừa thể hiện nỗi
buồn lớp lớp trào dâng trong lòng Kiều. Có những nét tả thực với “cŠa bể, cánh buồm, chân mây,
tiếng sóng…” nhưng đều chứa đựng nhiều ngh‹a ẩn dụ , gợi mở những liên tuởng phản ảnh nỗi
lòng Kiều . Kúc này nàng đang cảm thấy số phận cô đơn mong manh trong hiện tại và hãi hùng

trước tương lai bão táp như đang chực chờ, đe dọa:
“Buồn trông gió cuốm mặt ghềnh. Ào ào tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”
Nàng tưởng tượng như mình đang ở giữa biển khơi, bốn bề ầm ầm sóng vỗ . sóng dữ gào thét,
cuồng nộ, tiếng dội bên tai dâng tràn dội cả vào tâm hồn , vây bủa nàng như dự báo cơn giông
bão sẽ đổ ập xuống đầu không biết vào lúc nào…
Kiều ở lầu Ngưng Bích một trong những đọan tả cảnh ngụ tình hay nhất trong Truyện Kiều.

16
Nghệ Thuật Tả Cảnh của Thi Hào Nguyễn Du trong Truyện Kiều
Bút pháp của đại thi hào Nguyễn Du được coi là điêu luyện, tuyệt bút trong đó nghệ thuật tả cảnh
tả tình được người đời sau khen ngợi "như máu chảy ở đầu ngọn bút" và "thấu nghìn đời". Xin giới
thiệu với các em bài viết của nhà phê bình Trần Ngọc về Nghệ Thuật Tả Cảnh của Thi Hào
Nguyễn Du trong Truyện Kiều.
Đoạn Trường Tân Thanh hay Truyện Kiều của thi hào Nguyễn Du là một áng văn chương tuyệt tác
trong lịch sŠ văn học nước ta. Truyện Kiều có giá trị về mọi mặt : tư tưởng , triết lý , luân lý , tâm lý
và văn chương. Truyện Kiều vì thế đã trở thành quyển truyện thơ phổ thông nhất nước ta: từ các
bậc cao sang quyền quý , trí thức khoa bảng , văn nhân thi s‹ , cho đến những người bình dân ít
học , ai cũng biết đến truyện Kiều , thích đọc truyện Kiều , ngâm Kiều và thậm chí bói Kiều.
Giá trị tuyệt hảo của truyện Kiều là một điều khẳng định mà trong đó giá trị văn chương lại giữ một
địa vị rất cao. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi xin được bàn đến nghệ thuật tả cảnh của thi
hào Nguyễn Du trong tác phẩm Đoạn Trường Tân Thanh hay Truyện Kiều Giá trị tuyệt hảo của
truyện Kiều là một điều khẳng định mà trong đó giá trị văn chương lại giữ một địa vị rất cao. Trong
phạm vi bài viết này, chúng tôi xin được bàn đến nghệ thuật tả cảnh của thi hào Nguyễn Du trong
tác phẩm Đoạn Trường Tân Thanh hay Truyện Kiều
Lối tả cảnh diễm tình .: Đây là lối tả cảnh mang tính cách chủ quan , man mác khắp
trong truyện Kiều . Cảnh vật bao giờ cũng bao hàm một nỗi niềm tâm sự của nhân vật chính hoặc
phụ ẩn chứa trong đó.Nói một cách khác , Nguyễn Du tả cảnh mà thâm ý luôn luôn đem cái cảm
xúc của người đối cảnh cho chi phối lên cảnh vật. Điều này khiến cho cảnh vật trở thành linh hoạt
như có một tâm hồn hay một nỗi xúc cảm riêng tư nào đó. Chính Nguyễn Du đã tự thú nhận sự
chủ quan của mình trong lúc tả cảnh qua hai câu thơ:

Trong khuynh hướng này , nghệ thuật tả cảnh của Nguyễn Du vượt khác hẳn các thi nhân khác ,
kể cả những thi s‹ Tây Phương , vốn rất thiện nghệ trong lối tả cảnh ngụ tình . Trong khi các thi s‹
này chỉ đi một chiều , ngh‹a là chỉ tìm những cảnh vật nào phù hợp với tâm trạng của con người thì
mới ghi vào , còn ï Nguyễn Du thì vừa đưa cảnh đến tâm hồn con người, lại đồng thời vừa đưa
tâm hồn đến với cảnh , tạo nên một sự giao hòa tuyệt vời hai chiều giữa cảnh và người , giữa cái
vô tri và cái tâm thức để tuy hai mà một, tuy một mà hai.. Ví dụ như khi chị em Kiều đi lễ Thanh
Minh về , tới bên chiếc cầu bắc ngang một dòng sông nhỏ gần mả Đạm Tiên , thì cả người l‰n
cảnh đếu cảm thấy nao nao tấc dạ trong buổi chiều tà :
“Nao nao dòng nước uốn quanh
Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang”
“Nao nao” chỉ tâm sự con người, nhưng cũng chỉ sự ngập ngừng lãng đãng của dòng nước trôi
dưới chân cầu. Hình ảnh một mảnh trăng khuyết soi nghiêng nhìn Kim Trọng khi chàng nŠa tỉnh
nŠa mê, chập chờn với hình ảnh Kiều sau lần gặp gỡ đầu tiên
‘Chênh chênh bóng Nguyệt xế mành
17
Tựa ngồi bên triện một mình thiu thiu”
Chàng biếng nhác cả việc sách đŽn , để phòng đọc sách lạnh tanh với tiếng gió quạnh hiu phập
phồng qua màn cŠa :
Buồng văn hơi giá như đồng
Trúc se ngọn thỏ tơ chùng phím loan
Mành Tương phất phất gió đàn
Hương gây mùi nhớ trà khan giọng tình.
Rồi những giờ phút thề ước ba sinh đã qua, khi phải tạm xa nhau thì dòng sông kia bỗng sao trở
thành kẻ khắt khe để chia rẽ duyên tình
Sông Tương một giải nông sờ
Bên trông đầu nọ bên chờ cuối kia
Một đoạn tả cảnh khác , tình người ẩn sâu trong cảnh vật . Đó là cảnh Kim Trọng sau khi hộ tang
cha , về tìm lại Kiều nơi vườn Lãm Thúy, nhưng người xưa nay còn thấy đâu , chỉ còn cảnh vườn
hoang cỏ dại lạnh lùng dưới ánh trăng:
Đầy vườn cỏ mọc lau thưa

Song trăng quạnh quẽ vách mưa rã rời
Lần thứ hai , Kim Trọng tìm về nhà Vương Viên Ngoại để hỏi thăm Kiều thì cảnh nhà bây giờ thật
sa sút , sân ngoài cỏ hoang mocï dại, ướt dầm dưới cơn mưa , tiêu điều như nỗi buồn tênh trong
lòng chàng :
Một sân đất cỏ dầm mưa
Càng ngao ngán nỗi càng ngơ ngẩn dường
. Khi Kiều ở lầu Ngưng Bích , nhìn qua song cŠa thấy cảnh biển chiều hôm , với những cánh buồm
xa xa lại tưởng tới thân phận bọt bŽo không định hướng của mình :
Buồn trông cŠa biển chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Lúc Kiều theo Mã Giám Sinh về Lâm Tri , thì lòng nàng cũng chẳng thực sự là vui mà buồn hiu hắt
như hàng lau bên vệ đường:
Gió chiều như gợi cơn sầu
Vi lô hiu hắt như màu khơi trêu
Và khi theo Sở Khanh để trốn Tú Bà , thì cảnh một đêm thu có trăng sáng , nhưng cũng lạnh lùng
cũng chẳng khác chi tâm sự rối bời của Kiều :
Lối mòn cỏ nhạt màu sương
Lòng quê đi một bước đường một đau
Lúc thất vọng não nề , muốn gieo mình xuông sông Tiền Đường cho rũ nợ trần, tâm sự Kiều cũng
như mảnh trăng sắp tàn , chẳng còn chút gì lưu luyến nơi thế gian:
18
Mảnh trăng đã gác non đoài
Một mình luống những đứng ngồi chưa xong
Lối tả chân.
Ngoài lối tả cảnh diễm ï tình, Nguyễn Du còn điểm trang cho truyện Kiều bằng nhiều bức tranh tả
chân, tả rất thực, và thuần túy là những họa xinh đẹp, không ngụ tình. Những bức tranh bằng thơ
có khi tươi tắn, có khi sầu mộng được viết theo lối văn tinh xảo .Chỉ cần một vài nét phác họa với
những điểm chính hiện hữu .

Đây là cảnh một túp lều tranh bên sông vắng lúc hoàng hôn , vừa giản dị , mộc mạc nhưng cũng
rất nên thơ:
Đánh tranh chụm nóc thảo đường
Một gian nước biếc mây vàng chia đôi.
Hoặc chỉ một vài nét chấm phá mà người đọc đã hình dung ra cảnh một mái tranh nghŽo rách nát
tơi tả theo tháng ngày:
Nhà tranh vách đất tả tơi
Lau treo rŽm nát trúc cài phên thưa
Hoặc bức tranh sơn thủy của một khung trời chiều long lanh phản chiếu trên mặt sông êm ả :
Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc non phơi ánh vàng
Hay bóng liễu rủ bên cầu và thướt tha soi bóng trên sông tạo nên một khung cảnh đẹp mộng thơ
Dưới cầu nước chảy trong veo
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha
Khi chị em kiều đi viếng mộ Đạm Tiên, thì cảnh vật cũng theo đó đìu hiu ảm đạm : cơn gió đìu hiu
lay động một vài cành lau trên vùng cỏ mờ nhạt theo sương chiều :
Một vùng cỏ áy bóng tà
Gió hiu hiu thổi một vài bông lau.
Cảnh thanh tịnh của ngôi chùa Giác Duyên nơi Kiều đã được cứu vớt , mà đường tới thì quanh co
theo giải sông ,có khu rừng lau như cách biệt với cuộc sống rộn rã bên ngoài :
Quanh co theo giải giang tân
Khỏi rừng lau đã tới sân Phật Đường
: Nghệ thuật tả cảnh của Nguyễn Du tuyệt vời đến nỗi Giáo sư Nghiêm Toản đã có nhận định như
sau: “trong Đoạn Trường tân thanh, luôn luôn có những bức tranh nho nhỏ như những hạt kim
cương rải rác đính trên một tấm thêu nhung” ( Việt Nam văn Học SŠ Trích Yếu)
Hãy xem cảnh bóng trăng chênh chếch soi mình trên sóng nước , đẹp lãng đãng như nỗi tưởng
nhớ miên man của Kiều về Kim Trọng sau buổi gặp gỡ lần đầu. Chỉ vài nét đon sơ giữa trăng ,
nước và sân nhà đã đủ diễn tả một khung cảnh tuyệt nhã đẹp như một bức tranh :
Gương nga chênh chếch dòm song
Vàng gieo ngấn nước , cây lồng bóng sân

Lối tả cảnh tượng trưng:
19
Nguyễn Du cũng rất nhiều khi phô diễn lối tả cảnh tượng trưng, ngh‹a là chỉ dùng một vài nét chấm
phá, thành một nghệ thuật đã đạt đến mức uyển chuyển và tinh tế .
Hãy nghe hai câu thơ :
Vi lô san sát hơi may
Một trời thu để riêng ai lạnh lùng
Đó là một cảnh một rừng vi lô trong mùa thu xám có gió heo may, lành lạnh. Lối tả cảnh này có thể
Nguyễn Du chỉ viết theo nghệ thuật cảm quan của mình chứ không hề ngh‹ rằng mình đang tạo ra
một lối vẽ cảnh một cách tượng trưng bằng những vần thơ . Mãi đến hơn một thế kỷ sau ,tức vào
thế kỷ 19 , lối tả cảnh tượng trưng nay mới phát triển thật mau tại Pháp mà các nhà phân tích văn
học gọi là “Symbolists”. Đó là sự nhận định của Giáo sư Hà Như Chi.
Nên để ý nghệ thuật của Nguyễn Du là mang cái gì rộng lớn mênh mông , để rồi đem vào hàm
chứa trong một cái gì nhỏ bé ( luận giải của Giáo Sư Hà Như Chi trong Việt Nam Thi Văn Giảng
Luận ) . Trong hai câu thơ trên, “một trời thu”mang một ý niệm không gian rộng lớn bao la , trong
khi bốn chữ “ riêng ai một mình”lại chỉ một phạm vi nhỏ bé , một tâm tình đơn lẻ cá nhân.
Một vài câu thơ khác cũng mang cùng một khuynh hướng như :
Hiên tà gác bóng nghiêng nghiêng
Nỗi riêng riêng chạnh tấc riêng một mình
Đó là cảnh mặt trời chiều bâng khuâng nghiêng mình soi bóng trước mái hiên nhà để rồi chuyển
sang , ẩn vào tâm tư riêng của một cõi lòng Kiều cô đơn. ( Cần chú ý thêm là cách dùng điệp ngữ
một cách tài tình khéo léo của Nguyễn Du , với chữ “ nghiêng và “riêng”được lập đi lập lại nhiều
lần mà v‰n cảm thấy hay .)
Có khi Nguyễn Du lại dùng một lối tả cảnh tượng trưng ngược lại , ngh‹a là đem tấc lòng nhỏ bé
của con người cho tỏa rộng bay hòa vào cái rộng lớn của trời đất.
Hãy xem cảnh Kiều và Thúc Sinh chia tay nhau
Người lên ngựa kẻ chia bào
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san.
Đó là sự phân ly buồn bã tuy chỉ giữa hai người , nhưng đã làm ảm đạm cả một vùng cảnh vật
chung quanh.

Hay cảnh Kiều thất vọng cuộc đời , mở cŠa phòng nhỏ bé để gieo mình xuống dòng bao la của
sông Tiền Đường :
CŠa bồng vội mở rŽm châu
Trời cao sông rộng một màu bao la.
Nói về nghệ thuật tả cảnh tượng trưng này, giáo sư Dương Quảng Hàm đã viết: “ tả cảnh thì theo
lối phác họa mà cảnh nào cũng linh hoạt.”
Lối tả cảnh dùng màu sắc.
Nghệ thuật tả cảnh bằng thơ của Nguyễn Du cũng dùng rất nhiều màu sắc như bức tranh của một
người họa s‹. Trước tiên phải là ánh sáng , một yếu tố cơ bản, rồi sau đó mới tới các màu sắc với
20
sự c pha chế sao cho làm nổi được cảnh chính và cảnh phụ
Hãy xem một cảnh Xuân tươi mát trên đồng quê qua ngòi bút tả cảnh đầy màu sắc của Nguyễn Du
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
Thật là một bức tranh màu sắc thanh nhã tuyệt hảo: trên thảm cỏ xanh mướt bao la, nổi những
bông hoa lê trắng tinh . Chỉ có hai màu xanh và trắng như nỗi thanh khiết của tâm hồn chị em Kiều
đi dự lễ Thanh Minh . Ở đây cũng cần để ý tới lối đảo chữ tài tình của Nguyễn Du. Thay vì “ cành
lê điểm một vài bông hoa trắng” thì Nguyễn Du đã viết:”cành lê trắng điểm một vài bông hoa” . Tất
nhiên có thể Nguyễn Du đã phải đảo chữ chỉ vì tôn trọng luật “bằng trắc” của thơ lục bát , nhưng
cũng phải công nhận đó là một lối đảo chữ tài tình mà không phải ai cũng làm được
Cũng một cảnh cỏ xanh nữa , nhưng lần này là màu xanh th‰m soi mình cạnh màu nước trong
Một vùng cỏ mọc xanh rì
Nước ngâm trong vắt thấy gì nữa đâu
. Hay cảnh lung linh ánh nước soi chiếu mây vàng của hoàng hôn:
Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc non phơi ánh vàng.
Một cảnh khác mà màu sắc lại buồn ảm đạm , chỉ có màu nâu của đất , màu xanh vàng của cỏ úa
chen chân bên cái thấp lŽ tŽ của gò đất mả Đạm Tiên:
SŽ sŽ nắm đất bên đường
Rầu rầu ngọn cỏ nŠa vàng nŠa xanh

Nói chung, Nguyễn Du chú trọng nhiều đến màu sắc của thiên nhiên, đặc biệt là của hoàng hôn
,của cây cỏ , của trăng và của nước là những màu sắc thi vị, nhưng lại gieo ấn tượng cho một nỗi
buồn xa xăm , cũng chỉ vì truyện Kiều mang bản chất nhiều nỗi buồn hơn vui.
Giáo sư Hà Như Chi dẵ nhận định về lối dùng màu sắc của cụ Nguyễn Du như sau :” Nguyễn Du
khi tả ánh sáng không những chỉ trực tiếp mô tả ánh sáng ấy , mà lại còn tả một cách gián tiếp ,
cho ta thấy sự phản chiếu trên ngọn cỏ , lá cây mặt nước,đỉnh núi ..”(Việt NamThiVăn Giảng Luận)
Đúng như thế, hãy xem cảnh khu vườn với hoa lựu nở đỏ như ánh lŠa lập lòe trong mùa hạ , khi
mùa nắng đã được đón chào bởi tiếng quyên ca lúc khởi một đêm trăng :
Dưới trăng quyên đã gọi hŽ
Đầu tường lŠa lựu lập lòe đâm bông
Lối dùng chữ trang nhã và bình dân trong tả cảnh.
Nguyễn Du là một thi nhân thuộc dòng dõi quan quyền phú quý , nhưng gặp phải cảnh loạn lạc đổi
chúa thay ngôi giữa nhà Lê và nhà Nguyễn , đã phải về quê cũ ở Huyện Tiên Điền để ẩn cư. Cụ
đã trải qua những ngày sống trong phú quý và những ngày sống thanh đạm nơi thôn dã , nên
trong tâm hồn đã thu nhập được hai cảnh sống . Cụ đã hài hòa kết hợp được hai cảnh sống đó ,
nên trong lãnh vực văn chương tả cảnh trong truyện Kiều , cụ có khi dùng những chữ thật trang
nhã quý phái , có khi lại dùng những chữ thật giản dị bình dân.
Chính vì Nguyễn Du đã kết hợp được cả hai lối hành văn bác học và bình dân một cách tài tình
21
nên truyện Kiều đã được tất cả mọi giai tầng trong xã hội đón nhận thưởng thức một cách nhiệt
thành. Những chữ mộc mạc bình dân đã chứng tỏ một bước tiến của nền văn chương Việt Nam
trên con đường xa dần ảnh hưởng của chữ Hán chữ nôm mà ï Nguyễn Du đã tiên phong
6. Lối dùng điển tích trong tả cảnh .
Nguyễn Du là một thi hào dùng rất nhiều điển tích trong tác phẩm của mình. Nhưng khác với
những nhà thơ khác , thường dùng điển tích chỉ vì chưa tìm được chữ quốc ngữ thích đáng để
thay thế . Nguyễn Du thì khác , cụ đã dùng điển tích để “ làm câu thơ thêm có ý vị đậm đà mà v‰n
lưu loát tự nhiên, không cầu kỳ thắc mắc “như Giáo sư Hà Như Chi đã nhận định. (Việt Nam Thi
Văn Giảng Luận) Nhưng phải nói, những điển tích mà Nguyễn Du dùng chính đã làm giàu cho nền
văn chương quốc ngữ Việt Nam , thậm chí nhiều điển tích đã trở thành ngôn ngữ hoàn toàn Việt
Nam , mà nói tới ai ai cũng hiểu ý ngh‹a đại cương của nó . Chẳng hạn những chữ Biển dâu, Gót

sen, Sư tŠ Hà Đông, kết cỏ ngậm vành , mây mưa, ba sinh, chắp cánh liền cành ..v...v .
Những điển tích thường nằm nhiều trong những đoạn thơ tả người, tả tình , tả tâm trạng , tả tiếng
đàn , trải dài trong suốt truyện Kiều
Riêng trong lãnh vực tả cảnh là chủ điểm của bài này, chúng ta không gặp nhiều điển tích cho
lắm . Nhưng cũng xin đan cŠ vài ví dụ.
Chẳng hạn như đoạn tả cảnh Kiều nhớ Kim Trọng bên dòng nước trong xanh phản chiếu ánh
trăng ngà :
“ Gương nga chênh chếch dòm song
Vàng gieo ngấn nước cây lồng bóng sân ”
Gương Nga”chỉ mặt trăng , do tích Hằng Nga , mỹ nhân , vợ của Hậu Nghệ , đánh cắp và uống hết
thuốc tiên mà Hậu Nghệ xin được của bà Tây Vương M‰u . Hằng Nga hóa tiên và bay lên mặt
trăng . Từ đó người ta thường gọi mặt trăng là Gương Nga hay chị Hằng , chị Nguyệt .
“Hai câu thơ khác :
Sông Tần một giải xanh xanh
Loi thoi bờ liễu mấy cành Dương Quan
Sông Tần lấy từ câu “ dao vọng Tần Xuyên, can trường đoạn tuyệt” ý nói ở xa nhìn nước sông Tần
như nát gan xé ruột . Dương Quan là tên một cŠa ải xa ở phía tây nam tỉnh Cam Túc. Cả hai điển
tích trên đều mang ý ngh‹a một sự nhớ nhung khi xa cách. Đó là lúc Thúy Kiều tiễn đưa Thúc Sinh
trở về thăm vợ cũ là Hoạn Thư.
Hay: Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Chữ Khóa Xuân lấy từ điển tích Châu Du bị gió đông cản việc phóng hỏa đốt trại Xích Bích , nên
Đài Đồng Tước không bị cháy , nhưng chính vì đó mà đã khóa chặt tuổi xuân hai chị em tên Đại
Kiều và Tiểu Kiều ,một người vợ Tôn Sách và một người vợ Châu Du..
Đông phong bất dữ Chu lang tiện,
Đồng Tước xuân thâm tỏa nhị Kiều .
Hai câu thơ trên ngụ ý tả cảnh lầu Ngưng Bích như là nơi đã khóa kín tuổi xuân của Thúy Kiều.
22
Một đoạn khác khi Kim Trong trở về vườn Thúy để tìm Kiều , nhưng nàng đã không còn ở đó, chỉ
còn ngàn cánh hoa đào hồng thắm đang cười như tiễn biệt gió đông

Trước sau nào thấy bóng người
Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông
Hai câu này lấy từ điển tích nho sinh Thôi Hộ đời nhà Đường , trở về Đào Hoa Trang để thăm
người con gái năm xưa đã dâng cho chàng nước uống trong lúc dự hội Đạp Thanh. Nhưng người
đẹp đã vắng bóng dù cảnh cũ v‰n còn đấy, chìm ngập trong ngàn cánh hoa đào phe phẩy dưới
nắng xuân . Thôi Hộ đã viêt hai câu thơ nguyên văn văn
Nhan diện bất tri hà xứ khứ ,
Đào hoa y cựu tiếu đông phong
Kết luận :Tóm lại , nghệ thuật tả cảnh của Nguyễn Du thật là muôn hình vạn trạng . Nghệ thuật ấy
chẳng khác gì nghệ thuật vẽ một bức tranh thủy mạc , nhiều khi chỉ một mảnh trời , một ánh trăng,
một cành liễu , một dòng nước hay một áng mây hoàng hôn ..v..vv . Chỉ thế thôi , nhưng chữ dùng
về màu sắc và cách sắp đặt cảnh gần xa thật tài tình đã đủ lôi cuốn tâm hồn người đọc , như để
cùng chung hòa vào cảnh vật. Một điều không thể chối cãi được là Nguyễn Du rất yêu cảnh thiên
nhiên nên đã ban cho cảnh thiên nhiên một “hồn người” khiến cho không ai đọc thơ tả cảnh của
Nguyễn Du mà không khỏi bồi hồi tấc dạ.. Giá trị văn chương tả cảnh của Nguyễn Du đã đạt tới
mức tinh diệu để chỉ riêng một lãnh vực tả cảnh không thôi, cũng đủ truyện Kiều không hổ thẹn để
xứng đáng là một tác phẩm văn chương quốc ngữ hay nhất trong kho tàng văn học của nước
. Hãy nghe học giả Đào Duy Anh nhận xét về truyện Kiều “ Chúng ta sở d‹ yêu chuộng truyện Kiều
không phải nó có thể làm quyển sách luân lý cho đời , mà chỉ vì trong sách ấy, Nguyễn Du đã dùng
những lời văn kỳ diệu để rung động tâm hồn ta...” ( Khảo Luận về Kim Vân Kiều)..
Thật đúng như vậy , những rung động trong tâm hồn được khơi dậy khi đọc truyện Kiều hẳn là một
điều không ai trong chúng ta có thể phủ nhận bởi vì chúng ta đã từng có những cảm giác này .
Truyện Kiều vì thế đã sống mãi với thời gian và không gian , từ thế hệ này qua thế hệ khác , lúc
nào cũng được mọi người trân trọng và yêu mến .
Nhân vật trong Truyện Kiều: Đậm và Nhạt
Truyện Kiều có hai loại người, Đậm và Nhạt. Một cách hoàn toàn chủ quan, tôi hiểu nhân vật Đậm
là nhân vật được khắc hoạ có vóc có vạc; từ hình hài diện mạo đến tính cách, hành động và số
phận của họ đều là những đường nét nổi bật lên trên nền hoàn cảnh chung bình thường, và bởi
thế mà họ tạo nên ấn tượng đặc biệt. Còn nhân vật Nhạt thì ngược lại, họ dễ bị chìm đi, bị tan ra
trong những đường nét nhạt nhòa, phôi pha của những tính cách nhạt nhẽo và những số phận

bình thường đến tầm thường.
(Hoài Nam - Báo Người đại biểu nhân dân)
23
Thế giới nhân vật trong kiệt tác Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du vốn đã
được mổ xẻ suốt gần hai thế kỷ nay, bằng đủ các công cụ phẫu tích sẵn có của
nhân gian.
Đơn giản thì người ta nhìn thấy ở đó sự đối lập giữa người tốt và kẻ xấu. Phức
tạp hơn, thì ở đó là mối quan hệ giai cấp giữa đại phong kiến – phong kiến
chuyển hoá thành tư sản – nông dân có tinh thần cách mạng! Và ở một phía
khác, lại là sự nhùng nhằng giữa những mẫu người thuộc khuôn khổ đạo đức
Nho giáo với những mẫu người phi Nho, phản Nho.
Tôi thì muốn đề xuất cách phân loại của riêng mình về cái thế giới nhân vật bàn
mãi không hết chuyện này: Truyện Kiều có hai loại người, Đậm và Nhạt. Một
cách hoàn toàn chủ quan, tôi hiểu nhân vật Đậm là nhân vật được khắc hoạ có
vóc có vạc; từ hình hài diện mạo đến tính cách, hành động và số phận của họ đều
là những đường nét nổi bật lên trên nền hoàn cảnh chung bình thường, và bởi thế
mà họ tạo nên ấn tượng đặc biệt.
Còn nhân vật Nhạt thì ngược lại, họ dễ bị chìm đi, bị tan ra trong những đường
nét nhạt nhòa, phôi pha của những tính cách nhạt nhẽo và những số phận bình
thường đến tầm thường. Tiện hơn cả, tôi sẽ xem xét hai cặp nhân vật Đậm –
Nhạt sau: Thúy Kiều/ Thúy Vân và Kim Trọng/ Từ Hải. Những nhân vật còn lại
thì bỏ qua, vì họ chưa đủ đậm hoặc chưa đủ nhạt để phải nói đến.
Thúy Kiều – Thúy Vân
a) Trong Truyện Kiều, Thúy Kiều đương nhiên là đệ nhất Đậm nhân vật. Nét
đậm của nàng thực ra không phải nằm ở Tài và Sắc (Sắc đành đòi một, tài đành
hoạ hai) mà là ở Tính và Tình.
Có thể nói, ở phương diện này bao giờ Kiều cũng bộc lộ ra như một con người
của những sự tới hạn, đôi khi rất trái ngược nhau, và không khi nào nàng chịu ổn
định trong một trạng thái, một cảm xúc trung bình cộng nửa vời. Chỉ vừa mới
nghe câu chuyện về cuộc đời của kỹ nữ Đạm Tiên, nàng đã “đầm đầm châu sa”:

Đau đớn thay phận đàn bà!
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung
Phũ phàng chi bấy hoá công!
Ngày xanh mòn mỏi, má hồng phôi pha
Sống làm vợ khắp người ta
Khéo thay thác xuống làm ma không chồng!
Nào người phượng chạ loan chung
Nào người tiếc lục tham hồng là ai?
Không phải là sự sẻ chia theo lối “đàn bà với nhau” thông thường nữa rồi. Cũng
không phải là biểu hiện “thương vay khóc mướn” của một tâm hồn nhạy cảm.
Đọc kỹ, ta sẽ thấy những lời than trách trên chính là những lời tự thán.
Bằng một tiên cảm kỳ lạ, Kiều đã nhìn thấy tương lai của mình qua số phận của
Đạm Tiên. Và nếu ta nhớ rằng cho đến lúc này Kiều mới chỉ là một cô nương
“Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê/ Êm đềm trướng rủ màn che/ Tường đông ong
bướm đi về mặc ai” – tức là chưa có mấy chút trải nghiệm trường đời – thì mới
thấy sự tiên cảm kia đã hé lộ một cái gì đó vượt ngưỡng.
Thế nhưng, cũng chính người con gái này khi đã yêu thì vô cùng táo bạo, quyết
liệt, bùng nổ như một thùng thuốc súng. Sau hai lần gặp Kim Trọng, đến lần thứ
24
ba thì Kiều đã “xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” để được gần người
mình yêu. Và rồi, ngay ở lần gặp thứ ba này nàng đã cùng chàng Kim
Tiên thề cùng thảo một chương
Tóc mây một món, dao vàng chia đôi
Vừng trăng vằng vặc giữa trời
Đinh ninh hai miệng một lời song song
Tóc tơ căn vặn tấc lòng
Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương
Đặt trong bối cảnh xã hội “Gia Tĩnh triều Minh” thì không ai có thể hình dung
được một tiểu thư khuê các như Kiều lại liều lĩnh đến thế.
Hình như mọi điều răn mà những cô thiếu nữ con nhà đều thuộc nằm lòng đã bị

nàng quên sạch để chạy theo tiếng gọi của tình yêu đầu đời, không e lệ, không
“bắc bậc làm cao” một chút cho “phải phép”. Trao trọn con tim cho người tình
chỉ sau ba lần gặp gỡ, tôi đoan chắc rằng cái tốc độ và cường độ tình yêu của
Kiều không hề thua sút nếu đem so với tình yêu của nam nữ thời internet toàn
cầu!
Trong Truyện Kiều đối chiếu, tác giả Phạm Đan Quế đã từng làm một thống kê
về những cảnh ngộ lặp lại trong đời Kiều: hai lần vào lầu xanh, hai lần đi ở, hai
lần đi trốn, ba lần định tự tử, ba lần đi tu, ba lần chia tay với người tình, bốn lần
bị đòn, năm lần đánh đàn, bảy lần nhớ nhà, bảy lần lấy chồng... Quả là một cuộc
đời trầm luân, buồn nhiều vui ít. Mà cái buồn của Kiều thì hiếm khi không đạt
tới đỉnh điểm của cảm xúc.
Hãy thử ví dụ bằng việc Kiều đánh đàn. Trong năm lần đánh đàn thì lần Kiều
đánh đàn cho vợ chồng Hoạn Thư – Thúc Sinh, và lần Kiều đánh đàn cho Hồ
Tôn Hiến nghe là oái oăm nhất. Lần một là hoạt cảnh vợ cả bắt vợ hai phải hầu
đàn cho ông chồng trong tư cách một nô tỳ, và không ai dám lên tiếng cải chính,
thì:
Bốn dây như khóc như than
Khiến người trên tiệc cũng tan nát lòng
Cùng trong một tiếng tơ đồng
Người ngoài cười nụ, người trong khóc thầm
Lần thứ hai là lần Kiều phải mua vui cho kẻ vừa mới đây thôi đã bức tử trượng
phu của mình, thì
Một cung gió thảm mưa sầu
Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay
Tóm lại, nếu có thể hình dung về Kiều theo con mắt của người làm nghệ thuật tạo
hình, thì đây là nhân vật được tạo nên bằng những đường nét gọn, sắc, dứt
khoát, những màu sắc nóng, chứa nhiều năng lượng gây nổ.
) Còn Thúy Vân thì đó là một nhân cách đối lập hoàn toàn. Một đệ nhất Nhạt
nhân vật trong Truyện Kiều. Vũ Hạnh, ở tập Đọc lại Truyện Kiều, có nói đến
việc Thúy Vân “không có mắt”! Đúng thế thật:

Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.
Quả thực là không có một chữ nào nói đến mắt Thúy Vân. Đôi mắt là cửa sổ của
25

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×