Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

Chức quan của Nguyễn Trãi và vị thế của ông trong triều đình nhà Lê

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (421.44 KB, 35 trang )

Friday, 9 November 2012

CHỨC QUAN CỦA NGUYỄN TRÃI VÀ VỊ THẾ CỦA ÔNG
TRONG TRIỀU ĐÌNH NHÀ LÊ - Đinh Khắc Thuân
CHỨC QUAN CỦA NGUYỄN TRÃI VÀ VỊ THẾ CỦA ÔNG TRONG
TRIỀU ĐÌNH NHÀ LÊ
ĐINH KHẮC THUÂN

Nguyễn Trãi ­ người anh hùng dân tộc, huân nghiệp của ông gắn 
liền với sự nghiệp vệ quốc vĩ đại của dân tộc Việt Nam thế kỷ XV. 
Cống hiến của Nguyễn Trãi trong sự nghiệp vệ quốc này vô cùng 
lớn lao, song lẽ cuộc đời công danh của ông lại hết sức thăng trầm, 
thậm chí kết cục phải chịu oan án "chu di tam tộc". Đã có không ít 
công trình nghiên cứu xung quanh vấn đề này(1), nhân 560 năm tròn
xảy ra cái oan án cay nghiệt này đối với một thiên tài có một không 
hai của đất nước, chúng tôi mong muốn được góp bàn đôi điều, thay 
vì thắp một nén nhang cho vong linh người khuất.
Về tiểu sử và nhất là chức quan của Nguyễn Trãi, chúng ta hầu như 
chỉ đọc được đôi chỗ ghi chép không thật chi tiết trong các chính sử,
trong đó tiêu biểu là trong Đại Việt sử ký toàn thư (Toàn thư). Tuy 
nhiên, chúng ta có thể nhận ra được những chức quan chủ yếu của 
ông trong từng giai đoạn cụ thể. 
Chức quan của Nguyễn Trãi được Toàn thư ghi lại lần đầu tiên vào 
năm 1427, qua đoạn văn sau đây: "Lấy Hàn lâm viện Thừa chỉ học 
sĩ Nguyễn Trãi làm Triều liệt đại phu, Nhập nội hành khiển, Lại bộ 
Thượng thư, kiêm hành Khu mật viện sự"(2). Như vậy là thời kì đầu
đến với khởi nghĩa Lam Sơn (khoảng 1416 ­ 1418), dâng Bình Ngô 
sách(3), Nguyễn Trãi đã được phong chức Hàn lâm viện Thừa chỉ 
học sĩ.
Như chúng ta đã biết, Hàn lâm viện ngày trước không phải là cơ 



quan khoa học, mà là nơi bao gồm người có tài văn học, giúp vua 
soạn thảo thơ văn, chiếu chỉ, được thiết lập ở Việt Nam từ thời 
Lí(4). Thừa chỉ là chức quan đứng đầu của Hàn lâm viện, như Đinh 
Củng Viên, Thái sư đời Trần Nhân Tông từng giữ chức Hàn lâm học
sĩ Phụng chỉ, soạn tờ chiếu thay vua(5). Chức quan Hàn lâm viện 
Thừa chỉ học sĩ của Nguyễn Trãi ở thời kì đầu nhà Lê là theo chế độ 
thời Trần. Có vị thế rất lớn trong triều đình, như một quan đầu triều. 
Với cương vị này, Nguyễn Trãi đã mang hết tài năng, góp sức với 
Lê Lợi chỉ huy kháng chiến thắng lợi và đấu tranh ngoại giao với 
nhà Minh. Thực tế, chính Nguyễn Trãi được giao soạn thảo và trao 
đổi các công văn, thư từ với nhà Minh(6). 
Khi kháng chiến đang tiến dần đến thắng lợi hoàn toàn, Hàn lâm 
viện Thừa chỉ học sĩ Nguyễn Trãi được phong làm "Triều liệt đại 
phu, Nhập nội hành khiển, Lại bộ Thượng thư, kiêm hành Khu mật 
viện sự"(7). 
Trong các chức danh trên, thì Triều liệt đại phu là hàm tản quan, 
tương đương Tòng tam phẩm. Hành khiển là chức quan có từ thời 
Lý ­ Trần. Lúc đầu chức này dùng cho các hoạn quan, điều hành 
việc hành chính trong cung, như Lý Thường Kiệt, Lý Thường Hiến 
thời Lý từng được ban chức này. Sau đó từ năm 1267 thời Trần, 
chức Hành khiển bắt đầu được dùng cho người có văn học. Còn 
Nhập nội là danh xưng của các chức quan thân tín của vua, như 
Nhập nội Hành khiển, Nhập nội Đại Tư mã, Nhập nội Đô đốc, Nhập
nội Kiểm hiệu,… Nhập nội hành khiển thực chất là chức danh của á 
tướng có từ thời Lý ­ Trần, như Trần Khắc Chung từng giữ chức 
Nhập nội Hành khiển Đồng bình chương sự, năm 1348(8). Nguyễn 
Trãi trong suốt cuộc kháng chiến, luôn ở bên cạnh vua trù tính mọi 
việc từ việc quân cơ đến việc ngoại giao: "Bấy giờ vua dựng lầu 
nhiều tầng ở dinh Bồ Đề. Hàng ngày vua ngự trên lầu nhìn vào 



thành để quan sát mọi hành vi của giặc; cho Trãi ngồi hầu ở tầng 
hai, nhận lệnh soạn thảo thư từ đi lại"(9). Nhập nội hành khiển tuy là
chức á tướng, nhưng trong giai đoạn này, khi mà có rất nhiều chức 
quan đại thần khác như "Tả hữu tướng quốc, Thái phó, Thái bảo vẫn
còn chưa đặt"(10), thì vai trò của Nguyễn Trãi càng vô cùng quan 
trọng. 
Lại bộ là bộ đứng đầu trong Lục bộ: Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công, 
cơ quan hành chính trực tiếp giúp vua điều hành chính sự. Chức 
trách của Thượng thư bộ Lại là bổ dụng quan lại trong cả nước. Tuy 
nhiên lúc này khi cuộc kháng chiến đang dần đến thắng lợi hoàn 
toàn, việc bổ dụng quan lại, về thực chất là thiết lập bộ máy Nhà 
nước ngày càng hoàn thiện tương xứng với vị thế của một vương 
triều mới được ra đời bằng chiến công chống ngoại xâm oanh liệt. 
Kiêm hành Khu mật viện sự, là sự kiêm nhiệm công việc của Khu 
mật viện. "Kiêm" là từ dùng chỉ chức quan này kiêm nhiệm thêm 
chức danh khác mà không có sự phân biệt cao thấp, sang hèn. Còn 
"hành" thì dùng chỉ chức quan cao đảm nhận thêm công việc của 
chức quan khác thấp hơn(11) ­ Khu mật viện. Khu mật viện vốn 
được đổi từ Sùng chính viện vào năm 923 thời Hậu Đường. Khu mật
viện được thiết lập ở Việt Nam qua các đời Lý, Trần, Lê, sau cùng 
được đổi thành Cơ mật viện vào thời Nguyễn, là cơ quan quân sự tối
cao, nắm quân quốc cơ vụ, biên bị, binh mã… Như vậy là chức quan
ở Khu mật viện thấp hơn chức quan mà Nguyễn Trãi đang giữ là 
Thượng thư bộ Lại và Nhập nội Hành khiển. Vì thế khi nhắc đến 
Nguyễn Trãi, người ta thường chỉ nhắc đến chức quan cao nhất của 
ông là Hành khiển, hoặc Thừa chỉ, nên thường gọi là Hành khiển 
Nguyễn Trãi, hoặc Thừa chỉ Nguyễn Trãi. Với các chức danh trên, 
Nguyễn Trãi là quan đại thần thân tín của vua Lê, giúp vua điều 

hành cả việc quân và chính sự.


Sau chiến thắng ban thưởng công danh, năm 1428 Nguyễn Trãi 
được phong tước "Quan phục hầu", và các chức danh đầy đủ của 
ông là "Tuyên phụng đại phu, Nhập nội hành khiển Môn hạ Hữu 
gián nghị đại phu, Đồng Trung thư lệnh sự, tứ Kim tử ngư đại, 
Thượng hộ quốc, Quan phục hầu, tứ tính Lê Trãi"(12). 
"Tuyên phụng đại phu" là hàm tản quan, nhưng cũng có ý nghĩa của 
quan đại phu phụng mệnh vua tuyên đọc các chiếu chỉ. Trong các 
chức tiếp sau, có "Môn hạ" và "Trung thư" tức "Môn hạ sảnh" và 
"Trung thư sảnh", hai trong Tam sảnh (Trung thư sảnh, Môn hạ sảnh
và Thượng thư sảnh), cơ quan văn phòng của vua. Theo quan chế 
nhà Trần và đầu nhà Lê, thì Môn hạ sảnh chia làm Tả ty và Hữu ty. 
Trong đó có Hữu Gián nghị đại phu là chức quan giám sát, có chức 
năng can gián vua được đặt ở đây để nắm việc bổ nhiệm đúng sai, 
nghị luận việc triều chính khuyết sót. "Đồng Trung thư lệnh sự" chỉ 
sự kiêm nhiệm công việc của Trung thư lệnh, chức trưởng quan giúp
vua bàn việc chính sự lớn. "Tứ Kim ngư đại" là được ban cái túi 
thêu con cá vàng, một đặc ân đối với đại thần từ quan tam phẩm trở 
lên. "Thượng hộ quốc" là một huân hàm dùng để tặng riêng cho 
người có công lao lớn. Quan phục hầu là phẩm tước gia ban mà cao 
nhất là Huyện Thượng hầu, cũng thời gian này được ban cho Lê 
Vấn, á Thượng hầu ban cho Lê Ngân, hai vị khai quốc công thần của
nhà Lê(13). Tứ tính Lê Trãi là Nguyễn Trãi được đặc ân ban quốc 
tính, tức được đổi theo họ của nhà vua. 
Với những chức tước nêu trên ở thời điểm ngay sau chiến thắng 
ngoại xâm, Nguyễn Trãi đã có một vị thế lớn trong triều đình nhà 
Lê, như một trong những vị khai quốc công thần.
Tuy nhiên sau đó không lâu, nhất là sau sự kiện tự trẫm của Trần 

Nguyễn Hãn và cái chết của Phạm Văn Xảo, hai vị đại thần và là 
người thân tín của Nguyễn Trãi, ông dần dần bị hạn chế quyền hành.


Chẳng vậy mà trong lạc khoản bài văn bia soạn cho lăng mộ Lê Thái
Tổ năm Thuận Thiên thứ 6 (1433), Nguyễn Trãi chỉ tự đề là: "Vinh 
lộc đại phu, Nhập nội hành khiển tri Tam quán sự, thần Nguyễn Trãi
vâng soạn"(14). Chúng ta biết rằng, Tam quán tức Chiêu văn quán, 
Tập hiền viện và Sử quán, coi việc sưu tập điển tịch, đồ thư và soạn 
sử. Rõ ràng là Nguyễn Trãi chỉ đảm nhận những chức vị hết sức 
khiêm tốn. Ngay cả đặc ân ban quốc tính, cũng không thấy nêu ở 
đây. Trong những năm cuối của vua Lê Thái Tổ và những năm đầu 
của Lê Thái Tông, quyền hành trong triều đình rơi cả vào tay bọn 
lộng thần, nhất là Đại tư đồ Lê Sát và Đô đốc Lê Vấn. Nguyễn Trãi 
chủ yếu chỉ được giao cho san định lễ nhạc, sử sách, như từng hiệu 
đính nhã nhạc, định quy chế mũ áo... Tuy nhiên đây lại là dịp tốt để 
ông thực hiện một số đường lối cải cách văn hóa, giáo dục. 
Nhưng rồi sau đó, với nhân cách và tài năng của mình, Nguyễn Trãi 
đã được Lê Thái Tông khôi phục quyền chức và được trọng dụng 
mà trong biểu tạ ơn năm 1439 ghi là "Vinh lộc đại phu, Nhập nội 
hành khiển Môn hạ sảnh Tả ty Hữu gián nghị đại phu kiêm Hàn lâm 
viện Thừa chỉ học sĩ, tri Tam quán sự, đề cử Côn Sơn Tư Phúc tự, á 
đại trí tự, tứ quốc tính Lê Trãi"(15). Như vậy, hầu như các chức tước
cũ của Nguyễn Trãi đã được khôi phục, trừ chức Lại bộ Thượng thư,
bởi chức này đã do người khác đảm trách. á đại trí tự là tước phong 
cao thứ hai, sau Đại trí tự. Ngoài ra, ông còn được giao chức danh 
mới là "đề cử Côn Sơn Tư Phúc tự", chức trách quản lí chùa Tư 
Phúc ở Côn Sơn, một danh thắng từng được ông ngoại của Nguyễn 
Trãi là Tư đồ Trần Nguyên Đán tu tạo và là nơi chính Nguyễn Trãi 
đã ở khi nhỏ và lúc tuổi già. Trong bài biểu tạ ơn, Nguyễn Trãi tỏ ra 

rất xúc động "Chức giữ Đông đài, thực việc triều đình rất trọng; việc
kiêm Tam quán, ấy điều Nho giả cực vinh. Huống ban quốc tính, dễ 
rạng tông môn; lại với công thần xếp cùng hàng liệt. Cảm mà chảy 


nước mắt, mừng mà sợ trong lòng…"(16). Nguyễn Trãi đã coi việc 
"kiêm Tam quán", công việc về văn hóa, giáo dục là cực vinh. Đây 
chính là ý thức về lòng tự hào nền văn hiến của dân tộc và trách 
nhiệm đào tạo, bồi dưỡng thế hệ mai sau. Chính năm 1442, triều 
đình nhà Lê đã mở khoa thi Tiến sĩ đầu tiên, trong đó vua Lê Thái 
Tông thân hành ra đề sách vấn và Nguyễn Trãi làm "độc quyển" 
(người duyệt bài thi lần cuối cùng để trình lên vua quyết định thứ 
hạng cao thấp). Lệ thi cử, tuyển chọn nhân tài ở nước ta trong lịch 
sử được định hình từ đây, có một phần không nhỏ xây nền đặt móng
của Nguyễn Trãi.
Cũng chính vì sự trọng dụng của vua Lê Thái Tông đối với Nguyễn 
Trãi mà nhiều lộng thần ghen ghét, đố kị. Và, cái oan án Lệ Chi 
Viên cũng không ngoài bàn tay tạo dựng bởi sự ghen ghét, đố kị 
này. Vì thế, sau khi lên ngôi, năm 1464 Lê Thánh Tông đã rửa oan 
cho ông. Tuy nhiên, cái oan nghiệt là ở chỗ thảm họa lại rơi vào 
chính bậc hiền tài, vị khai quốc công thần của triều đình.
Đ.K.T
CHÚ THÍCH:
(1) Ngô Thế Long: Những chức tước của Nguyễn Trãi trong cuộc 
đời tận tụy vì nước vì dân của ông, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 
3/1980, tr.33­41.
(2) Đại Việt sử kí toàn thư, Bản Chính Hòa 1697 (Bản dịch), tập 2, 
KHXH, H. 1998, tr. 263.
(3) Bình Ngô sách là kế sách đánh quân Minh. Kế sách này nhằm 
vào việc đánh thành quân đội Minh, nhưng không phải là "công 

thành", mà là đánh vào lòng người, tức là gọi hàng địch. Chính kế 
sách này đã từng dụ hàng nhiều thành lũy giặc như thành Nghệ An, 
Thuận Hóa.
(4) Dinh Khac Thuan, L'Académie au Vietnam sous les Mac: 1527­


1592 (Hàn lâm viện ở Việt Nam dưới thời Mạc),Revue de Moussons
(Tạp chí Gió Mùa), 2/2001, tr.74­82. 
(5) Đỗ Văn Ninh, Từ điển chức quan Việt Nam, Nxb. Thanh Niên, 
H. 2002, tr.279.
(6) Các thư từ, công văn này hiện được sưu tập trong Quân trung từ 
mệnh. Xem Nguyễn Văn Nguyên, Những vấn đề văn bản học Quân 
trung từ mệnh của Nguyễn Trãi, Văn học, H.1999, tr. 287­368.
(7) Đại Việt sử kí toàn thư, Sđd. tr. 263.
(8) Văn khắc Hán Nôm Việt Nam, Thời Trần, tập 2, Q. Thượng, 
Viện Nghiên cứu Hán Nôm và Viện Văn học Đại học Trung Chính, 
2002, tr.337.
(9), (10) Đại Việt sử kí toàn thư, Sđd. tr. 264, 270.
(11) Quan chế điển lệ  (Sách chữ Hán), kí hiệu: 
A.56/1, tờ 4a. Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm.
(12) Nguyễn Trãi toàn tập, in lần thứ 2, KHXH, H. 1976, tr. 25.
(13) Đại Việt sử kí toàn thư, Sđd., tr. 301.
(14) Nguyễn Trãi toàn tập, Sđd., tr. 93.
(15), (16) Biểu tạ ơn của Gián nghị đại phu kiêm tri Tam quán sự. 
Xem, Nguyễn Trãi toàn tập, Sđd., tr. 94, 208.
NGUYỄN TRÃI VỚI CHU DỊCH
LÊ VĂN QUÁN
Nguyễn Trãi là nhà Nho, được đào tạo trong nhà
trường Nho học đời Trần. Nhưng ông không chỉ 
thuộc lòng ở chữ nghĩa: “Thiên trời, địa đất, cử 

cất, tồn còn, tử con, tôn cháu..” hay là thấm 
nhuần đạo đức trong khuôn phép sách vở của 
thánh hiền: “Nhân chi sơ, tính bản thiện...” ­ 
(Người ta mới sinh ra, tính vốn lành), mà chủ 


yếu là tính tích cực của đạo Nho đã hóa thân 
trong tư tưởng của ông:
“Lấy đại nghĩa thắng hung tàn
Lấy chí nhân thay cường bạo”.
Chính vì thế, khi quân Minh xâm chiếm nước ta,
ông càng nhận rõ, bọn phong kiến Trung Hoa đã
gây bao tội ác chồng chất lên đầu dân Việt Nam:
cưỡng đoạt, cướp bóc, bòn mót, đầy đọa nhân 
dân vào cảnh bần cùng, đói rách, thân thể xác xơ
tiều tụy.
Khi bị giam lỏng ở thành Đông Quan, ông 
không thể chịu sống trong cảnh cá chậu, chim 
lồng, ông vẫn nung nấu ý chí tìm cách trốn thoát
khỏi bàn tay của giặc
Năm Canh Tý (1420), Nguyễn Trãi đến Lỗi 
Giang (địa điểm nằm giữa Cẩm Thủy, Bá 
Thước, Quan Hóa, Thanh Hóa) trao cho Lê Lợi, 
thủ lĩnh nghĩa quân Lam Sơn, bản Bình Ngô 
sách, trong đó ông vạch chiến lược, chiến thuật 
đánh giặc Minh.
Sau khi xem Bình Ngô sách, Bình định vương 
Lê Lợi đã trao cho Nguyễn Trãi chức Tuyên 
phụng đại phu, Hàn lâm thừa chỉ và luôn luôn 
giữ ông ở bên cạnh để bàn mưu tính kế đánh 

giặc Minh.
Ngoài việc cùng Lê Lợi vạch chiến lược, chiến 
thuật, Nguyễn Trãi còn làm tất cả các công việc 
giao thiệp với quân Minh. Nguyễn Trãi đã viết 
thư cho bọn chỉ huy giặc Minh, như Sơn Thọ, 


Phương Chính, Thái Phúc, Vương Thông v.v. để
mắng nhiếc chúng, khiêu khích chúng, hoặc dụ 
hàng chúng.
Trong các bức thư gửi cho bọn chỉ huy giặc 
Minh, Nguyễn Trãi đã nhiều lần vận dụng học 
thuyết âm dương biến dịch. Nói đến Kinh 
Dịch, ở Hệ từ hạ, chương thứ XI có câu: “Dịch 
chi vi thư dã, quảng đại tất bị, hữu thiên đạo 
yên, hữu nhân đạo yên, hữu địa đạo yên, kiêm 
tam tài nhi lưỡng chi, cố lục; lục giả phi tha dã, 
tam tài chi đạo dã.” (Dịch là, sách rộng lớn đầy 
đủ, có đạo trời, đạo người, đạo đất, gồm ba tài 
và gấp đôi lên, cho nên thành sáu, số sáu chẳng 
có gì khác, chỉ là đạo tam tài [trời, đất, người]).
Thuyết quái truyện lại nói: “Tích giả thánh nhân 
chi tác Dịch dã, tương dĩ thuận tính mệnh chi lý.
Thị dĩ lập thiên chi đạo, viết âm dữ dương, lập 
địa chi đạo viết nhu dữ cương, lập nhân chi đạo 
viết nhân dữ nghĩa, kiêm tam tài nhi lưỡng chi, 
cố Dịch lục hoạch nhi thành quái, phân âm phân 
dương, điệt dụng nhu cương, cố dịch lục vị nhi 
thành chương”. (Ngày xưa thánh nhân làm 
ra Kinh Dịch là để thuận cái lẽ về tính mệnh, 

cho nên lập đạo trời là âm và dương; dựng đạo 
đất là cứng và mềm; lập đạo người là nhân và 
nghĩa, gồm ba tài và gấp đôi lên, cho nên ở Kinh
Dịch (có chỗ chúng tôi còn gọi là Chu Dịch) sáu
nét vạch mà thành ra quẻ, chia ra âm và dương, 
đắp đổi dùng mềm và cứng, cho nên ở Kinh 


Dịch sáu ngôi mà thành chương).
Qua những điều đã trình bày trên, ta thấy Chu 
Dịch luôn nhắc đến đạo tam tài: trời, đất, người. 
Người xưa đều tôn trọng cả ba: đạo trời, đạo đất,
đạo người, những lấy đạo người làm trung tâm. 
Thấu hiểu sâu sắc Dịch lý ấy, cho nên gửi thư 
cho Sơn Thọ, Nguyễn Trãi viết:
“Tôi nghe trời có bốn mùa, phải nhờ hành thổ 
mới vượng, người có bốn đức, phải nhờ điều tin 
để thi hành. Nếu hành thổ không thịnh, điều tin 
không có, thì đạo trời tất hỏng, việc người tất 
hư. Cho nên hoàng cực lấy thổ ở giữa, dân linh 
lấy tin làm thực, mà sau công việc của trời của 
người mới được thỏa đáng” (Quân trung từ 
mệnh tập, “Lại thư cho Sơn Thọ”)(1).
Nguyễn Trãi nói, trời có bốn mùa, tức là xuân, 
hạ, thu, đông. Người có bốn đức: hiếu, lễ, trung, 
tín. Còn về hành thổ, không chỉ là một trong ngũ
hành: mộc, hỏa, thổ, kim, thủy, mà còn chứa 
đựng ý nghĩa của mối quan hệ tam tài: trời, đất, 
người. Đất là chỉ bốn phương: Đông, Tây, Nam, 
Bắc. Nguyễn Trãi vận dụng đạo tam tài của Chu

Dịch, là đề xuất đến phép tắc vĩnh hằng, phổ 
biến, khách quan, là bao quát đạo trời, đất, 
người, vũ trụ muôn vật biến hóa và đạo người 
sinh tồn, phát triển. Đó là phương thức tư duy 
chỉnh thể của Chu Dịch hòa đồng trời đất, người
thành một khối. Nó cũng là một đặc trưng chủ 
yếu của tư duy truyền thống Trung Quốc. Nó có 


ưu điểm và đặc điểm của tính chỉnh thể, tính 
hoàn bị, tính khách quan, tính hợp lý đã sản sinh
ảnh hưởng rất lớn đối với văn hóa tư tưởng 
truyền thống Trung Quốc. Chắc hẳn bọn chỉ huy
giặc Minh biết rõ điều đó. Cái điều mà trong 
sách kinh điển Trung Hoa có ghi: “Thiên thời 
không bằng địa lợi, địa lợi không bằng nhân 
hòa” cho nên Nguyễn Trãi nói: “Nếu hành thổ 
không thịnh thì điều tin không có, thì đạo trời tất
hỏng, việc người tất hư.” Nguyễn Trãi viết cho 
Sơn Thọ như vậy, chỉ là vì Sơn Thọ không thủy 
chung, không tín thực. Sơn Thọ trước đã nói rõ 
hẹn ước hòa giải: “Sau khi dâng biểu thì rút 
quân về ngay”, nhưng Sơn Thọ không thực hiện 
hẹn ước. Cho nên Nguyễn Trãi dùng văn hóa 
truyền thống Trung Hoa, đạo tam tài ở Chu 
Dịch để khuyến cáo chúng.
Ở bài Đầu mục nước An Nam kính gửi các tỳ 
tướng của thiên triều (triều Minh), Nguyễn Trãi 
viết: “ Kinh Dịch có câu nói rằng: quân đi phải 
có kỷ luật, nếu không có kỷ luật thì dầu phải 

cũng gặp sự không hay”.
Nguyễn Trãi nhắc đến câu nói ở Kinh Dịch là 
ông đề cập đến lời hào sơ lục của quẻ SƯ: “Sư 
xuất dĩ luật, phủ tang hung” (Ra quân phải có kỷ
luật, nếu không thì sẽ xấu). Quẻ SƯ là quẻ bàn 
về cách dùng binh. Đánh trận không phải là trò 
đùa vui, mạnh ai nấy làm, mà phải có kỷ luật. 
Thiên mở đầu trong Tôn Tử binh pháp đã nói 


“Binh giả, quốc chi đại sự, tử sinh chi địa, tồn 
vong chi đạo, bất khả bất sát dã”­ (Việc quân là 
việc lớn (trọng đại) của đất nước, là nơi sống 
chết, là đạo còn mất, không thể không xem xét). 
Cho nên lời quẻ trước tiên nhấn mạnh hai 
nguyên tắc lớn của chiến tranh: “trịnh, trượng 
nhân cát, vô cữu” ­ (giữ vững đạo chính, có bậc 
chỉ huy lão thành tài giỏi thì tốt, không có lỗi). 
Qua quái từ (lời quẻ), ta thấy rõ hai nguyên tắc: 
Một là, nắm vững tính chất của chiến tranh, 
dùng binh cần phải kiên trì đạo chính, là phải có 
chính nghĩa, ra quân phải giữ đạo chính nghĩa, 
đó là tiền đề lớn của chiến tranh. Hai là, phải 
giỏi lựa chọn người chỉ huy, tướng cầm quân 
hiền tài và giàu kinh nghiệm chiến đấu, đó là 
vấn đề then chốt của việc xuất quân thắng hay 
bại.
Nếu như trong chiến tranh quân đông ngựa 
nhiều trở thành quân nhân nghĩa, thì có thể đánh
thắng cuộc chiến tranh. Quân lính chẳng những 

phải giữ kỷ luật nghiêm minh, mà còn phải buộc
quân lính tôn trọng kỷ luật, như hào Sơ lục nói: 
“Sư xuất dĩ luật” (ra quân phải có kỷ luật); cần 
phải thưởng phạt công bằng, khiến quân lính vui
vẻ nghe hiệu lệnh như lời hào Cửu nhị nói: “Tại 
sư trung cát” (chỉ huy quân đội có đức trung, 
tốt). Như vậy mới có thể hướng dẫn quân lính đi
vào quĩ đạo quân chính nghĩa.
Tượng quẻ SƯ  : dưới quẻ KHẢM là hiểm, 


trên quẻ KHÔN là thuận. KHẢM hiểm tượng 
trưng chiến tranh, xấu, nguy hiểm. KHÔN thuận
tượng trưng lòng quân quy thuận. Tiến hành 
chiến tranh sống chết, còn mất, mà có được 
quân đông quy thuận, muôn người một lòng, hy 
sinh đến cùng, đó cũng là bản lĩnh đặc biệt của 
người chỉ huy chiến tranh. Cho nên đoạn mở 
đầu lá thư, Nguyễn Trãi viết: “Tôi nghe quân 
của vương giả, cốt trên thuận lòng trời, dưới hợp
lòng người. Nay các ông vâng mệnh đi đánh 
dẹp, chỉ nên trên xét lòng trời, dưới thuận việc 
người. Trước đây cái tai họa đắm thuyền, thì trời
đã răn bảo rõ lắm. Phàm quân đi qua một đường 
nào, việc chạy trốn chết hại thường có đến bao 
nhiêu người, nhân dân chứa oán lại quá lắm. Các
ông bỏ việc ấy không xét đến mà xông pha nguy
hiểm, khinh suất tiến quân... Huống chi lòng 
trời, lòng người đã như thế mà các ông còn cố 
gượng cứ làm, thì tự mua lấy thất bại, há chẳng 

đáng ư ? Vả lại, bọn An Viễn hầu (Liễu Thăng), 
Bảo Định bá (Lương Minh), Lý Thượng thư (Lý
Khánh) lại nối nhau bị chết, quân không người 
thống lĩnh, và không theo kỷ luật, chẳng bại 
vong sao được”...
Nguyễn Trãi chẳng những dùng lời lẽ ở Kinh 
Dịch để khuyên bảo giặc Minh, mà còn cảnh 
báo bọn chỉ huy giặc Minh, đem quân đi xâm 
lược là làm việc không chính nghĩa, không hợp 
lẽ trời, không hợp lòng người, nhân dân oán 


than, trời không dung đất không tha, cuối cùng 
thất bại, và sẽ chuốc lấy cái chết như Liễu 
Thăng, Lương Minh, Lý Khánh. v.v...
Đặc biệt Nguyễn Trãi hay nói đến “thời” Quân 
trung từ mệnh tập có tất cả 77 bài thì đã có 24 
trường hợp đề cập đến chữ “thời”. Ví dụ ở bài 
32 Thư dụ thành Tam Giang,ông viết: “Cái điều 
đáng quí của người quân tử là biết thời thông 
biến, lượng sức xử mình”. Hay là ở bài 34 Lại 
thư dụ Vương Thông, Nguyễn Trãi nhắc đi nhắc 
lại 13 lần chữ “thời”:
“Tôi thường xem Kinh Dịch 384 hào mà cốt yếu
là ở chữ thời, cho nên người quân tử theo thời 
thông biến, nghĩa chữ thời to tát sao ? Ngày 
trước, khi mới sang đánh Giao Chỉ, tướng thần 
vâng mệnh đi đánh kẻ có tội, bấy giờ là một thời
vậy. Ngày nay vận trời tuần hoàn, đi đi lại lại, 
khi ngài phụng mệnh sang đây được tiện nghi 

làm việc, nếu ngài quả biết theo chiếu thư của 
Thái Tôn mà cho lập con cháu họ Trần để khôi 
phục nước tôi, thì bây giờ lại là một thời vậy. 
Thời sao ! Thời sao ! thời không nên lỡ. Kinh 
Thư ­ Hạ thư ­ Dận chinh có câu: “Ai trước thời,
giết không tha, ai sau thời cũng giết không tha” 
(Tiên thời giả sát vô xá, bất cấp (hậu) thời sát vô
xá). Vì thế mà người lấy tùy thời xử trung làm 
quí. Song từ xưa đến nay, kẻ vu nho tục sĩ 
không hiểu thời, hiểu thời họa chăng chỉ có bực 
tuấn kiệt thôi. Như ngài chỉ có thể bảo là bực 


tuấn kiệt hiểu thời đấy...”
Nguyễn Trãi thông qua kinh sách của Trung 
Quốc mà các nhà Nho xưa thường gọi là “đạo 
thánh hiền” để khuyên bảo Vương Thông: 
“Người làm tướng phải hiểu thời thông biến. 
Thời có thịnh suy, quan hệ ở vận trời, việc có 
thành bại, thực ra là bởi tại người làm”. Chính vì
thế, cho nên Nguyễn Trãi nói tiếp: “Kể ra người 
dùng binh giỏi là chỗ biết rõ thời thế mà thôi. 
Được thời có thế, thì mất biến thành còn, nhỏ 
hóa ra lớn, mất thời không thế, thì mạnh hóa ra 
yếu, yếu lại thành nguy, sự thay đổi ấy chỉ trong 
khoảng trở bàn tay”. (Bài 35, Lại dụ Vương 
Thông).
Nguyễn Trãi dùng lời lẽ của Chu Dịch để đánh 
vào lòng quân thù có một ý nghĩa to lớn. Không 
những nó giác ngộ bọn tướng giặc thấy rõ hậu 

quả bi thảm của chiến tranh tội ác do chúng gây 
ra, mà còn thuyết phục đám quân lính sớm tỉnh 
ngộ thấy rõ chiến tranh xâm lược là phi nghĩa. 
Sức mạnh của Chu Dịch còn ở chỗ, những khái 
niệm, những nguyên lý, chủ trương và biện pháp
đề ra không phải tự Nguyễn Trãi đặt ra, cho nên 
những lời lẽ ấy rất có sức thuyết phục tướng lĩnh
và quân lính. Lúc này, Nguyễn Trãi tin nhân dân
Việt Nam dũng cảm, không hoang mang, không 
dao động trước những thử thách ghê gớm, 
không sợ những kẻ thù tàn bạo nhất. Chính lòng 
tự tin ấy khiến cho ông càng cương quyết, 


không khoan nhượng, có một sách lược mềm 
dẻo, giữ hòa khí và tôn trọng lợi ích của hai dân 
tộc trong quan hệ bang giao. Đó là thể hiện thế 
hơn hẳn của sức mạnh sáng suốt và độ lượng 
của chính nghĩa trước sức mạnh mù quáng và 
tàn bạo của phi nghĩa. Cái thời đế chế quân chủ 
Trung Hoa đến từ phương Bắc để chinh phục và 
mưu toan thôn tính, đồng hóa dân tộc Việt Nam 
không còn nữa. Cái mộng chính trị: Vua Hán là 
thiên tử và các nước Nam man phải về chầu và 
cống nạp đã lỗi thời rồi. Dân tộc Việt Nam nhất 
định chiến thắng. Nguyễn Trãi tin tưởng nói 
tiếp: Kinh Dịch có câu: “Cùng tắc biến, biến tắc 
thông” (Cùng thì biến, biến thì thông) (Bài 
37, Lại thư Vương Thông). 
Quy luật “Cùng tắc biến, biến tắc thông”, ở Chu

Dịch cho rằng, thế giới muôn vật đều không 
ngừng biến đổi, cho nênDịch truyện nói: “... 
Nhật trung tắc trắc, nguyệt doanh tắc thực, thiên 
địa doanh hư, dữ thời tiêu tức, nhi huống ư nhân
hồ ? huống ư quỉ thần hồ ? (Mặt trời ở giữa trời 
rồi sẽ xế, mặt trăng tròn rồi sẽ khuyết, trời đất 
đầy vơi cùng với thời gian sẽ lần lượt tiêu vong 
và sinh trưởng, huống chi là người ? huống chi 
là quỉ thần ? (Quẻ Phong, lời Thoán). 
Từ tự nhiên đến nhân sự, tất cả đều đang biến 
đổi. Sự vật biến đổi, phát triển, Dịch truyện nói: 
“Dịch cùng tắc biến, biến tắc thông, thông tắc 
cữu” (Đạo dịch đến cùng ắt sẽ biến hóa, đã biến 


hóa thì khai thông, nhờ khai thông mà được lâu 
dài.), (Hệ từ hạ, chương thứ II). 
Cùng là tận cùng, cực điểm, phát triển đến cực 
điểm thì sẽ thay đổi, thay đổi mới có thể khai 
thông, khai thông mới có thể lâu dài. Đó tức là 
tư tưởng “Vật cực tất phản” (Sự vật đến cùng 
cực sẽ chuyển hóa ngược lại).
Ở Chu Dịch có 64 quẻ, lấy quẻ Vị Tế làm quẻ 
cuối cùng, nói rõ 64 quẻ tuy đã hết, nhưng trời 
đất muôn vật biến đổi vẫn chưa hết. Sự vật biến 
đổi không phải một sớm một chiều phát sinh, mà
là lâu dài tích lũy dần dần rồi mới nảy sinh. 
Người làm tướng phải biết những dấu hiệu rất 
nhỏ của sự biến động. Thấy được những triệu 
chứng, những dấu hiệu mà ứng phó ngay, tức là 

đề phòng sự việc nhỏ, ngăn chặn sự việc xấu 
nảy sinh. Tư tưởng biện chứng của Chu Dịchrất 
rõ ràng, “Các ông sao không nghĩ thế, cứ khư 
khư cái tiểu tiết của Trương Tuấn, Hứa Viễn(2) 
ta e sĩ tốt của ngươi, ngày đêm thiết tha mong 
về, lại thêm cơm cháo chẳng no, tạp dịch liên 
miên, dẫu muốn đánh và giữ đã dễ ai theo” ­ 
(Nguyễn Trãi ­ bài đã dẫn).
Nguyễn Trãi lại nhấn mạnh đến qui luật đối lập 
của âm dương. Ông nói: “Vì người cầm quân ấy 
giữ việc đánh giết, nắm quyền sống chết: khi thì 
khoan hồng như khí dương, khi thì thảm khắc 
như khí âm, đều tuân theo lẽ phải của trời, 
không thể theo ý riêng mình được. (Bài 20, Thư 


dụ [tướng sĩ trong] thành Xương Giang).
Đúng thế ! Điều mà ở Chu Dịch, Dịch 
truyện nói đến “Nhất âm nhất dương chi vị đạo” 
(Một âm một dương gọi là đạo)(Hệ từ 
thượng, chương XI), chính là quy luật biến đổi 
của vũ trụ, muôn vật. Nó khái quát hết thảy sự 
vật thành hai phạm trù âm dương, chính hai 
nhân tố âm và dương đối lập và tác dụng lẫn 
nhau đã sinh ra muôn vật, thúc đẩy thế giới biến 
đổi. Cho nên tác dụng lẫn nhau giữa một âm một
dương là điều căn bản của hết thảy sự vật và 
biến đổi, điều đó gọi là đạo. Đạo là qui luật, mà 
Nguyễn Trãi muốn đề cập đến “là tuân theo lẽ 
phải của trời, không thể theo ý riêng mình 

được”. Vì thế, Nguyễn Trãi mới nói tiếp: “Kể ra,
thời có khi thịnh khi suy, thế có kẻ mạnh, kẻ 
yếu, cũng là lẽ trời, lòng người, thuận hay 
nghịch, hướng theo hay trái ngược. Nếu chỉ 
khăng khăng câu nệ và kiến thức hẹp hòi, cam 
lòng chịu lấy tai vạ, thì cũng đáng thương lắm”. 
(Bài đã dẫn trên).
Càng đi sâu nghiên cứu, chúng ta càng thấy 
Nguyễn Trãi am hiểu Chu Dịch rất sâu sắc, với 
những câu nói vô cùng tinh tế. Chẳng hạn, ở Ức 
Trai thi tập, mở đầu bài Đề kiếm Nguyễn Trãi 
viết:
“Lam Sơn tự tích ngọa thần long”
(Lam Sơn tự thuở rồng chưa bay).
“Rồng chưa bay” tức là rồng còn đang ở ẩn. 


Người nào đã đọc Chu Dịch, không thể không 
liên hệ đến quẻ Kiền, lời hào Sơ cửu: “Tiềm 
long vật dụng” – (Rồng còn ẩn náu, chưa (đem 
tài ra) dùng được). ở đây, Nguyễn Trãi đề cập 
đến Lam Sơn là nơi ban đầu xây dựng cơ nghiệp
nhà Lê. Ở giai đoạn rồng mới bắt đầu nảy sinh, 
sức mỏng cần phải nuôi dưỡng tôi luyện đội ngũ
tinh nhuệ và dần dần phát triển. Lúc này chỉ có 
thể tích lũy lực lượng, tụ tập nhân tài, rèn luyện 
đội ngũ, đợi thời cơ, đánh thắng giặc.
Hơn nữa, Nguyễn Trãi đã nhìn thấy quá trình 
vận động không ngừng của sự vật, của giới tự 
nhiên và xã hội loài người. Như trong bài 

thơ Bảo kính cảnh giới (Bài số 6), Nguyễn Trãi 
viết: “Vận chuyển chẳng dừng, sự thế gian”. ở 
đây, “sự thế gian” là Nguyễn Trãi muốn nói đến 
xã hội loài người luôn ở trong trạng thái vận 
động biến đổi. Nguyễn Trãi phản ánh trong thơ 
văn những sự vật phát triển biến đổi, vẫn là có 
qui luật. Qui luật này có thể qui vào hai điểm:
Một là, cực thịnh sẽ suy; hai là, tuần hoàn. Ví 
dụ, ở Quốc âm thi tập, Bài 85, Nguyễn Trãi viết:
“Hoa càng khoe tốt, tốt thời rữa,
Nước chớ cho đầy, đầy ắt vơi.”
Hay là ở Quân trung từ mệnh tập, Bài 7, “Đầu 
mục nước An nam là Lê Lợi thư gửi quan Tổng 
binh vương đại nhân Thái Giám Sơn đại nhân 
xét”, ông viết: “Thời có thịnh suy, quan hệ vận 
trời,...”


Ông nhìn nhận sự vật thịnh rồi có lúc suy, đời 
người có lúc bĩ, có lúc thái, những không thể cứ 
thái mãi, mà cũng có lúc chuyển hóa ra bĩ. Quan
niệm này, ngay ở Chu Dịch, quẻ Thái, hào Cửu 
tam cũng đã nói: “Vô bình bất bí, vô vãng bất 
phục” (Không có cái gì bằng phẳng mãi mà 
không thành bờ dốc, đi mãi mà không trở lại).
Điều này, Nguyễn Trãi nói rất rõ ở bài Côn Sơn 
ca: “Bi hoan ưu lạc điệt vãng lai, nhất vinh nhất 
tạ hoàn tương tục.” (Cái mừng, cái buồn, cái lo, 
cái vui thường thay đổi, cái nọ đi, cái kia đến, 
một tươi một héo luôn luôn nối tiếp nhau)(3).

Ông thừa nhận đạo người có phát triển, nhưng 
phát triển theo quy luật tuần hoàn. Ví dụ, ở Bài 
27, Thư cho Đả Trung và Lương Nhữ Hốt, ông 
viết: “Vận trời tuần hoàn, đi rồi lại lại, từ xa xưa
đến nay bao giờ cũng thế.” Hay là ở Bài 37,Lại 
thư cho Vương Thông, ở Bài 40, Thư dụ các 
thành Thanh Hóa, Nghệ An, ông nhắc lại câu: 
“Vận trời tuần hoàn, đi rồi lại lại”.
Chu Dịch cũng cho rằng, sự vật vận động biến 
đổi, là một quá trình tuần hoàn, lặp đi lặp lại: 
“Phục, hanh, xuất nhập vô tật, bằng lai vô cữu, 
phản phục kỳ đạo”, (Quẻ Phục tượng trưng cho 
sự hồi phục, hanh thông, ra vào không tai họa, 
bạn đến không có lỗi, vận trời tráo đi trở lại) 
(Quẻ Phục Quái từ (lời quẻ), (Phục, Quái từ) 
Chúng ta cũng phải thừa nhận trước chúng ta 
hơn 5 thế kỷ, tư tưởng Nguyễn Trãi đã chịu ảnh 


hưởng rất sâu củaChu Dịch, ông đã nhìn sự vật 
bằng con mắt động, nhìn thấy trong sự vật có sự 
chuyển hóa từ cái nọ sang cái kia. Trong tư 
tưởng của ông đã có những nhân tố biện chứng 
chất phác (thô sơ), mà hơn thế nữa, ông đã nhìn 
thấy tác dụng quyết định của hoàn cảnh đối với 
con người, mà ông còn khẳng định vai trò của 
quần chúng nhân dân quyết định lịch sử. Trước 
Nguyễn Trãi chưa có nhân vật lịch sử nào nói 
đến sức mạnh của nhân dân. Đối với Nguyễn 
Trãi nhân dân là sức mạnh, to lớn:

“Phúc chu thủy tín dân do thủy” (thuyền mới rõ 
sức dân như nước).
(Ức Trai thi tập ­ Bài Quan hải) 
Chính do cách nhìn ấy, cho nên Nguyễn Trãi 
cùng với Lê Lợi đã động viên và tập hợp được 
nhân tài, tổ chức nhân dân trở thành đội ngũ 
vững mạnh đánh thắng giặc Minh xâm lược.
L.V.Q
CHÚ THÍCH:
(1) Những câu của Nguyễn Trãi nói đều trích 
ở Nguyễn Trãi toàn tập ­ Nxb. KHXH, H. 1969.
(2) Thời Đường, khi An Lộc Sơn làm loạn, hai 
tướng của nhà Đường là Trương Tuấn, Hứa 
Viễn giữ thành Tuy Dương, để che đỡ cho miền 
Giang Hoài. Sau vì không có viện binh, lương 
hết thành hãm mà bị hại.
(3) Côn Sơn ca trong Hoàng Việt thi văn 
tuyển, tập II, tr.106­107, Nxb. Văn hóa ­ Thông 


tin, H. 1958 ­ Trịnh Đình Rư phiên âm và dịch.
CUỘC ĐẤU TRANH NGOẠI GIAO VỚI TRIỀU ĐÌNH NHÀ MINH
ĐẦU THẾ KỶ XV VÀ NHỮNG CHỨNG TÍCH CÒN LẠI
NGUYỄN VĂN NGUYÊN
Với ý đồ thống trị nước ta, triều đình phong kiến nhà Minh đã đem đội 
quân 80 vạn tên tiến sang đánh chiếm Giao Chỉ, gây ra cuộc chiến 
tranh xâm lược kéo dài suốt ba thập kỉ đầu của thế kỉ XV. Dã tâm 
chiếm đóng lâu dài của nhà Minh càng lộ rõ khi họ thiết lập ra hệ 
thống cai trị và tiến hành đàn áp dã man các cuộc kháng chiến của vua 
tôi nhà Hậu Trần và hàng loạt phong trào khởi nghĩa khác diễn ra sau 

đó, đặc biệt là đối với phong trào Lam Sơn. Ngay cả sau khi nghĩa 
quân Lam Sơn tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, tiêu diệt, làm tan 
rã toàn bộ hệ thống thành trì của giặc, rồi lại đánh tan hai đạo viện binh
hùng mạnh của chúng, khiến Tổng binh Vương Thông phải chấp nhận 
điều kiện của ta, lập hội thề chấm dứt chiến tranh và mang quân rút về 
nước ngày 22 tháng 11 năm Đinh Mùi (1427), và thậm chí cả sau khi 
chiến tranh đã kết thúc, Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế, lập ra triều đại mới 
ngày 15 tháng 4 năm 1428, nhà Minh dường như vẫn chưa cam chịu 
thừa nhận thất bại. Bằng cách bám lấy quan điểm "hưng diệt kế tuyệt" 
­ danh nghĩa đã được dùng để che đậy cho hành động xâm lược trước 
đây của họ, triều Minh vẫn tiếp tục âm mưu trì hoãn, phủ nhận sự tồn 
tại của triều Lê và nhà nước Đại Việt. 
Nghĩa quân Lam Sơn không phải không sớm biết rõ sự ngoan cố và ý 
đồ này của địch. Chính vì thế ngay từ những ngày cuộc chiến đấu còn 
đang xảy ra quyết liệt trên chiến trường, các lãnh tụ khởi nghĩa Lam 
Sơn đã bắt đầu triển khai một mặt trận ngoại giao trực tiếp với triều 
đình nhà Minh nhằm tới mục đích là giành lại quyền độc lập tự chủ 
toàn vẹn cho đất nước. Cuộc đấu tranh trên mặt trận chính trị ngoại 


giao này được lãnh tụ Lê Lợi và người trực tiếp thực hiện là Nguyễn 
Trãi tiến hành từ năm 1426, kéo dài cho mãi đến năm 1437 mới giành 
được thắng lợi cuối cùng. 
Khởi đầu của việc giao thiệp giữa nghĩa quân Lam Sơn với người 
Minh có thể là từ những biện pháp "tình thế" như việc sai bọn Lê Trăn 
đến chỗ quân Minh xin hòa vào tháng 12 năm Nhâm Dần (1422). Đó 
đang là thời kỳ khó khăn của những năm đầu khởi nghĩa. Cùng với sự 
lớn mạnh dần của nghĩa quân và sự tiến triển nhanh chóng của phong 
trào khởi nghĩa, việc giao thiệp với quân Minh được nâng lên thành 
một mặt trận đấu tranh chính trị phối hợp nhịp nhàng với các chiến 

dịch quân sự trong thế trận tổng hợp của cuộc chiến tranh nhân dân. 
Thông qua những bức thư địch vận do Nguyễn Trãi soạn thảo gửi cho 
các tướng lĩnh giặc Minh đang trực tiếp đánh nhau với ta trên chiến 
trường Giao Chỉ hiện còn lưu giữ lại trong tập Quân trung từ 
mệnh, chúng ta có thể thấy được các vị lãnh tụ Lam Sơn đã sử dụng 
thứ vũ khí đánh vào lòng địch này một cách tài tình dưới hai hình thức 
đấu tranh hòa đàm và dụ hàng, qua đó đã góp phần không nhỏ vào 
thành công của cuộc khởi nghĩa. Tư liệu trong sử sách cũng từng ghi 
nhận: "Các thành Nghệ An, Thuận Hóa, Tây Đô, Đông Đô đều sai văn 
thần Nguyễn Trãi viết thư, dụ bảo bọn giặc điều họa phúc, nên không 
cần đánh mà chúng phải đầu hàng"(1). 
Nhưng đến giai đoạn cục diện chiến trường bắt đầu phát triển dần có 
lợi cho ta và khi đã có thể nhìn thấy khả năng chiến thắng đội quân 
xâm lược thì các lãnh tụ nghĩa quân cũng nhận ra rằng, để đạt tới thắng
lợi toàn vẹn cuối cùng, chỉ bằng sức mạnh quân đội kết hợp với đấu 
tranh địch vận dường như là chưa đủ. Những bức thư của Nguyễn Trãi 
có thể dụ hàng được những viên tướng giặc như Trương Lân ở thành 
Điêu Diêu, Lưu Thanh ở thành Tam Giang, hay giải giáp được cả đại 
bản doanh địch ở thành Đông Quan do Vương Thông chỉ huy, thậm 


chí làm tan rã cả một cánh viện binh Vân Nam gồm 5 vạn tên của Mộc 
Thạnh... Nhưng vấn đề chấm dứt hẳn cuộc chiến tranh xâm lược của 
ngoại bang, giành lại và duy trì nền độc lập tự chủ lâu dài cho đất nước
sẽ phải được quyết định từ triều đình phương Bắc. Vì thế, cuộc đấu 
tranh ngoại giao bắt đầu được triển khai với đối tượng là triều đình nhà
Minh mà trực tiếp là các vua Minh Nhân Tông, Tuyên Tông và Anh 
Tông. Về phía triều đình nhà Minh, họ không phải dễ dàng chấp nhận 
ngay sự giao thiệp này, bởi cho đến trước khi thất bại hoàn toàn trên 
chiến trường (tháng 11 năm 1427), họ vẫn coi Lê Lợi và phong trào 

Lam Sơn là "làm loạn", là "giặc". Nhưng trong tình thế thất bại về mặt 
quân sự và trước sự đấu tranh chính trị kiên quyết nhưng khôn khéo 
của nghĩa quân đã khiến họ phải dần dần thay đổi thái độ. Tuy tạm thời
chưa chịu công nhận phía ta như đại diện của một quốc gia độc lập, 
nhưng đã phải chấp nhận sự giao thiệp trực tiếp, và trong Minh sử kể 
từ năm 1428 trở đi đã phải coi người do phía ta cử sang giao thiệp là 
"sứ giả", đồng thời về phía họ, triều Minh cũng bắt đầu cử những viên 
quan có chức vụ trong triều như Tả thị lang, Hữu thị lang, Thượng thư,
Hành nhân v.v. sang ta tiến hành trao đổi.
Mục đích của cuộc đấu tranh ngoại giao giữa nghĩa quân Lam Sơn với 
triều đình nhà Minh chính là nhằm xác định lại mối quan hệ giữa hai 
nước từng bị thay đổi sau cuộc chinh phạt của Minh Thành Tổ vào 
năm Vĩnh Lạc thứ 4 (1406). 
Lịch sử nước ta đã từng trải qua một giai đoạn đen tối kéo dài hơn một 
nghìn một trăm năm dưới sự thống trị của phong kiến phương Bắc, đó 
là thời kỳ Bắc thuộc. Trong thời kỳ này, các triều đại phong kiến 
Trung Quốc từ đời Tần, Hán đến thời Ngũ đại chia nước ta thành hệ 
thống quận huyện và cắt đặt quan lại trực tiếp cai trị. Cho đến năm 
939, sau ngày chiến thắng đội quân Nam Hán của Hoằng Thao trên 
sông Bạch Đằng, Ngô Quyền bắt đầu xưng Vương, đặt trăm quan, chế 


định triều nghi phẩm phục(2), kể từ thời gian đó trở đi nước ta mới 
chấm dứt thời kỳ lệ thuộc phương Bắc. Mặc dù trong thời kì lịch sử 
này, ta đã giành quyền tự chủ hoàn toàn trong việc điều hành đất nước;
nhưng như một số nước khác cùng nằm trong khu vực lân cận với 
Trung Quốc mà thời cổ gọi chung là "Nam Hải 南 南"(3), các vương 
triều nước ta đều phải chịu ảnh hưởng nặng nề của khái niệm thống trị 
"Tông ­ Phiên 南 南", trong quan hệ giữa họ với đế quốc Trung Hoa. 
Đây là một khái niệm có quan hệ chặt chẽ với quan niệm của Trung 

Quốc cổ đại về một Thiên triều ở trung tâm thống trị "tứ di". Khái 
niệm thống trị này đã xuất hiện ở Trung Quốc rất sớm. Sau các cuộc 
chiến tranh thôn tính lẫn nhau giữa các bộ lạc, nhà Hạ xuất hiện và đã 
trở thành bá chủ chung của các bộ lạc lân cận khác. Từ đó về sau hình 
thành bức tranh về một vương triều ở trung tâm và bốn bộ tộc Di, Man,
Nhung, Địch ở xung quanh hướng về thần phục. Cùng với sự phát triển
và biến đổi của các giai đoạn lịch sử, sơ đồ này được bổ sung cụ thể và
hoàn thiện dần. Các nhà nghiên cứu đã căn cứ vào tư liệu về mối quan 
hệ xa gần và sự thần phục, cống nạp của các bộ tộc, chư hầu đối với 
vương triều để lập ra các sơ đồ "Ngũ phục 南 南" của các vương triều 
vua Nghiêu và vua Vũ, trong đó tính từ Vương kì (kinh đô của Vương 
triều) ở trung tâm và một vùng rộng 5000 dặm bao quanh (gọi là Điện 
南) thuộc quyền quản lý của Vương triều trở ra, cứ cách 500 dặm là 
thuộc về một khu vực, được xếp theo thứ tự của mối quan hệ với 
Vương triều từ chặt chẽ đến nới lỏng dần, lần lượt gọi là Hầu 南, Tuy 南,
Yếu 南, Hoang 南, Trưởng 南. Đến thời nhà Chu, sơ đồ được phát triển 
thành "Cửu phục 南 南", gồm một Vương kì 南 南 ở trung tâm và 9 khu 
vực phụ thuộc ở xung quanh chia thành thứ hạng tùy theo quan hệ của 
họ với vương triều, lần lượt là Hầu 南, Điện 南, Nam 南, Thái 南, Vệ 南, 
Man 南, Di 南, Trấn 南, Phiên 南.
Các đời Tần, Hán cho đến Minh, Thanh về sau vẫn kiên trì với khái 


×