Tải bản đầy đủ (.pdf) (145 trang)

Tình trạng và vị thế của người nghèo trong phát triển nông thôn tại xã trường sơn, huyện lương sơn, tỉnh hoà bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.54 MB, 145 trang )

Bộ giáo dục đào tạo
Trờng Đại học nông nghiệp I

------------#"------------

Mai thị lan hơng

tình trạng và vị thế của ngời nghèo
trong phát triển nông thôn tại
xà trờng sơn, huyện lơng sơn, tỉnh hoà bình

Luận văn Thạc sĩ kinh tế

Hà Nội - 2004

1


Bộ giáo dục đào tạo
Trờng Đại học nông nghiệp I

------------#"------------

Mai thị lan hơng

tình trạng và vị thế của ngời nghèo
trong phát triển nông thôn tại
xà trờng sơn, huyện lơng sơn, tỉnh hoà bình

Luận văn Thạc sĩ kinh tế


Chuyên ngành: Kinh tÕ n«ng nghiƯp
M· sè: 5 02 01

Ng−êi h−íng dÉn khoa học:
PGS. TS. Lê Hữu ảnh

Hà Nội - 2004

2


1. Phần Mở đầu

1.1. Tính cấp thiết của đề tài

Việt Nam đang trong thời kỳ phát triển kinh tế với tốc độ tăng trởng kinh
tế hàng năm khá cao. Đó là kết quả của hàng loạt các chính sách đúng đắn của
nhà nớc về phát triển kinh tế trong nớc, hội nhập với các nớc trong khu vực và
trên thế giới.
Trớc xu thế toàn cầu hoá, nền kinh tế thế giới nói chung và Việt Nam nói
riêng đang có những bớc phát triển mạnh mẽ. Hội nhập kinh tế là một xu hớng
tất yếu trong tiến trình phát triển kinh tế thế giới, nó đem lại cho nền kinh tế thế
giới những bớc phát triển nhảy vọt. Tuy nhiên, nó cũng đem lại nhiều vấn đề cho
thế giới nh sự phân hoá giàu nghèo ngày càng mạnh giữa các nớc phát triển với
các nớc đang phát triển, giữa những ngời giàu và ngời nghèo trong cùng một
quốc gia. Điều này đem lại rất nhiều các vấn đề nảy sinh trong xà hội cho mỗi quốc
gia nh các tệ nạn xà hội ngày càng gia tăng, kinh tế đất nớc kém phát triển, tình
hình chính trị bất ổn định,... Vì vậy, xoá đói giảm nghèo là mối quan tâm lớn của
rất nhiều quốc gia. Việt Nam cũng không nằm ngoài mối quan tâm đó.
Trờng Sơn là một xà miền núi thuộc huyện Lơng Sơn - tỉnh Hoà Bình,

trong những năm gần đây đà có những bớc phát triển kinh tế đáng khích lệ, đời
sống ngời dân ngày càng đợc cải thiện. Tuy nhiên, tỷ lệ hộ đói nghèo vẫn còn
nhiều hiện đang là mối quan tâm lớn của địa phơng và của các cấp, các ngành.
Xoá đói giảm nghèo ở nông thôn Việt Nam nói chung và ở xà Trờng Sơn huyện Lơng Sơn - Hoà Bình nói riêng đang đợc đặt ra nh một yêu cầu cấp
bách cần phải giải quyết với nhiều phơng pháp tiếp cận trên cả bình diện vĩ mô
và vi mô.
Trớc điều kiện cơ chế kinh tế mới, nhiều hộ gia đình đà mở rộng các mối
quan hệ, phơng pháp làm ăn và đà thu đợc kết quả là họ giàu lên nhanh chóng
nhờ có kiến thức và biết cách làm ăn. Trái lại, có khá nhiều hộ do rất nhiều lý do
khác nhau không bắt kịp với nền kinh tế thị trờng họ trở nên l¹c hËu so víi x·

3


hội, kết quả làm ăn kém, ngày càng thua lỗ, nợ nần dẫn đến không có điều kiện
đầu t cho sản xuất và rơi vào tình trạng: có khi có nhân lực nhng thiếu vốn để
sản xuất, cũng có khi có vốn nhng lại không biết làm thế nào để có đợc thu
nhập,... Để giúp ngời dân dần từng bớc thoát khỏi cảnh nghèo đói nh hiện nay,
cũng nh để cải thiện tình trạng của ngời nghèo chúng ta đà và đang có rất nhiều
giải pháp. Vậy tình trạng nghèo đói của các hộ nông dân ra sao? Vị thế của ngời
nghèo trong xà hội nh thế nào? Nguyên nhân dẫn đến nghèo đói và ảnh hởng
của nghèo đói đến các vấn đề xà hội nh thế nào?
Để góp phần trả lời những câu hỏi trên chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề
tài: "Tình trạng và vị thế của ngời nghèo trong phát triển nông thôn tại x
Trờng Sơn - huyện Lơng Sơn - Hoà Bình.
1.2. Mục tiêu của đề tài

- Những vấn đề lý luận về tình trạng và vị thế của ngời nghèo trong phát
triển nông thôn.
- Đánh giá đợc thực tế tình trạng nghèo đói của ngời dân về kinh tế,

chính trị và các vấn đề xà hội.
- Xác định đợc vị thế của ngời nghèo, đói trong phát triển nông thôn.
1.3. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu

* Đối tợng nghiên cứu
Nghiên cứu các hộ nông dân ở xà Trờng Sơn, trong đó tập trung đối tợng
hộ nghèo đói.
* Phạm vi nghiên cứu
- Về mặt nội dung: Đề tài nghiên cứu các hộ nông dân nghèo ®ãi trong
quan hƯ so s¸nh víi c¸c hé kh¸c vỊ tình trạng và vị thế của ngời nghèo ở xÃ
Trờng Sơn - Lơng Sơn - Hoà Bình
- Về thời gian: Nghiên cứu các hộ nông dân chủ yếu trong năm 2003, các
số liệu chung của địa phơng từ năm 2001 - 2003.

4


2. Những vấn đề cơ bản về nghèo đói và
giải quyết nghèo đói trong nông thôn

2.1. Những vấn đề về nghèo đói và chính sánh giải quyết nghèo đói
trong phát triển nông thôn

2.1.1. Những vấn đề chung về hiện tợng nghèo đói trong phát triển nông thôn
2.1.1.1 Khái niệm về tình trạng và vị thế của ngời nghèo trong phát triển nông thôn
* Tình trạng nghèo đói
Tình trạng là sự tồn tại và diễn biến của các sự việc [11]. Vậy tình trạng
nghèo đói có thể đợc hiểu là sự tồn tại và diễn biến của vấn đề nghèo đói nói
chung. Tình trạng nghèo đói trong nông thôn phản ánh sự tồn tại và diễn biến sự
nghèo đói của một bộ phận dân c ở nông thôn Việt Nam .

* Vị thế của ngời nghèo
Vị thế chính là thứ bậc, uy thế làm cho ngời khác phải e sợ [11] hay vị
thế là vị trí, địa vị và ảnh hởng của họ trong xà hội [15]. Chính vì thế vị thế của
ngời nghèo đợc hiểu là vị trí, địa vị, quyền lợi cũng nh ảnh hởng của họ
trong cộng đồng.
Vị thÕ cđa ng−êi nghÌo trong n«ng th«n cã thĨ hiĨu là vai trò, ảnh hởng
của họ trong đời sống kinh tế, chính trị và các vấn đề xà hội trong cộng đồng làng
xÃ. Đây là vị thế giữa các quyền lợi cụ thể của mỗi con ngời và hộ gia đình trong
cộng đồng.
Trong quá trình phát triển kinh tế - xà hội nói chung và của cộng đồng làng
xà nói riêng nghèo đói sẽ kìm hÃm sự phát triển kinh tế của cộng đồng đó và nghèo
đói cũng sẽ có những ảnh hởng tiêu cực đến phát triển nông thôn. Vì vậy, cần
nghiên cứu để thấy rõ đợc tình trạng và vị thế của ngời nghèo trong nông thôn.
2.1.1.2. Phát triển nông thôn và một số quan điểm về phát triển nông thôn
Theo David Korten phát triển nông thôn không chỉ là phát triển về kinh tế ở
nông thôn mà còn là phát triển các khía cạnh khác của cuộc sèng ë n«ng th«n nh−

5


chính trị, y tế, giáo dục, môi trờng, văn hoá xà hội [5].
- Phát triển lấy kinh tế làm trọng tâm: Quan điểm này cho rằng tiếp tục
tăng trởng kinh tÕ lµ ngn hy väng duy nhÊt cđa ng−êi nghÌo. Họ cho rằng khi
kinh tế đợc cải thiện thì tỷ lệ trẻ đến trờng sẽ tăng lên, tình trạng sức khoẻ sẽ
đợc cải thiện, đời sống văn hoá, xà hội cũng nhờ đó mà có chuyển biến tích cực.
- Phát triển là tăng trởng để đáp ứng các nhu cầu cơ bản: Quan điểm
này tập trung vào việc cung ứng dịch vụ và coi đó là phơng pháp tái phân phối
lợi nhuận của tăng trởng kinh tế. Cốt lõi của quan điểm này là Ngời nghèo gặp
phải khó khăn là họ không thể tham gia thị trờng trong t thế đợc trang bị đầy
đủ học vấn, kỹ năng và sức khoẻ để đợc làm việc theo những điều kiện thuận

lợi [5]. Để giúp ngời nghèo bù đắp thiếu hụt đó những ngời theo quan điểm
này kêu gọi chính phủ chuyển của cải từ những ngời đà đợc hởng lợi từ tăng
trởng sang tài trợ cho những dịch vụ bù đắp cho tình trạng ngời nghèo không
đủ khả năng đáp ứng nhu cầu của họ, một phần khác là nhằm trang bị cho họ có
đợc một chỗ đứng trong lực lợng lao động.
- Phát triển lấy con ngời là trọng tâm: Quan điểm này lấy tính công
bằng, tính bền vững và vì mọi ngời làm những nguyên tắc để xác định phát triển
đích thực.
Tính công bằng: Công bằng không đòi hỏi phải thu nhập đồng đều, cũng
không đòi hỏi ngời siêng năng phải nâng đỡ ngời lời biếng. Tuy nhiên, nó đòi
hỏi mọi ngời phải có đợc phơng tiện và cơ hội tạo ra mức sống xứng đáng tối
thiểu cho chính họ và gia đình họ. Nó bác bỏ quyền một ngời tự làm giàu do
tớc đoạt nguồn tài nguyên vốn là cơ sở tồn tại của một ngời khác. (Một xà hội
đà chuyển biến phải u tiên sử dụng tài nguyên thiên nhiên của trái đất để đảm
bảo cho mọi ngời đợc sống xứng đáng là ngời).
Tính bền vững: Quan điểm phát triển lấy tăng trởng là trọng tâm không cân
nhắc đến tính phụ thuộc lẫn nhau giữa tăng trởng và cạn kiệt tài nguyên cũng nh
suy thoái môi trờng sinh thái. Những thành tựu tạm thời nh thế không phải là phát
triển mà chỉ là thế hệ hôm nay tớc đoạt quyền sống của những thế hệ tơng lai.

6


Tính bền vững không có nghĩa là không tác động gì tới thiên nhiên. Tuy
nhiên nó đòi hỏi mỗi thế hệ phải nhìn nhận bổn phận quản lý tài nguyên thiên
nhiên và hệ sinh thái của trái đất vì lợi ích của các thế hệ tơng lai.
Tính vì mọi ngời: Vì mọi ngời không có nghĩa là mọi ngời phải đợc
hởng vị thế và quyền lực nh nhau. Nó có nghĩa là ai chấp nhận làm lụng, làm
thành viên đóng góp cho cộng đồng thì đợc quyền có cơ hội làm điều đó, đợc
công nhận và tôn trọng qua những đóng góp đó.

Tính vì mọi ngời phản ánh một tiền đề về phơng diện giá trị rằng cuộc
sống con ngời không chỉ là ăn uống, quần áo và nhà ở. ý thức đợc đầy đủ về
trách nhiệm làm ngời của mình còn phụ thuộc vào sự tự trọng, thể hiện ở việc
làm ra sản phẩm cho cộng đồng và đợc cộng đồng kính trọng. Các chơng trình
phúc lợi có thể đáp ứng đợc nhu cầu cơ bản của con ngời nhng không bao giờ
có thể tạo ra lòng tự trọng.
Từ những quan điểm khác nhau về phát triển mà chúng ta có cách nhìn về
vấn đề nghèo đói và các chính sách giải quyết nghèo đói khác nhau. Mặc dù vậy,
theo chúng tôi mỗi quan điểm đều có những u và nhợc điểm riêng.
Quan điểm thứ nhất: Khi quá chú trọng đến phát triển kinh tế và với cơ cấu
kinh tế chính trị nh hiện nay thì lợi nhuận nhờ tăng trởng đều rơi vào tay những
ngời ít thiếu thốn nhất. Từ đó càng làm gia tăng khoảng cách giữa ngời giàu và
ngời nghèo, ngời nghèo ngày càng nghèo hơn. Mặt khác, nếu ngời ta chỉ quan
tâm đến tăng trởng kinh tế thì chắc chắn hệ sinh thái toàn cầu sẽ bị phá huỷ
nghiêm trọng và những ngời nghèo lại phải sống ở những nơi điều kiện sinh hoạt
tồi tàn nhất.
Quan điểm thứ hai: quan điểm này dẫn tới hệ quả là tăng ngân sách, nhân
sự và phơng tiện dịch vụ xà hội. Tuy nhiên kết quả đối với dân chúng thờng
chẳng khác gì các dự án cứu trợ và phúc lợi, kết quả thờng không bền vững.
Quan điểm thứ ba: Đây là quan điểm mới về phát triển nông thôn và phù
hợp với xu hớng phát triển ngày nay, quan điểm này cho rằng phát triển nông
thôn không chỉ đơn thuần là phát triển kinh tế mà nó phát triển tất cả các vấn đề

7


kinh tế, chính trị, giáo dục, môi trờng, sức khoẻ, văn hoá - xà hội mà trong đó
trọng tâm là phát triển con ngời. Tuy nhiên, khi áp dụng quan điểm này cần chú ý
tới tính hạn hẹp cố hữu của những chiến lợc chỉ phục vụ cho ngời có quyền lực
hoặc cho ngời không có quyền lực bằng cách loại trừ bên này hay bên kia. Nếu

chỉ nâng cao ý thức cho ngời không có quyền lực mà thôi nh− khuynh h−íng cđa
mét sè tỉ chøc tù ngun vÉn làm, thì ngời ta quên đi một thực tế cơ bản là có thể
thay thế ngời cầm quyền này bằng ngời cầm quyền khác nhng các định chế do
con ngời lập ra lại không có khả năng loại trừ mọi kẻ cầm quyền.
Trên đây là các quan điểm về phát triển, những quan điểm này có gắn với
cách nhìn về nghèo đói, vậy hiện tợng nghèo đói về các vấn đề đà nêu ở trên
diễn ra nh thế nào trong phát triển nông thôn.
2.1.1.3. Những vấn đề chung về nghèo đói trong phát triển nông thôn
Theo quan điểm ngày nay nghèo đói không chỉ đơn thuần là nghèo đói về
lơng thực hay việc các gia đình có kiếm đủ tiền để mua lơng thực hay không,
mà nó còn đề cập đến khía cạnh của sự bần cùng, bao gồm thiếu điều kiện tiếp
cận với các dịch vụ thiết yếu nh y tế, giáo dục, môi trờng sống bị ô nhiễm, sù
tiÕp cËn víi n−íc s¹ch, thiÕu tiÕng nãi vỊ chÝnh trị, thiếu sự bảo vệ về pháp lý.
ở các vùng nông thôn, đời sống chủ yếu phụ thuộc vào đất đai, thuỷ lợi để
trồng cây và chăn nuôi hay trồng rừng và nuôi trồng thuỷ sản. Nghèo đói ở nông
thôn rất khác nhau, nghiên cứu năm 1992 về nghèo đói ở nông thôn đà xác định
sáu nhóm dân c có nguy cơ nghèo đói cao nhất: nông dân ít đất, ngời không có
đất, ngời du canh, du c, các nhóm dân tộc thiểu số, ngời sống nhờ vào nuôi
trồng thuỷ sản nhỏ/thủ công và ngời di c/tị nạn nội địa. Nhiều ngời nghèo nông
thôn thuộc nhiều trong số các nhóm trên. Thêm vào đó, quy mô nghèo đói nông
thôn bị ảnh hởng bởi sự khác biệt lớn trong giá nông sản. Hơn một nửa ngời
nghèo nông thôn và ba phần t ngời nghèo ở các nớc kém phát triển là nông
dân có ít đất đai, ở những nớc mà nền nông nghiệp phát triển và có mối liên hệ với
các thị trờng trên thế giới, ngời lao động không có đất chiếm một tỷ lệ lớn.
Mặt khác, nghèo đói ở nông thôn là do thiếu các dịch vụ nh trờng häc, y

8


tế và tín dụng. Mối liên hệ giữa sức khoẻ sút kém và nghèo đói là rất rõ ràng bởi

vì hầu hết ngời nghèo nông thôn không có điều kiện tiếp cận với các dịch vụ y tế
trong khi lại phải đối mặt với nguy cơ cao về sức khoẻ tại gia đình và tại môi
trờng làm việc của họ.
Theo quan điểm về phát triển, phát triển nông thôn là phát triển tất cả các
vấn đề kinh tế, chính trị, văn hoá - xà hội, y tế, giáo dục, môi trờng mà trong đó
trọng tâm là phát triển con ngời. Tuy nhiên, ngời nghèo lại thiếu tất cả các vấn
đề nói trên vì vậy muốn phát triển nông thôn trớc hết phải quan tâm đến ngời
nghèo và dần đa họ thoát nghèo trên tất cả các khía cạnh kinh tế, chính trị, văn
hoá - xà hội, y tế, giáo dục, môi trờng.
2.1.2. Nghèo đói và đặc điểm của nghèo đói trong phát triển nông thôn
2.1.2.1. Khái niệm về nghèo đói
Việt Nam thừa nhận định nghĩa chung về nghèo đói do hội nghị chống đói
nghèo khu vực Châu á-Thái Bình Dơng do ESCAP tổ chức tại Băng Cốc, Thái
Lan tháng 9/1993: Nghèo là tình trạng một bộ phận dân c không đợc hởng và
thoả mÃn các nhu cầu cơ bản của con ngời mà những nhu cầu này đà đợc xà hội
thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế xà hội và phong tục tập quán của địa
phơng [23,16]. ở mỗi quốc gia khác nhau thì tình trạng nghèo đói cũng khác nhau
về mức độ và số lợng. Nó đợc thay đổi về không gian và thời gian, ở quốc gia
này với mức thu nhập nh thế thì đợc coi là nghèo đói, nhng ở quốc gia khác đối
với những ngời có thu nhập nh vậy thì không đợc coi là nghèo đói.
Nghèo là tình trạng một bộ phận dân c chỉ có các điều kiện vật chất và
tinh thần để duy trì cuộc sống của gia đình họ ë møc sèng tèi thiĨu trong ®iỊu
kiƯn chung cđa céng đồng. Mức sống tối thiểu ở đây đợc hiểu là các điều kiện
ăn, ở, mặc và các nhu cầu khác nh văn hoá, y tế, giáo dục, đi lại, giao tiếp,... Chỉ
đạt mức duy trì cuộc sống rất bình thờng và dới đó là sự nghèo khổ.
* Tiêu chí đói nghèo của chơng trình xoá đói giảm nghèo quốc gia
Căn cứ vào quy mô và tốc độ tăng trởng kinh tÕ, nguån lùc tµi chÝnh 20012005 vµ møc sèng thùc tế của ngời dân của từng vùng, Bộ Lao động Th−¬ng

9



binh và XÃ hội Việt Nam đa ra chuẩn nghèo đói nhằm đánh giá đời sống của
ngời dân trong giai đoạn hiện nay.
Trớc những thành tích của công cuộc giảm nghèo cũng nh tốc độ tăng
trởng kinh tế và mức sống, từ năm 2001 đà có công bố mức chuẩn nghèo mới để
áp dụng cho thời kỳ 2001 - 2005, theo đó chuẩn nghèo của Chơng trình Xoá đói
giảm nghèo (XĐGN) Quốc gia mới đợc xác định ở mức độ khác nhau tuỳ theo
từng vùng. Cụ thể bình quân thu nhập là: 80.000đ/ngời/ tháng ở các vùng hải đảo
và các vùng núi nông thôn, 100.000đ/ngời/tháng ở các vùng đồng bằng nông
thôn, 150.000 đ/ngời/tháng ở khu vực thành thị [23,18]. Tiêu chí trên cũng có
thể giữa các thành phố sẽ có sự sai lệch nhau, chẳng hạn nh ở thành phố Hồ Chí
Minh mức sống cao hơn các thành phố thị xà khác. Cho nên, nó không phù hợp
với từng địa phơng cụ thể, mà phải phụ thuộc vào điều kiện phát triển kinh tế
cũng nh mức sống của từng địa phơng trong từng giai đoạn.
Với tiêu chí này thực tế nhiều hộ nghèo mà không đợc hởng chế độ u
đÃi của Nhà nớc, cha phản ánh đúng mức sống của ngời dân. Cần phải tham
khảo tiêu chí theo quốc tế để đánh giá chính xác hơn đời sống của ngời dân. Mặt
khác, những tiêu chí đánh giá về nghèo đói nh hiện nay theo chúng tôi còn một
số vấn đề bất cập so với thực tế:
- Đánh giá thu nhập khó, đôi khi là không chính xác vì cuộc sống ngời
dân tự cung tự cấp điều này dẫn đến tỷ lệ nghèo đói không chính xác.
- Chỉ lấy thu nhập (tiêu chí về kinh tế) để đánh giá tỷ lệ nghèo đói và thoát
nghèo là cha đủ. Mà hiện nay nghèo đói về giáo dục còn nghiêm trọng hơn
nhiều và nó mang tính di truyền từ đời này sang đời khác.
Nghèo đói về kinh tế có thể hết khi chúng ta cứu trợ cho họ hoặc khi chúng
ta có những hình thức hỗ trợ để phát triển kinh tế. Nhng ngay sau khi các
chơng trình cứu trợ và hỗ trợ chấm dứt, vì không có kiến thức, không biết làm ăn
tính toán họ lại tái nghèo, con cái không đợc ®i häc, ®êi con hä l¹i nghÌo - thÊt
häc - nghèo đói đây dờng nh một vòng luẩn quẩn bao lấy họ mà tởng nh
không có cách gì thoát ra ®−ỵc.


10


Ngoài ra, điều kiện sống không đảm bảo, hiểu biết ngoài xà hội còn
hạn chế, làm việc quá sức,... đây là những nguyên nhân gây ra bệnh tật, tệ
nạn,... tức là nghèo đói kết hợp với các loại chi phí tăng càng làm cho ngời
nghèo trở lên khốn khổ hơn. Nh vây, chỉ quan tâm đến phát triển kinh tế là
cha đủ, xoá đói giảm nghèo còn cần phải quan tâm đến tất cả những vấn đề
nh đà phân tích ở trên.
2.1.2.2. ảnh hởng của nghèo đói đến phát triển nông thôn
Bất kỳ một cấu trúc xà hội nào, dù lớn hay nhỏ đều có 5 yếu tố cấu thành
của sự phát triển là: kinh tế, kỹ thuật, xà hội, chính trị và văn hoá, tuy rằng chúng
ở mức độ khác nhau. Sự liên kết kinh tế - kỹ thuật là cái bao trùm lên tất cả, chi
phối các yếu tố và các mối quan hệ còn lại. Vì thế nghèo đói ảnh hởng rất lớn
đến sự phát triển nông thôn nh [4,8]:
- Hạn chế đến các nguồn nhân lực trong nông thôn
Nguồn nhân lực trong nông thôn là một trong những điều kiện để phát
triển kinh tế, nguồn nhân lực ở đây muốn nói đến là những ngời có khả năng
tận dụng cơ hội khi có những điều kiện thuận lợi nh vốn, cơ chế chính sách
của Nhà nớc... tự vơn lên thoát khỏi nghèo đói, nâng cao đời sống của
chính gia đình họ và phát triển cộng đồng, đóng góp vào sự phát triển chung
của nông thôn.
ở vùng nông thôn, nói chung khi trình độ dân trí thấp thờng đi cùng với nghèo
đói. Nghèo đói sẽ gây khó khăn cho việc thực thi các chính sách của Nhà nớc, các
chính sách thờng ít phát huy tác dụng, càng làm cho sự phát triển trì trệ ở vùng nông
thôn nghèo. Chừng nào giải thoát đợc đói nghèo thì nông thôn mới phát triển.
- ấp ủ xung đột chính trị, xà hội, xói mòn cơ bản đạo đức con ngời, hạnh
phúc gia đình
Một thực tế của nớc ta ở vùng nông thôn nghèo nhất là vùng sâu, vùng xa

là môi trờng thuận lợi để cho kẻ xấu hoạt động, tuyên truyền xuyên tạc về chủ
trơng đờng lối của Đảng, làm xói mòn đạo đức dân tộc, tính cộng đồng, hòng
phá vỡ những thành quả cách mạng, chủ yếu đợc mua chuéc b»ng con ®−êng

11


kinh tế, vì thế phải giải thoát khỏi cảnh đói nghèo ở nông thôn đặc biệt là vùng
sâu, vùng xa là điều kiện để đảm bảo an ninh chính trị và trật tự an toàn xà hội,
giữ vững kỷ cơng đất nớc. Một đất nớc không có sự ổn định về chính trị sẽ
không có cơ hội phát triển kinh tế. Nghèo đói tạo nên sự hoang mang, dao động
tinh thần của đông đảo tầng lớp ngời lao động đối với chính quyền sở tại, cũng
nh khó khăn cho việc giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc.
Nghèo đói trong nông thôn là mầm mống xuất hiện sự chia rẽ trong nội bộ các
tầng lớp dân c, dẫn đến tình trạng mâu thuẫn, mất đoàn kết. Các tệ nạn xà hội nh
buôn lậu, nghiện hút, trộm cắp, rợu chè, cờ bạc là những sản phẩm đi liền với sự phát
triển x· héi loµi ng−êi vµ nã cµng cã xu h−íng gia tăng khi nghèo đói gia tăng.
Nghèo đói góp phần tác động xấu đến môi trờng sinh thái do rừng, biển bị
tàn phá để khai thác cạn kiệt nguồn tài nguyên. Môi trờng sống của con ngời
trong xà hội bị đe doạ trầm trọng.
- Tìm mọi cách kiếm sống tàn phá tài nguyên môi trờng
Ngời nghèo thờng chỉ quan tâm đến lợi ích trớc mắt, muốn giải thoát
ngay cuộc sống khỏi nghèo đói. Họ không nghĩ rằng chính việc không phát triển
bền vững tài nguyên môi trờng là một trong những nguyên nhân dẫn đến nghèo
đói. Môi trờng bị phá huỷ sẽ gây ra lũ lụt, hạn hán, mất mùa, đây chính là
nguyên nhân đẩy con ngời vào cảnh đói nghèo.
- Hạn chế các yếu tố thuộc về quản lý cộng đồng
Đó là năng lực của cơ quan hành chính địa phơng còn hạn chế. Cũng xuất
phát từ điều kiện phát triển kinh tế yếu kém, kéo theo đó đời sống về mặt tinh
thần cũng bất ổn, khó phát huy đợc tốt vai trò của chính quyền cơ sở trong việc

chủ động, sáng tạo phát triển mọi mặt nhất là về kinh tế. Đờng lối chính quyền
địa phơng đa ra khó có thể thực hiện đợc khi nguồn lực bị hạn chế.
Tỷ lệ nghèo đói cao, chính quyền địa phơng dễ bị giảm lòng tin của quần
chúng nhân dân, giảm quyền lực của bộ máy quản lý. Nhiều khi bất lực, bế tắc trong
việc tìm ra các giải pháp cho phát triển kinh tế, xà hội cũng nh khó khăn trong việc
thực thi các chính sách khác. Từ đây nó kìm hÃm sự phát triển kinh tế và sẽ bị tôt hËu.

12


2.1.2.3. Đặc điểm của nghèo đói trong nông thôn
Mỗi quốc gia có những chỉ tiêu, thớc đo về nghèo đói khác nhau, cũng
nh mỗi vùng kinh tế, sự nghèo đói trong nông thôn khác nhau, tuy nhiên các hộ
nghèo có một số đặc điểm cơ bản sau:
Ngời nghèo chủ yếu là những ngời nông dân với trình độ học vấn thấp,
khả năng tiếp cận các thông tin kỹ năng chuyên môn bị hạn chế
Tỷ lệ nghèo giảm xuống khi trình độ học vấn tăng lên, 90% số ngời nghèo là
những ngời chỉ có trình độ phổ thông cơ sở hoặc thấp hơn. Những ngời thậm chí
còn cha hoàn thành chơng trình giáo dục tiểu học có tỷ lệ nghèo cao nhất (57%).
Bản thân các hộ nghèo cũng hiểu đợc rằng trình độ học vấn là chìa khoá
quan trọng để thoát cảnh nghèo đói nhng khả năng tiếp thu các kỹ năng các kiến
thức chung, ứng dụng và việc có đợc thông tin là đặc biệt quan trọng. Các hộ
thờng đợc xếp vào các nhóm khá giả hơn nếu nh những ngời trởng thành trong
gia đình có trình độ học vấn nhất định và trẻ em trong gia đình đợc đi học. Khi trình
độ học vấn thấp, khả năng nhận biết những cơ hội mới và nắm bắt đợc các kỹ thuật
mới bị hạn chế, dẫn đến vốn sử dụng vào sản xuất kinh doanh kém hiệu quả.
Tình trạng hộ nghèo có ít đất hoặc không có đất đang ngày một phổ biến
Quỹ đất dành cho sản xuất nông nghiệp đang ngày một thu hẹp do việc mở
rộng thành thị, xây dựng các khu công nghiệp. Trong trờng hợp này các hộ
nghèo bán đất, trình độ lại có hạn nên sử dụng tiền bán đất rất kém hiệu quả chủ

yếu là tiêu dùng, sau thời gian không có điều kiện để sinh sống. Các hộ nghèo coi
diện tích đất và chất lợng đất là yếu tố quan trọng quyết định đến mức sống. Các
hộ khác thờng xem các hộ nông thôn nghèo là những hộ có đất đai ít hoặc chất
lợng kém nên không đáp ứng đợc tiêu dùng của những hộ này. Điều này đặc biệt
đúng với hộ mới lập gia đình. Khả năng phát triển kinh tế gia đình một cách ổn định
của các hộ mới lập này đang ngày càng bị bó hẹp vì họ chỉ đợc phân cho những
mảnh đất nhỏ hơn với chất lợng thấp hơn. Việc tăng năng suất lao động ở những
diện tích đất này rất thấp, khó có thể đáp ứng đợc cuộc sống ổn định. Tuy nhiên có
những hộ có diện tích đất nhỏ hơn đến mức không cho phép họ có khả năng trang

13


trải những nhu cầu tiêu dùng tối thiểu, cũng có rất ít cơ hội làm ăn phi nông nghiệp.
Các hộ nghèo đều rất dễ bị tổn thơng bởi những khó khăn mang tính thời
vụ và những biến động bất thờng xảy ra với gia đình hay với cộng đồng
Đây là một khía cạnh quan trọng của nghèo đói. Những ngời nghèo ít vốn
hoặc ít đất đai (hoặc cả hai) và những hộ chỉ có khả năng trang trải đợc các chi
tiêu lơng thực và phi lơng thực thiết yếu khác rất dễ bị tổn thơng trớc mọi
biến cố khiến họ phải bỏ thêm chi phí hoặc bị giảm thu nhập. Thông thờng một
thành viên của gia đình đau ốm vẫn đợc xem nh một biến cố quan trọng
nghiêm trọng nhất làm đảo lộn sinh hoạt của gia đình và phải hàng năm sau các
hộ mới có thể phục hồi lại đợc. Mùa vụ thất bát hay một khoản đầu t không
thành công cũng có thể gây ra sự căng thẳng về mặt kinh tế cho các hộ gia đình.
Thời điểm giáp hạt thờng các hộ nghèo đói sợ nhất vì có thể thiếu ăn kéo dài
hàng tháng liên tục, nếu phải gánh chịu thêm những chi phí khác nh về y tế, giáo
dục hoặc những rủi ro khác lại làm cho cuộc sống lại càng khó khăn hơn.
Trong số hộ nghèo đói ở nông thôn thờng có nhiều trẻ em và các trẻ em ở
những hộ này ít có khả năng đợc đến trờng
Các hộ nghèo thờng là những hộ đông con, lao động thì thiếu mà phải chi

nhiều khoản chi phí cho học hành của con cái, và những chi phí về y tế. Vì thế
khó đáp ứng đợc nhu cầu học hành cho con trẻ. Trong số những học sinh không
đợc đi học có tới 50% là con em các dân tộc thiểu số. Điều đó chứng tỏ ở nông
thôn nhất là vùng dân tộc thiểu số tỷ lệ nghèo đói khá cao, khả năng tiếp cận các
dịch vụ xà hội hạn chế nhiều hơn ở các vùng khác. Sự chênh lệch giữa nhóm dân
giầu và dân nghèo không lớn ở bậc giáo dục tiểu học nhng ngày càng thể hiện rõ
nét trong các bậc học cao hơn. ë tr−êng tiĨu häc 80% sè trỴ em trong nhãm dân
nghèo nhất đợc đến trờng so với tỷ lệ 92% đối với nhóm ngời giầu nhất. Sự
chênh lệch này lớn hơn nhiều ngay đối với cấp 2 chỉ có 37% trẻ em nghèo đợc đi
học trong khi tỷ lệ này đối với trẻ em con nhà khá giả là 87%. Do vậy việc bảo
đảm khả năng tiếp cận một cách công bằng tới dịch vụ giáo dục cơ bản cho tất cả
mọi ngời dân là nhân tố hết sức cần thiết đảm bảo tính công bằng trong khả năng

14


tiếp cận đến những cơ hội và những nguồn thu nhập mới trong tơng lai [2,133].
Ngoài ra, các hộ nghèo ở đây cũng rất dễ bị tổn thơng bởi những khó khăn
mang tính thời vụ hoặc những biến động bất thờng xảy ra với gia đình hay cộng
đồng. Chẳng hạn: khi hạn hán không có nớc, ngời giàu có thể chuyển từ trồng
lúa sang trồng các cây trồng khác để tăng thu nhập nhng hộ nghèo không có
tiền, không có kỹ thuật,... không biết làm gì để tăng thu nhập đành bỏ ruộng
hoang hoá cho cỏ mọc.
2.1.3. Nguyên nhân nghèo đói ở nông thôn Việt Nam
2.1.3.1. Tình hình nghèo đói ở Việt Nam
Theo kết quả điều tra mức sống dân c, tỷ lệ nghèo đói năm 1998 là trên
37%, ớc tính năm 2003 tỷ lệ này vào khoảng 29%. Theo đánh giá của Ngân
hàng Thế giới, Việt Nam xếp vào nhãm c¸c n−íc nghÌo cđa thÕ giíi.
Theo chn nghÌo cđa chơng trình quốc gia, đầu năm 2000 có khoảng 2,8
triệu hé nghÌo chiÕm 17,2% tỉng sè hé trong c¶ n−íc. Đến cuối năm 2002 tỷ lệ

hộ nghèo còn 14,3%. Điều này chứng tỏ chiến lợc XĐGN của nớc ta đang đi
đúng hớng. Tuy nhiên, thực trạng nghèo đói ở nớc ta vẫn đang là bài toán khó,
mà Chính phủ đang tìm lời giải nhanh nhất, ngắn gọn nhất, cụ thể:
- Nghèo đói phổ biến trong những hộ có thu nhập thấp
Thu nhập vẫn là chỉ tiêu thờng đợc sử dụng ®Ĩ ®¸nh gi¸ møc ®é nghÌo
®ãi, mét bé phËn lín dân c thu nhập vẫn nằm giáp ranh mức nghèo. Hiện nớc ta
có trên 23% dân số sống ở thành thị, chiếm 40% tổng thu nhập dân c, 60% thu
nhập còn lại dành cho hơn 76% dân số sống ở nông thôn, khoảng cách giầu nghèo
giữa hai khu vực này là 3,7 lần [10]. Thu nhập của bà con nông dân chủ yếu là từ
nông nghiệp, với điều kiện nguồn lực hạn chế nh đất đai, lao động, vốn,... thêm
vào đó sản xuất của bà con phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện tự nhiên và có tính
mùa vụ. Đặc biệt là đối với ngời nghèo có rất ít nguồn thu, thu nhập lại bấp bênh
và dễ bị tổn thơng trớc những đột biến của cuộc sống. Để đảm bảo nguồn thu
cho ngời nghèo mang tính ổn định hơn, cần nâng dần tỷ trọng thu nhập từ hoạt
động phi nông nghiệp. Những nguồn thu nhập này có tính ổn định hơn ít chịu ảnh

15


h−ëng bëi tÝnh mïa vơ.
- NghÌo ®ãi tËp trung ë các vùng có điều kiện sống khó khăn
Phần lớn ngời nghèo sinh sống ở những nơi điều kiện tự nhiên rất khắc
nhiệt nh ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa, những vùng hay bị thiên tai, nên hiệu
quả sản xuất thờng ở mức thấp, cùng với nó là cơ sở hạ tầng thấp kém khiến cho
các điều kiện sinh sống và sản xuất của ngời dân càng thêm khó khăn. Năm
2000 khoảng 20%-30% trong tổng số 1870 xà đặc biệt khó khăn cha có đờng
dân sinh đến trung tâm xÃ, 40% số xà cha đủ phòng học 5% số xà cha có trạm
y tế, 40% số xà cha có đờng điện đến trung tâm xÃ, 50% xà cha đủ công trình
thuỷ lợi nhỏ... [23,19].
Xuất phát từ những khó khăn trên nên số hộ nghèo đói ở những vùng này

vẫn còn cao, tỷ lệ hộ tái nghèo còn lớn. Do đó, để giảm tỷ lệ đói nghèo ở những
vùng này thì đầu t vào cơ sở hạ tầng ở nông thôn là một biện pháp cần thiết để
xoá bỏ sự nghèo khổ một cách gián tiếp, làm tăng khả năng của ngời nghèo tận
dụng những cơ hội để tăng thu nhập.
- Nghèo đói tập trung trong các vùng nông thôn là chủ yếu
Việt Nam có gần 80% dân số tập trung ở nông thôn. So sánh 7 vùng kinh tế
sinh thái trong cả nớc, tỷ lệ nghèo đói là rất cao ở vùng Tây Nguyên, tiếp đó là
vùng Miền núi phía Bắc và Bắc Trung bộ, cả 3 vùng này có mức nghèo đói cao
hơn trung bình của cả nớc.
Theo số liệu điều tra khảo sát của Tổng cục Thống kê năm 2002 tỷ lệ
nghèo ở các vùng nh sau [1,10]:
Vùng miền núi phía Bắc

43,9%

Đồng bằng sông Hồng

22,4%

Bắc Trung bộ

43,9%

Duyên hải miền Trung

25,2%

Tây Nguyên

51,8%


Đông Nam bộ

10,6%

Đồng bằng sông Cửu Long

23,4%

16


Sự phân tầng xà hội giữa nông thôn và thành thị đang có xu hớng doÃng ra
nhanh. ở các vùng đô thị nơi có 20% dân số sinh sống chiếm khoảng 60% GDP,
đợc phát triển với nhịp độ nhanh (khoảng trên 10%/năm). Trong khi các vùng
nông thôn nơi có 80% dân c sinh sống chỉ chiếm khoảng 40% GDP lại phát triển
chậm hơn (dới 10%/năm) [16,96].
Mặc dù, Việt Nam có nhiều tiến bộ trong việc giảm nghèo đói nhng tỷ lệ
nghèo ở nông thôn vẫn cao hơn nhiều so với thành thị. Giai đoạn 1997 - 1998, tỷ
lệ nghèo ở thành thị là 9,04%, nông thôn là 44,85%. Giai đoạn 2001 - 2002, tỷ lệ
nghèo ở thành thị là 6,6%, ở nông thôn là 35,7% .
44,85
45
35,7

40
35
30
25


1997 - 1998
2001 - 2002

20
15

9,04

10

6,6

5
0

Thành thị

Nông thôn

Hình 2.1. Tỷ lệ nghèo của Việt Nam
(Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam số 166 ngày 21/7/2003)
Nghèo đói chủ yếu tập trung ở nông thôn, do vậy Nhà nớc cần tăng cờng
đầu t cho khu vực nông thôn để tiến đến xoá đói nghèo cho khu vực này.
- Tỷ lệ nghèo đói khá cao trong các vùng sâu, vùng xa, vùng núi cao
ở các vùng này điều kiện sống khó khăn do cơ sở hạ tầng còn nhiều yếu
kém, thơng mại - dịch vụ cha phát triển, đời sống của ngời dân chủ yếu phụ
thuộc vào hoạt động nông nghiệp, mức độ rủi ro cao, trình độ dân trÝ thÊp, s¶n

17



xuất còn mang nặng tính tự cung, tự cấp cha phát triển sản xuất theo hớng hàng
hoá dẫn đến hiệu quả kinh tế thấp, tỷ lệ hộ đói nghèo còn khá cao. Có tới 64% số
ngời đói nghèo tập trung tại các vùng miền núi phía Bắc, Bắc Trung bộ, Tây
Nguyên và Duyên hải miền Trung (xem Bảng 2.1).
Bảng 2.1

Ước tính quy mô và tỷ lệ nghèo đói

theo chuẩn nghèo mới (năm 2001-2005)
Số

So với tổng số

So với tổng số hộ

hộ nghèo

hộ trong vùng

nghèo cả nớc

(nghìn hộ)

(%)

(%)

Tây Bắc


146

33,9

5,2

Đông Bắc

511

22,3

18,2

Đồng bằng sông Hồng

337

9,8

12,0

Bắc Trung bộ

554

25,6

19,8


Duyên hải miền Trung

389

22,4

13,9

Tây Nguyên

190

24,9

6,8

Đông Nam bộ

183

8,9

6,6

Đồng bằng sông Cửu Long

490

14,4


17,5

Vùng

Nguồn: Chơng trình quốc gia xoá đói giảm nghèo
- Tỷ lệ hộ nghèo đói đặc biệt cao trong các nhóm dân tộc ít ngời
Việt Nam có 53 dân téc anh em cïng chung sèng, trong ®ã chđ u là
ngời kinh (chiếm đến 85% dân số). Mặc dù các dân tộc ít ngời chỉ chiếm
khoảng 25% dân số, song lại chiếm khoảng 29% tổng số ngời nghèo [4].
Nguyên nhân chủ yếu vẫn là cách biệt về mặt địa lý, văn hoá, thiếu điều kiện phát
triển hạ tầng cơ sở và các dịch vụ xà hội cơ bản.
Từ những thực tế trên, Đảng và Nhà nớc phải có quan điểm đúng đắn về
đói nghèo. Tìm hiểu những nguyên nhân sâu xa để xây dựng chiến lợc toàn
diện phát triển kinh tÕ x· héi, tõng b−íc th¸o gì sù nghÌo khã trong n«ng th«n
n−íc ta.

18


2.1.3.2. Nguyên nhân của nghèo đói ở nông thôn nớc ta
Nghèo đói là tình trạng thiếu thốn ở nhiều phơng diện, thu nhập hạn chế
hoặc thiếu cơ hội tạo thu nhập, hoặc thu nhập không ổn định, thiếu tài sản để đảm
bảo tiêu dùng trong những lúc khó khăn. Nghèo đói vừa là hiện tợng kinh tế xà hội,
vừa là vấn đề lịch sử để lại, vừa là vấn đề của phát triển, thờng có trong quá trình
phát triển mà quốc gia nào cũng vấp phải. Nó tác động trực tiếp đến cuộc sống của
con ngời, từ mỗi cá nhân, gia đình đến cộng đồng. Mỗi quốc gia ở các mức độ khác
nhau đều phải quan tâm, giải quyết vấn đề đói nghèo để vợt qua những trở ngại cho
sự phát triển phồn thịnh về kinh tế và từng bớc đạt đến công bằng xà hội.
Nguyên nhân sâu xa dẫn đến nghèo đói ở nớc ta hội tụ cả nhân tố khách
quan, chủ quan và cơ chế chính sách. Mỗi vùng miền thậm chí mỗi tỉnh, huyện, xÃ

do đặc điểm kinh tế xà hội khác nhau dẫn đến nghèo đói khác nhau.
Nghèo đói trong nông thôn nớc ta bao gồm những nguyên nhân chủ yếu
sau [23,22]:
Một là, nguồn lực hạn chÕ vµ nghÌo nµn. Ng−êi nghÌo th−êng thiÕu ngn
lùc, hä bị rơi vào vòng luẩn quẩn của nghèo đói vì thiếu nguồn lực. Ngợc lại,
nguồn vốn nhân lực thấp lại cản trở họ thoát khỏi nghèo đói.
Hai là, trình độ học vấn thấp, thiếu việc làm và không ổn định. Nghèo
đói và trình độ học vấn thấp có mối quan hệ tỷ lệ thuận với nhau, nó nh một
cái vòng quẩn luẩn khiến ngời nghèo khó thoát ra đợc, nghèo ®ãi - tr×nh ®é
häc vÊn thÊp - nghÌo ®ãi. Cïng với sự phát triển của xà hội hiện nay đòi hỏi
ngời lao động phải có tay nghề và trình độ đạt ở mức độ nhất định mới có thể
kiếm đợc việc làm tốt và ổn định, tuy nhiên ngời nghèo lại thiếu các điều
kiện cần thiết nên cơ hội kiếm đợc việc làm tốt và ổn định là rất mong manh.
Theo số liệu thống kê trình độ học vấn của ngời nghèo thấp: khoảng 90%
ngời nghèo chỉ có trình độ phổ thông cơ sở hoặc thấp hơn. Kết quả điều tra
møc sèng cho thÊy, trong sè ng−êi nghÌo, tû lƯ ng−êi ch−a bao giê ®i häc
chiÕm 12%, tèt nghiƯp tiĨu học chiếm 39%, trung học cơ sở chiếm 37%
[23,23] càng lên bậc cao hơn chi phí cho giáo dục càng nhiÒu, thËm chÝ lùc häc

19


kém ở trẻ em gia đình nghèo có thể bị lu ban càng làm tăng chi phí cho giáo
dục. Tỷ lệ nghèo giảm xuống khi trình độ giáo dục tăng lên. Có đến 80% số
ngời nghèo làm các công việc trong nông nghiệp có mức thu nhập rất thấp.
Trình độ học vấn thấp hạn chế khả năng kiếm việc làm trong khu vực khác,
trong các ngành phi nông nghiệp, những công việc mang lại thu nhập cao hơn
và ổn định hơn.
Ba là, ngời nghèo không có đủ điều kiện tiếp cận với pháp luật, cha đợc
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp. Nhìn chung, ngời nghèo đặc biệt là đồng bào

dân tộc ít ngời thờng có trình độ học vấn thấp nên không có khả năng tự giải
quyết các vấn đề vớng mắc liên quan đến pháp luật. Trong tranh chấp ngời
nghèo hay bị thua thiệt hơn do thiếu hiểu biết pháp luật cũng nh các chủ trơng
chính sách của Đảng và Nhà nớc. Chính vì vậy càng bị xà hội cách biệt, bị khép
mình vào thế giới riêng, luôn có ác cảm với chính bản thân, càng lánh xa mọi
ngời thì khả năng thoát nghèo càng khó khăn hơn.
Bốn là, nguy cơ dễ bị tổn thơng do ảnh hởng của thiên tai và các rủi ro
khác. Do nghèo đói, nguồn thu nhập thấp, bấp bênh, khả năng tích luỹ kém,
nên khi có những rủi ro xảy ra nh: mất mùa, mất việc làm, thiên tai, mất
nguồn lao động, mất sức khoẻ... với khả năng kinh tế mong manh của các hộ
gia đình nghèo trong khu vực nông thôn, những đột biến này sẽ tạo ra những
bất ổn lớn trong cuộc sống của họ. Do đó việc tìm kiếm các giải pháp giảm nhẹ
hậu quả thiên tai đợc coi nh là một phần quan trọng của quá trình xoá đói
giảm nghèo.
Năm là, bất bình đẳng giới ảnh hởng tiêu cực tới đời sống của phụ nữ và
trẻ em. Bất bình đẳng giới làm sâu sắc hơn tình trạng nghèo đói trên tất cả các
mặt. Ngoài những bất công mà cá nhân phụ nữ và trẻ em gái phải chịu đựng do
bất bình đẳng thì còn có những tác động bất lợi đối với gia đình. Thờng trong gia
đình ngời phụ nữ phải làm việc với thời gian nhiều hơn nam giới. Phụ nữ chiếm
gần 50% trong tổng số lao động nông nghiệp và chiếm tỷ lệ cao trong số lao động
tăng thêm hàng năm trong ngành nông nghiệp.

20



×