Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

VẬN DỤNG QUAN điểm TRIẾT học của mác về bản CHẤT CON NGƯỜI để PHÂN TÍCH tầm QUAN TRỌNG của NHÂN tố CON NGƯỜI TRONG PHÁT TRIỂN nền KINH tế TRI THỨC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.46 KB, 19 trang )

Tiểu luận Triết học 2019
LỜI MỞ ĐẦU
Cách mạng công nghiệp 4.0 dường như đang phả hơi nóng hầm hập vào
gáy chúng ta. Dù thuật ngữ này mới xuất hiện một hai năm trở lại đây, nhưng đã
trở thành từ khóa cho những thảo luận cả về chuyên môn lẫn đại chúng.
Vậy cách mạng công nghiệp 4.0 là gì?
Nó là xu hướng hiện thời trong việc tự động hóa và trao đổi dữ liệu trong
công nghệ sản xuất. Nó bao gồm các hệ thống không gian mạng thực-ảo (cyberphysical system), Internet Vạn Vật và điện toán đám mây và điện toán nhận thức
(cognitive computing). Công nghiệp 4.0 tạo ra nhà máy thông minh ( smart
factory). Trong các nhà máy thông minh với cấu trúc kiểu mô-đun, hệ thống
thực-ảo giám sát các quy trình thực tế, tạo ra một bản sao ảo của thế giới thực và
đưa ra các quyết định phân tán. Qua Internet Vạn Vật, các hệ thống thực-ảo giao
tiếp và cộng tác với nhau và với con người trong thời gian thực, và với sự hỗ trợ
của Internet Dịch vụ, dịch vụ nội hàm và dịch vụ xuyên tổ chức được cung cấp
cho các bên tham gia chuỗi giá trị sử dụng.
Việc trở thành con người của cách mạng công nghiệp 4.0, tức con người
có khả năng làm chủ bản thân mình, phải được đào tạo trình độ học vấn, năng
lực; tu dưỡng rèn luyện phẩm chất đạo đức, ý thức lao động tốt hơn để có thể
đáp ứng những yêu cầu của sự biến đổi khoa học công nghệ hết sức nhanh
chóng.
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước với những mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, hiện nay, con người và nguồn nhân
lực được coi là nhân tố quan trọng hàng đầu, quyết định sự phát triển nhanh,
hiệu quả, bền vững nền kinh tế và góp phần giúp đất nước hội nhập với thế giới.
Đó là yếu tố hết sức bức thiết và cần có tính cập nhật, đáp ứng được yêu cầu về
con người và nguồn nhân lực xét trong nước ta nói riêng và quốc tế nói chung.
Chúng ta khẳng định con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của phát triển
kinh tế xã hội đồng thời phải là những con người có tri thức và đạo đức. Từ đây
mỗi con người dần dần về đúng vị trí là một chủ thể sáng tạo ra các giá trị, bao
SVTH: Lê Thị Yến Thơ


1


Tiểu luận Triết học 2019
gồm các giá trị tinh thần và giá trị vật chất, cho bản thân và cho xã hội. Vì vậy,
vấn đề cốt lõi là, ta phải thực hiện chiến lược giáo dục đào tạo nguồn nhân lực,
phát triển con người một cách toàn diện cả thể lực lẫn trí lực. Nhiệm vụ của giáo
dục đào tạo là đưa con người đạt đến những giá trị phù hợp với đặc điểm văn
hoá và những yêu cầu mới đặt ra đối với con người Việt Nam để thực hiện quá
trình đổi mới của nước ta cũng như xu hướng phát triển kinh tế nói chung trên
thế giới.

SVTH: Lê Thị Yến Thơ

2


Tiểu luận Triết học 2019
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Triết học nào cũng phải trả lời bằng cách này hay cách khác câu hỏi: Con
người là gì? Con người sinh ra từ đâu, hoạt động và phát triển ra sao?
Trước khi có học thuyết Mác, ở phương Tây cũng có rất nhiều quan điểm
về con người. Nói chung các tôn giáo đều cho rằng con người do thượng đế,
thần thánh sinh ra, cuộc sống con người do đấng cao sắp đặt, an bài. Giáo lý Ki
Tô giáo quan niệm rằng về bản chất, con người là kẻ có tội. Con người không
chỉ có thể xác mà còn có linh hồn. Thể xác tồn tại tạm thời, nó sẽ mất đi nhưng
linh hồn thì còn lại. Do vậy, con người phải cứu lầy linh hồn của mình.
Với triết học Hy lạp cổ đại, con người được xem là khởi đầu của tư duy
triết học. Con người và thế giới xung quanh phản chiếu lẫn nhau. Con người là

một tiểu vũ trụ trong vũ trụ bao la. Prôtago, một nhà triết học nguỵ biện cho
rằng “con người là thước đo của vũ trụ”.
Arixtốt cho rằng, con người là bậc thang cao nhất của vũ trụ.
Thời phục hưng - cận đại, triết học đặc biệt đề cao vai trò trí tuệ, lý tính
của nước, xem con người như một thực thể có trí tuệ. Đó là yếu tố quan trọng
nhằm giải thoát con người khỏi thế lực thần học thời Trung Cổ áp đặt cho con
người, tiến tới giải phóng con người khỏi sự thống trị của cường quyền và thần
quyền. Tuy nhiên, chưa có một trường phái nào nhận thức đầy đủ cả về mặt sinh
học và mặt xã hội, thống nhất trong con người. Họ chỉ nhấn mạnh mặt cá thể mà
xem nhẹ mặt xã hội của con người.
Trong triết học cổ điển Đức, Cantơ và Hêghen đã quan niệm con người
theo quan điểm duy tâm. Hêghen, đại biểu vĩ đại của chủ nghĩa duy tâm khách
quan, cho rằng chính sự vận động theo những qui luật khách quan của “ý niệm
tuyệt đối” đến mức độ nhất định nó sẽ tha hoá thành giới tự nhiên và con người.
Vì vậy, con người chính là hiện thân của ý niệm tuyệt đối. Dù nhìn nhận con
người từ góc độ duy tâm khách quan nhưng Hêghen đã khẳng định vai trò chủ
thể của con người đối với lịch sử, đồng thời là kết quả của sự phát triển lịch sử.
SVTH: Lê Thị Yến Thơ

3


Tiểu luận Triết học 2019
Tiếp tục phát triển quan điểm duy vật của các nhà triết học Pháp thế kỷ
XVIII, Phơ Bách, nhà triết học duy vật vĩ đại nhất trong triết học cổ điển Đức đã
phê phán mạnh mẽ quan điểm duy tâm và tìm cách giải thích nguồn gốc, bản
chất con người theo quan điểm duy vật. Phơ Bách đã từng khẳng định: không
phải chúa đã tạo ra con người theo hình ảnh của chúa, mà chính con người đã
tạo ra chúa theo hình ảnh của con người.
Phơ Bách đã đạt đến chủ nghĩa duy vật khi khẳng định rằng con người do

sự vận động của thế giới vật chất tạo nên. Con người là kết quả của sự phát triển
lâu dài của thế giới tự nhiên. Con người và tự nhiên thống nhất với nhau. Đặc
biệt, Phơ Bách khẳng định bản thân ý thức, tư duy của con người chỉ là sản
phẩm của khí quan vật chất nhục thể, tức là bộ óc, rằng vật chất không phải là
sản phẩm của tinh thần mà chính tinh thần là sản phẩm tối cao của vật chất.
Tuy nhiên, Phơ Bách không thấy quan hệ giữa người với người nào khác
ngoài tình yêu, tình bạn đã được lý tưởng hoá.
Tóm lại, triết học trước Mác, khi quan niệm về con người dù đứng trên
nền tảng thế giới quan nào cũng không phản ánh đúng bản chất của con người.
Họ đều xem xét con người một cách trừu tượng: tuyệt đối hoá tinh thần hoặc thể
xác con người, tuyệt đối hoá mặt tự nhiên sinh học mà không thấy được mặt xã
hội trong đời sống con người. Tuy nhiên, một số trường phái triết học, một số
nhà triết học cũng đạt được những thành tựu nhất định trong việc phân tích,
quan sát con người, đề cao lý tính, xác lập các giá trị về nhân bản học để hướng
con người tới tự do. Đó là những vấn đề có ý nghĩa tiền đề để Mác, Ăngghen và
Lênin hình thành tư tưởng về con người trong triết học Mác xít.

SVTH: Lê Thị Yến Thơ

4


Tiểu luận Triết học 2019

CHƯƠNG II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
1. Bản chất con người
Bất cứ một học thuyết nào về con người đều không thể lẩn tránh một vấn
đề đã được đặt ra trong lịch sử; Con người là gì? Bản chất của con người là gì?
Quan điểm duy tâm quy đặc trưng, bản chất con người vào lĩnh vực ý thức tư

tưởng, tình cảm, đạo đức, hoặc xem bản chất con người là cái gì đó được quy
định sẵn từ những lực lượng siêu tự nhiên.
Một số trào lưu triết học khác lại giải thích bản chất con người từ góc độ
những điểm chung của mọi sinh vật trên trái đất. Bản chất đó là bản tính tự
nhiên, là những nhu cầu thuộc về sự duy trì thể xác và dục vọng để phát triển
giống nòi; hoặc tìm kiếm bản chất con người trong khuôn khổ cá nhân riêng lẻ,
nghĩa là con người bị tách khỏi mối quan hệ xã hội hiện thực của nó. Tính chất
siêu hình của các quan điểm này về bản chất của con người biểu hiện ở chỗ, con
bản chất là cái vốn có trừu tượng và quy nó về bản tính tự nhiên, tách khỏi xã
hội và trở nên bất biến.
Với quan điểm duy vật triệt để và phương pháp biện chứng, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã tạo ra một bước ngoặt trong việc nhận thức bản chất con người.
Các ông xuất phát từ con người thực tiễn, con người hiện thực, con người cải tạo
thế giới và thông qua hoạt động vật chất con người. Đó là một động vật có tính
xã hội với tất cả những nội dung văn hoá - lịch sử của nó. Như vậy, các ông
không xem xét bản chất con người một cách cô lập và phiến diện mà đặt nó
trong mối quan hệ với tự nhiên, xã hội và con người. Con người sống dựa vào tự
nhiên như hết thẩy mọi sinh vật khác. Nhưng con người sở dĩ trở thành con
người chính là ở chỗ nó khonog chỉ sống dựa vào tự nhiên, Ph.Ăngghen là người
đầu tiên đã chỉ ra được bước chuyển biến từ vượn thành người là nhờ có lao
động. Quá trình con người cải tạo tự nhiên cũng là quá trình con người trở thành
con người. Ph.Ăngghen nói "lao động sáng tạo ra con người là theo ý nghĩa ấy".

SVTH: Lê Thị Yến Thơ

5


Tiểu luận Triết học 2019
Khác với tự nhiên, xã hội không thể có trước con người mà đã ra đời cùng

với con người, xã hội cũng con người, xã hội cũng không phải là cái gì trừu
tượng, bất biến mà mỗi hình thái kinh tế - xã hội chỉ thích hợp với mỗi phương
thức sản xuất nhất định.Nhân tố quyết định phương thức sản xuất phát triển lại
là lực lượng sản xuất, bao gồm con người và công cụ lao động. Như thế, không
phải cái gì khác mà chính là con người, cùng với những công cụ do họ chế tạo
ra, đã quyết định sự thay đổi bộ mặt xã hội. Vậy xã hội đã sản xuất ra con người
với tính cách là con người như thế nào thì con người cũng sản xuất ra xã hội như
thế.
Trong khi phê phán những quan điểm của Phoiơbắc, xuất phát từ những
cá thể cô lập C.Mác đã đưa ra luận điểm nổi tiếng về bản chất con người: "Bản
chất con người không phải là cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt.
Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã
hội". Luận điểm trên thể hiện những điểm cơ bản sau:
- Khi nói bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội, cũng có
nghĩa là tất cả các quan hệ xã hội đều góp phần hình thành bản chất con người,
nhưng có ý nghĩa quyết định nhất là quan hệ sản xuất. Bởi vì, các quan hệ khác
đều trực tiếp hoặc gián tiếp chịu sự quy định của quan hệ này. Mỗi hình thái
kinh tế - xã hội có một kiểu quan hệ sản xuất nhất định giữ vai trò chi phối, và
chính kiểu quan hệ sản xuất đó là cái xét đến cùng, tạo nên bản chất của con
người trong giai đoạn lịch sử đó.
Ở đây, cái phổ biến (cái chung của nhân loại) tồn tại và thể hiện qua cái
đặc thù (hình thái xã hội, giai cấp) và cái đơn nhất(cá nhân từng con người). Do
đó, khi bàn đến bản chát chung của con người không thể gạt bỏ bản chất giai
cấp của các tầng lớp khác nhau; và ngược lại khi nói bản chất giai cấp của các
tầng lớp khác nhau không được quên bản chất chung của con người. Nhưng từ
đó quy bản chất con người chỉ còn là bản chất giai cấp và tất cả mọi hoạt động
của con người đều được giải thích trực tiếp từ đây lại là xuyên tạc thực chất
quan điểm macxít về bản chất con người. Đây là một quan hệ không thể tách
biệt của các thứ bậc về bản chất trong con người.
SVTH: Lê Thị Yến Thơ


6


Tiểu luận Triết học 2019
- Các quan hệ xã hội không phải chỉ xét ở quan hệ ở từng hình thái xã hội
riêng biệt mà còn khái quát những quan hệ xã hội chung thể hiện qua từng chế
độ, thời đại riêng biệt. Quan hệ xã hội vừa diễn ra theo chiều ngang (đương đại)
vừa theo chiêù dọc lịch sử. Các quan hệ xã hội quy định bản chất con người bao
gồm cả quan hệ xã hội hiện tại và quan hệ xã hội truyền thống, bởi trong lịch sử
của mình con người bắt buộc phải kế thừa di sản của những thế hệ trước nó.
Trong lĩnh vực văn hoá tinh thần có những truyền thống thúc đẩy con
người vươn lên, nhưng cũng có những truyền thống "đè nặng lên những con
người đang sống". Do đó khi xem xét bản chất con người không được tách rời
hiện tại và quá khứ.
- Cái bản chất không phải là cái duy nhất, mà là bộ phận chi phối trong
chỉnh thể cụ thể phong phú đa dạng. Bản chất và thể hiện bản chất của con
người có khác biệt. Không hiểu bản chất chung của con người hay quy tất cả
những gì của con người để chỉ vào bản chất là sai lầm. Bản chất một con người
cụ thể là tổng hoà các quan hệ xã hội "vốn có" của con người đó và quy định
những đặc điểm cơ bản chi phối mọi hành vi của người đó. Còn tất cả những
hành vi của người đó bộc lộ ra bên ngoài là những hiện tượng biểu hiện bản
chất của họ. Sự thể hiện bản chất của con người không phải theo con đường
thẳng, trực tiếp, mà thường là gián tiếp, quanh co qua hàng loạt mâu thuẫn giữa
cá nhân và xã hội, giữa kinh nghiệm và nhận thức khoa học, giữa lợi ích trước
mắt và lâu dài; giữa bản năng sinh vật và hoạt động có ý thức giữa di truyền tự
nhiên và văn hoá xã hội… Trong diễn biến đầy mâu thaũan đó, bản chất thể hiện
ra như một xu hướng chung, xét đến cùng mới thấy sự chi phối của xu hướng
đó.
Con người là một thực thể sinh vật - xã hội. Thông qua hoạt động thực

tiễn, con người làm biến động đời sống xã hội đồng thời cũng biến đổi chính bản
thân mình. Điều đó cũng có nghĩa là con người tiếp nhận bản chất xã hội của
mình thông qua hoạt động thực tiễn.
Như vậy, bản chất con người không phải là trừu tượng mà là hiện thực,
không phải là tự nhiên mà là lịch sử, không phải là cái vốn có trong mỗi cá thể
SVTH: Lê Thị Yến Thơ

7


Tiểu luận Triết học 2019
riêng lẻ mà là tổng hoà của toàn bộ quan hệ xã hội. Đây là phát hiện có giá trị to
lớn của Mác về bản chất con người.
Thừa nhận ý nghĩa quyết định của mặt xã hội đối với việc hình thành bản
chất con người, song không có nghĩa là, chủ nghĩa Mác- Lênin coi nhẹ mặt tự
nhiên, phủ nhận cái sinh vật trong yếu tố cấu thành bản chất con người. Bởi vì
theo C. Mác "giới tự nhiên là thân thể của con người, thân thể mà với nó con
người phải ở lại trong quá trình thường xuyên giao tiếp để tồn tại. Nói rằng đời
sống thể xác và tinh thần của con người gắn liền với giới tự nhiên, nói như thế
chẳng qua chỉ có nghĩa là giới tự nhiên gắn liền với bản thân giới tự nhiên, vì
con người là một bộ phận của giới tự nhiên".
Con người và con vật đều có những nhu cầu như ăn uóng, tính dục…,
nhưng C. Mác đã từng vạch ra tính chất khác nhau của những nhu cầu ấy: con
người hoạt động theo bản năng, con người hành dộng theo ý thức. Và chính mặt
xã hội của con người đã làm cho mặt sinh vật trong con người phát triển ở trình
độ cao hơn những động vật khác.
Con người sống, hoạt động không phải chỉ theo những bản năng di truyền
sẵn có như các động vật thông thường mà chủ yếu theo sự phát triển của văn
hoá, của tiến bộ lịch sử - xã hội. Khác con vật, con người ngoài chương trình di
truyền, còn có chương trình kế thừa về mặt xã hội. Bằng con đường giáo dục,

chương trình này truyền lại kinh nghiệm của những thế hệ trước cho các thế hệ
sau. Những đặc điểm di truyền của từng người vừa bảo đảm những thuộc tính
sinh học của mình, vừa bảo đảm để con người tiếp thu chương trình xã hội.
Ngày nay, mối tương quan giữa mặt sinh vật và mặt xã hội trong sự phát
triển của con người vẫn là đối tượng của những cuộc tranh luận khoa học gay
gắt. Nhiều nhà khoa học tư sản vẫn đem đối lập và tách mặt sinh học khỏi mặt
xã hội. Chẳng hạn, phải duy sinh vật tuyệt đối hoá yếu tố sinh vật trong sự phát
triển của con người. Họ tuyên truyền thuyết Đácuyn xã hội. Đại biểu trường
phái này là: Ph.Nítsơ, Trenherơlen, Klovenơ…
Nhiều tác giả như Liônen Tigơ và Rôbin Phốcxơ cắt nghĩa hành vi của
con người theo quan điểm di truyền học…
SVTH: Lê Thị Yến Thơ

8


Tiểu luận Triết học 2019
Chủ nghĩa Phơrớt cho rằng, toàn bộ cái xã hội trong tâm lý học người chỉ
là mặt khác nhau của giới tính, là sự biểu hiện quanh co của những đam mê bẩm
sinh.
Ngược lại quan điểm xã hội học tầm thường về con người thường quy kết
bản chất con người là một sản phẩm văn hoá của xã hội, của kinh tế và tước bỏ
tính hữu cơ, tính tự nhiên của con người.
Trường phái "Triết học nhân bản hiện đại" quan niệm về bản chất của con
người phải được xuất phát từ nguyên tắc tinh thần.
Xuất phát từ những lập luận trên, kết luận tất yếu rút ra là: con người với
tư cách là sản phẩm của giới tự nhiên, là sự phát triển tiếp tục của giới tự nhiên,
mặt khác con người là một thực thể xã hội được tách ra như một lực lượng đối
lập với tự nhiên. Sự tác động qua lại giữa mặt sinh học và mặt xã hội trong con
người tạo thành bản chất người.

2. Mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội.
Con người tồn tại qua những cá nhân người, mỗi cá nhân người là một
chỉnh thể đơn nhất gồm một hệ thống những đặc điểm cụ thể không lặp lại, khác
biệt với những cá nhân khác về cơ chế, tâm lý, trình độ…
Xã hội bao giờ cũng do các cá nhân hợp thành. Những cá nhân này sống
và hoạt động trong những nhóm cộng đồng, tập đoàn xã hội khác nhau do điều
kiện lịch sử quy định. Trong mối quan hệ với giống loài, tức là trong mối quan
hệ với xã hội, cá nhân biểu hiện ra với tư cách sau:
- Cá nhân là phương thức tồn tại của giống loài "người". Không có con
người nói chung, loài người nói chung tồn tại cảm tính.
- Cá nhân là cá thể người riêng rẽ, là phần tử tạo thành cộng đồng xã hội,
là một chỉnh thể toàn vẹn có nhân cách.
- Cá nhân được hình thành và phát triển chỉ trong quan hệ xã hội. Nhưng
xã hội thay đổi theo tiến trình lịch sử cá nhân là một hiện tượng có tính lịch sử.
Mỗi thời kỳ lịch sử có một "kiểu xã hội của cá nhân" mang tính định hướng về
thế giới quan, phương pháp luận cho hoạt động của con người trong thời kỳ lịch
sử cụ thể đó.
SVTH: Lê Thị Yến Thơ

9


Tiểu luận Triết học 2019
Nếu như cá nhân là khái niệm phân biệt sự khác nhau giữa cá thể với
giống loài, sự khác biệt biểu hiện ra bên ngoài của cá nhân này với cá nhân khác
thì nhân cách là khái niệm để chỉ sự khác biệt những yếu tố bên trong riêng biệt
với toàn bộ hoạt động sống của nó, của cá nhân này với cá nhân khác. Nhân
cách là nội dung, trạng thái, tính chất, xu hướng bên trong riêng biệt của mỗi cá
nhân. Đó là thế giới của "cái tôi" do tác động tổng hợp của các yếu tố cơ thể và
xã hội riêng biệt tạo nên. Mỗi cá nhân "dấn thân" vào cuọc sống, tiếp thu và

chuyển những giá trị văn hoá của xã hội vào bên trong mình, thực hiện quá trình
so sánh lọc bỏ, tự đánh giá, tự tạo nên thế giới riêng của mình. Đâylà quá trình
kép, xã hội hoá cá nhân và cá nhân hoá xã hội, cá nhân xã họi và cá nhân nhân
cách là thống nhất. Với nhân cách riêng, mỗi cá nhân có khả năng ý thức về
mình, làm chủ cuộc sống của mình, tự lựa chọn chức năng, niềm vui và trách
nhiệm hoạt động cụ thể trong xã hội.
Vấn đề cá nhân, nhân cách không giải quyết một cách khoa học nếu
không có phương hướng triết học rõ ràng giải quyết mối quan hệ cá nhân và xã
hội. Mối quan hệ này được giải quyết liên tiếp thông qua tập thể cơ sở. Nó tạo
thành một bộ phận hết sức quan trọng của một cơ thể xã hội hoàn chỉnh. Cá
nhân có nhân cách gia nhập vào tập thể như là bộ phận của cái toàn thể, thể hiện
bản sắc của mình thông qua hoạt động tập thể, nhưng không "hoà tan" vào tập
thể. Đây là mối quan hệ biện chứng bao hàm mẫu thuẫn cá nhân và tập thể. Tuỳ
theo tính chất và khả năng giải quyết những mâu thuẫn đó mà mối quan hệ này
có thể duy trì phát triển hoặc tan rã.
Mối quan hệ cá nhân và xã hội là mối quan hệ biện chứng, tác động nhau,
trong đó xã hội giữ vai trò quyết định. Nền tảng của quan hệ này là quan hệ lợi
ích. Thực chất của việc tổ chức trật tự xã hội là sắp xếp các quan hệ lợi ích sao
cho khách thác được cao nhất khả năng của mỗi thành viên vào các quá trình
kinh tế, xã hội và thúc đẩy quá trình phát triển lên trình độ cao hơn. Xã hội là
điều kiện, là môi trường, là phương thức để lợi ích cá nhân được thực hiện. Cá
nhân không chỉ là sản phẩm của xã hội mà còn là chủ thể của sự phát triển xã
hội, của hoạt động sản xuất và hoạt động xã hội khác. Với tư cách là chủ thể của
SVTH: Lê Thị Yến Thơ

10


Tiểu luận Triết học 2019
lịch sử, cá nhân hành động không phải riêng rẽ mà với tư cách là một bộ phận

của tập thể xã hội (gia đình, giai cấp, dân tộc, nhân dân). Nhân dân là cộng đồng
lớn nhất, trong đó cá nhân hành động như chủ thể lịch sử. Cá nhân chỉ được hình
thành phát triển trong xã hội, trong tập thể. Sự tác động cá nhân và xã hội mang
hình thức đặc thù tuỳ thuộc vào các chế độ xã hội và trình độ văn minh khác
nhau.
Lịch sử phát triển của loài người là lịch sử đấu tranh để giành tự do ngày
càng cao. Trong các xã hội có giai cấp đối kháng, tự do của người này được thực
hiện bằng cách tước đoạt tự do của người khác. Tự do cá nhân của giai cấp
thống trị được đảm bảo bằng cách tước đoạt tự do của giai cấp bị trị. Cho nên,
quá trình đấu tranh của giai cấp và quần chúng lao động là quá trình giành tự do
của họ đã bị giai cấp thống trị cướp đoạt. Tự do của con người không tách rời
những điều kiện xã hội, không tách rời trình độ của con người chinh phục thiên
nhiên. Chỉ đến chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản con người mới thực sự có
tự do. Ở đây, tất cả những vấn đề về lực lượng sản xuất, quan hệ kinh tế, hệ
thống chính trị, đấu tranh giai cấp… đều được thực hiện theo mục đích phát
triển tối đa năng lực con người và vì con người. Trước đây C.Mác và Ph.
Ănghen đã chỉ ra rằng, nền sản xuất tư bản chủ nghĩa đã làm phát triển những
quan hệ phổ biến, sự phụ thuộc phổ biến giữa các dân tộc, và "sản xuất vật chất
đã như thế thì sản xuất tinh thần cũng không kém như thế". Chủ nghĩa tư bản
hiện đại đang đẩy mạnh quá trình này, nhưng về thực chất đó vẫn là sự mở rộng
quan hệ bóc lột và nô dịch con người sang các dân tộc khác. Nó tạo ra một số
nước tư bản phát triển cao, giàu có, thì đồng thời cũng làm cho châu Phi đói,
châu Á nghèo, châu Mỹ Latinh nợ nần chồng chất.
Chủ nghĩa xã hội thực hiện quá trình quốc tế hoá đời sống nhân loại để
mỗi dân tộc có điều kiện tiếp cận nhanh chóng những giá trị tiến bộ của nhân
loại, làm cho con người phát triển nhân cách phong phú, biết đấu tranh chống
những quan hệ không có tính người trong cuộc sống nhân loại. Đó là đặc trưng
của chủ nghĩa nhân đạo xã hội chủ nghĩa trong quan hệ giữa cá nhân và xã hội.
3. Cá nhân và quần chúng nhân dân trong lịch sử
SVTH: Lê Thị Yến Thơ


11


Tiểu luận Triết học 2019
Lịch sử chẳng qua là hoạt động của con người theo đuổi mục đích của
mình. Nhưng lịch sử không diễn ra qua hoạt động của từng cá nhân cô lập, tách
rời mà phải thông qua hoạt động của quần chúng đông đảo theo những mục đích
nhất định. Khái niệm quần chúng nhân dân có tính lịch sử, nghĩa là ở các chế độ
xã hội khác nhau thì kết cấu quần chúng nhân dân cũng khác nhau và luôn luôn
biến đổi theo sự phát triển của phương thức sản xuất. Nói chung, quần chúng
nhân dân bao gồm tất cả những lực lượng, giai cấp, những tập đoàn, những cá
nhân thúc đẩy sự phát triển của xã hội, trong đó chủ yếu là quần chúng lao động.
Trước Mác, triết học duy tâm và duy vật đều hiểu không đúng đắn vai trò
của quần chúng nhân dân và mối quan hệ giữa quần chúng nhân dân và cá nhân
trong lịch sử.
Tư tưởng tôn giáo cho rằng, mọi sự thay đổi trong xã hội là do ý chí của
đấng tối cao, là do "mặt trời", ý chí đó được các cá nhân thực hiện. Triết học duy
tâm cho rằng lịch sử nhân loại là lịch sử của các bậc vua chúa, anh hùng hào
kiệt, thiên tài lỗi lạc. Còn quần chúng nhân dân chỉ là "lực lượng tiêu cực", là
"phương tiện" mà các vĩ nhân cần đến để đạt mục đích của mình.
Các nhà duy vật trước Mác tuy không tin vào Thượng đế, thần linh, nhưng
lại cho rằng nhân tố quyết định sự phát triển của xã hội là đạo đức, tư tưởng, là
các vĩ nhân sớm nhận thức được chân lý vĩnh cửu.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định quần chúng nhân dân
là lực lượng quyết định sự phát triển của lịch sử vì những lý do sau:
- Tư tưởng tự nó không dẫn đến biến đổi xã hội. Tư tưởng chỉ có giá trị
khi nó dẫn đến hành động làm biến đổi lịch sử, sự thống nhất giữa tư tưởng và
hành động làm phát triển xã hội chỉ có thể xảy ra qua hoạt động của quần chúng
nhân dân. Sức mạnh quần chúng nhân dân là sức mạnh vật chất và mọi sự vận

động lịch sử đều do quần chúng trực tiếp tạo ra. Nói quần chúng nhân dân quyết
định lịch sử là nói tới sức mạnh này.
- Quần chúng nhân dân là lực lượng cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã
hội. Cách mạng là ngày hội của quần chúng, là sự nghiệp của quần chúng. Cuộc
đấu tranh của quần chúng nhân dân lao động là động lực phát triển của xã hội.
SVTH: Lê Thị Yến Thơ

12


Tiểu luận Triết học 2019
- Quần chúng nhân dân là người đóng vai trò to lớn trong sự phát triển
văn hoá, nghệ thuật và khoa học. Trong lịch sử, do sự phân công lao động dẫn
đến tạo ra một lớp người chuyên về sáng tạo tinh thần tư tưởng, những hoạt
động này của họ cũng chỉ diễn ra được trên cơ sở đời sống tinh thần và sáng tạo
của quần chúng. Quần chúng nhân dân là người trực tiếp sáng tạo ra văn học
nghệ thuật. Hoạt động thực tiễn của quần chúng là cái gốc, là nguồn vô tận cho
văn học nghệ thuật sáng tạo, đồng thời quần chúng nhân dân còn là người
thưởng thức, phê phán, kiểm nghiệm các giá trị đó. Trong lịch sử phát triển của
xã hội, không có văn học dân gian thì cũng không thể có văn học bác học, không
có kinh nghiệm của đa số người lao động thì cũng không có các khoa học. Đây
là hai mặt không thể tách rời của đời sống tinh thần trong xã hội.
- Hoạt động thực tiễn của quần chúng nhân dân là cái nôi, là cơ sở cho sự
hình thành các nhân vật ưu tú của xã hội. Sức mạnh và tài năng của lãnh tụ cũng
chỉ được phát huy trong phong trào quần chúng, gắn bó mật thiết với quần
chúng. Một nhân dân anh hùng, một đại chúng cách mạng năng động sẽ là cơ sở
để sản sinh ra những anh hùng, những lãnh tụ tiêu biểu của mình.
Như vậy, xét tất cả các mặt trong đời sống xã họi từ kinh tế đến chính trị,
từ thực tiễn đến tinh thần tư tưởng, khi quần chúng nhân dân đóng vai trò quyết
định lịch sử. Song, theo quan niệm duy vật lịch sử, quần chúng nhân dân và cá

nhân lãnh tụ trong lịch sử không tách rời nhau. Cá nhân lãnh tụ là những người
có năng lực và phẩm chất tiêu biểu nhất trong phong trào quần chúng, được
quần chúng tin yêu. Vai trò to lớn của họ trong quá trình phát triển lịch sử được
thể hiện ở những điểm sau:
- Lãnh tụ là người đúc kết trí tuệ, nhu cầu nguyện vọng của quần chúng để
định hướng cho hoạt động của quần chúng. Cá nhân ưu tú là con đẻ của quần
chúng và chỉ có những cá nhân như thế mới "sống mãi" với lịch sử.
- Lãnh tụ do có trình độ nhận thức cao, họ nhìn xa trông rộng, thấy được
xu hướng tất yếu khách quan của lịch sử, từ đó, họ đưa ra những dự đoán khoa
học thiên tài và chủ động tổ chức quần chúng hoạt động thống nhất tiếp nhận và
thực hiện xu hướng lịch sử đó.
SVTH: Lê Thị Yến Thơ

13


Tiểu luận Triết học 2019
- Lãnh tụ là người giáo dục, thức tỉnh, tổ chức, tập hợp quần chúng đấu
tranh, hướng phong trào qua những khó khăn, đưa phát triển phát triển nhanh
chóng. Và, quần chúng chuyển hoạt động từ tự phát sang tự giác, từ kinh nghiệm
sang khoa học, từ phân tán sang có tổ chức thống nhất, từ nhu cầu hàng ngày
sang biến đổi lịch sử phải qua mất khâu trung gian là hoạt động khái quát tư
tưởng và tổ chức lãnh đạo của các cá nhân lãnh tụ, đại diện cho lợi ích quần
chúng. Họ không phải là người đứng bên ngoài, hay bên trên quần chúng mà là
sản phẩm, là một nhân tố tự nhiên của phong trào quần chúng, sống và phát triển
phụ thuộc vào sự chấp nhận tín nhiệm của quần chúng.
Chủ nghĩa Mác LêNin đánh giá cao vai trò của cá nhân lãnh tụ trong sự
phát triển của lịch sử, đồng thời kiên quyết chống tệ sùng bái cá nhân. Tệ sùng
bái cá nhân là thần thánh hoá cá nhân, lãnh đạo, đi đến chỗ chỉ thấy vai trò của
cá nhân quyết định tất cả mà không thấy, hoặc coi nhẹ vai trò của quần chúng.

Đây là biểu hiện của quan niệm duy tâm về lịch sử, hoàn toàn trái ngược với thế
giới quan của giai cấp vô sản.
Trong xã hội có đối kháng giai cấp, quần chúng nhân dân là những bị trị,
sống phụ thuộc vào lợi ích và quyền lực của thiểu số giai cấp bóc lột và cầm
quyền lực của thiểu số giai cấp bóc lột và cầm quyền thống trị. Trong chủ nghĩa
xã hội, quần chúng nhân dân là người làm chủ xã hội. Tất cả những cá nhân và
bộ máy lãnh đạo, quản lý đều là công cụ thực hiện quyền làm chủ của quần
chúng nhân dân.
Những người cầm đầu của giai cấp bóc lột có tác dụng tiến bộ trong thời
kỳ mà vai trò lịch sử của giai cấp đó còn phù hợp với tiến trình lịch sử.Nhưng
khi giai cấp đó trở thành phản động, những người cầm đàu của nó trở thành lực
lượng cản trở, kìm hãm sự phát triển của lịch sử. Nói một cách khác là, trong
những thời kỳ lịch sử nhất định có những cánhân đại diện cho các lực lượng tiến
bộ và những cá nhân cầm đầu các lực lượng xã hội phản động.
Công lao to lớn của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I. Lênin và lãnh tụ vô sản vĩ
đại khác là ở chỗ, các ông đã chỉ cho giai cấp vô sản và quần chúng bị áp bức
hiểu được nhiệm vụ lịch sử của họ, sức mạnh vĩ đại của họ và con đường đi đến
SVTH: Lê Thị Yến Thơ

14


Tiểu luận Triết học 2019
tự giải phóng khỏi mọi ách áp bức bóc lột. Giai cấp công nhân và nhân dân Việt
Nam vô cùng tự hào có vị lãnh tụ là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ở Người đã kết tinh
những phẩm chất tiêu biểu nhất của một lãnh tụ vô sản. Thắng lợi của "cách
mạng Việt Nam, ngót lửa thế kỷ nay mãi mãi gắn liền với tên tuổi của chủ tịch
Hồ Chí Minh, người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, người khai sinh nền Cộng
hoà dân chủ Việt Nam, người vun trồng khối đại đoàn kết dân tộc và xây dựng
lực lượng vũ trang cách mạng, vị lãnh tụ thiên tài của giai cấp công nhân và

nhân dân ta, người anh hùng dân tộc vĩ đại, người chiến sĩ lỗi lạc của phong trào
cộng sản quốc tế.
II. VẤN ĐỀ CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM

1. Khái niệm nhân tố con người, chiến lược con người
Nhận thức đúng đắn về khái niệm nhân tố con người là sự phát triển sáng
tạo quan điểm Mác - Lênin về con người với tư cách là người sáng tạo có ý thức,
là chủ thể của lịch sử. Trong thời igan gần đây, xuất hiện nhiều khái niệm: nhân
tố con người, nguồn nhân lực, nguồn lực con người, phát triển người… Khái
niệm nhân tố con người đã được nhiều tác giả trong và ngoài nước đề cập với
những góc độ khác nhau, cách tiếp cận khác nhau. Có tác giả đề cập dưới góc độ
quản lý, có tác giả đề cập dưới góc độ phân tích tâm lý - xã hội. Trong tài liệu
triết học - xã hội về nhân tố con người cũng nổi lên nhiều cách tiếp cận khác
nhau. Tựu trung lại, có hai cách tiếp cận chính:
- Thứ nhất, coi nhân tố con người như là hoạt động của những con người
riêng biệt, những năng lực và khả năng của họ do các nhu cầu và lợi ích cũng
như tiềm năng trí lực và thể lực của mỗi người quyết định.
- Thứ hai, coi nhân tố con người như là một tổng hoà các phẩm chất thuộc
tính, đặc trưng, năng lực đa dạng của con người, biểu hiện trong các dạng thức
hoạt động khác nhau.
Như vậy, cái chung trong các quan niệm này là coi nhân tố con người về
bản chất là nhân tố xã hội, quy định vai trò chủ thể của con người. Nhưng sự
khác nhau là quan niệm thứ nhất lấy hoạt động làm đặc trưng cơ bản, còn phẩm

SVTH: Lê Thị Yến Thơ

15


Tiểu luận Triết học 2019

chất, năng lực được thể hiện trong hoạt động. Quan niệm thứ hai, lấy đặc trưng
cơ bản là những phẩm chất năng lực, còn hoạt động là sự thể hiện nó.
Từ đây, có thể đưa ra một quan niệm chung đầy đủ hơn về nhân tố con
người là: nhân tố con người là hệ thống các yếu tố, các đặc trưng quy định vai
trò của chủ thể tích cực, sáng tạo của con người, bao gồm một chỉnh thể thống
nhất giữa mặt hoạt động với tổng hoà các đặc trưng về phẩm chất, năng lực của
con người trong một quá trình biến đổi và phát triển xã hội nhất định.
Nhân tố con người là khái niệm không chỉ để phân biệt nhân tố "người"
với các yếu tố khác: kinh tế, chính trị, xã hội… trong đời sống xã hội, mà quan
trọng hơn là để khẳng định vai trò của nhân tố "người" đối với các yếu tố đó.
Tức là không có khái niệm nhân tố con người tách khỏi hoạt động, dù đó là hoạt
động trong lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội.
Tịch cực hoá nhân tố con người là phát hiện, như bộc lộ, hình thành và sử
dụng tiềm năng sáng tạo của người lao động và phát huy nhân tố con người
chính là chăm lo tạo ra những điều kiện cần thiết để mỗi người, mỗi cộng đồng
người thể hiện tối đa năng lực của mình trong lao động, trong hoạt động sáng
tạo nhằm đẩy mạnh sự phát triển kinh tế - xã hội vì hạnh phúc của mỗi con
người. Đây cũng chính là quá trình làm cho mỗi con người trở thành chủ thể có
ý thức trong sáng tạo lịch sử
Phát triển người tựu trung là gia tăng giá trị cho con người, giá trị tinh
thần, giá trị thể chất, vật chất. Con người ở đây được xem xét như một tài
nguyên, một nguồn lực. Vì thế, phát triển người hoặc phát triển nguồn lực con
người trở thành một lĩnh vực nghiên cứu hết sức cần thiết trong hệ thống phát
triển các loại nguồn lực như vật lực, tài lực, nhân lực, trong đó phát triển nguồn
nhân lực giữ vai trò trung tâm. Lịch sử phát triển nhân loại là lịch sử giải phóng
từng bước con người cả vật chất và tinh thần. Và không phải đến chủ nghĩa xã
hội mới bàn đến chiến lược con người, khai thác yếu tố người, vì trong lịch sử,
không chế độ nào tồn tại lại không nhắc đến yếu tố người, nhưng vấn đề là khai
thác, phát huy theo lợi ích giai cấp nào và bằng phương thức nào. Thực chất
chiến lược con người là tạo ra môi trường xã hội kích thích con người hoạt động

SVTH: Lê Thị Yến Thơ

16


Tiểu luận Triết học 2019
sáng tạo và thoả mãn nhu cầu tối đa của con người trong những điều kiện lịch sử
cụ thể. Đó là môi trường kinh tế xã hội, môi trường chính trị xã hội, môi trường
văn hoá xã hội.
2. Chiến lược con người trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam.
Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của quá trình xây dựng xã hội
mới. Sự phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo lối "vựot trước, đi tắt, đón đầu"
nhất thiết gắn liền với phát triển con người và coi con người là nhân tố quyết
định thắng lợi của sự nghiệp đổi mới. Đảng ta khẳng định lấy việc phát huy
nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững..
Để xây dựng con người Việt Nam mới trong giai đoạn đẩy mạnh sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cần thực hiện đồng bộ các vấn đề cơ bản
sau:
Một là, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế
thị trường không đối lập với chủ nghĩa xã hội mà là thành tựu phát triển của nền
văn minh nhân loại, nó tồn tại khách quan trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Tuy nhiên, kinh tế thị trường phải có sự quản lý của Nhà nước. Thực chất
của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một kiểu tổ chức vừa
dựa trên nguyên tắc và quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên những
nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Thực tiễn chứng minh, những
chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước ta trong gần 20 năm đổi mới vừa qua
đã tạo nên động lực kinh tế giải phóng sức sản xuất, trực tiếp thúc đẩy kinh tế
phát triển, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng con người Việt Nam mới.
Hai là, ổn định chính trị và mở rộng dân chủ. Bất kỳ một quốc gia dân tộc

nào, dù ở chế độ chính trị nào cũng cần có sự ổn định chính trị - xã hội. Bởi vì,
đó là tiền đề để phát triển và tiến bộ xã hội. Ổn định chính trị, trước hết thể hiện
sự ổn định hệ thống chính trị, cơ cấu hợp lý và thể chế chính trị hoàn chỉnh. Ở
Việt Nam, khi bước vào công cuộc đổi mới, vấn đề quan trọng được đặt ra giữa
đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là phải có sự kết hợp ngay từ đầu, lấy đổi
mới kinh tế làm trọng tâm, và từng bước đổi mới chính trị, nhằm làm cho hệ
SVTH: Lê Thị Yến Thơ

17


Tiểu luận Triết học 2019
thống chính trị phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Đó cũng là quá trình củng cố và phát triển hệ thống chính trị từ
nền tảng kinh tế của nó. Mục tiêu đổi mới hệ thống chính trị là nhằm thực hiện
tốt dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân.
Ba là, nâng cao hiệu quả của công tác giáo dục. Ngày nay, cùng với việc
đổi mới công nghệ, phải chú ý đổi mới công tác giáo dục, với phương châm:
"Giáo dục cái mà đất nước cần, chứ không phải giáo dục cái mà ta có". Mặc
khác, giáo dục toàn diện: giáo dục chính trị, giáo dục lao động nghề nghiệp, giáo
dục đạo đức, phải sử dụng nhiều hình thức giáo dục đào tạo đa dạng phong phú,
tạo điều kiện cho con người tự giác, tự giáo dục, chủ động sáng tạo. Đầu tư cho
giáo dục được coi là đầu tư cơ bản, đầu tư cho tái sản xuất sức lao động, đầu tư
cho tương lai Không phải ngẫu nhiên mà ở nhiều nước trên thế giới, trong kế
hoạch phát triển đất nước, các quốc gia này đều đặt giáo vào hệ thống ba chiến
lược: giáo dục khoa học và mở cửa.
Có thể nói, ngày nay, sự lạc hậu về giáo dục sẽ phải trả giá đắt trong cuộc
chạy đua ở thế kỷ XXI mà thực chất là chạy đua về trí tuệ và phát triển giáo dục
trong cách mạng khoa học và công nghệ.
Bốn là, mở rộng giao lực quốc tế, Để tạo điều kiện cho con người Việt

Nam sáng tạo tránh được những sai lầm quanh co, để đưa đất nước đi lên tiến
kịp trên con đường tiến hoá của nhân loại đòi hỏi phải kết hợp việc tổng kết kinh
nghiệm trong nước và kinh nghiệm của thế giới. Không chỉ tìm phương thức,
hình thức xây dựng chủ nghĩa xã hội nội bộ nước mình, dân tộc mình, các nước
xã hội chủ nghĩa mà còn tìm ngay trong các nước tư bản chủ nghĩa. Tiếp thu có
phê phán chọn lọc những giá trị phong phú của loài người sẽ tạo thành một động
lực mạnh mẽ để hình thành từng bước một chủ thể mới của lịch sử - con người
Việt Nam mới vừa mang bản chất giai cấp công nhân, vừa đại biểu cho sự phát
triển của dân tộc. Và chắc chắn rằng "Thế kỷ XXI sẽ là thế kỷ nhân dân ta tiếp
tục giành thêm nhiều thắng lợi to lớn trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội
và bảo vệ Tổ quốc, đưa nước ta sánh vai cùng với các nước phát triển trên thế
giới".
SVTH: Lê Thị Yến Thơ

18


Tiểu luận Triết học 2019
KẾT LUẬN
Ngày nay, với cuộc cách mạng kỹ thuật công nghệ hiện đại, đã dần dần đi
đến khẳng định sự phát triển con người là yếu tố quyết định của mọi sự phát
triển. Trong sự phát triển con người đặc biệt nhấn mạnh vai trò của trí tuệ và đi
liền với nó là vai trò của giáo dục đào tạo nguồn lực con người.
Đối với sự nghiệp đổi mới của nước ta phải coi nhân tố con người là nhân
tố quyết định, từ đó phải nâng cao dân trí cũng như chuẩn bị tốt nguồn nhân lực
có đủ trí tuệ và nghị lực, tay nghề và công nghệ, ý thức và tâm hồn thấm đượm
sâu bản sắc dân tộc, khoa học và ý chí, thực hiện sự chuyển mình từ một xã hội
nông nghiệp thành xã hội công nghiệp theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Các
cuộc đại thắng của dân đã đi vào lịch sử suy cho cùng là thắng lợi của chính con
người Việt Nam. Bài học đó còn nguyên giá trị cho tới ngày nay. Với chiến lược

giáo dục đào tạo đúng đắn và khoa học của Đảng, với trí tuệ và phẩm chất của
con người Việt Nam, chúng ta sẽ thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước.
Với kiến thức và sự cố gắng, em đã hoàn thành bài tiểu luận song không
tránh khỏi còn nhiều thiếu sót. Kính mong nhận được lời nhận xét và đánh giá
của thầy để em rút kinh nghiệm trong những bài sau.
Em xin chân thành cảm ơn!

SVTH: Lê Thị Yến Thơ

19



×