Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Các giai đoạn lịch sử phát triển trái đất: Kỷ Đệ Tam (Paleogen Neogen)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.13 MB, 18 trang )

Chủ đề

KAINOZOI

111


Đệ Tam (Paleogen & Neogen)
(Các Kỷ – Hệ)
Tống Duy Thanh. Khoa Địa chất
Trường ĐHKHTN (Đại học Quốc gia Hà Nội).
334 Nguyễn Trãi. Thanh Xuân. Hà Nội.

1. Giới thiệu
Trước đây Kainozoi gồm hai kỷ là Đệ Tam và Đệ Tứ, ngày nay do kỷ Đệ Tam được phân
thành hai kỷ Paleogen và Neogen nên Kainozoi gồm 3 kỷ (hệ). Tuy nhiên, tên gọi Đệ Tam cũng
vẫn được dùng để chỉ một giai đoạn lịch sử của hai kỷ Paleogen và Neogen [B. 1]. Trong địa
tầng học, thuật ngữ Đệ Tam cũng thường được dùng để chỉ khối lượng địa tầng liên tục giữa
Paleogen và Neogen.
Tên của kỷ Paleogen thể hiện tình chất cổ
xưa của sinh giới so với kỷ tiếp sau (chữ Hy
Lạp Paleo là cổ xưa, genos là sinh vật). Hệ này
phân thành ba thống là Paleocen, Eocen và
Oligocen. Hệ Neogen gồm hai thống là Miocen
và Pliocen; tên gọi Neogen phản ánh tình chất
đổi mới của sinh giới so với Paleogen (gốc chữ
Hy Lạp neo là mới). Sinh giới của Neogen đã có
nhiều nét gần gũi với hiện nay cả trong thành
phần giống loài và phân bố địa lý. Do các mặt
cắt Paleogen và Neogen chứa ìt hóa thạch động
vật biển, mà chủ yếu là hóa thạch động vật lục


địa và biển kìn nên việc đối sánh địa tầng của
hai hệ Paleogen và Neogen trên thế giới gặp
nhiều khó khăn.

Bảng 1. Phân chia địa tầng Đệ Tam (Paleogen và
Neogen) theo Ủy ban Địa tầng Quốc tế (2004).

Kỷ (Hệ)

Thế
Thống

Đệ Tứ

Pleistocen
Pliocen

Neogen
Miocen

Oligocen

Paleogen

Eocen

Thời
(Bậc)
Gelasi
Piacenzi

Zancle
Messin
Torton
Serraval
Langli
Burdigal
Aquitan
Chatti
Rupel
Priabon
Barton
Lutet
Ypres
Thanet
Selandi
Dani

Tuổi
(triệu năm)
1,806
2,588
3,600
5,332
7,246
11,608
13,65
15,97
20,43
23,03
28,4

33,9
37,2
40,4
48,6
55,8
58,7
61,7
65,5

Những sự kiện lịch sử địa chất và phát triển
sinh giới của Paleogen và Neogen trên thế giới
Paleocen
diễn ra liên tục; ở Việt Nam những trầm tìch của
hai hệ này cũng có mối liên hệ hữu cơ. Ví thế,
Creta
để dễ theo dõi lịch sử phát triển Trái Đất trong
khoảng cách nay từ 65,5 tr. năm đến 1,8 tr. năm, hai kỷ (và hệ) Paleogen, Neogen được giới thiệu
chung trong mục từ Đệ Tam (các Kỷ – Hệ).
Trong Đệ Tam, các bồn đại dương tiếp tục mở do các lục địa tiếp tục di chuyển tới vị trì của
chúng ngày nay. Ở phìa tây Bắc Mỹ, các địa vực tiếp tục di chuyển về phìa bắc tạo nên Alaska,
và California tách khỏi Mexico do sự mở vịnh California. Do Bắc Đại Tây Dương được hính
thành nên cầu nối Na Uy - Greenland hoàn toàn bị cắt đứt, cung Panama nhập vào Bắc Mỹ và
Nam Mỹ ở Neogen. Tại bán cầu nam – Australia tách ra khỏi Châu Nam Cực, Biển Đỏ bắt đầu
được mở và Arabia tách khỏi Bắc Phi. Sự kiện địa chất lớn nhất là hoạt động tạo núi Alpi thể
hiện rõ nét nhất ở dãy núi Alpes và Himalaya. Trong phạm vi Thái Bính Dương “cung lửa” tiếp
tục phát triển thành vòng lửa xung quanh bồn Thái Bính Dương.
Các đới khì hậu có xu hướng lạnh dần, tiến tới băng hà phát triển trong Đệ Tứ. Sự tách dãn các
lục địa đã làm xuất hiện một số nhóm sinh vật đặc biệt như những động vật đặc hữu ở Australia, sự
112



xô húc của các lục địa cũng gây nên sự tuyệt chủng quan trọng của một số nhóm động vật. Động
vật Có vú trở thành nhóm thống trị trên mặt đất, thực vật hạt kìn phát triển rộng khắp và đa dạng.
2.1. Động vật không xương sống
2.1.1. Động vật không xương sống trong Paleogen [H.1].
Động vật nguyên sinh. Lần thứ hai trong lịch sử địa chất kể từ Paleozoi, phụ lớp Trùng lỗ
đạt sự phát triển cực thịnh. Lần thứ nhất trong sự phát triển của Trùng lỗ là vào hai kỷ Carbon
và Permi với sự phong phú của bộ Fusulinida. Lần thứ hai của sự phát triển Trùng lỗ với sự
phong phú các đại biểu của bộ Nummulitida (Trùng tiền) diễn ra trong kỷ Paleogen. Trong kỷ
này Trùng tiền rất phong phú và đa dạng, tiến hóa nhanh và phân bố rất rộng rãi trong các biển
nên chúng đã trở thành một trong những nhóm
hóa thạch chỉ đạo địa tầng rất quan trọng. Nhiều
nơi trên thế giới như ở Indonesia, Bắc Phi, v.v...
cùng với các sinh vật tạo vôi khác Trùng tiền đã
đóng một vai trò lớn trong việc hính thành đá
vôi sinh vật của Paleogen. Chúng phong phú
trong miền khì hậu nóng ấm, còn ở phìa bắc
(miền ôn đới và lạnh hiện nay) đặc biệt phát
triển Khuê tảo (Diatomeae) là loại tảo vỏ silic.
Khuê tảo đã xuất hiện từ Jura, nhưng từ
Paleogen đến nay mới phát triển phong phú, đó
là nguồn của sự thành tạo bùn diatom để hính
thành loại đá diatomit.
Ngành Thân mềm rất phát triển với hai lớp
chủ yếu là Chân ríu và Chân bụng. Từ Paleogen
các đại biểu của hai lớp này bắt đầu một giai
đoạn phát triển cực thịnh. Lớp Chân bụng cũng
có rất nhiều đại biểu với nhiều kiểu tô điểm vỏ
khác nhau. Ngành Da gai so với trước kia có
nhiều đổi mới, chủ yếu là loại cầu gai đều đặn

với nhiều giống loài.

Hình 1. Hóa thạch động vật không xương sống Paleogen
1-2. Nummulites: Cấu trúc vỏ (1) và mặt cắt ngang qua vỏ
(2); 3. Orbitoides media; 4. Turritella sulcifera; 5. Hanslator
carinifera; 6. Ostrea bellovacensis; 7. Sondilus rarispina;
8. Neocardium edwardsi.

Các đại biểu của Bông biển (Spongia), San hô, Da gai, v.v... tuy cũng vẫn khá đông đảo,
nhưng ý nghĩa địa tầng không lớn so với Thân mềm.
2.1.2. Động vật không xương sống trong Neogen
Động vật không xương sống ở biển Neogen có nhiều nét gần gũi với động vật không xương
sống Paleogen. Phong phú nhất là các đại biểu của lớp Chân ríu, lớp Chân bụng và Cầu gai.
Lớp Chân ríu phát triển rất phong phú với nhiều đại biểu gần gũi với hiện nay. Lớp Chân
bụng tiếp tục phát triển với nhiều giống loài thuộc Calyptraeidae; rất nhiều giống hiện đang sống
đều đã xuất hiện từ Neogen như Murex, Turricula, Neptunea, v.v... Nói chung, sự khác nhau
giữa động vật Thân mềm Neogen và hiện nay thể hiện trong thành phần các loài chứ không phải
trong thành phần giống. Nhiều dẫn liệu chứng tỏ rằng sự phân khu địa lý động vật trong Neogen
cũng giống như hiện nay. Ở những miền phìa bắc, động vật biển Neogen cũng gồm những dạng
thìch ứng với khì hậu lạnh, còn ở những khu vực phương nam người ta cũng phát hiện những
dạng hóa thạch Neogen thìch hợp với khì hậu nóng ấm.
113


Ở nhiều nơi Cầu gai cũng có vai trò đáng kể trong
các trầm tìch Neogen; các giống như Scutella và
Clypeastas rất phong phú. Động vật không xương
sống ở nước lợ có những tình chất đặc trưng riêng cho
từng khu vực. Chình điều này cùng với sự phổ biến
của tướng biển kìn trong trầm tìch Neogen làm cho

công việc liên hệ đối chiếu địa tầng rất khó khăn, ví
thế các phân vị địa tầng đã được phân chia của
Neogen thường chỉ mang tình chất khu vực.
2.2. Động vật có xương sống
2.2.1. Vai trò các cầu nối lục địa đối với sự phát
triển động vật

Hình 2. Hoá thạch động vật không xương sống trong
Neogen: 1. Rostellaria diatula; 2. Viviparus sp.; 3.
Scutella leognanensis; 4. Trachycardium fraternum; 5.
Amphistegina lessoni.

Trong Đệ Tam xuất hiện nhiều cầu nối các
lục địa và chúng có vai trò rất quan trọng trong
sự tiến hóa động vật Có vú Kainozoi. Ở bán
cầu bắc có cầu nối Siberie - Canada, cầu nối
Greenland - Scandinavia (đến Eocen sớm, hai
lục địa này mới bắt đầu tách nhau). Cho đến
cuối Eocen Nam Cực, Australia và Nam Mỹ
vẫn nối liền nhau; còn Châu Phi và Ấn Độ vẫn
biệt lập cho đến khi chúng nối liền với Âu-Á
vào cuối Đệ Tam. Cầu nối giữa Bắc Mỹ và
Nam Mỹ được xác lập vào cuối Đệ Tam do sự
Hình 3. Một số động vật Có vú trong Paleogen.
xô húc Châu Phi - Châu Âu vào giữa Đệ Tam
1. Palaeotherium magnum; 2. Ngựa cổ Eohippus; 3. Brotovà sự hoàn thành cung Panama vào cuối Pliotherium platiceras
cen. Sự xuất hiện cầu nối này đã tạo nên sự di
cư và sự tuyệt chủng một số lượng lớn động vật Có vú, nhất là sự tuyệt chủng của nhiều dạng
địa phương trong động vật lục địa Nam Mỹ.
2.2.2. Động vật Có vú trong Paleogen [H. 3; H. 4].

Trong kỷ Paleogen do động vật Có vú tiến hóa và phát triển nhanh chóng nên chúng có ý
nghĩa lớn và đóng vai trò chủ yếu trong động
vật có xương sống trên cạn. Các đại biểu của
lớp Có vú đã phát triển và tiến hóa theo nhiều
hướng thìch ứng với nhiều hoàn cảnh sinh thái
khác nhau. Bên cạnh sự phong phú và đa dạng
của động vật Có vú đặc trưng cho đời sống
trên cạn, xuất hiện những dạng sống ở dưới
nước (cá voi, cá lợn) và cả những loại có thể
bay lượn trên không như dơi.
Dù đã có mặt những dạng cơ bản sống ở
ba môi trường trên cạn, trên không và dưới
nước nhưng động vật Có vú ở Paleogen vẫn
còn mang tình chất rất nguyên thuỷ so với hiện

Hình 4. Sinh cảnh một vài dạng động vật Có vú cổ trong Paleogen sớm: Loài ăn thịt Protictis (hình trên bên trái); Dạng ăn
sâu bọ (hình hai con vật nhỏ gần dưới gốc cây); Dạng răng
nhiều mấu. Ptilodus (hình dưới, bên phải, con vật đang trèo
cây); Pantolambda, dạng ăn cỏ, cao 1 m (hình giữa, dưới).
(Wicander R., Monroe J.S. 1993)

114


đại. Trong sự phát triển và tiến hóa của lớp Có vú, cấu tạo sọ và nhất là răng có ý nghĩa rất lớn,
ví răng liên hệ chặt chẽ với chế độ sinh hoạt của con vật, hơn nữa răng lại là yếu tố được bảo tồn
tốt nhất trong trạng thái hóa thạch. Khoa học giải phẫu so sánh do Cuvier sáng lập đã cống hiến
quan trọng đối với việc nghiên cứu chúng, ví từ cấu tạo răng nhà nghiên cứu có thể biết được
hính thù con vật và cách thức sinh sống của chúng.
Trong Paleogen đã diễn ra những quá trính phát triển tỏa tia rất rõ nét. Quá trính tỏa tia đầu tiên

diễn ra trong Paleocen, khi chưa có một họ nào của động vật hiện đại và tất cả động vật đều mang
tình chất cổ xưa và còn cả những dạng đã có mặt từ Creta. Lần phát triển tỏa tia thứ hai diễn ra vào
Eocen, những dạng cổ xưa lần lượt bị tuyệt chủng, từ giữa Eocen các bộ hàm của động vật Có vú
bắt đầu tiến hóa theo nhiều hướng khác nhau. Trong Paleocen, tất cả các dạng còn nguyên thuỷ, thì
dụ trong số thú dữ chỉ có nhóm Răng mào (Creodonta), nhưng đến cuối Eocen đã xuất hiện những
thú dữ ăn thịt chình thức với bộ răng ăn thịt. Trong nhánh Có móng guốc vào Paleocen chỉ có động
vật 5 ngón, mang tình chất trung gian của nhóm ngón chẵn và nhóm ngón lẻ, đến Eocen chúng tách
thành từng nhóm riêng biệt là bộ Ngón chẵn và bộ Ngón lẻ. Từ bộ Ngón lẻ xuất hiện những dạng tổ
tiên của nhánh tiến hóa thành ngựa. Quá trính tiến hóa của họ Ngựa từ Hyracotherium tuổi Eocen
đến ngựa hiện đại đã được nghiên cứu khá chi tiết và sẽ được đề cập kỹ hơn ở dưới đây.
Họ Tê giác vào đầu Oligocen cũng chỉ mới có Aceratherium chưa có sừng và dạng chuyên
hóa như Indricotherium. Vào giữa kỷ Paleogen, xuất hiện những dạng đầu tiên của bộ Có vòi,
như Moerithium có kìch thước nhỏ, sau đó là Palaeomastodon với răng hàm có mấu lồi, nhưng
tất cả các răng hàm đều làm nhiệm vụ như nhau. Cũng vào thời kỳ này xuất hiện những đại biểu
đầu tiên của bộ Gậm nhấm, bộ Ăn sâu bọ, bộ Cá voi và bộ Linh trưởng.
Nhín chung, động vật Có vú trong kỷ Paleogen đã khá phong phú và sự biến đổi, tiến hóa
của chúng cũng đã thể hiện khá rõ. Qua cấu tạo răng và chi, ta có thể thấy rõ phần lớn chúng
thìch ứng với đời sống leo trèo trong rừng rậm.
Hóa thạch xương động vật có xương sống Paleogen được phát hiện khá nhiều, nhờ đó có thể
theo dõi được cả sự phân bố địa lý và quá trính di cư của chúng. Động vật Có vú ở Australia ngay
từ đầu Paleogen đã khác biệt hẳn bọn ở các lục địa khác; ở Australia không có nhóm Có nhau
(Placentaria) cao cấp mà chỉ có nhóm Đơn huyệt và Chuột túi. Sự khác biệt này còn tiếp diễn trong
các thời gian sau này nữa. Động vật ở Nam Mỹ từ đầu Eocen cũng đã khác biệt rõ nét, ở đó cũng
chỉ có nhóm Chuột túi, nhóm Thiếu răng và Hồ hầu cấp thấp (Lemur), các nhóm động vật Có nhau
cao cấp rất ìt phát triển. Bắc Mỹ trước kia nối liền với đại lục Âu-Á qua vùng eo biển Bering, đến
giữa Eocen cũng bị tách rời ra, từ đó sự phát triển của động vật Có vú ở mỗi khu vực có sắc thái
riêng. Đồng thời với sự phát triển phong phú của động vật Có vú là sự phát triển nhiều đại biểu của
lớp Chim, phần lớn là chim kiểu mới không răng, nhưng cấu tạo đầu sọ còn nặng nề, thì dụ giống
Diatryma ở Eocen Bắc Mỹ.
Trong động vật có xương sống ở biển, vai trò của cá voi nổi bật lên ví các loại bò sát khổng

lồ ở dưới biển đã không còn nữa. Trong số cá thí cá xương đóng vai trò chủ yếu.
2.2.3. Động vật Có vú trong Neogen
Động vật có xương sống trên cạn ngay từ đầu kỷ Neogen đã thay đổi khác hẳn so với
Paleogen. Hàng loạt các nhóm phổ biến ở Paleogen đã bị tuyệt chủng như nhóm thú dữ Răng
mào (Creodontia) và Amplipoda thuộc bộ Móng guốc, một số thú khổng lồ và nhiều đại biểu
của bộ Ngón chẵn. Thay thế cho chúng là những đại biểu của các họ và các giống thú dữ, móng
guốc, có vòi gần gũi với hiện nay. Từ Miocen đã xuất hiện gấu, chó sói, tê giác, lợn, bò, cừu,
115


hươu cao cổ và khỉ v.v... Sang đến Pliocen
xuất hiện thêm voi, hà mã, Hipparion và ngựa
thực thụ v.v... Cho đến giữa Miocen, động vật
Có vú của Bắc Mỹ và Âu-Á vẫn khác biệt
nhau.
Ở lục địa Âu-Á lúc này thú dữ phát triển
rất phong phú và gồm chó, mèo, chó rừng, hổ
răng kiếm v.v... Đồng thời, nhiều dạng của bộ
Có vòi cũng phát triển như Mastodon và
Dinotherium có ngà ngược hẳn lại so với voi
hiện nay, ngà không cong lên như ở voi hiện
nay mà lại mọc từ hàm dưới và cong xuống
[H. 5]. Lần đầu tiên xuất hiện hươu sừng và tê
giác một sừng, hoàn toàn không có mặt lạc đà,
còn động vật một móng như ngựa phát triển rất
yếu ớt. Nghiên cứu so sánh các hóa thạch phát
hiện được ở Châu Phi và Âu-Á cho phép rút ra
kết luận rằng tê giác, gấu, khỉ và nhiều dạng
khác nữa đã xuất hiện đầu tiên ở Nam Á hoặc
Châu Phi, rồi sau đó mới di cư đến lục địa

Châu Âu vào giữa Miocen.

Hình 5. Một số động vật Có vú trong Neogen
1. Indricotherium; 2. Uintatherium (nhóm Amplipoda); 3. Halitherium (nhóm Sirenia); 4. Mastodon; Dinotherium

Động vật ở Bắc Mỹ vào Miocen sớm-giữa
không đa dạng như ở lục địa Âu-Á. Lúc này ở
Bắc Mỹ không có bộ Có vòi (Mastodon), khỉ, hươu sừng, còn thú dữ cũng rất ìt phát triển mà
chỉ có chó, hổ răng kiếm. Đáng chú ý là sự phát triển phong phú những nhóm cổ xưa của họ
Ngựa. Nói chung các dạng động vật của Bắc Mỹ mang tình chất của động vật đồng cỏ, khác với
động vật Âu-Á thuộc sinh cảnh rừng rậm. Từ Miocen muộn, hai khu vực cổ địa lý động vật vừa
kể trên được nối liền, đã xẩy ra cuộc di cư trao đổi ồ ạt giữa động vật hai khu vực này. Nhóm Có
vòi và thú dữ, tê giác, v.v... tràn sang Bắc Mỹ, còn họ Ngựa lại từ Bắc Mỹ phát triển phong phú
sang lục địa Âu-Á.
Cuối Miocen và đầu Pliocen là thời gian phát triển rất đặc biệt của động vật Âu-Á. Lúc đó
trên diện tìch rộng lớn ở Nam Âu, Bắc Phi, Tiểu Á, Nam Á, Tây Tạng, Trung Quốc động vật
Có vú phát triển rất phong phú. Tổ hợp động vật này đã được gọi tên là động vật Pikecmi (lấy
tên địa phương Pikecmi ở gần Athen, Hy Lạp). Trong thành phần của tổ hợp động vật Pikecmi
có tê giác không sừng (Aceratherium), nhóm Có vòi (Mastodon, Dinotherium, v.v...), cùng với
phát triển phong phú và đa dạng của các nhóm tuần lộc, hươu cao cổ, lợn, ngựa ba ngón
(Hipparion), hổ răng kiếm, chó sói, nhiều loại của nhóm gấu, khỉ dạng người và một dạng đặc
biệt của nhóm Khuyết răng.
Đến nửa cuối Pliocen trên lục địa Âu-Á không còn các dạng voi cổ Mastodon, ngựa ba
ngón (Hipparion) v.v...; chúng đã di chuyển xuống các vùng khì hậu nhiệt đới của Nam Á và
Châu Phi. Thay vào đó, từ Ấn Độ đi lên phìa bắc có voi Elephas meridionalis, bò rừng, hươu,
và gấu chình thức (Ursus) v.v...
Trong Pliocen, động vật Có vú ở Châu Mỹ có những nét riêng biệt, ở Bắc Mỹ khá phong
phú tê giác và voi Mastodon dạng chuyên hóa. Nếu từ Miocen động vật Âu-Á-Phi và phần nào
116



Bắc Mỹ có những nét chung thí động vật Nam Mỹ lại hoàn toàn khác hẳn. Nhóm Khuyết răng
thảng hoặc mới gặp ở các lục địa phìa bắc và Châu Phi, thí ở Nam Mỹ lại rất phong phú. Nhóm
Có móng guốc cũng phát triển thành nhiều
nhánh, trong đó có những nhánh mang tình chất
pha trộn với Bắc Mỹ. Các loại gặm nhấm ở đây
cũng hính thành một nhóm riêng biệt mà mãi về
sau mới di cư sang Bắc Mỹ. Sự khác nhau này do
hai khu vực địa lý của Châu Mỹ cách biệt nhau
trong Miocen. Đến giữa Pliocen, Nam Mỹ và
Bắc Mỹ nối liền nhau qua cầu nối Panama, tạo ra
một cơ hội di cư pha trộn ào ạt giữa động vật hai
khu vực. Mèo (nghĩa rộng), hổ răng kiếm, gấu,
chó, lạc đà, ngựa, hươu, lợn tràn xuống Nam Mỹ.
Do xuất hiện ào ạt của các đối thủ cạnh tranh
mới, nhất là những thú dữ ăn thịt từ phương bắc
tới, nên động vật cũ của Nam Mỹ nhanh chóng
trở thành nghèo nàn, thậm chì một số lớn bị tuyệt
A
chủng và chỉ còn tồn tại một số ìt như các loại
động vật ăn kiến, hồ hầu v.v...
Một trung tâm nữa của sự phát triển động
vật Có vú trong Neogen là lục địa Australia.
Tuy đến nay các tài liệu về khu vực địa lý động
vật này còn quá ìt, nhưng rõ ràng là trong
Neogen đây vẫn là một khu vực bị tách biệt và
chỉ gồm những động vật Có vú lạc hậu như
chuột túi và nhóm Đơn huyệt (Monotrema).
Trong số các động vật có xương sống trong
Neogen ta còn gặp các loại rắn mới; chim đã rất

gần gũi với chim hiện đại.
Trong môi trường nước của Neogen cũng có
các đại biểu của lớp Có vú và nhiều động vật có
xương sống khác. Trong số động vật có xương
sống dưới biển có nhiều dạng cá voi và nhóm Ăn
thịt có nguồn gốc từ nhóm Ăn thịt ở trên cạn.
2.2.4. Sự tiến hóa của ngựa [H. 6]
Tiến hóa của ngựa là một vì dụ điển hính
cho quá trính tiến hóa động vật có xương sống
của Đệ Tam. Dãy hóa thạch liên tục đã được phát
hiện, do đó có thể thấy rõ quá trính tiến hóa họ
Ngựa ở Bắc Mỹ. Hóa thạch của giống Ngựa đầu
tiên là Hyracotherium (= Eohippus), tuổi
Paleocen muộn được phát hiện ở Nam Trung
Quốc; loại ngựa này tiến hóa từ một loài động
vật tựa heo vòi. Trong quá trính tiến hóa của
117

B
Hình 6. Tiến hóa họ Ngựa trong Đệ Tam (Wicander R. &
Monroe J.S 1993). A. Sơ đồ quan hệ huyết thống của ngựa
Đệ Tam. Trong Oligocen có hai nhánh nổi bật, một nhánh tiến
tới ngựa ba ngón, ăn đọt cây; nhánh khác trở thành ngựa một
ngón, ăn cỏ. B. Hình ảnh đơn giản một số dạng ngựa trong
quá trình tiến hóa từ Hyracotherium đến ngựa hiện nay –
Equus, theo xu hướng tăng kích thước và giảm số ngón chân,
phát triển các mấu răng với các bề mặt nghiền thức ăn.


ngựa, răng trước hàm vốn dùng để cắt dần dần biến thành răng hàm để nghiền thức ăn. Trong

điều kiện khì hậu ấm, nóng từ đầu Eocen Hyracotherium di cư từ Châu Á sang Bắc Mỹ và Châu
Âu rồi từ đó đến Oligocen sớm chúng trở nên rất phong phú, đa dạng. Loại ngựa sớm nhất có
kìch thước nhỏ và chân có 4 ngón, có đệm ở sau ngón và những chiếc răng ngắn thìch hợp với
ăn thực vật mềm của rừng cây mọng nước. Ở Bắc Mỹ, dạng Hyracotherium vẫn giữ nguyên
kìch thước nhỏ trong Eocen và không một loài nào tồn tại lâu hơn 3-4 triệu năm. Còn ở Châu
Âu, tuy chân vẫn có 4 ngón và thìch ứng với chế độ ăn chồi cây, nhưng kìch thước của
Hyracotherium tăng lên và chúng phát triển cho tới khi tuyệt chủng nhóm Palaeotherium.
Ở Bắc Mỹ, vào đầu Oligocen, giống Epihippus tiến hóa để cho ra đời một phụ họ tiến bộ hơn
của ngựa, điển hính là giống Mesohippus [H. 6]. Mặc dù Mesohippus bị tuyệt chủng vào Miocen
muộn, nhưng một thành viên của phụ họ này đã di cư tới Châu Á và Châu Âu. Chúng có chân 3
ngón, bàn chân có đệm, ăn đọt cây rừng, kìch thước cỡ con chó tới con nai.
Trong Miocen sớm, do ảnh hưởng của điều kiện mưa ẩm ở phìa đông của Bắc Mỹ, đồng cỏ
gianh phát triển và trên đồng cỏ này đã xuất hiện giống Parahippus. Cỏ gianh dễ thìch nghi với
khì hậu khô cằn nên rất phát triển. Trong tế bào, nhất là những tế bào già của cỏ gianh có rất
nhiều tinh thể opal nhỏ cũng cứng như thạch anh. Do thìch nghi với chế độ ăn cỏ gianh nên
Parahippus bị mòn răng nhanh và chúng đã thìch nghi bằng cách tăng chiều dài của răng.
Giống ngựa cổ nhất trong các loài ngựa hiện đại là Merychippus, tiến hóa từ Parahippus vào
18 triệu năm trước đây, có kìch cỡ bằng con hươu. Giống ngựa đồng bằng này đa dạng hóa nhanh
chóng về kìch thước, đồng thời xuất hiện một dây chằng đàn hồi giữa cổ chân và mắt cá chân, có
tác dụng như một lò xo chống xóc. Mặc dù bộ phận này có thể không cho Merychippus chạy nhanh
hơn, nhưng đã làm tăng khả năng dẻo dai so với các loài ngựa trước đó. Kìch thước của chúng từ
nhỏ xìu tới cỡ của ngựa con và tiến hóa thành hai nhóm là: 1) nhóm Hipparion có ba móng dài,
khỏe bằng nhau và 2) nhóm Equines – có ngón giữa chịu hầu hết trọng lượng con vật còn hai ngón
bên ngắn hơn hoặc hoàn toàn biến mất. Hipparion trở thành ngựa savan sống trong điều kiện rừng
và đồng cỏ hỗn hợp, chúng sử dụng hai ngón bên để di chuyển rất nhanh nhẹn. Giống Equus lại
sống trong điều kiện đồng bằng thoáng đãng, nhờ sức dẻo dai mà có thể chạy thoát khỏi động vật
ăn thịt. Hipparion di cư tới Châu Á, Châu Âu và Châu Phi hai lần trong Miocen muộn.
Cuối Miocen xẩy ra đợt tuyệt chủng lớn của ngựa, hầu hết Hipparion và Equines bị tiêu diệt
ở Bắc Mỹ. Hai giống của nhóm Hipparion sống sót tới kỷ Đệ Tứ ở Châu Âu, Châu Á và Châu
Phi, chỉ một giống ngựa thấp, chân cà kheo còn sống sót ở Bắc Mỹ. Ngựa một móng

Dinohippus phát triển tỏa tia thành các giống Hippidion và Equus, một giống di cư sang Nam
Mỹ (qua cầu lục địa Panama). Loài cổ nhất của Equus là một dạng tương tự như ngựa vằn ở
Ethiopi hiện nay.
Đến Pleistocen một loạt phụ giống của Equus hiện đại đã di cư tự do giữa Châu Á và Bắc
Mỹ, một số chúng khởi đầu quá trính tiến hóa ở mỗi lục địa. Chúng gồm lừa, nửa lừa (trung gian
giữa lừa và ngựa vằn) và tổ tiên của ngựa nuôi. Trong đợt tuyệt chủng cuối Pleistocen tất cả các
loài ngựa ở Bắc Mỹ đều biến mất. Tổ tiên của các loại lừa, ngựa hiện nay ở Bắc Mỹ lại do
những ngưòi Tây Ban Nha mang từ Châu Âu đến trong các đợt di cư thực dân chiếm đất Châu
Mỹ.
2.3. Thực vật
2.3.1. Thực vật Paleogen đã có nhiều dạng gần như hiện đại, số lượng giống loài so với
Creta đã phong phú hơn rất nhiều. Hai khu vực cổ địa lý thực vật phân biệt nhau khá rõ nét.
118


Khu vực thực vật thứ nhất bao gồm Tây Âu, Nam Nga, Nam Á kéo sang Trung Mỹ và bắc
của Nam Mỹ, thuộc vùng nhiệt đới và á nhiệt đới, có cây thường xanh. Đến Eocen thực vật càng
mang tình chất ưa nóng ấm hơn, thành phần của chúng gần giống như thực vật vùng nhiệt đới
Nam Á (Ấn Độ - Malaysia). Từ Oligocen ở phìa bắc xuất hiện các yếu tố ứng với khì hậu ôn
hoà.
Khu vực thứ hai bao trùm Trung Á, Bắc Á, Bắc Mỹ và cả khu cận cực bắc hiện nay
(Spitsberg, Greenland). Thực vật mang tình chất ưa lạnh hơn, cây rụng lá hàng năm như sồi,
bạch dương, ngoài ra còn có các loại thông, tùng, v.v...
2.3.2. Thực vật Neogen rất gần gũi với thực vật hiện nay và ở Miocen cũng có hai khu vực
địa lý thực vật rõ rệt. Khu vực thực vật nhiệt đới gồm những lãnh thổ như ở Paleogen, nhưng
hính như có thu hẹp hơn ở phìa nam. Các nhóm thuộc kiểu lá cọ, long não, sim, v.v... chỉ gặp ở
phìa nam, vùng ven Địa Trung Hải mà không gặp ở phương bắc như ở Paleogen.
Khu vực thực vật phìa bắc bao gồm Siberie, Altai, Nhật Bản có các loại cây thông, tùng
bách, bạch dương, sồi, v.v... tức là những dạng hiện vẫn đang còn sống. Nói chung, thực vật ở
cả hai khu vực đều có nét chung là thành phần ưa nóng giảm bớt và di chuyển về phìa nam. Quá

trính này còn tiếp diễn ở Pliocen. Ở những ría phìa bắc của khu vực thực vật ưa nóng trong
Miocen như Tây Âu và Đông Âu, Nhật, v.v... không còn thấy những dạng như cọ, long não,
sim, v.v... nữa mà thay thế bằng thực vật ưa lạnh như bạch dương, thông, tùng bách, v.v...
Đến cuối Neogen, trên lãnh thổ rộng lớn của các khu vực Đại Tây Dương và Thái Bính
Dương đã hính thành các đai thực vật giống như hiện nay. Những khu vực đồng cỏ như ở Mông
Cổ, Bắc Trung Quốc, Tây Nam Siberie cũng đã hính thành từ Miocen.
2.4. Hiện tượng tuyệt chủng trong Đệ Tam
Hiện tượng tuyệt chủng của nhiều loài sinh vật đã diễn ra ở vùng Caribbe và Tây Đại Tây
Dương vào khoảng 2,5 triệu năm sau Pliocen. Có lẽ sự tuyệt chủng này là do trong Pleistocen
sớm nước lạnh từ băng tan tràn vào vùng nước nông và ấm của Tây Đại Tây Dương. Tỷ lệ của
động vật Thân mềm Pliocen sớm ở vùng này còn sống sót đến ngày nay chỉ là 20%, trong khi đó
tỷ lệ này ở Nhật Bản và California có đến 63%. Toàn bộ sự tuyệt chủng trong giai đoạn này ở
vùng Caribbe và bờ Tây Đại Tây Dương đạt tới 66%. Một thời kỳ tuyệt chủng cũng diễn ra ở
khoảng ranh giới Eocen-Oligocen, trùng khớp với thời gian lao bắn của một thiên thạch lớn đã
để lại miệng phễu với đường kình 40 km ở Newfoundland.
3. Khái quát về hoạt động địa chất
3.1. Những nét lớn về hoạt động địa chất trong Paleogen
Trong Đệ Tam Pangea tiếp tục bị phá vỡ, đồng thời sự xô húc lớn của các mảng lục địa bắt
đầu diễn ra ở Nam Âu và Nam Á tạo nên đai núi Alpes-Himalaya. Vùng biển Labrador (đông
bắc Canada và Newfoundland) tiếp tục mở ra do mảng Canada và Greenland được tách ra, đồng
thời bắc Greenland và Scandinavia tiếp tục bị tách dãn và hoàn thiện sự tách rời Châu Âu và
Bắc Mỹ. Đảo Iceland được hính thành, nằm trên chùm manti ở dãy núi ngầm giữa Đại Tây
Dương và sự tách dãn tiếp tục ở bồn Bắc Cực. Trong Đệ Tam sự chuyển động ngang theo các
đứt gãy chuyển dạng tiếp tục di chuyển các phần của địa vực Wrangellia (gồm các đảo
Vancover, Queen Charlotte của Canada và một phần của Alaska của Mỹ) và một số địa vực khác
ở phìa bắc. Một trong các địa vực này có thể đã di chuyển tới 2000km về phìa bắc. Rất nhiều địa
vực trong số này đã gắn kết lại tạo thành Alaska ngày nay, nơi được coi như là bến đỗ rộng lớn
119



của rất nhiều địa vực. Một vài địa vực khác
cũng bồi kết vào phần ría phìa đông nam của
Siberie trong Đệ Tam sớm. Ở phần ría tây nam
của Châu Âu, Iberia tiếp tục xoay theo chiều
kim đồng hồ và xô húc vào phìa nam của Pháp
tạo nên dãy núi Pyrene. Cũng trong thời gian
này một số các mảng nhỏ từng được tách từ
phìa nam Châu Âu đã quay trở lại và xô húc
vào mảng Châu Âu, bắt đầu cho các pha tạo
núi Alpi. Các hệ thống hút chím chình cũng
hoạt động dọc theo ría phìa nam của Châu Á.

Hình 7. Sơ đồ cổ địa lý thế giới ở Eocen muộn (Condie
K.C. & Sloan R. E. 1998)

Hoạt động hút chím và tạo núi tiếp tục diễn ra ở bờ biển tây của Bắc Mỹ và Nam Mỹ. Một
số đới hút chím mới cũng bắt đầu xuất hiện ở Đông Nam Á, Đông Nhật Bản, Nam Đại Tây
Dương và Nam Thái Bính Dương [H. 7].
Mảng Ấn Độ đã tiến sát Tây Tạng và một dãy núi ngầm do đứt gãy chuyển dạng xuất hiện ở
vùng giữa mảng Ấn Độ và mảng Australia. Cách đây 50 triệu năm, đứt gãy chuyển dạng này đã
không hoạt động nữa do mảng Ấn Độ xô húc vào Tây Tạng và dãy Himalaya bắt đầu được hính
thành. Khoảng 70 triệu năm trước đây, chuỗi núi ngầm dưới đại dương ở Hawai-Emperor bắt
đầu hính thành từ trên chùm manti. Tiếp đó, cách đây 43 triệu năm một sự thay đổi lớn trong
hướng tách dãn xảy ra ở mảng Thái Bính Dương làm hính thành vùng nâng tây Thái Bính
Dương như hiện nay. Sự thay đổi này được phản ánh qua khúc cong của chuỗi núi ngầm
Emperor-Hawai. Hướng tách dãn trước kia là hướng bắc hơi chếch sang tây bắc, nhưng từ Đệ
Tam giữa hướng tách dãn lệch về phìa tây nhiều hơn. Cùng với sự thay đổi của hướng tách
dãn này, một đứt gãy chuyển dạng ở phìa nam Nhật Bản cũng đã chuyển thành một đới hút
chím và hệ thống dãy núi ngầm ở ría nam của mảng Thái Bính Dương cũng bị hút chím dọc
theo ría bắc của mảng Australia. Cùng khoảng thời gian này hính thành đới hút chím TongaKermedec ở nam Thái Bính Dương, có thể dọc theo đứt gãy chuyển dạng trước đây. Các hệ

thống cung bắt đầu phìa trên những đới hút chím này và bắt đầu tách dãn giữa Philippines và
cung Marian, tạo nên biển Philippines. Cũng trong Đệ Tam sớm, Biển Đông bắt đầu được mở
do cung Philippines được tách khỏi đại lục Trung Quốc.
Cần chú ý rằng mặc dù sự phá vỡ Pangea vẫn tiếp diễn trong Đệ Tam, nhưng sự xô húc của các
mảng lục địa vẫn diễn ra giữa Châu Phi và Châu Á, tạo nên vành đai tạo núi Alpes-Himalaya.
3.2. Những nét lớn về hoạt động địa chất trong Neogen
Cách đây khoảng 25 triệu năm, cùng với sự tăng tốc độ của các đới hút chím là sự tách dãn
sau cung cũng xuất hiện ở biển Philippines; phần sót lại của hệ thống cung cũng bị cô lập do sự
lớn lên của mảng Philippines. Vào khoảng giữa Đệ Tam, Australia tách khỏi Châu Nam Cực do
hệ thống gờ núi Ấn Độ bành trướng về phìa đông. Nhật Bản cũng được tách ra khỏi lục địa
Trung Quốc và mở ra biển Nhật Bản. Tại khu vực Indonesia thí Celebes tách khỏi Borneo và
biển Banda bắt đầu được hính thành. Hệ thống hút chím Sunda dọc theo ría phìa nam Sumatra
và Java phát triển về phìa đông, đới hút chím ở phìa nam Philippines cũng phát triển về phìa bắc
và nối vào đới hút chím Ryukyu ở phìa nam Nhật Bản. Trong Miocen muộn bắt đầu xuất hiện
đới hút chím tây Luzon (Philippines) và cách đây 5 triệu năm, một đứt gãy chuyển dạng trái lớn
đã phát triển giữa Đài Loan và Luzon do cung Philippines xô húc vào cung Ryukyu - Đài Loan;
dấu vết này ngày nay đã được tím thấy ở trung tâm Đài Loan.
120


Sự thay đổi hướng tách dãn khoảng 10 triệu năm trước đây ở đông Thái Bính Dương đã
định vị lại vùng nâng đông Thái Bính Dương; những đứt gãy chuyển dạng lớn bị mất, ngày nay
còn di tìch như những đới đứt gãy lớn ở đáy đông Thái Bính Dương.
Hoạt động uốn nếp và chờm nghịch mạnh mẽ xảy ra ở phìa nam Châu Âu do các mảng
nhỏ tiếp tục hội tụ dọc bờ biển ở đây, tạo nên giai đoạn tạo núi chình của tạo núi Alpi và hính
thành dãy núi Alpes hùng vĩ; Thổ Nhĩ Kỳ
cũng bị đẩy về phìa tây, dọc theo một đứt gãy
chuyển dạng chình. Đại dương Tethys bị đóng
lại, di thừa của đại dương này chỉ còn lại
những phần bị cô lập, tạo nên các biển biệt lập

như Biển Đen, Địa Trung Hải và biển Caspi.
Italia được tách khỏi Tây Ban Nha vào khoảng
thời gian từ nửa sau Paleogen đến Neogen và
Hình 8. Phân bố hai đai tạo núi trên thế giới trong Kainozoi.
phần đầu nhọn phìa nam của Italia xô húc vào
1. Đai tạo núi Alpes-Himalaya. 2. Đai tạo núi Thái Bình Dương.
tây bắc Châu Phi tạo nên dãy núi Atlas.
Trong hình cũng thể hiện các yếu tố kiến tạo chủ yếu khác như
các mảng, các sống núi đại dương (ranh giới phân kỳ, dọc theo
Khoảng 5 đến 2 triệu năm trước đây, hệ thống
đó các mảng đang tách dãn). (Wicander R., Monroe J.S. 1993).
rift Đông Phi bắt đầu xuất hiện và cùng với nó
là Biển Đỏ và vịnh Aden cũng xuất hiện.
4. Hoạt động kiến tạo
Hoạt động tạo núi Kainozoi tập trung chủ yếu trong hai đai kiến tạo là đai Alpes-Himalaya
và đai Thái Bính Dương [H. 8]. Bên cạnh những hoạt động tạo núi nổi bật vừa nêu, hoạt động
tách dãn các mảng cũng diễn ra khá rõ nét.
4.1. Hoạt động tạo núi Alpi
Một trong những dãy núi hùng vĩ trên thế
giới là dãy Alpes ở Nam Âu. Mặc dù địa hính
ngày nay của dãy núi này chủ yếu là kết quả
của sự nâng lên và hoạt động băng hà Pleistocen, nhưng các hoạt động biến dạng đã bắt đầu
Hình 9. Mặt cắt vùng Alpes thể hiện các lớp phủ địa di.
(Wicander R. & Monroe J.S. 1993)
xảy ra ở Nam Âu từ Creta sớm và tiếp tục đến
tận giữa Đệ Tam. Trong dãy Alpes có rất nhiều
lớp bị uốn nếp đảo hay các lớp phủ địa di, chuyển dịch theo hướng bắc, liên quan tới sự xô
húc của các mảng nhỏ đến từ phìa nam. Những hoạt động nâng trồi và bào mòn về sau đã chia
cắt những lớp phủ địa di này, ví thế mà một lớp phủ có thể được lộ ra ở một vài ngọn núi khác
nhau [H. 9]. Alpes là một phần của một đai tạo núi lớn trải rộng từ miền tây Tây Ban Nha đến

tận Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ. Sau đó, đai này tiếp tục phát triển về phìa đông, qua Iran và nối
vào đai Himalaya ở phìa bắc Ấn Độ. Một phần Châu Âu thuộc hệ thống Alpes đã trải qua một
lịch sử địa chất phức tạp, bao gồm một số lượng lớn những vụ xô húc của các mảng nhỏ xảy
ra cách đây khoảng 200 triệu năm. Trong lịch sử kiến tạo của khu vực Địa Trung Hải đã diễn
ra sự phá vỡ của những mảng phụ ra khỏi phần phìa bắc của mảng Châu Phi và miền nam
Châu Âu, tiếp theo là hàng loạt vụ xô húc của chình những mảng này vào phìa nam Châu Âu.
Những vụ xô húc này có liên quan tới sự mở rộng của các biến dạng nén ép và đã đóng vai trò
rất quan trọng trong việc hính thành nên các đai tạo núi Alpes-Himalaya. Cũng trong thời gian
121


này, mảng Châu Á xoay ngược chiều kim đồng
hồ và đại dương Tethys giữa mảng Âu-Á và
Châu Phi bị khép lại.
4.2. Hoạt động tạo núi Himalaya

Hình 11. Năm giai đoạn của sự xô húc Ấn Độ - Tây Tạng.

Sự di chuyển nhanh chóng của mảng Ấn Độ
bắt đầu diễn ra từ đầu Đệ Tam đã dẫn đến sự xô
húc của nó vào Châu Á cách đây 60 triệu năm
[H. 11]. Đến Eocen sớm, đường khâu giữa hai lục
địa này đã hoàn thành, và vỏ lục địa bắt đầu chui
xuống dưới Tây Tạng do chuyển động hội tụ tiếp
tục diễn ra giữa mảng Ấn Độ và mảng Âu-Á.

A. Bắt đầu xô húc ở Paleocen muộn; B. Hoàn thành khâu nối ở Eocen sớm; C) Bắt đầu chúc chìm lục địa ở Miocen sớm; D.
Trong Miocen muộn tiếp tục chúc chìm, Ấn Độ quay ngược chiều kim đồng hồ; E. Trong 10 triiệu năm gần đây Hymalaya bị uốn
cong do chuyển đông hội tụ tiếp diễn (Condie C. & Sloan E. 1998).


Himalaya là dãy núi trẻ nhất và cao nhất
trên thế giới, kéo dài từ Afganistan tới Myanmar
và phìa sau chúng là cao nguyên cao nhất thế
giới – cao nguyên Tây Tạng. Himalaya cho ta Hình 10. Mặt cắt địa chất giản lược vùng trung tâm Himalaya.
một mặt cắt điển hính của một dãy núi được tạo Rìa trước của mảng Ấn Độ bị hút chìm xuống dưới mảng ÂuÁ gây nên sự nâng cao của cao nguyên Tây Tạng (Condie
nên do hoạt động xô húc [H. 10]. Dọc theo chiều K.C. & Sloan R.E. 1998).
dài 3.000 km của dãy núi này có sự thay đổi
đáng chú ý của các khu vực kiến tạo. Các bằng chứng của cả địa chất lẫn địa vật lì như sự nâng
lên của vỏ thạch quyển đều cho thấy chắc chắn sự
nén ép của vỏ lục địa xảy ra trong sự xô húc giữa
mảng Ấn Độ và mảng Âu Á đã tạo nên dãy Himalaya. Hầu hết các mô hính của sự xô húc này đều
cho thấy sự xô húc nổi của vỏ lục địa. Số liệu đo
được từ các trận động đất đã chứng tỏ có một đới
tách nghiêng thoải cắm hướng bắc (khoảng 3o)
nằm dưới dãy Himalaya; đó có thể là phần trên
của mảng Ấn Độ đã bị chui chúc xuống. Đới khâu
Indus rộng tới 3 km là ranh giới giữa mảng Ấn Độ
và Tây Tạng, có thành phần pha trộn với sự ưu
trội của ophiolit, là các mảnh vỡ của đáy biển Tethys cũ.

Trước khi xô húc xảy ra, Tây Tạng là một hệ
thống cung ría lục địa với một lượng khổng lồ đá
andesit, dung nham và tro tuf núi lửa, còn Bắc Ấn
Độ là ría lục địa thụ động tướng thềm lục địa,
chuyển tiếp sang tướng biển sâu của Tethys ở
phìa bắc. Khi sự xô húc bắt đầu xảy ra, sự uốn
nếp đã lan tới phìa nam trên mảng Ấn Độ. Kết
quả là vỏ thạch quyển đã trở nên dày hơn, các đá
biến chất áp suất cao được hính thành và khu vực
đá dưới sâu bị nóng chảy tạo ra đá granit. Sự nén ép tiếp tục xảy ra ở cả hai bên sườn của đường

khâu này do mảng Ấn Độ tiếp tục chuyển động về phìa Tây Tạng. Nó đã làm cho đường khâu
Indus có cấu tạo rất dốc và cuối cùng Tây Tạng bị đẩy lùi và lại cũng bị xô húc về phìa nam.
122


Bồn trước mũi mà ngày nay nằm ở miền Nam
Ấn Độ cũng tiếp tục di chuyển về phìa nam do
lực xô húc tác dụng từ phìa bắc. Căn cứ vào
mặt cắt ngang qua pha tạo núi Himalaya ta thấy
vỏ Trái Đất đã bị dồn ép và ngắn lại khoảng
2.500 km với tốc độ nén ép trung bính khoảng
5 cm/năm; nhưng phần vỏ của Tây Tạng dày
70 km thí chỉ ngắn lại khoảng 1000 km. Theo
các dấu vết để lại thí rất có thể đã có một đứt
gãy chuyển dạng ở khu vực phìa bắc của đới xô
húc này. Tài liệu địa chất Đệ Tam của vùng
Đông Nam Á cũng chứng minh cho sự xô húc
và khẳng định thêm rằng khoảng cách ngắn lại
của vỏ là từ 1.000 đến 1.500 km.
4.3. Đai tạo núi Thái Bình Dương

Hình 12. Mô hình về sự tách Nhật Bản khỏi lục địa Châu Á.
(a) - Mảng Thái Bình Dương bị hút chìm xuống dưới thạch
quyển ở phía đông Nhật Bản, magma xuyên lên dẫn đến sự
hình thành bồn sau cung (biển Nhật Bản). (b) - Magma xuyên
lên làm tách Nhật Bản tách khỏi lục địa Châu Á và hình thành
biển Nhật Bản. Quá trình hiện vẫn tiếp diễn.(Wicander R., Monroe J.S. 1993)

Mảng Thái Bính Dương đang bị thu hẹp bớt
tại các đới hút chím dọc theo ría tây và ría bắc

của Thái Bính Dương. Quá trính đã diễn ra suốt
Kainozoi, gây hoạt động tạo núi ở Aleutin, Philippines, Nhật Bản và một số khu vực khác ở tây
nam Thái Bính Dương [H. 8]. Hoạt động hút
chím của vỏ đại dương, hoạt động biến dạng và
hoạt động magma là những nét đặc trưng của các
vùng tạo núi ở phìa bắc và tây của đai tạo núi
Thái Bính Dương. Một vì dụ, máng biển Nhật
Bản ở ría đông của Nhật Bản là nơi mảng Thái
Bính Dương bị hút chím, còn biển Nhật Bản là
bồn ría sau cung nằm giữa lãnh thổ Nhật và đại
lục Châu Á [H. 12].
Lãnh thổ Nhật Bản trước đây vốn là phần
ría đông của lục địa Châu Á, sau đó bị tách do
sự tách dãn của bồn ría sau cung (biển Nhật
Bản). Sự tách Nhật Bản khỏi lục địa Châu Á
bắt đầu từ Creta, khi xuất hiện bồn sau cung
(biển Nhật Bản) thí thạch quyển của Nhật Bản
bị đẩy về phìa tây, trườn lên mảng Thái Bính
Dương. Các quá trính biến dạng, biến chất và
hoạt động núi lửa diễn ra trong suốt Kainozoi
và hiện nay vẫn đang tiếp tục. Mô hính tách
lãnh thổ Nhật Bản khỏi lục địa Châu Á như
vừa nêu cũng trùng khớp với sự phân bố ngư
hệ ở Nhật và lục địa Đông Bắc Á. Có nhiều
loài cá nước ngọt đặc hữu của Đông Bắc Á
cũng gặp ở Nhật Bản. Dĩ nhiên là những loại cá

A

B

Hình 13. Hệ rift Đông Phi (Wicander & Monroe 1993)
A. Mối nối chĩa ba trong hệ rift Đông Phi gồm: các rift Đông Phi,
Hồng Hải, Vịnh Aden. Vỏ đại dương hình thành ở vịnh Aden
cách nay 10 tr. năm. Tiếp đó tách dãn xẩy ra ở Hồng Hải, hiện
nay vỏ đại dương đang hình thành. Ở Đông Phi, vỏ lục địa chưa
bị mỏng, chưa đủ căng để vỏ đại dương ở bên dưới trồi lên. Mũi
tên chỉ hướng di chuyển của các mảng.
B. Mặt cắt giản lược qua Hồng Hải. Biển hẹp này hình thành do
sự tách dãn bắt đầu từ Miocen. Phần lớn hoạt động kiến tạo ở
Trung Đông do mảng Arabia đang di chuyển lên phía bắc.

123


nước ngọt này không thể giao lưu và di cư qua biển Nhật Bản nước mặn. Chúng đều là những
loài cá bản địa của cả Nhật Bản và lục địa Đông Bắc Á từ trước khi lãnh thổ Nhật Bản bị cách
biệt lục địa Châu Á bằng biển Nhật Bản.
4.4. Hệ thống rift Đông Phi
Hệ thống rift lục địa Đông Phi được coi là một hệ thống rift lục địa dài nhất thế giới hiện nay.
Hệ thống này kéo dài từ phìa nam Biển Đỏ đến tận miền đông và nam Châu Phi [H. 13]. Một
trong những biểu hiện sớm của hệ thống rift này là sự sụt võng dạng tuyến giữa Arabia và miền
đông Châu Phi, xảy ra từ đầu Paleogen. Khi những bồn đại
dương này bắt đầu hính thành, một lượng nhỏ nước biển
chảy vào từ đại dương Tethys đã bị chặn lại ở phìa bắc.
Do chỉ có một lượng nước nhỏ mà lại trong điều kiện
tốc độ bay hơi cao, những trầm tìch muối evaporit đã được
lắng đọng trong những bồn này. Cuối cùng, cách đây
khoảng 4 triệu năm, Arabia đã tách khỏi Châu Phi, Biển
Đỏ và vịnh Aden bắt đầu được mở ra. Ngày nay, những
trầm tìch tìch muối đó vẫn còn được bảo tồn ở cả hai bên

bờ của Biển Đỏ. Sự có mặt ở cả hai bờ của trầm tìch chứa
muối này là do khi Biển Đỏ mở ra, nó đã chia cắt bồn
trũng chứa trầm tìch muối này. Rift và núi lửa hai thành
phần cũng bắt đầu hoạt động ở hệ thống rift Đông Phi và
tiếp tục cho đến tận ngày nay. Ba rift lớn là Biển Đỏ, vịnh
Aden và Đông Phi đã giao nhau tại một điểm tạo nên mối
nối chĩa ba, trong đó tốc độ tách dãn của rift Đông Phi
chậm hơn các rift Biển Đỏ và Aden. Trong tương lai, tốc
độ tách dãn sẽ tăng lên và Đông Phi có thể sẽ bị tách ra
khỏi Tây Phi, giống như Arabia đã tách ra khỏi Châu Phi
trước đó.
4.5. Cầu nối Trung Mỹ và vùng Caribbe
Sự hính thành eo đất Trung Mỹ nối liền hai lục địa
Bắc Mỹ và Nam Mỹ là một trong những sự kiện lý thú của
hoạt động địa chất trong Kainozoi. Sau khi tách khỏi lục
địa Châu Phi, từ cuối Mesozoi Nam Mỹ trở thành một đảo
lục địa riêng rẽ cho đến tận cuối Đệ Tam. Sự hính thành eo
đất Trung Mỹ như hiện nay là kết quả hoạt động xô húc
mảng Thái Bính Dương - Caribbe đã diễn ra trong Đệ
Tam. Bắt đầu từ Paleocen mảng Thái Bính Dương bị hút
chím tại các máng biển Cuba và máng biển Puerto Rico,
tiếp đến Oligocen mảng Thái Bính Dương tiếp tục bị hút
chím tại máng biển Trung Mỹ. Song song với quá trính bị
hút chím của mảng Thái Bính Dương là sự hính thành
cung magma và chình cung đảo núi lửa dọc ranh giới hút
chím này đã dần dần tạo thành một cầu nối giữa Bắc Mỹ
124

Hình 14. Sự hình thành cầu nối Trung Mỹ
(Wicander R. & Monroe J. S. 1993)

Trong Paleocen mảng Thái Bình Dương bị hút
chìm tại máng biển Cuba và Puerto Rico (a) Từ
Oligocen đến nay mảng TBD bị hút chìm tại máng
biển Trung Mỹ; (b) Hoạt động hút chìm này tạo
nên cung magma, từ Miocen eo đất giữa Bắc Mỹ
và Nam Mỹ bắt đầu hình thành. Hiện nay (c)
Trung Mỹ là cầu nối liền Nam Mỹ và Bắc Mỹ.


và Nam Mỹ. Từ Miocen, cầu nối này đã hiện lên khá rõ nét [H. 14] và đến nay thí eo đất Trung
Mỹ đã là một cầu nối hoàn chỉnh, nối liền Bắc Mỹ và Nam Mỹ.
Sự hính thành cầu nối Trung Mỹ ảnh hưởng rất lớn đến hoàn cảnh cổ địa lý của khu vực,
một mặt nó nối liền Bắc Mỹ và Nam Mỹ, nhưng mặt khác nó lại là một con đê ngăn cách Thái
Bính Dương và Đại Tây Dương. Điều này gây nên sự biến đổi lớn của sinh giới trong Kainozoi.
Sau khi cầu nối Trung Mỹ hính thành, sự di cư ồ ạt đã diễn ra giữa động vật trên cạn của Bắc
Mỹ và Nam Mỹ. Trong quá trính di cư này, hàng loạt động vật Có vú của Bắc Mỹ và bán cầu
bắc nói chung đã lũ lượt kéo vào phìa nam qua cầu nối, tình đặc hũu của động vật Nam Mỹ bị
mờ dần. Trong khi đó, sự di cư của động vật Nam Mỹ lên phìa bắc lại không diễn ra mạnh mẽ
như hướng di cư từ bắc xuống nam. Do đó, sau hiện tượng di cư này trong động vật Bắc Mỹ
không gặp nhiều những dạng có nguồn gốc Nam Mỹ, nhưng ngược lại trong thành phần động
vật Nam Mỹ lại hiện diện nhiều đại biểu của các lục địa phìa bắc. Có lẽ do động vật gốc Bắc Mỹ
tiến hóa hơn, nên khi di cư đến Nam Mỹ đã nhanh chóng chiếm lĩnh những vùng đất sống thuận
lợi, đồng thời lại cạnh tranh thành công với các đối thủ bản địa.
Trong động vật biển của khu vực lại diễn ra hiện tượng khác hẳn. Sự hính thành cầu nối Trung
Mỹ ngăn cản sự giao lưu của động vật Thái Bính Dương và Đại Tây Dương ở khu vực này. Hệ động
vật thuộc thời kỳ đầu và giữa Đệ Tam của phìa tây và phìa đông Trung Mỹ không có gí khác nhau.
Từ khi cầu nối được hính thành, sự giao lưu của động vật tây và đông Trung Mỹ, cũng là của động
vật Thái Bính Dương và Đại Tây Dương, bị cắt đứt. Từ đó xuất hiện sự khác biệt của thành phần
động vật hai miền, tình địa phương của mỗi miền ngày càng tăng.
4.6. Đứt gãy San Andreas

Đứt gãy San Andreas ở California (Bắc Mỹ) là một đứt gãy chuyển dạng lớn và điển hính
hiện đang hoạt động trên Trái Đất, sự dịch chuyển ngang giữa các mảng trong vòng 30 triệu năm
trở lại đây đạt tới 300 km. Đó là ranh giới giữa mảng Bắc Mỹ và mảng Thái Bính Dương, hính
thành vào giữa Đệ Tam và là kết quả của sự xô húc của hai mảng này. Sự xô húc lúc đó được coi
là sự kiện quan trọng nhất trong lịch sử kiến tạo Kainozoi của miền tây Bắc Mỹ.
5. Khí hậu trong Đệ Tam
5.1. Bối cảnh chung
Mặc dù xu hướng chung của khì hậu trong Kainozoi là lạnh đi trên toàn cầu, nhưng nhiều
bất thường đã được phát hiện nhờ nghiên cứu đồng vị oxy của các vi sinh vật biển. Sự giảm
nhiệt độ của đại dương từ Creta muộn vẫn tiếp diễn cho tới Paleocen và các chỉ số của cổ khì
hậu cho thấy độ ẩm chung đã tăng lên tương ứng với sự lạnh dần. Kết quả nghiên cứu đồng vị
oxy cũng cho thấy nước biển đã ấm lên, sau đó lạnh đi một cách đáng kể trong Eocen. Kết quả
nghiên cứu lá cây Hạt kìn đã cung cấp những dữ liệu quan trọng về khì hậu trong Paleogen. Lá
cây Hạt kìn với đường diềm nhẵn (lá mép nguyên) thìch hợp với khì hậu ấm hơn là lá cây có
đường diềm răng cưa. Có một mối quan hệ tuyến tình giữa phần trăm các lá mép nguyên và
nhiệt độ trung bính đã được chứng minh bằng thực vật hiện đại. Lá cây Hạt kìn đã phản ánh
nhiệt độ ở vùng vĩ độ 50o có nhiệt độ nhiệt đới (nóng) trong Creta muộn và nhiệt độ này giảm
10o trong Paleocen, rồi sau đó lại nóng lên trong Eocen, rồi một lần nữa lại giảm 15o vào cuối
Eocen. Những vùng khì hậu chình trong Eocen muộn được thể hiện trên hính H. 15.

125


Mặc dù những hóa thạch thực vật cận nhiệt đới rất phổ biến ở vĩ độ cổ 75o, nhưng rất có thể
băng hà đã bắt đầu được hính thành. Điều này đã được phản ánh qua dữ liệu về đồng vị oxy của
Trùng lỗ (Foraminifera). Sự giảm xuống đột ngột của nhiệt độ nước biển vào cuối Eocen phản
ánh sự bắt đầu phân tầng nước biển với đáy nước lạnh. Khì hậu lạnh của Oligocen là tiếp tục của
khì hậu lạnh từ Eocen và sau đó lại nóng lên trong Oligocen muộn. Sự nóng lên này tiếp diễn
đến Miocen, sau đó lại lạnh đi từ Miocen giữa. Đi kèm với sự lạnh đi của khì hậu là sự giảm
mực nước biển, sự phát triển của băng hà Nam Cực trên vỏ lục địa, và sự tăng thể tìch của tầng

nước lạnh xung quanh nó. Đến cuối Miocen, mực nước biển đã giảm xuống một cách nhanh
chóng và khì hậu lạnh đi, điều đó có thể liên quan với sự lớn lên một cách đáng kể của khối
băng Nam Cực.
Trong Pliocen và Pleistocen, mực nước biển tiếp tục dâng lên, khì hậu thay đổi bất thường từ
nóng sang lạnh và ngược lại. Băng hà bắt đầu phát triển ở bán cầu bắc khoảng 2,5 tr. năm trước đây,
sau đó cách nay 700 nghín năm các kỳ băng hà và kỳ ấm luân phiên nhau với chu kỳ khoảng 100
nghín năm. Dấu vết hóa thạch cho thấy về đại thể khì hậu Pliocen ấm hơn ngày nay; điều này đã
được kiểm chứng ở vùng xung quanh Bắc Đại Tây Dương, nơi ngày nay có khì hậu cận nhiệt đới.
Vào thời gian đầu của Đệ Tam, hàm lượng oxy trong khì quyển đạt khoảng 30%, nhưng
trong Miocen và Pliocen chúng giảm xuống 21% như hiện nay. Có thể, đó là kết quả của việc
mất đi các khu vực rừng do băng hà bao phủ.
5.2. Sự phân tầng của nước biển
Nước biển phân tầng rõ rệt với tầng nước lạnh (3-5oC) ở độ sâu 500 m; có lẽ sự phân tầng này
đã bắt đầu từ Eocen và liên quan với hoạt động kiến tạo mảng cùng với băng hà Nam Cực đã hính
thành trong Oligocen sớm. Khì hậu lạnh trong thời gian giữa của Đệ Tam ở bán cầu nam được
minh chứng bằng sự thay đổi nhiệt độ tầng đáy với sự thay đổi thành phần các họ sinh vật và sự
thay đổi tỷ lệ đồng vị oxy. Đá giọt băng hà cũng được tím thấy trong đá trầm tìch Oligocen ở xung
quanh Châu Nam Cực (Đó là những mảnh đá do băng cuốn và trôi theo băng ra biển khơi, khi
băng tan, những mảnh đá rơi xuống và nằm
lẫn trong đá trầm tìch hạt mịn phân lớp mỏng
L¹nh
L¹nh
L¹nh
của đáy đại dương). Kết quả nghiên cứu cho
thấy sự thay đổi của nước biển đã xảy ra cách
Êm
đây chưa đến 100 nghín năm.
Australia tách vỡ khỏi Châu Nam Cực
trong Đệ Tam sớm và bắt đầu chuyển động
về phìa bắc đã dẫn đến sự thay đổi đáng kể

của gió và các dòng hải lưu ở bán cầu nam.
Trước sự tách ra của Australia, dòng hải lưu
nóng xìch đạo từ cả ba đại dương đều cong uốn
về phìa nam để tới Châu Nam Cực, nhưng sau
khi sự tách dãn xảy ra, dòng hải lưu lạnh kìn đã
bắt đầu bao quanh Châu Nam Cực [H. 16]. Kết
quả là Châu Nam Cực đã bị lạnh và có lẽ bắt
đầu thời kỳ băng hà Oligocen. Có thể nước lạnh
xung quanh Châu Nam Cực có tỷ trọng lớn hơn

L¹nh

(a)

(b)

Hình 16. Sự phân tầng của nước biển: a. Australia tách khỏi
Châu Nam Cực trong Eocen muộn; b. Sự phát triển của dòng
lạnh quanh Nam Cực và mũi băng Nam Cực (Condie K.C. &
Sloan R. E. 1998)

Hình 15. Các đai khí hậu và dòng biển trong Đệ Tam giữa
(Condie K.C. & Sloan R. E. 1998)

126


nên chím xuống đáy và chảy về phìa bắc, tạo nên sự phân tầng nhiệt độ ở đại dương.
Điều tương tự cũng xảy ra ở bồn Bắc Cực, những tầng nước lạnh ở dưới sâu cũng hính
thành và chuyển động về phìa nam dọc theo đáy đại dương. Cho đến tận đầu Paleogen, Bắc Mỹ,

Greenland và Âu-Á vẫn là một phần của đại lục duy nhất bao quanh Bắc Băng Dương đang
được mở và hoàn toàn biệt lập với các đại dương khác. Đến giữa Đệ Tam khi sống núi giữa Đại
Tây Dương bành trướng về phìa bắc, Greenland và Na Uy tách rời nhau, bồn Bắc Cực được
thông thương, nước lạnh tràn vào phìa bắc Đại Tây Dương, chím xuống đáy và chảy về nam. Sự
xâm nhập của nước lạnh ở dưới đáy Đại Tây Dương vào cuối Eocen có thể là nguyên nhân của
sự tuyệt chủng trên phạm vi rộng lớn của hàng loạt sinh vật đáy.
6. Đệ Tam ở Việt Nam, Biển Đông và đứt gãy Sông Hồng
Biển Đông là một bồn biển ría lớn trên thế
giới, những cấu trúc mở của nó hiện nay còn
được bảo tồn tốt, trừ ranh giới phìa đông là nơi
Biển Đông bị hút chím xuống dưới vùng đảo
Luzon cách đây khoảng 20 tr. năm. Đại dương
phân cách với vùng lục địa Trung Quốc bằng
một ría lục địa rộng và mỏng. Khu vực này bị
khống chế bằng các địa hào song song với bờ
biển Trung Quốc, thót nhỏ và đứt đoạn đột ngột
ở dọc biển ría theo hướng đông bắc của bán đảo
Đông Dương trong một bồn kéo dài theo hướng
tây bắc - đông nam giữa Hải Nam và bờ biển
Việt Nam.

Hình 17. Hai mô hình mở Biển Đông (L. Jolivet 1995).
A: Mô hình mở độc lập với đứt gãy Sông Hồng
B: Mô hình trượt tách dọc theo đứt gãy Sông Hồng

Lịch sử mở của Biển Đông có thể tóm tắt trong các giai đoạn sau: 1) Cách nay 32 tr. năm bắt
đầu hính thành dạng đại dương đầu tiên ở phìa bắc; 2) 26 tr. năm trước đây trung tâm bồi kết đầu
tiên này bị tiêu biến và hính thành một dạng mới ở phìa nam; 3) Cách nay 24 tr. năm biển mở rộng
theo hướng tây nam về phìa ría lục địa Trung Quốc. Sau đó biển bị cấu trúc lại (20 tr. năm trước
đây) và sự tách dãn bị ngừng. Cơ chế chuyển động này kéo theo sự dịch chuyển ría nam của Biển

Đông về phìa nam khoảng 600 km. Có hai cách lý giải theo hai hướng khác nhau:
Cách lý giải thứ nhất, sự dịch chuyển về phìa nam diễn ra theo dịch trượt phải, dọc bờ biển
phìa đông Việt Nam [H. 17A]. Cách lý giải này chú ý đến bờ dốc rất lớn mà phần lớn các nhà địa
chất coi là đứt gãy dịch trượt ở ría biển phìa đông Nam Trung Bộ. Những tư liệu nghiên cứu gần
đây về Biển Đông cũng phù hợp với cách lý giải này.
Cách lý giải thứ hai đánh giá cao vai trò của đứt gãy Sông Hồng [H. 17B] và sự kéo dài của
nó ra biển. Đứt gãy Sông Hồng kéo dài tới 1200 km, từ Myanmar và Vân Nam (Trung Quốc)
theo hướng tây bắc - đông nam qua địa phận Bắc Bộ và suy biến ở ría tây Biển Đông. Đứt gãy
Sông Hồng gây biến dạng dẻo theo một hành lang rộng 10-15 km, những tài liệu phân tìch tuổi
đồng vị đều cho kết quả tuổi của biến dạng vào khoảng trên dưới 20 tr. năm. Điều có thể khẳng
định là đứt gãy Sông Hồng là một đứt gãy dịch trượt của vỏ Trái Đất từ Miocen, nhưng hoạt
động đứt gãy này bắt đầu từ bao giờ vẫn còn là vấn đề chưa rõ. Từ Miocen muộn - Pliocen (10-5
tr. năm trước đây) đứt gãy Sông Hồng chuyển từ trượt bằng phải sang trượt bằng trái. Các nhà
địa chất có ý kiến đánh giá khác nhau về biên độ dịch chuyển của đứt gãy theo hướng tây bắc đông nam, từ 150 đến 700 km, cũng có ý kiến cho rằng biên độ này đạt tới 1000 km.
127


Các bồn trầm tìch Đệ Tam ở phần đất liền Việt Nam, chủ yếu có tướng sông, đầm hồ,
châu thổ chứa than, thường phân bố trong các trũng giữa núi, địa hào trượt tách (pull-apart),
theo các hệ đứt gãy lớn có hướng tây bắc - đông nam, như các trũng Cao Bằng - Lạng Sơn,
Sông Lô, Vĩnh Ninh, Sông Chảy, Sông Hồng, Sông Mã, Sông Cả, Sông Ba, Sông Hậu v.v...,
hoặc trầm tìch chứa đá dầu như ở Hoành Bồ (Quảng Ninh), Sài Lương (Sơn La) v.v...
Đặc biệt, các bồn Đệ Tam lớn có tướng châu thổ và ven bờ biển nông kéo dài từ đất liền
ra biển tạo thành các bồn Cửu Long, Sông Hồng chứa dầu khì, trong số đó nhiều nơi đang
được thăm dò khai thác. Ở phìa bắc, bồn Bắc Vịnh Bắc Bộ có dạng bán địa hào kéo dài từ
vùng đảo Bạch Long Vĩ lên bán đảo Lôi Châu. Trầm tìch Đệ Tam ở trũng rift Hà Nội phần
đất liền là phụ bồn Sông Hồng có bề dày > 6 km, trong đó phần thấp là trầm tìch tướng sườn
tìch, sông hồ thuộc hệ tầng Phù Tiên tuổi Eocen và có thể cả Creta-Paleogen. Phần giữa có
đến 115 vỉa than lignit, á bitum, có vỉa dày tới 21 m như ở Khoái Châu, có tổng trữ lượng
đến 252 tỷ tấn. Sau chuyển động tạo núi vào cuối Miocen muộn, cách nay khoảng 5,5 tr.

năm, trầm tìch Pliocen phủ không chỉnh hợp và lan rộng nối liền các bồn Đệ Tam ngoài biển
vào sâu cả trên các đồng bằng Bắc Bộ. Về phìa nam, bồn rift Sông Hồng kéo dài từ võng Hà
Nội ra vịnh Bắc Bộ qua biển Quảng Ngãi hính thành theo cơ chế trượt tách dọc hệ đứt gãy
Sông Hồng; trầm tìch ở vùng trung tâm dày đến 17 km.
Tiếp xuống là bồn Phú Khánh có dạng địa hào không đối xứng. Vùng châu thổ sông Mekong kéo dài ra biển có bồn Cửu Long, bồn Nam Côn Sơn cũng hính thành trong bối cảnh rift
và tiếp giáp với các nhóm bồn Tư Chình - Vũng Mây, Hoàng Sa, Trường Sa trên vỏ thoái hóa
chuyển tiếp với ría thụ động giáp với vỏ đại dương Biển Đông. Ở vùng vịnh Thái Lan có bồn
Mã Lai - Thổ Chu dạng rift không đối xứng, chịu ảnh hưởng của cơ chế trượt tách. Các chuỗi
lớn của trầm tìch Đệ Tam ở Biển Đông Việt Nam hính thành theo các thời kỳ tiền rift (cuối Creta - Paleocen), đồng rift (Eocen-Oligocen, đôi nơi đến Miocen sớm); nghịch đảo sau rift (Miocen sớm-giữa) mở rộng các bồn với nhiều đá vôi nền (platform carbonate) đến Miocen muộn các
bồn thu hẹp dần, có tướng đầm hồ châu thổ thuộc hệ trầm tìch lấn biển.
Tài liệu đọc thêm
1. Condie K. C. & Sloan R. E., 1998. Origin and Evolution of Earth. Principles of Historical Geology. PrinticeHall, Inc. 498 pgs.
2. Selley R.C, Cocks L.R.M., Plimer I.R. (Editors), 2005. Encyclopedia of Geology. Volume 1-5. Elsevier.
Academic Press.
3. Stanley S. M., 2009. Earth System History. 3 nd Edition. W.H. Freeman & Company. New York. 551 pgs.
4. Tống Duy Thanh 2009. Lịch sử Tiến hóa Trái Đất (Địa sử). (Tái bản – Chỉnh sửa và cập nhật tài liệu mới). NXB
Đại học Quốc gia Hà Nội. Hà Nội. 340 tr.
5. Tống Duy Thanh, Vũ Khúc (Đồng chủ biên), 2005. Các phân vị địa tầng Việt Nam. NXB Đại học Quốc Gia Hà Nội.
Hà Nội. 504 trang.
6. Trần Văn Trị, Vũ Khúc (Đồng chủ biên), 2009. Địa chất và Tài nguyên Việt Nam. NXB Khoa học Tự nhiên và Công
nghệ. Hà Nội. 589 tr.
7. Wicander R. J. & Monroe S., 1993. Historical Geology. West Publishing Compagny. Minneapolis, St New York,
Los Angeles. San Francisco. 640 pgs.
8. Хаин Β. Ε., Коровковский Н.В., Ясамнов Н. А., 1997. Историческая геология. Издат. Московского
Университета. Москва. 448 стр.

128




×