Tải bản đầy đủ (.docx) (109 trang)

NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO CHO CÁN BỘ CHỦ CHỐT LÀM CÔNG TÁC ĐẢNG CẤP CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN Ô MÔN, THÀNH PHỐ CẦN THƠ HIỆN NAY LỜI CAM ĐOAN  

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (721.66 KB, 109 trang )

1

NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO
CHO CÁN BỘ CHỦ CHỐT LÀM CÔNG TÁC ĐẢNG
CẤP CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN Ô MÔN,
THÀNH PHỐ CẦN THƠ HIỆN NAY
LỜI CAM ĐOAN

1


2
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng bản thân tôi.
Các số liệu trong luận văn là trung thực.
Kết quả của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kì công trình
nào.
Hà Nội, tháng 5 năm 2018
Tác giả

HUỲNH MƯỜI MỘT

2


3

MỤC LỤC

3



4
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong giai đoạn hiện nay, trước xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế
quốc tế ngày càng sâu rộng, Đảng ta đang ra sức lãnh đạo thực hiện công cuộc
đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phấn đấu xây
dựng nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, nhằm thực
hiện mục tiêu: "Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh" vững
bước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Trước tình hình và nhiệm vụ cách mạng to lớn
đó đang đặt ra nhiều vấn đề mới, khó khăn, thách thức và đòi hỏi Đảng nói
chung, cán bộ chủ chốt làm công tác Đảng cấp cơ sở nói riêng phải không
ngừng đổi mới, chỉnh đốn, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức,
trình độ, năng lực trí tuệ, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu và hoạt động thực
tiễn trong quá trình hội nhập, để đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình
hình mới, đặc biệt là đối với năng lực lãnh đạo cán bộ chủ chốt làm công tác
Đảng cấp cơ sở trên địa bàn quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ.
Đối với Thành phố Cần Thơ là đô thị loại 1 trực thuộc Trung ương,
đóng vai trò trung tâm của vùng đồng bằng sông Cửu Long, theo tinh thần
Nghị quyết 45-NQ/TW ngày 17/2/2005 của Bộ Chính trị (khóa IX) về xây
dựng và phát triển thành phố Cần Thơ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, thì thành phố Cần Thơ phải phấn đấu là một trong những địa
phương đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và cơ bản trở
thành thành phố công nghiệp trước năm 2020, là một vị trí phát triển, đóng
vai trò động lực thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của toàn vùng. Để thực hiện
có hiệu quả mục tiêu, nhiệm vụ được giao đó, các cấp ủy Đảng trong Đảng bộ
thành phố Cần Thơ phải có đội ngũ cán bộ chủ chốt làm công tác Đảng cấp cơ
xứng tầm với nhiệm vụ, trong đó đội ngũ cán bộ chủ chốt làm công tác Đảng
cấp cơ trên địa bàn quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ cũng giữ vai trò, vị trí
4



5
quan trọng trong quá trình hội nhập, đổi mới và phát triển hiện nay, góp phần
cùng với Đảng bộ thành phố Cẩn Thơ thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị
được giao.
Xuất phát từ tình hình, nhiệm vụ chính trị của quận Ô Môn, thành phố
Cần Thơ trong thời gian tới nên tác giả quyết định chọn đề tài “Nâng cao
năng lực lãnh đạo cho cán bộ chủ chốt làm công tác Đảng cấp cơ sở trên
địa bàn quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ hiện nay” làm đề tài luận văn thạc
sĩ chuyên ngành Triết học.
2. Lịch sử nghiên cứu
Vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ nói chung và xây dựng đội ngũ cán
bộ chủ chốt làm công tác Đảng cấp cơ sở nói riêng đã có nhiều đề tài, công
trình nghiên cứu. Trong các đề tài và bài viết liên quan đến vấn đề nghiên
cứu, đáng chú ý là các công trình:
* Một số luận án tiến sĩ có liên quan đến đề tài:
- “Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt của đảng bộ các cấp ở
Tây Nguyên hiện nay” (1996), Luận án tiến sĩ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội, của Nguyễn Mậu Dựng. Trong công trình của mình, tác
giả luận án đã làm rõ nội hàm các khái niệm liên quan. Đồng thời, trên cơ sở
làm rõ thực trạng xây dựng đội ngũ cán bộ của Tây Nguyên hiện nay, tác giả
đã đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm thực hiện hiệu quả công tác này.
- “Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã vùng nông thôn Đồng
bằng sông Cửu Long hiện nay” (2000), Luận án tiến sĩ, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, của Phạm Công Khâm. Tác giả luận án đã
làm rõ thực trạng xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã vùng nông thôn
Đồng bằng sông Cửu Long, trên cơ sở chỉ ra những thành tựu và hạn chế, tác
giả đã đi đến đề xuất những giải pháp nhằm làm tốt công tác này.
Tổng quan chung mà các luận án đề cập có liên quan đến đề tài đang
nghiên cứu là “đội ngũ cán bộ chủ chốt ở cơ sở”. Tác giả sử dụng các luận án


5


6
như là những tài liệu tham khảo, trong đó có kế thừa những luận cứ khoa học
đã được các tác giả của các luận án trên nghiên cứu một cách có hệ thống.
* Một số luận văn thạc sĩ liên quan đến vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp xã:
- “Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã ở tỉnh Bình
Thuận trong giai đoạn hiện nay” (2000), Luận văn thạc sĩ, Học viện Chính trị
- Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, của Nguyễn Văn Phích.
- “Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở huyện Cần Giờ, thành phố
Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay” (2001), Luận văn thạc sĩ, Học viện
Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, của Đoàn Tất Hoài.
- “Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở huyện Phú Bình, tỉnh
Thái Nguyên trong giai đoạn hiện nay” (2002), Luận văn thạc sĩ, Học viện
Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, của Nguyễn Văn Côi.
- “Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt của hệ thống chính trị cấp xã ở tỉnh
Gia Lai trong giai đoạn hiện nay” (2003), Luận văn thạc sĩ, Học viện Chính trị Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, của Nguyễn Huy Châu.
- “Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt của hệ thống chính trị các xã ở
tỉnh Đồng Nai trong giai đoạn hiện nay” (2004), Luận văn thạc sĩ, Học viện
Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, của Vũ Thị Nghĩa
Các luận văn trên đều làm rõ được những khái niệm nội hàm liên quan,
đồng thời, chỉ ra được những thành tựu, hạn chế của công tác xây dựng đội
ngũ cán bộ chủ chốt tại các địa phương. Trên cơ sở đó đề xuất những biện
pháp cơ bản nhằm làm thực hiện hiệu quả công tác này.
- “Chất lượng tổ chức cơ sở đảng thuộc đảng bộ công an tỉnh Hà
Nam giai đoạn hiện nay” (2013), Luận văn thạc sỹ khoa học chính trị, Học
viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh của Đỗ Thị Phương

Thảo.

6


7
Các luận văn trên có những đóng góp về mặt lý luận rất sâu sắc trong
nghiên cứu về “đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã”. Vai trò của đội ngũ này rất
lớn trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị ở cơ sở nhưng lại có những đặc
điểm riêng cho từng loại hình cấp xã như: cấp xã miền núi, cấp xã nông
thôn, cấp xã biên giới,... ; xét về cơ cấu dân tộc, đội ngũ này có những đặc
điểm riêng biệt.
Có thể nhận thấy, các luận văn trên chỉ nghiên cứu chung về đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp xã, chưa nghiên cứu chuyên sâu về đội ngũ cán bộ chủ
chốt làm công tác đảng cấp cơ sở đặc biệt là trên địa bàn Quận Ô Môn thành
phố Cần Thơ.
* Vấn đề trình độ lý luận và năng lực tư duy lý luận của người cán bộ
lãnh đạo đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học. Cho đến
nay đã có nhiều công trình được công bố với những mức độ thể hiện khác
nhau trong đó có những công trình viết về năng lực tư duy của đội ngũ cán bộ
có liên quan, có thể kể đến như sau
"Năng lực tư duy lý luận trong quá trình đổi mới tư duy" của GS.TS
Nguyễn Ngọc Long, Tạp chí Cộng sản, Số 10-1987. Trong bài viết này, tác
giả đã làm rõ nội hàm các khái niệm như năng lực tư duy lý luận, đồng thời
chỉ ra vai trò năng lực tư duy lý luận trong quá trình đổi mới tư duy.
Hồ Bá Thâm: "Nâng cao năng lực tư duy của đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp xã hiện nay", Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995.
Trong cuốn sách trên, tác giả đã xuất phát từ việc nghiên cứu các khái niệm
nâng cao năng lực tư duy của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã hiện nay, trên
cơ sở này đề xuất các giải pháp nhằm là tốt công tác này hiện nay ở các địa

phương.
"Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của năng lực trí tuệ và lý luận"
của PGS Trần Đình Huỳnh, Tạp chí Xây dựng Đảng, Số 2-1995; “ Năng lực
7


8
tư duy lý luận với hoạt động của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp
huyện người dân tộc thiểu số”, của PGS, TS Trần Văn Phòng, tạp chí Sinh
hoạt lý luận, số1-2011. Cùng với những công trình nghiên cứu chuyên sâu
về trình độ tư duy, năng lực tư duy của cán bộ, đảng viên còn có những bài
viết, những công trình nghiên cứu chuyên sâu về năng lực tư duy, tư duy lý
luận và trình độ tư duy lý luận như: “Tư duy lý luận với hoạt động của
người cán bộ lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn”, chủ biên: TS.Trần Thành; “Tư
duy lý luận với hoạt động của người cán bộ lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn”,
luận án phó tiến sĩ triết học của PGS,TS Trần Văn Phòng; “Đổi mới tư duy
lý luận. Tư duy lý luận trong sự nghiệp đổi mới”, của tác giả Lại Văn Toàn
trong Tạp chí Triết học, số 1-1988; “Nâng cao trình độ tư duy lý luận cho
phóng viên báo chí ở nước ta hiện nay”, chủ nhiệm đề tài: TS. Hoàng Đình
Cúc; “Mấy ý kiến về đổi mới tư duy lý luận” của tác giả Thái Ninh trong
Tạp chí cộng sản số 3 năm 1988. Ngoài ra còn có một số công trình nghiên
cứu và bài viết về thực trạng tư duy của đội ngũ cán bộ như: “ Thực trạng
tư duy của cán bộ, đảng viên ta và căn nguyên của nó” của Lê Thi trong
Tạp chí Triết học, số 3-1988; “Vài nét về thực trạng tư duy lý luận hiện nay
ở nước ta”, Ngô Đình Xây, tạp chí Triết học, 4-1990; "Chống chủ nghĩa
chủ quan duy ý chí, khắc phục bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa và bệnh giáo
điều trong quá trình đổi mới"; Học viện Nguyễn Ái Quốc, Hà Nội, 1988.
3. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở hệ thống lại và làm rõ cơ sở lý luận, đánh giá đúng thực
trạng về năng lực lãnh đạo của đội ngũ cán bộ chủ chốt làm công tác Đảng

cấp cơ sở trên địa bàn quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ, qua đó xác định quan
điểm và đề xuất một số giải pháp chủ yếu, khả thi, nhằm nâng cao năng lực
lãnh đạo cho đội ngũ cán bộ chủ chốt làm công tác Đảng cấp cơ sở trong thời
gian tới.
8


9
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
4.1 Khách thể nghiên cứu
Năng lực lãnh đạo của cán bộ chủ chốt làm công tác Đảng cấp cơ sở.
4.2. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về nâng cao năng lực lãnh đạo cho cán bộ chủ chốt
làm công tác Đảng cấp cơ sở đang làm việc tại quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ.
5. Giả thuyết khoa học
Nâng cao năng lực lãnh đạo cho cán bộ chủ chốt làm công tác Đảng cấp
cơ sở là việc làm mang ý nghĩa thiết thực, đem lại sức mạnh tổng hợp cho
cách mạng Việt Nam, xây dựng nên một đội ngũ cán bộ có năng lực, có bản
lĩnh chính trị vững vàng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới của cách mạng Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay.
Nếu thực hiện được những nội dung trên, sẽ góp phần nâng cao năng
lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở Đảng, thực hiện được
mục tiêu lãnh đạo toàn diện của Đảng, mang lại thắng lợi cho cách mạng
Việt Nam.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn về việc nâng cao năng lực lãnh đạo
cho cán bộ chủ chốt làm công tác Đảng cấp cơ sở trên địa bàn quận Ô Môn,
thành phố Cần Thơ.
- Khảo sát, đánh giá năng lực lãnh đạo của cán bộ chủ chốt làm công
tác Đảng cấp cơ sở trên địa bàn quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ.

- Đề xuất giải pháp nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo cho cán bộ chủ
chốt làm công tác Đảng cấp cơ sở trên địa bàn quận Ô Môn, thành phố Cần
Thơ trong giai đoạn hiện nay.
7. Giới hạn phạm vi nghiên cứu

9


10
Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu về năng lực lãnh đạo cho cán bộ chủ
chốt làm công tác Đảng cấp cơ sở trên địa bàn quận Ô Môn, thành phố Cần
Thơ. Số liệu khảo sát trong thời gian từ năm 2015 đến 2017.
8. Phương pháp nghiên cứu
- Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây
dựng Đảng nói chung và xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác Đảng nói riêng.
- Luận văn chủ yếu sử dụng các phương pháp như: phương pháp phân
tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, lịch sử logic, điều tra, khảo sát, tổng kết
thực tiễn và phương pháp chuyên gia.
9. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn có bố cục gồm 2 chương 5 tiết.
10. Những luận điểm cơ bản và đóng góp mới của luận văn
10.1 Những luận điểm cơ bản
- Năng lực lãnh đạo là tiêu chuẩn quan trọng đối với người cán bộ lãnh
đạo chủ chốt, là khả năng “then chốt” cho mọi hoạt động lãnh đạo và chỉ đạo
thực tiễn của người cán bộ chủ chốt làm công tác đảng.
- Nâng cao năng lực lãnh đạo cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở là
một việc làm cần thiết trong điều kiện hiện nay trong công tác xây dựng Đảng.
- Để nâng cao năng lực lãnh đạo cho đội ngũ cán bộ chủ chốt làm công

tác đảng cấp cơ sở trên địa bàn quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ trong điều
kiện hiện nay thì cần tìm được các nguyên nhân cơ bản và thực hiện đồng bộ
một số giải pháp cụ thể.
10.2 Những đóng góp mới
- Về mặt lý luận: Làm rõ các nội dung về nâng cao năng lực lãnh đạo
của đội ngũ cán bộ chủ chốt làm công tác Đảng, từ đó xây dựng các giải pháp

10


11
nâng cao năng lực lãnh đạo cho đội ngũ cán bộ chủ chốt làm công tác đảng
cấp cơ sở trên địa bàn quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ hiện nay.
- Về mặt thực tiễn: Kết quả nghiên cứu có thể làm tài liệu tham khảo bổ
ích cho các Đảng bộ trực thuộc Thành ủy Cần Thơ và các tổ chức cơ sở đảng
trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn về xây dựng đội ngũ cán bộ chủ
chốt làm công tác Đảng ở đảng bộ, chi bộ mình.

11


12
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC NÂNG CAO
NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO CHO CÁN BỘ CHỦ CHỐT LÀM
CÔNG TÁC ĐẢNG CẤP CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN Ô MÔN,
THÀNH PHỐ CẦN THƠ HIỆN NAY
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Khái niệm, vị trí, vai trò của cán bộ chủ chốt
1.1.1.1. Khái niệm cán bộ, cán bộ chủ chốt

Khái niệm cán bộ
Từ “cán bộ” được hiểu theo nhiều cách khác nhau trong từng giai đoạn
lịch sử.
Thời kỳ kháng chiến chống Pháp, từ cán bộ được dùng nhiều trong
quân đội để phân biệt giữa chiến sĩ với cán bộ. Nó dùng để chỉ một lớp những
người là chiến sĩ cách mạng, lớp người mới, sẵn sàng chịu đựng gian khổ, hi
sinh, gắn bó với nhân dân, phục vụ cho sự nghiệp cao cả giành độc lập, tự do
cho dân tộc. Lúc này từ cán bộ được dùng để chỉ những người chỉ huy từ cấp
phó trở lên. Dần dần, từ cán bộ được dùng để chỉ những người hoạt động
kháng chiến thoát ly để phân biệt với nhân dân.
Ngày nay, khái niệm cán bộ có thể hiểu theo:
Thứ nhất, trong tổ chức đảng và đoàn thể, từ cán bộ được dùng với hai
nghĩa: một là, những người được bầu vào các cấp lãnh đạo, chỉ huy từ cơ sở
đến trung ương để phân biệt với đảng viên thường, đoàn viên và hội viên; hai
là, những người làm công tác chuyên trách, có biên chế và được hưởng lương
trong các tổ chức đảng, đoàn thể.
Thứ hai, trong quân đội, để chỉ những người chỉ huy từ tiểu đội trở lên,
và sĩ quan từ cấp úy trở lên.

12


13
Thứ ba, trong hệ thống nhà nước, từ cán bộ được hiểu cơ bản giống
như công chức, chỉ những người làm việc trong cơ quan nhà nước, thuộc
ngành hành chính, tư pháp, kinh tế, văn hóa - xã hội. Đồng thời, cán bộ cũng
được hiểu là những người có chức vụ chỉ huy, lãnh đạo.
Ngày 13 tháng 1 năm 2008, tại kỳ họp Quốc hội khóa XII đã thông qua
luật cán bộ, công chức, có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2010. Tại khoản 1
điều 4 quy định: Cán bộ là những người công dân Việt Nam, được bầu cử, phê

chuẩn, bổ nhiệm, giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của
Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương,
thành phố trực thuộc trung ương, ở tỉnh, huyện, quận, thị xã thành phố trực
thuộc tỉnh, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Như vậy, dù có nhiều cách hiểu khác nhau về từ cán bộ, tuy nhiên, về
cơ bản, ta có thể có quan niệm như sau: Cán bộ là khái niệm chỉ những người
có chức vụ, vai trò, cương vị nòng cốt trong một tổ chức, có tác động, ảnh
hưởng đến hoạt động của tổ chức và các quan hệ trong lãnh đạo, chỉ huy,
quản lý, điều hành, góp phần định hướng sự phát triển của tổ chức. Họ là
những người trong biên chế nhà nước, làm việc trong các cơ quan Đảng, Nhà
nước, đoàn thể chính trị, xã hội, các doanh nghiệp nhà nước, các lực lượng
vũ trang nhân dân từ Trung ương đến địa phương và cơ sở.
Khái niệm cán bộ chủ chốt:
Khái niệm “cán bộ chủ chốt” là những người có chức vụ, nắm giữ các
vị trí quan trọng, có tác dụng làm nòng cốt trong các tổ chức thuộc bộ máy
của một cấp nhất định, người được giao đảm đương các nhiệm vụ quan trọng
để lãnh đạo, quản lý, điều hành bộ máy thực hiện chức năng, nhiệm vụ được
giao, chịu trách nhiệm trước cấp trên về lĩnh vực công tác được giao.
Cán bộ chủ chốt có những đặc trưng cơ bản như sau:
Một là, cán bộ chủ chốt là người có vị trí quan trọng, giữ vai trò quyết
định trong việc xác định phương hướng, mục tiêu, phương pháp công tác đề
13


14
ra những quyết định và tổ chức thực hiện tốt các quyết định của các cấp trên
và cấp nơi công tác. Kiểm tra, giám sát, kịp thời chấn chỉnh, uốn nắn những
biểu hiện lệch lạc, bổ sung, điều chỉnh kịp thời những giải pháp mới khi cần
thiết, đúc rút kinh nghiệm, tổng kết thực tiễn để bổ sung, hoàn chỉnh lý luận.
Đồng thời, cán bộ chủ chốt còn là những người tạo dựng và duy trì sự đoàn

kết, tập hợp, phát huy sức mạnh của quần chúng nhân dân, thực hiện nhiệm
vụ chính trị của đơn vị và xây dựng nội bộ tổ chức vững mạnh. Có thể nói,
đây là lực lượng nòng cốt nhất trong đội ngũ cán bộ, là nhân tố quan trọng
nhất ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt động của cả hệ thống chính trị.
Hai là, khi xác định cán bộ chủ chốt cần đặt cán bộ trong một tổ chức
nhất định, dựa vào các chức trách cụ thể của mỗi cán bộ và đặt trong toàn bộ
hệ thống tổ chức cụ thể. Đội ngũ cán bộ chủ chốt là những người đứng đầu,
quan trọng nhất trong hệ thống bộ máy đảng, chính quyền, lực lượng vũ trang,
mặt trận và các đoàn thể chính trị xã hội, có tác dụng chính, chi phối việc
chấp hành chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước thông
qua việc lãnh đạo và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội trên địa
bàn nơi họ phụ trách.
Ba là, đội ngũ cán bộ chủ chốt hiện nay bao gồm: Bí thư Đảng ủy xã,
Chủ tịch hội đồng nhân dân các cấp, Chủ tịch ủy ban nhân dân các cấp,
Trưởng công an, Trưởng ban chỉ huy quân sự, Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc, Bí
thư Đoàn thanh niên, Chủ tịch Hội nông dân, Chủ tịch Hội liên hiệp phụ nữ,
Chủ tịch Hội cựu chiến binh các cấp.
1.1.1.2. Vai trò, vị trí của cán bộ chủ chốt
Vai trò của cán bộ chủ chốt
Luận bàn về vai trò của cán bộ chủ chốt, C.Mác và Ph.Ăngghen là
người đầu tiên nêu ra quan điểm khoa học về cán bộ. Hai ông đưa ra quan
điểm muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những con người sử dụng thực tiễn.
14


15
Theo quan điểm của hai ông, cán bộ là những người tiêu biểu cho
phong trào cách mạng, có tri thức và trình độ nhận thức cao, biết vận dụng lý
luận cách mạng với thực tiễn để tổ chức phong trào cách mạng của quần
chúng, lãnh đạo quần chúng thực hiện cuộc cải cách có ý nghĩa cách mạng.

Họ phải là những người tuyệt đối trung thành với lợi ích của giai cấp công
nhân, của nhân dân lao động, có trách nhiệm cao, có sự tin tưởng của quần
chúng nhân dân và được quần chúng nhân dân noi theo.
Kế thừa và phát triển sáng tạo tư tưởng của các nhà mácxít về Đảng của
giai cấp công nhân, V.I.Lênin đã đưa ra quan điếm quan trọng về cán bộ. Theo
ông, vai trò của quan trọng của đội ngũ cán bộ, trước hết là ở chỗ đảm bảo tổ
chức thắng lợi đường lối chính trị của Đảng. Bởi vì, họ vừa là người xây dựng
đường lối chính sách, vừa tiến hành lựa chọn phương pháp chỉ đạo, tổ chức
thực hiện và kiểm tra quá trình vận động cách mạng, hướng tới mục tiêu đã đề
ra. Do vậy, Lênin cũng rất đề cao vai trò rèn luyện, đào tạo, bồi dưỡng, lựa
chọn đề bạt cán bộ vào các cương vị công tác, thường xuyên kiểm tra việc thực
hiện nhiệm vụ của họ.
Theo chủ tịch Hồ Chí Minh, vai trò của người cán bộ chủ chốt được thể
hiện trong bốn mối quan hệ: cán bộ với đường lối chính sách, cán bộ với tổ
chức, cán bộ với công việc và cán bộ với quần chúng. Trong quan niệm của
người, cán bộ không chỉ là người vạch ra đường lối mà còn có vai trò quyết
định trong việc tổ chức thực hiện đường lối. Người nói: “Cán bộ là người đem
chính sách của Chính phủ, của đoàn thể thi hành trong nhân dân, nếu cán bộ
dở thì chính sách hay cũng không thể thực hiện được” [55, tr.54].
Chủ tịch Hồ Chí Minh còn yêu cầu cán bộ phải sâu sát quần chúng, nắm
bắt kịp thời và phản ánh tình hình đời sống, tâm tư nguyện vọng của nhân dân
với Đảng và Nhà nước để quyết định đường lối, chủ trương, chính sách hợp
lòng dân. Người chỉ rõ: “Sự lãnh đạo trong mọi công tác thiết thực của Đảng,
15


16
ắt phải từ quần chúng mà ra và phải trở lại nơi quần chúng [55, tr.290]. Và
người kết luận “Muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay
kém” [55, tr.273]. Như vậy cán bộ chủ chốt “cầu nối” giữa Đảng và Nhà nước

với nhân dân, là nhân tố quyết định đến sự thành bại của cách mạng. Và
người yêu cầu mỗi cán bộ phải là người lãnh đạo, dẫn dắt quần chúng nhân
dân thực hiện tốt mục tiêu, lý tưởng của Đảng, là người tận tụy phục vụ nhân
dân, đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Trong di chúc
người còn căn dặn Đảng ta rằng, mỗi đảng viên, cán bộ phải thực sự thấm
nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải
giữ gìn Đảng ta trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là đầy tớ trung
thành của nhân dân.
Cán bộ chủ chốt là người giữ vị trí hết sức quan trọng đối với cơ quan
tổ chức. Cán bộ là thành viên, phần tử cấu thành tổ chức bộ máy. Cán bộ có
quan hệ mật thiết với tổ chức và quyết định mọi sự hoạt động của tổ chức.
Hiệu quả hoạt động trong tổ chức bộ máy phụ thuộc vào cán bộ. Cán bộ tốt sẽ
làm cho bộ máy hoạt động nhịp nhàng, cán bộ kém sẽ làm cho bộ máy tê liệt
“cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy. Nếu có dây chuyền không tốt, không
chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ máy cũng tê liệt” [55, tr.54].
Vị trí của cán bộ chủ chốt:
Cán bộ chủ chốt vừa là người đại diện Nhà nước, vừa là người đại diện
cộng đồng, vừa là người dân, vừa là người gần gũi dân, sát dân nhất cho nên
họ là người trực tiếp nắm bắt tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của quần chúng
nhân dân để phản ánh lên các cấp chính quyền nhằm điều chỉnh và đưa ra
những chính sách đúng. Trên thực tế, ở đâu mà cán bộ chủ chốt gần dân, hiểu
dân, nắm bắt kịp thời tâm tư nguyện vọng của nhân dân thì ở đó các cấp chính
quyền sẽ đề ra những chính sách đúng đắn và hợp lý. Ngược lại ở đâu mà cán
bộ quan liêu xa dân, hách dịch, cửa quyền thì sẽ đề ra những chính sách
không hợp lý, thậm chí là sai lầm gây ảnh hưởng nghiêm trọng.
16


17
Cán bộ chủ chốt còn là người trực tiếp tuyên truyền, phổ biến đường

lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước cho nhân dân. Đồng thời
vận động nhân dân thực hiện tốt đường lối, chính sách pháp luật đó trong
cuộc sống. Cán bộ chủ chốt còn là người trực tiếp giải quyết những yêu cầu,
những thắc mắc về lợi ích chính đáng của nhân dân, phát triển kinh tế xã hội,
tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, tạo điều kiện phát huy tính tự quản
trong cộng đồng dân cư.
Hơn thế nữa, đây là đội ngũ quan trọng có ảnh hưởng trực tiếp đến sự
phát triển, phồn thịnh của địa phương, từ đó, mở rộng ảnh hưởng đến toàn đất
nước. Nhận thức được tầm quan trọng đó, Đảng ta luôn chú trọng và đặc biệt
quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ ngang tầm với đòi hỏi của từng thời kỳ
cách mạng, đó chính là mọi nhân tố quyết định thành công của cách mạng
Việt Nam, của sự phát triển và thịnh vượng của đất nước. Đảng ta xác định:
“Phải có một đội ngũ cán bộ đủ phẩm chất và năng lực xây dựng đường lối
chính trị đúng đắn, đó là vấn đề cốt tử của lãnh đạo, là sinh mệnh của Đảng
cầm quyền” [24, tr.27]. Trong công cuộc đổi mới, thực hiện sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng ta nhấn mạnh vai trò của cán bộ trong việc
thực hiện chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cán bộ là nhân tố quyết
định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất
nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng. Một địa
phương và mở rộng ra là đất nước có được phát triển, phồn thịnh hay không,
một phần quan trọng không thể thiếu được đó là cán bộ, đặc biệt là cán bộ chủ
chốt. Do vậy, hơn lúc nào hết, chúng ta cần nhận thức rõ được vai trò, tầm
quan trọng của việc giáo dục đạo đức nói chung và đạo đức mới nói riêng cho
cán bộ chủ chốt.
Như vậy, cán bộ chủ chốt là bộ phận quan trọng nhất trong bộ máy lãnh
đạo, giữ vai trò quan trọng, ảnh hưởng lớn đến sự ổn định và phát triển của các
17


18

cấp. Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng và
Nhà nước ta đã xác định nông nghiệp là lĩnh vực hàng đầu, là khâu đột phá, vì
vậy, đội ngũ cán bộ chủ chốt lại càng có vai trò quan trọng. Bởi vì, đây là đội
ngũ giữ vai trò là lực lượng chủ yếu nhất điều hành hoạt động của bộ máy tổ
chức ở các cấp, đồng thời là người trực tiếp lãnh đạo, tổ chức thực hiện mọi mặt
đời sống kinh tế - xã hội. Đội ngũ cán bộ chủ chốt có tầm quan trọng đặc biệt ở
nhiều mặt và là một trong những nhân tố có ý nghĩa chiến lược, quyết định sự
thành bại của công cuộc đổi mới và phát triển nông thôn mới ở các địa phương.
Để có được thành công thì một trong những yếu tố không thể thiếu, đó năng lực
quản lý của người cán bộ. Do vậy, việc nâng cao năng lực quản lý cho đội ngũ
cán bộ chủ chốt là một việc là thiết thực và cần thiết hiện nay.
1.1.1.2. Cán bộ làm công tác đảng
- Đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác đảng góp phần quan trọng thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ công tác xây dựng Đảng của cấp ủy đã đề ra. Thực tế
cho thấy, đường lối, chính sách dù hay đến mấy nếu không được triển khai
thực hiện trong cuộc sống thì không phát huy tác dụng. Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã nhiều lần nhấn mạnh rằng: " Khi đã có chính sách đúng, thì sự thành công
hoặc thất bại của chính sách đó là do nơi cách tổ chức công việc, nơi lựa chọn
cán bộ, và do nơi kiểm tra. Nếu ba điều ấy sơ sài, thì chính sách đúng mấy
cũng vô ích." [60, tr.636]. Sau khi Quận ủy ban hành các nghị quyết, đề ra các
chủ trương, nhiệm vụ về công tác xây dựng Đảng, đội ngũ cán bộ chuyên
trách công tác đảng là người xây dựng chương trình, kế hoạch hành động,
tham mưu hướng dẫn các cấp ủy trực thuộc và đảng viên trong đảng bộ thực
hiện theo đúng định hướng đã đề ra. Đồng thời cán bộ chuyên trách cũng
chính là người chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho việc triển khai thực hiện
đạt kết quả cao. Quá trình thực hiện, đội ngũ cán bộ chuyên trách trực tiếp
theo dõi, nắm tình hình, kiểm tra, đôn đốc về tiến độ, chất lượng công việc;
18



19
tham mưu cho cấp ủy kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc ảnh
hưởng đến kết quả thực hiện các chủ trương, nhiệm vụ đã đề ra. Đồng thời,
với trách nhiệm của đảng viên, đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác đảng
còn là những người trực tiếp, gương mẫu thực hiện các chủ trương, nhiệm vụ
xây dựng Đảng mà cấp ủy đã đề ra. Những đảng viên khác cũng phải thực
hiện các nhiệm vụ này, nhưng yêu cầu đối với đội ngũ cán bộ chuyên trách
khác với các đảng viên khác là phải nắm chắc, hiểu rõ các chủ trương, nhiệm
vụ của cấp ủy, nắm vững nghiệp vụ công tác đảng, đồng thời còn hỗ trợ,
hướng dẫn các đảng viên khác thực hiện nhiệm vụ được giao.
- Đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác đảng góp phần quan trọng nâng
cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các cấp ủy, tổ chức đảng trong địa
bàn quận. V.I.Lênin đã chỉ rõ, trong bất kỳ giai đoạn nào của cách mạng, đặc
biệt là khi trở thành đảng cầm quyền, "người cộng sản lãnh đạo chỉ có một
cách duy nhất để chứng minh quyền lãnh đạo của mình, đó là tìm cho được
nhiều, càng ngày càng nhiều những người phụ tá… biết giúp đỡ họ làm việc,
biết đề bạt họ, biết giới thiệu và chú ý đến kinh nghiệm của họ" [52, tr.407].
Do vậy, năng lực hoạt động của các cấp ủy, tổ chức đảng trong địa bàn quận
sẽ không đạt hiệu quả cao, sức chiến đấu sẽ giảm sút nếu thiếu những cán bộ
có tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng, chuyên nghiệp, chuyên sâu về lĩnh vực
công tác đảng. Mỗi tổ chức đảng ở quận đều có chức năng, nhiệm vụ cụ thể.
Các tổ chức đảng này tồn tại và hoạt động thông qua việc thực hiện chức
năng, nhiệm vụ được giao và thông qua việc tiến hành các hoạt động xây
dựng nội bộ: kết nạp đảng viên, quản lý hồ sơ đảng viên, sinh hoạt đảng, kiểm
tra, giám sát... thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao chính là thực hiện
vai trò lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng; thực hiện các hoạt động xây dựng
nội bộ tổ chức đảng chính là làm cho cấp ủy, tổ chức đảng trong sạch, vững
mạnh, đủ sức thực hiện vai trò lãnh đạo. Đội ngũ cán bộ chuyên trách công
19



20
tác đảng là người trực tiếp giúp cấp ủy, tổ chức đảng thực hiện các nội dung
nói trên, qua đó, góp phần quan trọng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến
đấu của các cấp ủy, tổ chức đảng.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm tiêu chí đánh giá năng lực quản lý của
cán bộ chủ chốt
1.1.2.1. Khái niệm năng lực lãnh đạo của cán bộ chủ chốt
Khái niệm năng lực
Năng lực được con người sử dụng ở nhiều phương diện như: năng lực
công tác, năng lực sản xuất, năng lực quản lý điều hành...
Theo cuốn “Gốc và nghĩa của từ tiếng việt thông dụng” thì năng lực
được chia làm hai vế: Năng là làm nổi việc; lực là sức mạnh. Năng lực được
hiểu là sức mạnh có thể làm nổi việc.
Theo Đại từ điển Tiếng việt, NXB Văn hóa thông tin: năng lực hiểu theo
hai nghĩa: 1. Năng lực là những điều kiện đủ hoặc vốn có để làm một việc gì.
Ví dụ: năng lực tư duy của con người; 2. Năng lực là khả năng để thực hiện tốt
một công việc. Ví dụ: có năng lực chuyên môn, năng lực tổ chức...
Tóm lại có thể hiểu Năng lực là những thuộc tính tâm lý của cá nhân,
cơ sở tự nhiên của năng lực là những đặc điểm sinh lý thần kinh của não và cơ
thể, là tư chất là thể lực của cá nhân. Tư chất không phải là yếu tố của năng
lực mà là cơ sở, nền tảng của năng lực. Năng lực của con người được phát
triển trong hoạt động, học tập, kinh nghiệm,… có năng lực chung (có ở nhiều
người như năng lực tư duy, trí nhớ, quan sát,… và năng lực riêng (chỉ có ở 1
số lĩnh vực riêng) thể hiện sự khác nhau giữa người này và người khác. Năng
lực chung và năng lực riêng có mối quan hệ chặt chẽ, bổ sung cho nhau. Năng
lực không tách rời khỏi hoạt động mà thống nhất với hoạt động, được quy
định bởi hoạt động của con người - hoạt động nào thì cần năng lực ấy. Đồng
thời, năng lực là khả năng của con người để thực hiện tốt công việc hay làm
20



21
việc có hiệu quả cao.
Năng lực lãnh đạo là tổng hợp những khả năng, điều kiện chủ quan của
tổ chức cơ sở đảng được tạo nên từ những yếu tố nội sinh, từ sự phấn đấu của
từng cá nhân trong tổ chức cơ sở đảng để thực hiện nhiệm vụ lãnh đạo; là khả
năng, điều kiện của tổ chức cơ sở đảng, cán bộ, đảng viên trong việc thực hiện
các khâu, các bước của quy trình lãnh đạo nhằm đạt được kết quả cao trong
thực tiễn và được phản ánh thông qua việc ra nghị quyết, tổ chức thực hiện
nghị quyết, kiểm tra, giám sát và sơ, tổng kết việc thực hiện nghị quyết của tổ
chức cơ sở đảng.
1.1.2.3. Các tiêu chí đánh giá năng lực quản lý nhà nước của cán bộ
chủ chốt
Các tiêu chí cơ bản đánh giá năng lực quản lý nhà nước của cán bộ chủ
chốt bao gồm: phẩm chất chính trị, đạo đức, trình độ, kỹ năng và phương
pháp quản lý nhà nước.
Thứ nhất, về phẩm chất chính trị
Phẩm chất chính trị là tiêu chí quan trọng nhất, quyết định đến năng lực
quản lý nhà nước của cán bộ, công chức. Đây cũng là yêu cầu cơ bản nhất đối
với người cán bộ. Phẩm chất chính trị đòi hỏi người cán bộ, nhất là cán bộ
chủ chốt phải thấm nhuần Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh,
quán triệt đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà
nước, có tinh thần cương quyết đấu tranh chống lại các hiện tượng lệch lạc,
những biểu hiện mơ hồ, sai trái đường lối chủ trương chính sách của Đảng và
pháp luật của Nhà nước và các hành vi xâm phạm quyền lợi chính đáng của
nhân dân.
Thứ hai, về đạo đức cách mạng
Đạo đức cách mạng là nền tảng, là gốc, là sức mạnh của người cán bộ
chủ chốt. Họ là người tiếp xúc và sinh hoạt cùng với quần chúng nhân dân

21


22
cho nên đạo đức của người cán bộ chủ chốt sẽ có tầm ảnh hưởng lớn đối với
người dân, có tác động lớn tới hiệu quả quản lý của chính quyền. Người cán
bộ chủ chốt có đạo đức cách mạng phải là người tích cực đấu tranh chống lại
các tiêu cực của xã hội, đồng thời, phải thường xuyên rèn luyện, tu dưỡng đạo
đức ở mọi lúc mọi nơi. Bởi vì đạo đức cách mạng không phải tự nhiên mà có
nó là kết quả của cả quá trình rèn luyện thường xuyên, liên tục.
Ngoài ra, cần có thêm những tố chất cần có của một nhà lãnh đạo:
Niềm say mê: Một nhà lãnh đạo hiệu quả là người luôn khát khao làm
được điều gì đó đóng góp cho xã hội, hoặc chí ít là cho mình. Không có sự
say mê, thì một nhà lãnh đạo sẽ không thể có được những quyết định táo bạo
và tâm huyết.
Sự hiểu biết và tính ham học hỏi: Điều chắc chắn là, người lãnh đạo
không thể điều hành tốt nếu họ không hiểu biết gì về lĩnh vực hoạt động của
họ. Ngoài những kiến thức cơ bản trong lĩnh vực hoạt động của mình, người
lãnh đạo còn phải đọc nhiều và luôn có tinh thần học hỏi để không ngừng
nâng cao kiến thức, nhận biết và cập nhật những thông tin và tri thức mới.
Nhìn xa trông rộng: tố chất này khác với niềm say mê, song ở khía
cạnh nào đó, nó lại không tách biệt khỏi niềm say mê. Nếu một người không
quan tâm đến một đối tượng, một vấn đề, một hệ thống nào đó, thì người đó sẽ
không chú tâm dành thời gian tìm hướng giải quyết. Tuy nhiên, người lãnh đạo,
ngoài niềm say mê, còn phải có tầm nhìn, cách nhìn nhận và những ý tưởng
nhất định trước những thay đổi, để từ đó vạch ra những biện pháp phù hợp.
Óc sáng tạo: người lãnh đạo luôn phải suy nghĩ để làm sao đưa ra
những chiến lược thực hiện tầm nhìn một cách hiệu quả nhất. Trong bất cứ
22



23
công việc nào, cũng cần phát huy trí sáng tạo để thực hiện công việc nhanh
nhất, hiệu quả nhất, chất lượng đảm bảo nhất.
Lòng dũng cảm: Người lãnh đạo là người có một trong những công việc
khắc nghiệt nhất. Trong điều hành phải luôn xác định rõ, họ là đại diện cho ai
và cần phải làm gì. Người lãnh đạo phải dũng cảm và cương quyết trong các
vấn đề liên quan đến sự tồn tại và phát triển của cơ quan, đơn vị, địa phương.
Sẵn sàng chấp nhận rủi ro: Người lãnh đạo tài năng là người không
trốn tránh trước thực tế giảm sút, biết lường trước những kịch bản xấu nhất có
thể xảy ra với cơ quan, đơn vị, địa phương. Khi đó, họ cần có kế hoạch hỗ trợ.
Thứ ba, về trình độ (trình độ học vấn, trình độ lý luận chính trị, trình
độ chuyên môn nghiệp vụ, trình độ quản lý hành chính nhà nước).
Trình độ học vấn, trình độ lý luận,trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trình
độ quản lý hành chính nhà nước, không phải là yếu tố duy nhất quyết định
hiệu quả hoạt động của cán bộ chủ chốt nhưng đây là tiêu chí quan trọng ảnh
hưởng đến hoạt động quản lý của đội ngũ này. Nó là nền tảng cho việc nhận
thức tiếp thu đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước; là tiền đề tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách pháp luật
vào trong thực tiễn cuộc sống. Hạn chế về các trình độ trên sẽ là một khó
khăn lớn trong khả năng nhận thức và năng lực tổ chức thực hiện các chủ
trương, chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước, sẽ là rào cản cho việc
thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của cán bộ chủ chốt. Do đó trình độ học
vấn, trình độ lý luận, trình độ quản lý hành chính nhà nước là những tiêu chí
quan trọng để đánh giá năng lực quản lý của cán bộ chủ chốt.
Thứ tư, về kỹ năng

23



24
Kỹ năng lãnh đạo: Đây là một kỹ năng không thể thiếu của một nhà
quản lý. Lãnh đạo giỏi được thử thách qua sự thành công trong việc thay đổi
hệ thống và con người. Thuật ngữ “lãnh đạo” đang được sử dụng ngày càng
nhiều hơn khi nhắc đến vai trò của người quản lý vì chức năng của lãnh đạo là
xử lý thay đổi. Người quản lý cần phải lãnh đạo giỏi để thay đổi sản phẩm, hệ
thống và con người một cách năng động. Nhà lãnh đạo giỏi phải là người thúc
đẩy quá trình quyết định một vấn đề và trao cho cán bộ của họ quyết định vấn
đề đó. Nếu đội ngũ cán bộ chủ chốt làm công tác đảng cấp cơ sở là một nhà
lãnh đạo giỏi, quyền lực sẽ tự đến với họ, nhưng đội ngũ đó cũng phải biết
khai thác quyền lực của những người khác. Họ phải thúc đẩy quá trình quyết
định và làm cho quá trình đó hoạt động. Đó là một bài toán khó.
Kỹ năng lập kế hoạch: Đội ngũ cán bộ chủ chốt sẽ là người ra quyết
định và toàn bộ bộ máy của cơ quan sẽ hành động theo quyết định đó. Nghĩa
là quyết định của nhà lãnh đạo ảnh hưởng rất lớn tới hướng phát triển của cơ
quan, đơn vị. Một kế hoạch sai lầm rất có thể sẽ đưa đến những hậu quả khó
lường. Vì vậy kỹ năng lập kế hoạch rất quan trọng để đảm bảo cho những cán
bộ chủ chốt có thể đưa ra những kế hoạch hợp lý và hướng toàn bộ cán bộ
làm việc theo mục tiêu của kế hoạch đã định. Khi kế hoạch được hoàn thành,
những cán bộ chủ chốt phải chuyển tải thông tin kế hoạch cho cấp trên và cấp
dưới để tham khảo ý kiến. Trong suốt quá trình thực hiện kế hoạch, những cán
bộ chủ chốt sẽ cần đến những công cụ giải quyết vấn đề và khi cần thiết, phải
ra và thực thi các quyết định trong quyền hạn của mình.
Kỹ năng giải quyết vấn đề: Quá trình giải quyết vần đề có thể được tiến
hành qua các bước sau: nhận diện vấn đề, tìm nguyên cớ của vấn đề, phân loại
vấn đề, tìm giải pháp và lựa chọn giải pháp tối ưu. Những cán bộ chủ chốt
giỏi sẽ tiến hành quá trình này một cách khéo léo và hiệu quả.
24



25
Kỹ năng giao tiếp tốt: Càng ngày người ta càng nhận ra sức mạnh của
các mối quan hệ, cái mà có được từ một kỹ năng giao tiếp tốt. Những cán bộ
chủ chốt phải thành thạo giao tiếp bằng văn nói và cả văn viết. Những cán bộ
chủ chốt phải biết cách gây ấn tượng bằng giọng nói, ngôn ngữ cơ thể, đôi
mắt và cách diễn đạt dễ hiểu, thuyết phục.
Ngoài ra còn có các yếu tố như: sức khỏe, tác phong làm việc, kiến
thức thực tế cũng có ảnh hưởng tới năng lực quản lý của cán bộ chủ chốt.
Thứ năm, phẩm chất cần có của người lãnh đạo
Để trở thành người lãnh đạo, những cán bộ chủ chốt cần phải trải qua
một thời gian dài được rèn luyện những phẩm chất cần có và học tập kinh
nghiệm từ những người đi trước.
Tầm nhìn xa: những cán bộ chủ chốt có vai trò quan trọng hơn một cá
nhân rất nhiều. Họ dường như luôn biết cách hoạch định tốt mọi công việc và
là người cung cấp những lời khuyên hữu ích nhất cho những cộng sự hay
thuộc cấp của mình. Không chỉ có một tầm nhìn xa, họ còn biết cách truyền
đạt những ý tưởng của mình cho người khác hiểu để cùng với mình thực hiện
tốt những ý tưởng đó. Những thông điệp được truyền đi phải luôn sinh động,
rõ ràng và có sức thuyết phục cao. Do đó, sự thành thạo trong khả năng giao
tiếp bằng lời nói luôn là phẩm chất cần có của một người lãnh đạo giỏi.
Trong khi mọi người đều bị thuyết phục bởi tài năng của người lãnh
đạo, họ thường không nhận ra rằng tài năng đó chỉ đóng vai trò bổ trợ cho
những kinh nghiệm những cán bộ chủ chốt đó có thể tiếp thu từ thực tiễn công
việc: khả năng lên kế hoạch và thiết lập mục tiêu cần đạt được. Họ là người
luôn có những giải pháp để giải quyết mọi khó khăn trong những tình huống
25


×