Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Các biện pháp giải quyết tranh chấp bằng tài phán theo Công ước Liên hợp quốc về luật biển quốc tế 1982

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.07 KB, 20 trang )

MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU..............................................................................................1
B. PHẦN NỘI DUNG...........................................................................................1
I. Các vấn đề chung về tranh chấp quốc tế.........................................................1
1. Khái niệm tranh chấp quốc tế.....................................................................1
2. Đặc điểm của tranh chấp quốc tế................................................................2
3. Hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế................................................2
4. Các biện pháp giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế.........................3
II. Giải quyết tranh chấp bằng tài phán theo Công ước luật biển 1982..............3
III. Các cơ quan tài phán giải quyết tranh chấp theo Công Ước 1982...............7
1. Tòa án công lý quốc tế ICJ..........................................................................7
2. Tòa án quốc tế về luật biển.......................................................................10
3. Toà Trọng tài (An Arbitral Tribunal) được thành lập theo phụ lục VII của
Công Ước......................................................................................................13
4. Toà Trọng tài đặc biệt (A Special Arbitral Tribunal) được thành lập theo
phụ lục VIII của UNCLOS...........................................................................15
IV. Vấn đề áp dụng các biện pháp giải quyết tranh chấp theo Công ước trong
tranh chấp ở Biển Đông...................................................................................16
C. PHẦN KẾT LUẬN.........................................................................................18
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................19

0


A. PHẦN MỞ ĐẦU.
Cùng với việc mở rộng, tăng cường hợp tác khu vực, hợp tác quốc tế, các
vấn đề về tranh chấp giữa các quốc gia, các tranh chấp quốc tế cũng dần nảy
sinh và trở nên phức tạp. Trong đó, không thể không kể đến các tranh chấp quốc
tế trên biển, liên quan đến rất nhiều lĩnh vực, từ việc đánh bắt hải sản cho đến
các vấn đề về chủ quyền lãnh thổ. Sự tồn tại của các tranh chấp này tất yếu đặt
ra việc phải có một hệ thống giải quyết tranh chấp – Công Ước Liên Hợp Quốc


về Luật Biển quốc tế 1982. Bởi lẽ đó, nội dung bài tiểu luận này nghiên cứu vấn
đề: Các biện pháp giải quyết tranh chấp bằng tài phán theo Công ước Liên
hợp quốc về luật biển quốc tế 1982 để tìm hiểu sâu vào các cơ quan tài phán với
những phán quyết mang tính bắt buộc trong giải quyết tranh chấp, đồng thời mở
rộng liên hệ giải quyết tranh chấp trên biển Đông hiện nay ở nước ta.

B. PHẦN NỘI DUNG
I. Các vấn đề chung về tranh chấp quốc tế
1. Khái niệm tranh chấp quốc tế
Đi kèm với xu hướng hợp tác hóa, toàn cầu hòa quốc tế là sự gia tăng những
mâu thuẫn, bất đồng giữa các quốc gia hay các chủ thế khác của luật quốc tế.
Những tiêu cực từ các tranh chấp này đã xuất hiện và tồn tại rất nhiều, tuy nhiên,
đến nay vẫn chưa có một văn bản pháp lý nào đưa ra định nghĩa về tranh chấp
quốc tế.
Hiểu một cách chung nhất, tranh chấp quốc tế là hoàn cảnh thực tế mà trong
đó các chủ thể tham gia có những quan điểm trái ngược hoặc mâu thuẫn nhau,
đồng thời có những yêu cầu, đòi hỏi về mặt lợi ích đối ngược nhau, cần phải
được giải quyết hòa bình trên cơ sở Luật Quốc tế.
Các tranh chấp quốc tế phát sinh thường bắt nguồn từ việc các quốc gia hay
chủ thế khác của luật quốc tế không thỏa hiệp được với nhau về những vấn đề
liên quan đến quyền, lợi ích các bên (kinh tế, chính trị, …)

1


2. Đặc điểm của tranh chấp quốc tế.
Về chủ thể, các chù thế của tranh chấp quốc tế là chủ thể của luật quốc tế
bao gồm: các quốc gia; các dân tộc đang đấu tranh giành độc lập; các tổ chức
quốc tế liên chính phủ (EU, ASEAN, …) và các chủ thể đặc biệt khác (Vatican,
Taiwan,…). Trong đó, các quốc gia là chủ thể cơ bản của tranh chấp quốc tế.

Về đối tượng, bao gồm tất cả những vấn đề phát sinh trong đời sống quốc tế
như lãnh thổ, biên giới quốc gia, về nội dung của Điều ước quốc tế, tập quán
quốc tế, tư cách thành viên của tổ chức quốc tế, sự kiện pháp lý quốc tế.
Về nội dung, là quan hệ thuộc đối tượng điều chỉnh của luật quốc tế.
Về giải quyết tranh chấp, các tranh chấp quốc tế được giải quyết thông qua
con đường quốc tế.
3. Hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế
Hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế là nguyên tắc để giải quyết tranh
chấp quốc tế. Nguyên tắc này được thể hiện qua Chương VI - Giải quyết hoà
bình các vụ tranh chấp, Điều 33 Hiến chương Liên Hợp Quốc: “1. Các bên
đương sự trong các cuộc tranh chấp, mà việc kéo dài các cuộc tranh chấp ấy có
thể đe dọa đến hoà bình và an ninh quốc tế, trước hết, phải cố gắng tìm cách
giải quyết tranh chấp bằng con đường đàm phán, điều tra, trung gian, hoà giải,
trọng tài, toà án, sử dụng những tổ chức hoặc những điều ước khu vực, hoặc
bằng các biện pháp hoà bình khác tùy theo sự lựa chọn của mình;
2. Hội đồng bảo an, nếu thấy cần thiết, sẽ yêu cầu các đương sự giải quyết
tranh chấp của họ bằng các biện pháp nói trên.”
Ý nghĩa của việc giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế: Thứ nhất, đảm
bảo quyền và lợi ích hợp pháp các bên tranh chấp, đặc biệt là bên có vị thể yếu
hơn; Thứ hai, góp phần thúc đẩy việc thực thi và tuân thủ pháp luật quốc tế; Thứ
ba, góp phần duy trì hòa bình, an ninh quốc tế, thúc đẩy quan hệ hợp tác hữu
nghị giữa các dân tộc.

2


4. Các biện pháp giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế
Trên cơ sở nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế, pháp luật
quốc tế đã xây dựng hai phương pháp để giải quyết các tranh chấp: Thứ nhất là
bằng con đường ngoại giao, gồm có đàm phán, trung gian, hòa giải và thông qua

ủy ban điều tra; Thứ hai, thông qua thủ tục tư pháp hay cơ quan tài phán. Trong
bài tiểu luận này, nội dung tập trung đi vào khai thác biện pháp giải quyết tranh
chấp thông qua cơ quan tài phán.
Cơ quan tài phán được định nghĩa là “những cơ quan hình thành trên cơ sở
sự thỏa thuận hoặc thừa nhận của các chủ thệ luật quốc tế nhằm thực hiện chức
năng giải quyết bằng trình tự thủ tục tư pháp các tranh chấp nảy sinh trong quá
trình các chủ thể thực thi, tuân thủ luật quốc tế”1.
Trong Hiến chương liên hợp quốc 1945, quy chế Tòa án công lý quốc tế
được thông qua năm 1946 và nội quy của Tòa được thông qua vào ngày
6/5/1946 có chỉ rõ tòa án là một cơ quan tài phán quốc tế. Công ước Lahaye năm
1907 đã định nghĩa trọng tài quốc tế là: “một phương thức giải quyết các tranh
chấp giữa các quốc gia qua các thẩm phán do các quốc gia tự lựa chọn”, là cơ
quan tài phán không thường trực, không có quy chế riêng. Như vậy, có thể hiểu
cơ quan tài phán gồm có trọng tài quốc tế và tòa án quốc tế.
II. Giải quyết tranh chấp bằng tài phán theo Công ước luật biển 1982.
Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 (gọi tắt là Công ước Luật
biển 1982 hay Công Ước), tên tiếng Anh là United Nations Convention on the
Law of the Sea, hay thường được gọi tắt là UNCLOS 1982, được 107 quốc gia,
trong đó có Việt Nam, ký tại Montego Bay, Jamaica (tính đến nay, số quốc gia
ký là 157).2 Sau Hiến chương Liên Hợp Quốc, Công ước Luật biển 1982 được
đánh giá là văn kiện pháp lý quốc tế quan trọng nhất kể từ sau chiến tranh thế
giới thứ hai, được nhiều quốc gia ký kết và tham gia. Công ước Luật biển 1982
có hiệu lực từ ngày 16/11/1994 (12 tháng kể từ ngày Guyana, nước thứ 60 phê
chuẩn Công ước ngày 16/11/1993). Là một văn kiện pháp lý đa phương đồ sộ,
bao gồm 320 điều khoản và 9 Phụ lục, với hơn 1000 quy phạm pháp luật, Công
1 Đại học Kiểm sát Hà Nội, Giáo trình Luật quốc tế, Hà Nội – 2015, tr.524.
2 />
3



ước Luật biển 1982 đã xác lập một trật tự quốc tế đối với tất cả các vấn đề về
biển và đại dương, bao gồm cả đáy biển và lòng đất dưới đáy biển.
Công Ước Luật Biển của Liên Hợp Quốc là một văn kiện pháp lý toàn diện
có khả năng áp dụng cho tất cả các vùng biển, với một hệ thống giải quyết tranh
chấp vô cùng tiến bộ. Hệ thống này toàn diện theo khía cạnh nó có thể giải quyết
tất cả các tranh chấp liên quan đến việc giải thích và áp dụng Công ước. Đặc
biệt, nó có thể giải quyết các tranh chấp phân giới biển, bao gồm cả những tranh
chấp liên quan cùng một lúc đến cả phân giới biển lẫn tranh chấp chủ quyền
lãnh thổ hoặc đảo. Hệ thống giải quyết tranh chấp vừa toàn diện vừa linh hoạt
này có thể giúp đỡ các quốc gia một cách hiệu quả, cùng hợp tác tìm ra giải
pháp hòa bình cho các tranh chấp biển của họ.1
Một số nội dung về tranh chấp và giải quyết tranh chấp theo Công Ước:
Thứ nhất, chủ thể của các tranh chấp
Theo Công ước, chỉ riêng việc tranh chấp phát sinh giữa các quốc gia thì
chưa đủ để được giải quyết theo những qui định về giải quyết tranh chấp. Điều
quan trọng là các tranh chấp đó phải phát sinh giữa các quốc gia thành viên của
Công ước. Hai điều kiện cần thiết được nêu ra khi áp dụng các cơ chế giải quyết
tranh chấp thích hợp của Công ước:
- Quốc gia là một bên của tranh chấp phải ký và phê chuẩn hoặc gia nhập
Công ước.
- Bản thân Công ước phải đã có hiệu lực (một năm sau khi nước thứ 60 phê
chuẩn) và cũng đã có hiệu lực đối với quốc gia là một bên tranh chấp (30 ngày
sau khi các văn kiện phê chuẩn của quốc gia đó được gửi tới ông Tổng Thư ký
Liên hợp quốc để lưu chiểu). Công ước Luật Biển năm 1982 có hiệu lực từ ngày
16/11/1994.
Thứ hai, đối tượng của các tranh chấp. Mọi tranh chấp phát sinh giữa các
quốc gia thành viên về việc giải thích hay áp dụng Công ước Luật Biển năm
1982 đều là đối tượng để xem xét giải quyết theo các qui định của Phần XV.

1 Theo Matthias Fueracker, Chuyên viên Pháp luật, Tòa án Quốc tề về Luật Biển.


4


Về sự tồn tại tranh chấp: Công ước không nêu rõ các điều kiện để làm phát
sinh một tranh chấp giữa các quốc gia thành viên. Trên thực tiễn quốc tế, các
quốc gia hầu như đã chấp nhận cách giải thích của Toà án quốc tế, coi “tranh
chấp” là “một sự bất đồng về quan điểm”.
Thực tiễn của Toà án quốc tế cho thấy Toà thường lấy thời điểm ghi trong
đơn khởi kiện để xác định sự tồn tại của tranh chấp giữa các bên. Để làm rõ
được điều này, Toà còn kiểm tra xem xét bên bị đơn có phản bác lại yêu cầu của
bên khởi kiện không. Mặc dù hình thức của tranh chấp ít được coi trọng, song
các cơ quan xét xử quốc tế luôn đòi hỏi cần phải trình bày cụ thể về đối tượng
tranh chấp để dễ dạng nhận thấy rằng đó là “một sự bất đồng về quan điểm
không thể giải quyết bằng cách nào khác”.
Tranh chấp về giải thích hay áp dụng Công ước: Chỉ những tranh chấp có
đối tượng liên quan đến việc giải thích hay áp dụng Công ước mới thuộc phạm
vi điều chỉnh của hệ thống giải quyết tranh chấp nêu trong Công ước. Quy định
này khi dẫn trên thực tế cho thấy, bất kỳ một tranh chấp nào mà việc đạt được
một giải pháp phải viện dẫn đến Công ước đều thuộc phạm vi điều chỉnh của
Phần XV.
Cần lưu ý, việc giải quyết tranh chấp theo Công Ước không áp dụng cho
những cuộc tranh chấp nảy sinh từ những tình huống rộng hơn nhưng có ảnh
hưởng đến những vấn đề về biển. Ví dụ như vấn đề tranh chấp giữa Bồ Đào Nha
và Austraulia liên quan đến Đông Timo. Vấn đề tranh chấp được trình bày trước
Toà án Quốc tế là Hiệp ước Biển Timo, đã phân chia các nguồn tài nguyên biển
giữa Indonexia và Austraulia. Nhưng cuộc tranh chấp thực sự là tranh chấp về
việc chuyển giao quyền lực sau khi kết thúc chính quyền thực dân và về việc
dùng vũ lực để phủ nhận quyền tự quyết của nhân dân Đông Timor.
Thứ ba, các nguyên tắc chủ đạo của hệ thống giải quyết tranh chấp. Gồm

bốn nguyên tắc:
Một là, các quốc gia có nghĩa vụ giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp
hoà bình. Đây là nguyên tắc nền tảng, được dùng làm cơ sở cho việc giải quyết

5


tranh chấp theo Công ước, được quy định tại Điều 279 Công Ước và viện dẫn
theo Điều 2, khoản 3 và Khoản 1 Điều 33 Hiến chương Liên Hợp Quốc.
Hai là, các quốc gia trước hết tiến hành thương lượng ngoại giao để giải
quyết tranh chấp. Điều 283 Công ước Luật Biển năm 1982 ghi nhận vai trò của
thương lượng ngoại giao như sau: “Khi có một tranh chấp xảy ra giữa các quốc
gia thành viên liên quan đến việc giải thích hay áp dụng Công ước, các bên tranh
chấp tiến hành ngay một cuộc trao đổi quan điểm về cách giải quyết tranh chấp
bằng thương lượng hay bằng biện pháp hoà bình khác”.
Ba là, các quốc gia có quyền tự do lựa chọn phương pháp giải quyết tranh
chấp. Điều 280 (Phần XV) của Công ước quy định rõ: “Không một quy định nào
của Phần này ảnh hưởng đến quyền của các quốc gia thành viên đi đến thoả
thuận giải quyết vào bất kỳ lúc nào, bằng bất kỳ biện pháp hoà bình nào theo sự
lựa chọn của mình một vụ tranh chấp xảy ra giữa họ về vấn đề giải thích hay áp
dụng Công ước
Bốn là, các quốc gia có nghĩa vụ giải quyết tranh chấp giữa họ với nhau
Thứ tư, cơ chế giải quyết tranh chấp bằng cơ quan tài phán.
Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 đã xây dựng một hệ thống
giải quyết tranh chấp bằng tài phán thông qua: Phần XV “Giải quyết tranh chấp”
gồm 3 Mục và 21 điều khoản (từ điều 279 đến điều 299); Phụ lục VI “Quy chế
của Toà án quốc tế về luật biển” gồm 41 điều khoản; Phụ lục VII “Trọng tài”
gồm 13 điều khoản; Phụ lục VIII “Trọng tài đặc biệt” gồm 5 điều khoản.
Cụ thể tại khoản 1 Điều 287: Việc lựa chọn thủ tục
“1. Khi ký hay phê chuẩn Công ước hoặc tham gia Công ước, hay ở bất kỳ

thời điểm nào sau đó, một quốc gia được quyền tự do lựa chọn, hình thức tuyên
bố bằng văn bản, một hay nhiều biện pháp sau đây để giải quyết các tranh chấp
có liên quan đến việc giải thích hay áp dụng Công ước:
Tòa án quốc tế về Luật biển được thành lập theo đúng Phụ lục VII; Toà án
quốc tế;
Một tòa trọng tài được thành lập theo đúng Phụ lục VII;
6


Một tòa trọng tài đặc biệt được thành lập theo đúng Phụ lục VIII để giải
quyết một hay nhiều loại tranh chấp đã được qui định rõ trong đó.”
Như vậy, hiện có 4 cơ chế và cơ quan tài phán quốc tế giải quyết những vấn
đề liên quan đến tranh chấp chủ quyền lãnh hải, đó là:
-Toà án Công Lý quốc tế (được thành lập theo Hiến chương Liên Hợp
quốc);
-Toà án quốc tế về Luật Biển được thành lập theo Phụ lục VI của UNCLOS;
-Toà Trọng tài (An Arbitral Tribunal) được thành lập theo phụ lục VII của
UNCLOS;
-Toà Trọng tài đặc biệt (A Special Arbitral Tribunal) được thành lập theo
phụ lục VIII của UNCLOS.
III. Các cơ quan tài phán giải quyết tranh chấp theo Công Ước 1982.
1. Tòa án công lý quốc tế ICJ
Toà án Công lý quốc tế (ICJ) là cơ quan tư pháp chính của Liên hợp quốc.
ICJ được thành lập vào tháng 6 năm 1945 theo Hiến chương Liên hợp quốc và
bắt đầu hoạt động vào tháng 4 năm 1946.
Trụ sở Tòa án nằm ở Cung điện Hòa bình ở Hague (Hà Lan). Trong số sáu
cơ quan chính của Liên hợp quốc, ICJ là cơ quan duy nhất không nằm ở New
York (Hoa Kỳ).
Vai trò của Toà án công lý quốc tế là giải quyết theo pháp luật quốc tế các
tranh chấp pháp lý do các quốc gia đệ trình và đưa ra các ý kiến tư vấn về các

vấn đề pháp lý mà các cơ quan hữu quan của Liên hiệp quốc và các cơ quan
chuyên môn liên quan đề cập đến.
Toà án gồm có 15 thẩm phán, do Đại hội đồng Liên Hợp Quốc và Hội đồng
Bảo an bầu theo nhiệm kỳ 9 năm. Ngôn ngữ chính thức là tiếng Anh và tiếng
Pháp.1
Thẩm quyền của Toà án quốc tế
1 />
7


Toà án có thẩm quyền xét xử các tranh chấp giữa các quốc gia (là thành viên
của quy chế) và thẩm quyền cho ý kiến tư vấn. Theo quy định của Hiến chương
Liên hợp quốc, mọi thành viên của Liên hợp quốc đương nhiên là thành viên của
Quy chế Toà án Công lý quốc tế. Ngoài ra, các quốc gia không phải là thành
viên của Liên hợp quốc vẫn có thể đưa vụ tranh chấp ra giải quyết trước Tòa án
nhưng phải tuân theo các điều kiện do Hội đồng bảo an quy định theo các điều
khoản cụ thể từ các điều ước quốc tế hiện hành. Trong mọi trường hợp, các điều
kiện này phải đảm bảo được vị trí bình đẳng giữa các quốc gia trong tranh chấp
(Điều 35 Quy chế Tòa án Công lý Quốc tế)
Chỉ có các quốc gia mới có thể đưa tranh chấp của mình ra giải quyết trước
Toà án quốc tế (Điều 34 Quy chế Toà án Công lý Quốc tế). Tuy nhiên, Toà án
quốc tế yêu cầu các tổ chức quốc tế cung cấp thông tin liên quan đến một vụ
kiện hay có ý nghĩa vụ tiếp nhận thông tin mà các tổ chức quốc tế tự nguyện
cung cấp. Khi toà xem xét một vụ kiện liên quan tới điều lệ của một tổ chức
quốc tế, tổ chức đó phải được thông báo và có quyền nhận bản sao của mọi văn
bản liên quan tới vụ kiện.
Điều 36 Quy chế Toà án quốc tế quy định Toà án quốc tế có quyền tài phán
trong mọi trường hợp được các bên đưa ra Toà và liên quan đến tất cả các vấn
đề được đặc biệt quy định trong Hiến chương của Liên hợp quốc hoặc các điều
ước hiện hành. Như vậy, thoả thuận của các bên tranh chấp phải đưa ra giải

quyết trước Toà án quốc tế. Thoả thuận như vậy không nhất thiết phải theo một
thể thức nào và trong một số hoàn cảnh, Toà án sẽ căn cứ vào hành vi của các
bên mà quyết định rằng họ có thoả thuận hay không.

Về thủ tục tố tụng tại phiên tòa
ICJ tiến hành giải quyết tranh chấp quốc tế theo trình tự đầy đủ hoặc rút
gọn. Thành phần của một phiên tòa là tối thiểu 9 thẩm phán. Trình tự đầy đủ
gồm 2 giai đoạn: giai đoạn tiến hành các thủ tục bổ trợ và giai đoạn xét xử nội
dung vụ việc. Trong phạm vi chức năng của mình, tòa có thể lập ra ba loại tòa

8


đặc thù: tòa rút gọn trình tự tố tụng, tòa đặc biệt, tòa ad hoc. Được quy định rất
rõ trong chương III Quy chế Tòa án Công lý quốc tế.
Cụ thể, quá trình thụ lý gồm hai giai đoạn:
- Thủ tục viết, trong đó các quốc gia hoàn thành và trao đổi bị vong lục về
lập luận của từng bên và các lý lẽ luận tội hay bào chữa.
- Thủ tục nói (tranh tụng trước Toà), Toà sẽ nghe ý kiến của các bên, các luật
sư và cố vấn trong phiên Toà xét xử công khai.
Ngoài thủ tục chung gòm hai giai đoạn này cho bất kỳ một vụ tranh chấp
nào đưa ra trước tòa, thủ tục xét xử của tòa theo từng trường hợp sẽ được tiến
hành theo những bước sau:
- Các bên nộp đơn kiện lên Tòa và cử đại diện liên lạc của mình
- Tòa tiến hành các thủ tục bổ trợ cho thủ tục chính về xét xử nội dung: Tòa
sẽ xem xét xác định thẩm quyền của mình trong từng vụ việc cụ thể được nêu.
Trong từng trường hợp cần thiết, tòa có thể ra những biện pháp bảo đảm tạm
thời cần thiết để bảo vệ quyền lợi cho mỗi bên. Hợp các các vụ án có mục tiêu
tranh chấp chung. Khả năng xử án vắng mặt. Tòa xem xét khả năng can dự vào
vụ việc từ bên thứ ba.

- Tòa xét xử về mặt nội dung của vụ việc
- Ra quyết định cuối cùng phân giải tranh chấp.
Về giá trị phán quyết
Theo Điều 59, 60 Quy chế Toà án quốc tế, phán quyết đã được Toà án quốc
tế đưa ra mang tính chất tối hậu, không thể kháng cáo và có giá trị ràng buộc đối
với các bên tranh chấp. Phán quyết phải trình bày các luận cứ và tên các thẩm
phán tham gia phán quyết; các thẩm phán có ý kiến phản đối có quyền có ý kiến
viết riêng kèm theo phán quyết. Các phán quyết của Toà án quốc tế có ảnh
hưởng quan trọng đến quá trình phát triển các quy phạm của luật pháp quốc tế
(là phương tiện bổ trợ nguồn của Luật Quốc tế)

9


Về thực tiễn giải quyết tranh chấp, trong thực tiễn hoạt động của tòa đã có
148 vụ tranh chấp được đưa ra trước tòa (tính đến tháng 6 năm 2010), trong số
đó có khoảng 120 vụ tranh chấp đã được tòa xét xử. Bên cạnh các phán quyết,
ICJ đã đưa ra hơn 20 kết luận tư vấn. Riêng với các vụ tranh chấp liên quan đến
biển, Tòa án đã giải quyết được 27 vụ, bao gồm 21 phán quyết và 6 kết luận tư
vấn.
2. Tòa án quốc tế về luật biển.
Toà án Luật biển quốc tế thành lập ngày 1/8/1996 theo quy định của Phụ lục
VI về Quy chế của Toà án Luật biển kèm theo Công ước của Liên hợp quốc về
Luật biển năm 1982. Trụ sở chính của Toà đặt tại Thành phố Hamburg, Cộng
hòa Liên bang Đức, tuy nhiên, Tòa án có thể đặt trụ sở và thi hành các chức
năng ở nơi khác nếu xét thấy tiện lợi hơn.1 (Điều 1 Phụ lục VI Công ước)
Về tổ chức của Tòa án, được quy định tại Mục 1 Phụ lục VI Công ước. Cụ
thể, thành phần của Tòa án được quy định tại Điều 2 Phụ lục này:
ĐIỀU 2. Thành phần
1. Toà án là một tập thể gồm 21 thành viên độc lập, được tuyển chọn trong

số các nhân vật nổi tiếng nhất về công bằng và liêm khiết, có năng lực rõ ràng
trong lĩnh vực luật biển.
2. Thành phần của Toà án phải đảm bảo có sự đại điện của các hệ thống
pháp luật chủ yếu của thế giới và một sự phân chia công bằng về mặt địa lý.
Nội dung phụ lục quy định đầy đủ về nhiệm kỳ của các thành viên - 9 năm
và họ đều có quyền tái cử, ở cuộc bầu cử đầu tiên 7 người sẽ mãn nhiệm sau 3
năm, 7 người sẽ mãn nhiệm sau 6 năm và họ được chỉ định qua rút thăm do
Tổng thư ký Liên hợp quốc thực hiện ngay sau cuộc bầu cử đầu tiên. (Điều 5)
Theo nguyên tắc độc lập xét xử của thẩm phán thì một thành viên của Toà
không được đảm nhiệm bất kỳ một chức vụ chính trị - hành chính nào hay có bất
kỳ một sự liên quan nào về tài chính trong hoạt động khai thác vùng. Thành viên
của Toà cũng không được làm những nhiệm vụ như đại diện, cố vấn hay luật sư

1 Đại học Kiểm sát Hà Nội, Giáo trình Luật quốc tế, Hà Nội – 2015, tr.541

10


trong bất kỳ một vụ kiện nào. Một toà được coi là hợp lệ khi có đủ ít nhất 11
thành viên được bầu ngồi xử án. (Điều 13)
Về cơ cấu, Toà án Luật biển quốc tế bao gồm một Chánh án, một Phó Chánh
án do các thành viên của Toà bầu ra với nhiệm kỳ 3 năm và có thể tái đắc cử.
Toà bầu ra Thư ký của Toà và viên chức khác nếu thấy cần thiết. Trong thành
phần của Toà án Luật biển quốc tế còn có Viện giải quyết các vụ tranh chấp liên
quan đến đáy biển, bao gồm 11 thành viên do Toà lựa chọn trong số 21 thành
viên đã được bầu của Toà.
Về thẩm quyền của Tòa án, được quy định tại Mục 2 của Phụ lục.
Toà án Luật biển quốc tế có thẩm quyền giải quyết tranh chấp giữa các quốc
gia thành viên cũng như tất cả các thực thể khác không phải quốc gia thành viên
của Công ước trong tất cả các trường hợp liên quan đến việc quản lý và khai

thác Vùng - Di sản chung của nhân loại. Bên cạnh đó, Toà còn giải quyết các
tranh chấp liên quan đến việc giải thích và áp dụng Công ước trong lĩnh vực
thực hiện các quyền chủ quyền, quyền tài phán của quốc gia ven biển, quyền tự
do của quốc gia khác về hàng hải, hàng không, đặt dây cáp, ống dẫn ngầm, đối
với tài nguyên sinh vật thuộc vùng đặc quyền kinh tế.
Tranh chấp liên quan đến các thoả thuận khác cũng thuộc phạm vi thẩm
quyền giải quyết tranh chấp của Toà. Điều 22, Phụ lục VI Công ước quy định:
“Nếu được sự thoả thuận của tất cả các bên trong một hiệp ước hay một Công
ước đã có hiệu lực có quan hệ đến một vấn đề do Công ước đề cập, thì bất kỳ
tranh chấp nào liên quan đến việc giải thích hay áp dụng hiệp ước hoặc Công
ước đó có thể được đưa ra Toà án theo đúng như điều đã thoả thuận”. Chính vì
vậy mà Toà có thẩm quyền giải thích các quy định của điều ước quốc tế trong
lĩnh vực luật biển. Tuy nhiên, phạm vi thẩm quyền hẹp hơn so với Toà án Công
lý quốc tế (Điều 21, 22, 32 Phụ lục V).
Khi xét xử, Tòa án áp dụng các quy định của Công ước UNCLOS 1982,
đồng thời cũng có thể áp dụng các quy tắc khác của pháp luật quốc tế mà không
trái với các quy định của Công ước để giải quyết tranh chấp. Ngoài ra, trong
trường hợp các bên có thỏa thuận, Tòa án cũng có thể xét xử theo lẽ công bằng.
11


Về thủ tục xét xử, được quy định tại Mục 4 Phụ lục.
Toà án Luật biển quốc tế giải quyết tranh chấp thông qua hai thủ tục: thủ tục
toàn thể (bao gồm thủ tục viết và thủ tục tranh tụng công khai) và thủ tục rút
gọn. Thủ tục toàn thể đòi hỏi phải có mặt hầu hết các thẩm phán của Toà. Điều
13, Phụ lục VI Công ước quy định số thẩm phán cần thiết để mở phiên toà theo
thủ tục toàn thể là 11 thẩm phán. Trong những trường hợp, nếu thấy cần thiết
Toà có thể lập ra các Viện đặc biệt gồm ít nhất 3 thành viên được bầu để xét xử
một loại vụ kiện nhất định theo thủ tục rút gọn. Mỗi năm Toà còn lập ra một
viện gồm 5 thành viên được bầu để xét xử theo thủ tục rút gọn nhằm giải quyết

nhanh các vụ kiện.
Về giá trị phán quyết
Toà án Luật biển quốc tế thông qua phán quyết theo đa số. Nếu số phiếu
thuận và số phiếu chống ngang nhau thì lá phiếu của Chánh án hay người thay
Chánh án chủ toạ phiên toà là lá phiếu quyết định.
Cũng như phán quyết của Tòa án Công lý quốc tế, Phán quyết của Toà mang
tính chung thẩm có giá trị bắt buộc đối với tất cả các bên trong vụ tranh chấp và
đối với trường hợp đã được quyết định. Trong trường hợp có sự tranh cãi về ý
nghĩa và phạm vi của phán quyết thì Toà có trách nhiệm giải thích theo yêu cầu
của bất kỳ bên nào.
Một ví dụ về một tranh chấp giải quyết thông qua Tòa án quốc tế về Luật
Biển là vụ tàu Volga: Nga kiện Australia, Nga đòi Australia phải thả ngay tàu và
thuỷ thủ đoàn: Ngày 02/12/2002, Liên bang Nga đã đệ lên Toà án luật biển quốc
tế một đơn kiện (theo Điều 292 Công ước) về việc Australia phải phóng thích
ngay tàu Volga và 3 thành viên trên tàu. Tàu Volga bị bắt ngày 07/02/2002 bởi
quân đội Australia vì đánh cá trái phép ở trong phạm vi đánh cá của Australia.
Số cá trên tàu đã được Australia bán với giá khoảng 2 triệu Aư$. số tiền
Australia đòi để bảo lãnh tàu và thuỷ thủ đoàn là 4.177.500 AU$, trong khi đó
đơn kiện của Nga cho rằng mức bảo lãnh Australia đưa ra là không hợp lý,
không phù hợp với khoản 2 Điều 73 Công ước và Nga chỉ đồng ý với mức
không quá 900.000 AU$. Trong Quyết định ngày 02/12/2002, Chánh án Toà đã
12


quyết định ngày 12, 13/12/2002 là hai ngày diễn ra thủ tục nói. Phía Australia cử
Thẩm phán ad - hoc Shearer và Nga có Thẩm phán Klodkin trong thành phần
Toà. Trong phán quyết ngày 23/12/2002, Toà đã đồng ý rằng mức bảo lãnh mà
Australia đưa ra là không hợp lý và Toà cũng quyết định mức bảo lãnh là
1.920.000 AU$.1
3. Toà Trọng tài (An Arbitral Tribunal) được thành lập theo phụ lục VII

của Công Ước
Trọng tài quốc tế là một trong những thủ tục giải quyết giữa các bên tranh
chấp vượt ra khỏi phạm vi quốc gia thông qua một hoặc nhiều trọng tài viên mà
không phải đưa vụ tranh chấp ra trước tòa án.2
Tòa trọng tài (An Arbitral Tribunal) được thành lập theo Phụ lục VII là một
tòa trọng tài quốc tế có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp có liên quan đến
việc giải thích hay áp dụng Công ước (trừ những vụ kiện thuộc thẩm quyền của
Toà trọng tài đặc biệt)
Việc giải quyết tranh chấp thông qua Tòa trọng tài được thành lập theo phụ
lục VII của Công ước chỉ được áp dụng khi một bên trong tranh chấp lựa chọn
và đã có thông báo bằng văn bản cho bên còn lại (Điều 1 Phụ Lục VII). Ngoài
ra, cũng áp dụng Tòa trọng tài để giải quyết tranh chấp trong trường hợp các bên
tranh chấp không chấp nhận cùng một thủ tục để giải quyết tranh chấp và các
bên không có thỏa thuận khác (Điều 287 Công ước). Nói cách khác, Tòa trọng
tài là cơ chế duy nhất mà một bên có thể đơn phương khởi kiện, không cần sự
chấp thuận của bên còn lại.
Về danh sách trọng tài, được quy định tại Điều 2 Phụ lục VII. Danh sách
này do Tổng thư ký Liên hợp quốc lập ra. Mỗi quốc gia thành viên có thể chỉ
định bốn trọng tài có kinh nghiệm về những vấn đề biển và nổi tiếng nhất về sự
công bằng, về năng lực và liêm khiết.
Về thủ tục thành lập Tòa trọng tài, Tòa trọng tài được thành lập gồm 5 thành
viên. Trong đó, nguyên đơn và bị đơn trong vụ kiện, mỗi bên được quyền cử ra
một thành viên, thành viên này có thể là công dân của các nước trong tranh
1 TS. Nguyễn Hồng Thao, Tòa án Quốc tế về luật Biển, NXB Tư Pháp Hà Nội – 2006, tr.395
2 Đại học Kiểm sát Hà Nội, Giáo trình Luật quốc tế, Hà Nội – 2015, tr.526.

13


chấp. Ba thành viên còn lại do các bên thỏa thuận lựa chọn trong số các trọng tài

viên là công dân của các quốc gia thứ ba. (Điều 3 Phụ lục VII Công Ước).
Về giá trị bản án của Tòa trọng tài, bản án có tính chất tối hậu và không
được kháng cáo, trừ khi các bên trong vụ tranh chấp phải tuân theo bản án này
(Điều 11 Phụ lục VII Công Ước). Ngoài ra, sau khi đã ra bản án, Tòa trọng tài
vẫn tiếp tục hoạt động với nhiệm vụ giải thích bản án hay cách thi hành bản án
nếu xảy ra tranh cãi (Điều 12 Phụ lục VII Công Ước)
Ví dụ: Vụ Cá ngừ vây xanh miền Nam giữa Úc – New Zealand – Nhật Bản.
Tranh chấp liên quan đến cá ngừ vây xanh biển phía Nam. Australia và New
Zealand kiện Nhật Bản, yêu cầu Toà đưa ra biện pháp bảo đảm tạm thời. Ba
nước này đều là thành viên của Công ước năm 1993 về bảo tồn loài cá ngừ vây
xanh phía Nam. Năm 1998, Nhật Bản tiến hành đánh bắt cá thử nghiệm. Đối với
việc đánh bắt này, Austraulia và New Zealand cho ràng đó thực chất là hoạt
động đánh bắt nhằm mục đích thương mại và sẽ ảnh hưởng xấu đến đàn cá ngừ.
Hai nước này sau đó đã gửi đơn riêng rẽ lên Tòa. Cuối cùng, Tòa trọng tài đã
hợp nhất hai vụ kiện và áp dụng Điều 290 của Công ước để đưa ra 6 biện pháp
bảo đảm tạm thời trong Quyết định ngày 27/8/1999: Các bên không được có
hành động gì làm tranh chấp trầm trọng thêm; Các bên ngăn không để có hành
động gì phương hại đến việc thực hiện một phán quyết dựa trên lẽ phải; Các
bên vẫn giữ mức đánh bắt cũ; Các bên hoãn ngay các chương trình đánh bắt
thử nghiệm, trừ khi có sự đồng ý của các bên còn lại; Các bên phải nối lại đàm
phán; Các bên phải nỗ lực hơn trong việc thoả thuận với các nước khác cùng
đánh bát cá ngừ vây xanh phía Nam.1
Vụ kiện Trung Quốc – Philippines cũng là một ví dụ điển hình cho việc lựa
chọn giải quyết các tranh chấp về biển thông qua Tòa trọng tài này. Dẫn từ thời
báo kinh tế Sài Gòn online “Sau phê chuẩn của Phillipnies vào năm 1984, Trung
Quốc cũng đã tham gia và trở thành thành viên của UNCLOS từ năm 1996. Với
thực tế pháp lý này, Toà Trọng tài sẽ có thẩm quyền xem xét đơn kiện của
Philippines theo quy định được nêu ra trong Phụ lục VII của UNCLOS, và thủ
tục xét xử vẫn có thể tiếp tục diễn ra ngay cả khi ‘một trong số các bên trong vụ
1 TS. Nguyễn Hồng Thao, Tòa án Quốc tế về luật Biển, NXB Tư Pháp Hà Nội – 2006, tr.390


14


tranh chấp không ra Toà hoặc không trình bày các lý lẽ của mình’ (Điều 9 Phụ
lục VII). Vì vậy, việc Trung Quốc không tham gia và tuyên bố không công nhận
phán quyết của Toà không đủ sức ngăn chặn công việc của Toà và cũng không
thể loại trừ nghĩa vụ thi hành phán quyết sau này của Trung Quốc1.” Vụ kiện này
đã thể hiện thẩm quyền của Tòa trọng tài trong giải quyết tranh chấp mà không
cần sự thỏa thuận từ cả hai bên trong tranh chấp.
4. Toà Trọng tài đặc biệt (A Special Arbitral Tribunal) được thành lập
theo phụ lục VIII của Công Ước
Toà trọng tài đặc biệt được quy định tại Phụ lục VIII của Công ước luật biển
1982. Toà trọng tài đặc biệt được lập ra với nhiệm vụ giải quyết các tranh chấp
trong từng lĩnh vực riêng biệt liên quan đến việc giải thích hay áp dụng các
điều khoản của công ước Luật biển liên quan đến: việc đánh bắt hải sản; việc
bảo vệ và gìn giữ môi trường biển; việc nghiên cứu khoa học biển hoặc hàng
hải, kể cả nạn ô nhiễm do các tàu thuyền hay do nhấn chìm…
Bởi vì giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực riêng biệt nên đòi hỏi quan trọng
nhất về tiêu chuẩn đối với trọng tài viên đặc biệt là kiến thức chuyên môn trong
các lĩnh vực cụ thể nêu trên. Danh sách các chuyên gia có thể làm trọng tài viên
cho Toà trọng tài đặc biệt do các tổ chức chuyên môn hữu quan thiết lập và lưu
giữ. Toà trọng tài đặc biệt còn được Công ước cho phép thực hiện các chức năng
điều tra và đưa ra các khuyến nghị theo yêu cầu của tất cả các bên tranh chấp
Toà trọng tài đặc biệt này có sự đóng góp đáng kể của các tổ chức quốc tế có
thẩm quyền chuyên môn trong từng lĩnh vực, như Tổ chức hàng hải quốc tế
(IMO), Tổ chức lương thực và nông nghiệp của Liên hợp quốc (FAO), Chương
trình của Liên hợp quốc về môi trường (UNEF)… Khi có tranh chấp phát sinh,
dựa trên danh sách các chuyên viên đã được lập, một hội đồng trọng tài đặc biệt
sẽ được thành lập, gồm 5 thành viên. Mỗi bên tranh chấp có quyền lựa chọn hai

chuyên viên tham gia hội đồng trọng tài. Chủ tịch hội đồng trọng tài do các bên
thoả thuận cử ra.2
1 Tham khảo />2 Nguyễn Bá Diến, Nguyễn Hùng Cường; Cơ chế giải quyết tranh chấp trên biển theo Công ước Luật
biển 1982, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 25 (2009)

15


Về thủ tục giải quyết tranh chấp và giá trị bản án của Tòa trọng tài đặc biệt
được dẫn chiếu sang Phụ lục VII tương ứng với các quy định về Tòa trọng tài.
Như vậy, việc giải quyết tranh chấp của Tòa trọng tài đặc biệt có thủ tục tương
tự như đối với Tòa trọng tài, và bản án của Tòa trọng tài đặc biệt cũng mang tính
tối hậu, các bên tranh chấp không được quyền kháng cáo và phải tuân theo bản
án này.
IV. Vấn đề áp dụng các biện pháp giải quyết tranh chấp theo Công ước
trong tranh chấp ở Biển Đông.
Tranh chấp ở biển Đông hiện là một trong những vấn đề nổi cộm nhất, một
vấn đề nóng trên toàn cầu và dần trở thành tâm điểm chú ý của cả thế giới trong
những năm gần đây. Hiện nay, tại Biển Đông đang tồn tại 4 khu vực tranh chấp
là: tranh chấp quần đảo Hoàng Sa (giữa Việt Nam và Trung Quốc); tranh chấp ở
Vịnh Thái Lan (giữa Việt Nam, Campuchia và Thái Lan); tranh chấp tại hai quần
đảo Đông Sa và Trung Sa (giữa Trung Quốc và Đài Loan); tranh chấp tại quần
đảo Trường Sa giữa 5 nước 6 bên (giữa Việt Nam, Trung Quốc, Philippines,
Malaysia, Brunei và Đài Loan).1
Trong các tranh chấp ở Biển Đông, tranh chấp chủ quyền tại quần đảo
Trường Sa là phức tạp, quyết liệt và liên quan đến nhiều bên nhất. Việt Nam,
Trung Quốc và Đài Loan đều tuyên bố chủ quyền trên toàn bộ quần đảo. Trong
khi Brunei, Malaysia và Philippines tuyên bố chủ quyền nhiều phần.
Cùng với sự phức tạp do số lượng quốc gia tham gia tranh chấp, diễn biến
tranh chấp cũng đang dần trở nên căng thẳng đặc biệt khi hai năm qua liên tục

xảy ra nhiều sự kiện nổi bật như Philippins kiện Trung Quốc ra Tòa trọng tài vì
tranh chấp biển Đông, việc Trung Quốc hạ đặt giàn khoan HD-981 vào vùng
biển của Việt Nam, các vụ va chạm và suýt va chạm giữa tàu của Trung Quốc,
Việt Nam và Philippins, và việc Trung Quốc nhận diện cũng như cảnh báo máy
bay của Mỹ và Philippins không được bay vào những “khu vực an ninh quân sự”
của mình.2
1 Tham khảo tại />2 Theo Jay L. Batongbacal, Đánh giá thêm về Cơ chế giải quyết tranh chấp theo phần XV của UNCLOS
và Tranh chấp biển Đông, Hội thảo Các vấn đề Biển và Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển (UNCLOS).

16


Đánh giá về khả năng sử dụng các cơ chế giải quyết tranh chấp theo Công
Ước, Jay L. Batongbacal3 trong Hội thảo Các vấn đề Biển và Công ước Liên
Hợp Quốc về Luật biển (UCNLOS): Chia sẻ cách Tiếp cận của Châu Âu và
Châu Á đối với Tranh chấp Lãnh Thổ do Học viện Ngoại giao tổ chức với sự hỗ
trợ của Liên minh Châu Âu đã nhận định: Khả năng sử dụng các cơ chế giải
quyết tranh chấp bắt buộc của Phần XV (Công ước 1982) giới hạn trong phạm vi
khá hẹp do tính chất và số lượng các giới hạn và ngoại lệ đối với việc áp dụng.
Vì vậy, ngay cả khi tất cả các quốc gia ven biển làm rõ và sử dụng nguyên tắc
đồng nhất đối với các vùng biển, việc áp dụng Phần XV vẫn chủ yếu thuộc vào
các phương thức không bắt buộc (đàm phán, hòa giải, …). Tuy nhiên, số ít
những lựa chọn pháp lý còn lại vẫn có thể được sử dụng để giải quyết vấn đề
dân sự quan trọng nhất hiện nay, đó là các vụ đâm va và đơn phương đặt hạ giàn
khoan […]
Như vậy, đối với việc các tranh chấp trên biển, cùng với nguyên tắc hòa bình
giải quyết các tranh chấp được quy định trong Hiến chương Liên Hợp Quốc,
Việt Nam cần thiết phải thực hiện các biện pháp để bảo vệ chủ quyền biển đảo
các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Việt Nam là nước có xác lập và thực thi chủ
quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa từ thế kỷ XVII đến nay bằng các

hành vi thực tế, phù hợp với nguyên tắc, quy định của pháp luật quốc tế. Yêu
sách của Trung Quốc, Philippines, Malaysia, Brunei đối với quần đảo Hoàng Sa,
Trường Sa không có cơ sở pháp lý xác đáng. Hơn thế, với đặc điểm địa hình dài
và hẹp trải dọc theo Biển Đông, vì thế Biển Đông trở thành "lá chắn sườn phía
Đông" hết sức quan trọng trong phòng thủ đất nước. Lịch sử chống ngoại xâm
thời cận và hiện đại của dân tộc Việt Nam đã cho thấy Biển Đông là hướng hiểm
yếu mà ngoại bang luôn lợi dụng tấn công xâm lược. Vì vậy, yêu cầu đảm bảo
chủ quyền trên Biển Đông là điều kiện tiên quyết đặc biệt quan trọng nhưng
cũng hết sức phức tạp. Trước những động thái gần đây của Trung Quốc, cũng
như trên cơ sở phán quyết của Tòa trọng tài trong vụ kiện Philippins – Trung
Quốc, nước ta cần thiết xem xét đến việc giải quyết tranh chấp trên biển Đông
với Trung Quốc thông qua một cơ quan tài phán được quy định trong Công ước
Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982.
3 Giáo sư Đại học Luật thuộc Đại học Philippines; Giám đốc Viện Các Vấn đề Biển & Luật Biển, Trung
tâm Luật pháp Đại học Philippines

17


Trên cơ sở phân tích các cơ quan tài phán, trong đó chú ý thẩm quyền đặc
biệt của Tòa trọng tài là cơ chế duy nhất mà một bên có thể đơn phương khởi
kiện, không cần sự chấp thuận của bên còn lại, Toà trọng tài được xem là thiết
chế tài phán quốc tế mang tính khả thi nhất hiện nay mà Việt Nam có thể lựa
chọn cho việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến những yêu sách vô lý và
những hành vi trái pháp luật quốc tế của Trung Quốc, phù hợp với tính chất
phức tạp của các tranh chấp và phù hợp với lập trường “không giống ai” của
Trung Quốc tại khu vực biển này.1

C. PHẦN KẾT LUẬN
Tóm lại, các quy định về thủ tục bắt buộc dẫn tới các quyết định bắt buộc,

tức hệ thống giải quyết tranh chấp bằng tài phán theo Công Ước, bao gồm bốn
cơ quan tài phán: Tòa án Công lý quốc tế, Tòa án quốc tế về luật biển, Tòa trọng
tài được thành lập theo phụ lục VII và Tòa trọng tài đặc biệt. Mặc dù hệ thống
các thủ tục bắt buộc này nhằm ràng buộc các quốc gia với nghĩa vụ giải quyết
hoà bình các tranh chấp quốc tế và cung cấp cơ chế giải quyết tranh chấp ngay
cả trong trường hợp các thủ tục không bắt buộc không thành công, nó vẫn đảm
bảo chủ quyền quốc gia trong việc lựa chọn và sử dụng các phương thức giải
quyết tranh chấp. Và đối với việc áp dụng hệ thống giải quyết tranh chấp vào
các tranh chấp ở biển Đông, hi vọng Việt Nam sẽ sớm có những biện pháp đúng
đắn trên cơ sở Công ước 1982 để bảo vệ chủ quyền biển đảo đất nước.

1 Đào Thị Thu Hường, Trao đổi: Việt Nam và phương án sử dụng Tòa trọng tài theo phụ lục VII Công ước
luật biển 1982 trước những yêu sách của Trung Quốc tại biển Đông, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tập
32, Số 2 (2016)

18


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hiến chương Liên Hợp Quốc 1945;
2. Công Ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982;
3. Quy chế Tòa án Quốc tế STATUTE OF THE INTERNATIONAL COURT
OF JUSTICE;
4. Đại học Kiểm sát Hà Nội, Giáo trình Luật quốc tế, Hà Nội – 2015;
5. Nguyễn Hồng Thao (2006), Tòa án quốc tế về Luật biển, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội;
6. Nguyễn Bá Diến, Nguyễn Hùng Cường; Cơ chế giải quyết tranh chấp trên
biển theo Công ước Luật biển 1982, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 25
(2009);
7. Đào Thị Thu Hường, Trao đổi: Việt Nam và phương án sử dụng Tòa trọng

tài theo phụ lục VII Công ước luật biển 1982 trước những yêu sách của Trung
Quốc tại biển Đông, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tập 32, Số 2
(2016);
8.

/>
icj/

19



×