Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

tiểu luận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.47 KB, 19 trang )

TIỂU LUẬN:
TÍNH TỪ CHỈ MÀU SẮC QUA TRUYỆN NGẮN “PHẤN THÔNG VÀNG”
TRONG TẬP TRUYỆN NGẮNCÙNG TÊN CỦA TÁC GIẢ XUÂN DIỆU

PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Mỗi một thành quả lao động được tạo ra chính là đứa con tinh thần chất
chứa bao tâm huyết, sức sực, là sự cộng hưởng của tất cả các yếu tố chủ quan,
khách quan. Một tác phẩm văn chương ra đời cũng vậy, đứa con tinh thần ấy ra
đời thì trước đó là thời gian nung nấu và và một quá trình chắt chiu, tâm huyết
của nhà văn. Tuy nhiện mỗi khi tìm hiểu về cái hay cái đẹp của một tác phẩm
văn học, người ta vẫn thường chỉ chú ý đến nội dung, kết cấu, nhịp điệu, biện
pháp tu từ… mà ít ai chú ý đến vấn đề sử dụng từ loại hay nội hàm của lớp từ
loại bất kỳ, mặc dù rõ ràng ngữ pháp mới chính là rường cột của tác phẩm.
Trong đó vấn đề lựa chọn , sử dụng và sắp xếp từ loại là việc mà tác giả mất rất
nhiều công sức.
Trong sáng tác văn học, sự muôn màu muôn vẻ của hệ thống từ loại đã
làm cho người đọc và người viết có cảm nhận đầy thú vị và có nhiều ý kiến khác
nhau về từ loại. Một trong những từ loại quan trọng mà xung quanh nó có nhiều
ý kiến đó chính là tính từ. Và trong sự đa dạng của tính từ, ta thấy nổi bật lên
một lớp từ- lớp tính từ chỉ màu sắc. Từ trước tới nay người ta vẫn có thói quen
chấp nhận lớp từ này như một sự tất nhiên. Nó được sinh ra để diễn tả lại những
sắc màu của cuộc sống bằng ngôn ngữ. Nhưng nếu dừng lại một chút ta sẽ thấy
lớp từ này lung linh và có nhiều ý nghĩa biết bao. Người viết có cảm giác tính từ
chỉ màu sắc như một bà bà tiên bày trí căn phòng lộng lẫy, tái hiện lại thế giới
muôn màu muôn vẻ cho thế giới trẻ thơ thỏa sức ngắm nhìn.
Quả vậy, dù vô tình hay hữu ý thì trong mỗi tác phẩm văn học lớp tính từ
chỉ màu sắc đã chiếm một vị trí nhất định. Hầu hết các tác phẩm văn học đếu sử
dụng tính từ nói chung và lớp tính từ chỉ màu sắc nói riêng. Với truyện ngắn
“Phấn thông vàng” nằm trong tập truyện ngắn cùng tên của tác giả Xuân Diệu là
truyện ngắn đầu tiên trong 15 truyện ngắn của tập truyện cùng tên vô cùng hấp


dẫn bạn đọc, mỗi tác phẩm ra đời ông đều rất linh hoạt và chắt lọc trong việc lựa
chọn lớp từ loại. Bởi vậy em lựa chọn nội dung tìm hiểu về lớp từ loại tính từ
chỉ màu sắc trong tác phẩm truyện ngắn Phấn thông vàng của tác giả Xuân Diệu,
hi vọng có thêm được sự hiểu biết, học hỏi và đi sâu hơn về lĩnh vực ngôn ngữ,
đồng thời góp chút hiểu biết vào việc tìm hiểu những vấn đề ngữ pháp Việt Nam
để giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt.
1


II. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Tính từ là một từ loại hấp dẫn mà trước tới nay luôn thu hút sự chú ý của
các nhà ngôn ngữ học và những ai lưu tâm đến vấn đề ngôn ngữ. Từ trước tới
nay đã có nhiều công trình nghiêm cứu về đề tài này và hầu như trong tất cả các
công trình nghiên cứu này đều coi tính từ chỉ màu sắc là một bộ phận nhỏ của
tính từ trong cách phân loại mà tôi, còn việc nghiên cứu toàn diện về nó thì còn
ít. Tính từ chỉ màu sắc trong truyện ngắn Phấn thông vàng của Xuân Diệu cũng
vậy. Vậy nên có thể coi đây là vấn đề mới lạ và độc đáo. Nếu chủ động khai thác
sẽ hứa hẹn nhiều kết quả thú vị và bổ ích.
III. ĐỐI TƯỢNG, MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU.
Đối tượng nghiên cứu của tiểu luận chính là nghiên cứu các lớp tính từ chỉ
màu sắc trong truyện ngắn Phấn thông vàng của Xuân Diệu ( một trong 15
truyện ngắn của tập truyện ngắn cùng tên của tác giả), qua đó làm nổi bật lên ý
nghĩa và giá trị của chúng trong tác phẩm cũng như thấy được tài năng của Xuân
Diệu trong việc vận dụng tính từ chỉ màu sắc.
Thông qua việc tìm hiểu tính từ chỉ màu sắc trong truyện ngắn của Xuân
Diệu, bản thân hi vọng sẽ bổ sung được lượng kiến thức vô cùng quý báu và cần
thiết trong việc học tập nói riêng và cuộc sống nói chung. Ngoài ra bản thân em
cũng mong đóng góp một phần hiểu biết của mình về lớp tính từ chỉ màu sắc
trong tập truyện ngắn Phấn Thông Vàng của Xuân Diệu để cùng mọi người có
cái nhìn toàn diện về lớp từ này trong hệ thống từ loại tiếng Việt nói chung và

cách sử dụng trong các tác phẩm văn chương nói riêng.
IV. PHẠM VI NGHIÊN CỨU.
Hệ thống tính từ khá độ sộ và phong phú, do đó em không thể nào
tìm hiểu được hết về các loại tính từ được mà chỉ có thể đi sâu tìm hiểu về
tính từ chỉ màu sắc. Để tìm hiểu về loại tính từ này em sẽ đi vào nghiên cứu một
tác phẩm của một tác giả cụ thể để cho ta thấy rõ hơn về đặc điểm, chức năng, ý
nghĩa cũng như giá trị của loại tính từ trên. Tác phẩm mà người viết muốn đề
cập chính là truyện ngắn Phấn thông vàng, truyện ngắn thứ nhất trong tập truyện
ngắn cùng tên của Xuân Diệu.
V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
Nhằm góp phần đi tìm vẻ đẹp của lớp tính từ chỉ màu sắc trong truyện
ngắn của Xuân Diệu, người viết đã tìm đọc các truyện ngắn của ông đông thời
tìm những tài liệu liên quan đến vấn đề đang tìm hiểu.Không chỉ như vậy trong
bài nghiên cứu này, người viết còn sử dụng các biện pháp đã được học như liệt
kê, chứng minh, phân tích tổng hợp, so sánh, và thống kê, phân loại để làm bật
lên vấn đề nghiên cứu.

2


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT VỀ TỪ LOẠI TÍNH TỪ
1. Tính từ.
1.1.Khái niệm về từ loại tính từ.
Có rất nhiều quan niệm hác nhau về tính từ trên cở nghiên cứu của nhiều
nhà nghiên cứu, nhưng có thể tóm lại:
Tính từ là từ chỉ màu sắc, tính chất, đặc trưng của người, sự vật, sự việc,
hiện tượng.
1.1.2. Đặc điểm,chức năng ngữ pháp

* Đặc điểm
Về đặc điểm ngữ pháp có nhiều nét giống động từ, chẳng hạn như:
- Tính từ có thể kết hợp với các phó từ : đã, đang, sẽ.
VD: Đã đẹp, đang đẹp, sẽ đẹp
-Tính từ có thể kết hợp với các phó từ : vẫn, còn, cứ.
VD : Vẫn đau, còn đau, cứ đau.
- Một số có thể kết hợp với các phó từ: hãy, đừng, chớ.
VD : Hãy vui lên, đừng sợ sệt, chớ lo âu.
Tính từ kết hợp phổ biến với các phó từ chỉ mức độ : rất, hơi, quá, cực kì, vô
cùng..nhiều hơn động từ.
VD : rất vui, hơi vui, quá vui, cực kì vui, vô cùng vui.
* Chức năng tính từ
- Trước hết tính từ đó làm định ngữ trong câu là chức năng phổ biến nhất.
VD : Cái khăn này có nhiều hoa văn.
- Một chức năng nổi bật khác của tính từ làm vị ngữ trong câu.
VD : Chiếc áo đó thật đẹp.
- Ngoài hai chức năng nổi bật trên thì tính từ làm chủ ngữ trong câu, dù khá
hạn chế.
VD : Tốt gỗ hơn tốt nước sơn.
1.1.3. Phân loại tính từ
Phân định từ loại là một nhu cầu của nhận thức, một yêu cầu khách quan
của ngữ pháp học. Đòi hỏi chúng ta phải biết rõ quy luật hoạt động ngữ pháp
3


của từng từ và phân loại theo những nguyên tắc mà mọi người công nhận. Quá
trình phân loại vốn từ tiếng Việt được tiến hành qua nhiều bước, nhiều bật. Từ
cái nhìn bao quát về các lớp từ tiếng Việt đến việc phân định thành các phạm trù
từ loại, các tiểu loại, các nhóm trong từ loại. Vốn tiếng Việt có thể phân chia
thành hai mảng lớn là thực từ và hư từ.

Từ hai mảng lớn trên ta sẽ phân loại thành nhiều mảng nhỏ hơn nhằm tạo
nên sự dễ dàng khi khảo sát chúng.
Trong hệ thống thực từ thì việc phân loại tính từ ít phức tạp hơn so với
động từ và danh từ. Do tiêu chuẩn được vận dụng để phân loại từ chưa đủ sức
bao quát nên ranh giới giữa các lớp từ khó được xác định rõ ràng và chính xác.
Nhìn vào các công trình nghiên cứu của các nhà ngôn ngữ học ta thấy mỗi người
có một cách phân loại khác nhau. Trong bài viết này người viết xin dựa vào cách
phân loại của Diệp Quang Ban và Hoàng Văn Thung trong Ngữ pháp Tiếng Việt
I, đó là tính từ có thể phân thành hai lớp : Lớp tính từ chỉ đặc trưng xác định
thang độ và lớp tính từ không xác định thang độ.
1.1.3.1. Tính từ chỉ đặc trưng không xác định thang độ
Đây là lớp tính từ chỉ đặc trưng không biểu thị ý nghĩa tự thân. Đặc
điểm nổi bật là chúng thường kết hợp với các phụ từ chỉ ý nghĩa thang độ như :
rất, hơi, quá, lắm, cực kì … hoặc kết hợp với thực từ chỉ hàm ý chỉ ý nghĩa thang
độ.
Tính từ chỉ đặc trưng không xác định thang độ gồm :
- Những từ chỉ phẩm chất : tốt, đẹp, khéo, trái, phải, dũng cảm...
VD : Các chiến sĩ công an vô cùng dũng cảm.
- Những từ chỉ đặc trưng về số lượng : nhiều, ít, ngắn, dài, cao, thấp...
VD : Đêm nay bầu trời nhiều sao quá !
- Những tính từ chỉ đặc trưng cường độ : nóng, lạnh, sáng, tối, lạnh lẽo...
VD : Mùa đông năm nay lạnh quá.
- Những tính từ chỉ dặc trưng hình thể : mập, ốm, gầy, béo, tròn, thẳng,
cong...
VD : Cu Bo nhà mình béo quá!.
- Những tính từ chỉ đặc trưng màu sắc : xanh, đỏ, vàng, lục, lam, đậm,
nhạt…
VD : Phượng nở đỏ rực sân trường.
- Những tính từ chỉ đặc trưng âm thanh : im lặng, lặng lẽ, ồn ào, náo nhiệt,
lao xao..

VD : Phố thị vô cùng náo nhiệt.
- Những tính từ chỉ đặc trưng mùi vị : Đắng, cay, ngọt, bùi, chua, mặn,
thơm, hôi...
4


VD : Thuốc đắng dã tật !
1.1.3.2. Tính từ chỉ đặc trưng xác định thang độ.
Lớp từ này biểu thị đặc trưng đồng thời biểu thị thang độ đặc trưng trong
ý nghĩa tự thân, thường là ở mức tuyệt đối. Chúng không kết hợp với các phụ từ
chỉ mức độ như : rất, hơi, quá..Và không cần thực từ đi kèm để bổ nghĩa.
Tính từ chỉ đặc trưng xác định thang độ gồm:
- Chỉ đặc trưng tuyệt đối làm thành cặp đối lập : Số lượng trong nhóm từ
này rất hạn chế, nó chỉ có các từ riêng, chung, công, tư, chính, phụ, độc nhất,
công cộng.
Chúng thường đi kèm để bổ nghĩa cho danh từ, động từ.
VD : Lan là con riêng của bố Sơn..
- Chỉ đặc trưng tuyệt đối không làm thành cặp đối lập : Các từ trong nhóm
này thường là từ láy hoặc từ ghép : đỏ lòm, trắng phao, đen sì, xanh mượt, đo
đỏ, vàng vàng.. Ý nghĩa đặc trưng tự thân ở thang độ tuyệt đối, không được đặt
vào thế đối lập so sánh. Không kết hợp với phụ từ chỉ mức độ.
VD : Mây đen kéo đến đen sì..
- Chỉ đặc trưng mô phỏng : Các từ có cấu tạo ngữ âm theo lối mô phỏng
trực tiếp đặc trưng âm thanh hoặc theo lối biểu trưng âm-nghĩa, mô phỏng gián
tiếp đặc trưng hình thể của sự vật, hành động, tính chất : lom khom, róc rách, rì
rào..
VD: Tiếng suối chảy róc rách.
1.1.3.3. Tính chất đặc biệt của lớp từ mô phỏng.
Đây là lớp từ có tính chất đặc biệt về mặt cấu tạo, ý nghĩa khái quát từ
vựng – ngữ pháp, hoạt động ngữ pháp và giá trị phong cách sử dụng trong ngôn

ngữ. Lớp từ này có vỏ ngữ âm mô phỏng lối trưc tiếp (tượng thanh) hoặc mô
phỏng theo lối gián tiếp (tượng hình).
Một số mô phỏng có đặc trưng danh từ : cheo cheo, bìm bịp... (chỉ loài
vật), cút kít, bình bịch,... (chỉ đồ vật), chút chít... (chỉ cây cối). Một số khác có
đặc trưng động từ: hì hụt, bốp chát... Những từ trên đã đi vào các lớp từ một
cách bình thường xét theo các đặc trưng từ loại của chúng.
Căn cứ vào cấu tạo, các từ mô phỏng thường có cơ chế láy âm nên ranh
giới giữa từ mô phỏng với từ láy đích thực rất khó xác định. Nhưng nhìn chung,
có thể xếp đại bộ phận từ mô phỏng vào tính từ (ngoài những từ đã có vị trí ổn
định trong danh từ và động từ).
1.1.4. Vị trí.
Tính từ đứng sau động từ và danh từ để bổ sung ý nghĩa.
VD : Thời tiết hôm nay mát quá !
Hôm nay tôi buồn lắm !
5


Tuy nhiên,trong một số trường hợp tính từ có thể đặt trước một tiếng
chính danh từ,động từ). Đây là dụng ý của người nói, người viết nhằm chú ý
người đọc, người nghe chú ý vào trạng thái tiếng chính của mình.
VD : Tiếng mưa tí tách rơi.
Vì vậy trong tiếng Việt, khi tính từ đặt trước danh từ, động từ, động từ là
để nhấn mạnh vào tính từ nhằm tạo sự thuyết phục và thu hút đối với người tiếp
nhận.
1.2. Tính từ chỉ màu sắc
1.2.1. Khái niệm .
Từ những phân tích vừa nêu trên ta có thể rút ra khái niệm như sau : “
Tính từ chỉ màu sắc là lớp từ biểu thị tính chất đặc trưng về màu sắc của sự
vật,hiện tượng”.
1.2.2. Phân loại .

Tính từ chỉ màu sắc được chia làm hai lớp.
1.2.2.1. Tính từ chỉ màu sắc không xác định thang độ
Là lớp từ mang ý ngĩa tương đối về đặc trưng, tính chất. Đây là lớp từ
được đánh giá theo thang độ nên ta có thể so sánh,phân biệt cường độ của nó.
Tính từ chỉ màu sắc không xác định thang độ chiếm số lượng khá ít gồm :
xanh, đỏ, tím, vàng, đen, nâu,hồng..
VD : Cánh đồng lúa chín màu vàng.
1.2.2.2. Tính từ chỉ màu sắc xác định thang độ
Lớp từ này mang ý nghĩa tuyệt đối về đặc trưng, tính chất. Đây là lớp từ
không được đánh giá theo thang độ.
Số lượng tính từ chỉ màu sắc xác định thang độ chiếm rất nhiều, nó gồm
các từ chỉ màu sắc như sau :
- Trắng : Trắng tinh, trắng nõn, trắng toát, trắng nhợt, trắng xóa, trắng ngần,
trắng phau.
- Đen : Đen đúa, đen sì, đen bóng, đen thui..
- Đỏ : đỏ thắm,đỏ rực, đỏ bừng , đỏ ửng, đỏ tía, đỏ gay ,đỏ ối, đỏ tươi, đỏ sẫm..
- Vàng : vàng rực, vàng tươi, vàng hực, vàng ươm..
- Xanh : xanh um, xanh thẫm, xanh ngắt, xanh xanh, mơn mởn..
- Tím : tím thẫm, tím nhạt, tím ngắt..
- Xám : xám xịt, xám nhạt, xám ngoét..
- Nâu : nâu nhạt..
- Hồng : hồng thắm, hồng nhạt..
Những yếu tố phía sau của những từ trên như : xóa, rực, biếc, thẫm... đã hàm
6


chứa tính chất, đặc trưng xác định ở mức tuyệt đối. Khác với từ láy thông
thường, sự lặp đi lặp lại những âm tiết này còn có tác
dụng làm tăng mức độ của tính chất, đặc trưng. Chẳng hạn như : xanh biên
biếc,vàng hừng hực..

Cần chú ý đến những từ này, bởi ngoài giá trị sở chỉ, chỉ ra đặc trưng
của sự vật, hiện tượng mà dường như mỗi từ lại còn gắn với một sự vật nhất
định. Chúng còn có tác dụng tạo hình ảnh, biểu cảm và bộc lộ thái độ cách đánh
giá của người nói, cho nên chúng vừa có tác dụng miêu tả, gợi cảm vừa có giá trị
thẩm mĩ.
VD : Đám mây đen ( + )
Đám mây đen sì ( + )
Đám mây đen kịt ( - )
Ngoài ra, trong lớp tính từ chỉ màu sắc xác định thang độ còn có một lớp
từ.
mang tính chất biểu thị đặc trưng màu sắc của sự vật. Bao gồm : màu cánh kiến,
màu hột gà, màu huyết, màu cà phê sữa, màu xanh lá cây, xanh đọt chuối, màu
gạch.. Lớp từ này được cấu tạo thông qua việc so sánh với một sự vật, hiện
tượng có màu sắc tương đồng với nó, lớp từ này được dùng trong đời sống sinh
hoạt hằng ngày. Khi ta tiếp nhận lớp tính từ này ta sẽ biết được đặc trưng của
người sử dụng nó. Đó có thể là người miền Trung, Nam hay Bắc Bộ tùy vào
cách họ sử dụng. Bởi những sự vật, hiện tượng mà họ so sánh là đặc trưng của
quê hương họ.
1.2.3. Đặc điểm, chức năng ngữ pháp
* Đặc điểm
Có 2 lớp tính từ chỉ màu sắc không xác định thang độ và xác định thang độ.
- Tính từ chỉ màu sắc không xác định thang độ
Có thể kết hợp với các phụ từ chỉ mức độ như : rất, thật, lắm, hơi, vô cùng..
Ngoài ra chúng còn có thể tạo nên những cấu trúc so sánh như :
+ Đen như gỗ mun.
+ Trắng như bông.
- Tính từ chỉ màu sắc xác định thang độ
Lớp từ này không thể kết hợp với phụ từ chỉ mức độ. Nếu trường hợp sử dụng
từ “ rất” đi kèm như “ rất xanh biếc” thì từ “rất” chỉ có tác dụng biểu thái, nhấn
mạnh mang màu sắc phong cách học ngữ pháp chứ không đánh giá theo thang

độ, không có tác dụng so sánh.
* Chức năng ngữ pháp
7


- Làm định ngữ:
VD : Cái áo vàng này không đẹp.
- Làm vị ngữ:
VD : Nước da trắng ngần.
- Làm chủ ngữ:
VD : Đỏ là gam màu nóng.
Tuy vậy, tính từ chỉ màu sắc khác với tính từ khác là nó không thể kết hợp với
động từ được.
Qua đây chúng ta thấy rằng với một số lượng khá lớn trong vốn từ vựng, tính
từ có vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức, cấu tạo câu của Tiếng Việt. Càng
đi sâu ta càng khám phá được nhiều điều hay và thú vị của tính từ. Vì vậy ta
không thể nào phủ nhận vai trò của từ loại này. Bởi nó đã góp phần làm tăng vốn
từ vựng, phong phú thêm khả năng biểu đạt của từ Tiếng Việt.

CHƯƠNG II
TÍNH TỪ CHỈ MÀU SẮC TRONG TẬP TRUYỆN NGẮN
PHẤN THÔNG VÀNG CỦA XUÂN DIỆU
2.1. Tác giả và tác phẩm Xuân Diệu
2.1.1. Tác giả
* Tiểu sử
Xuân Diệu tên khai sinh là Ngô Xuân Diệu, sinh ngày 2-2-1916 tại Gò Bồi,
xã Tùng Gian, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Thuở nhỏ Xuân Diệu học chữ
nho, quốc ngữ và cả tiếng Pháp với cha. Năm 1927 xuống học ở Quy Nhơn và
đỗ Thành Chung năm 1934.
Từ năm 1935-1936 Xuân Diệu ra học “tú tài” phần thứ nhất ở trường Trung

học bảo hộ Hà Nội.
Từ năm 1936-1937, ông vào học “tú tài” phần thứ hai ở trường Trung học
Khải Định, Huế. Tại đây ông đã kết bạn với Huy Cận, học sau hai lớp và hình
thành một tình bạn tốt đẹp lâu dài.
Từ năm 1938-1940, Xuân Diệu ở cùng với Huy Cận ở 40 Hàng Than.
Xuân Diệu dạy học ở trường tư thục Thăng Long.
Năm 1939, Xuân Diệu tập hợp các truyện ngắn của mình đã đăng trên báo.
Ngày nay và và cho xuất bản Phấn thông vàng.
8


Đầu năm 1940, ông đi tham tá Thương chính và váo Nam Bộ nhận việc ở
“Sở Đoan” Mỹ Tho.
Năm 1943, Xuân Diệu thôi làm tham tá về sống với Huy Cận tại Hà Nội và
hai người bí mật tham gia Mặt trận việt minh.
Năm 1945, Xuân Diệu cho ra đời tập thơ văn xuôi Trường ca và tập thơ
Gửi hương cho gió.
Tháng 2- 1945 Xuân Diệu làm cuộc diến thuyết đầu tiên trong đời mình với
bài “Sinh viên với quốc văn” do Tổng hội sinh viên Việt Nam tổ chức.
Ngày 6-1-1946 đã cho xuất bản tráng khúc Hội nghị non sông.
Từ năm 1946-1960 là Đại biểu Quốc hội khóa I tỉnh Hải Dương.
Tháng 2-1946 một phái đoàn do đồng chí Phạm Văn Đồng làm trưởng
đoàn sang Pháp, Xuân Diệu tham dự với tư cách là đại biểu nhà báo.
Năm 1947 làm việc cho Đài Tiếng nói Việt Nam và phụ trách mỗi tuần nói
một câu chuyện văn hóa, là Uỷ viên ban chấp hành Hội Văn nghệ Việt Nam
kháng chiến.
Năm 1949, Xuân Diệu được kết nạp vào Đảng do hai nhà văn Nguyễn Đình Thi
và Nguyễn Huy Tưởng giới thiệu, ông là đội viên các “đội phát động” ở
Thanh Hóa và Nghệ An và Xuân Diệu bắt đầu nói chuyện thơ trong quần
chúng.

Năm 1954, Xuân Diệu từ chiến khu trở về Hà Nội tham gia vào cuôc chiến
đấu trên lĩnh vực văn nghệ.
Năm 1958, ông là diễn giả trong lễ kỉ niệm 138 năm ngày mất của Nguyễn
Du, dự hội nghị trù bị các nhà văn Á Châu ở Niu Đê Li thăm Ấn Độ hai tháng.
Năm 1980, ông dự và phát biểu trong Hội nghị các nhà văn thế giới bảo vệ
hòa bình lần thứ II ở Xôphia.
Năm 1981, Xuân Diệu sang Pháp, nói chuyện thơ Việt Nam ở các trường
Đại học tại Paris.
Năm 1983 Xuân Diệu được bầu làm Viện sĩ thông tấn Viện Hàn lâm nghệ
thuật CHDC Đức.
Năm 1985, Nhà nước tặng Huân Chương Độc lập hạng nhất.
Ngày 18-12-1985, Xuân Diệu từ trần tại Hà Nội.
* Con người
Xuân Diệu là nhà thơ “mới nhất trong các thơ mới” (Hoài Thanh). Ông đã
đem đến cho thơ ca đương thời một sức sống mới, một nguồn cảm xúc mới, thể
hiện một quan niệm sống mới mẻ cùng với những cách tân nghệ thuật đầy sáng
tạo. Ông là nhà thơ của tình yêu, của mùa xuân, của tuổi trẻ, thơ ca của công
luôn thể hiện sự giao cảm thiết tha với đời, với cuộc sống một sôi nổi, đắm say
9


thắm thiết. Do cuộc đời đi nhiều nơi, trải nghiệm nhiều đã hình thành cho ông
một vốn sống phong phú, sâu rộng và từ đó giúp cho Xuân Diệu có sự quan sát,
cảm nhận cuộc sống một cách tinh tế hơn, sinh động hơn. Cuộc đời của Xuân
Diệu hoạt động trên nhiều lĩnh vực, từ dạy học đến viết báo, từ sáng tác văn thơ
đến diễn thuyết tham gia các hội nghị văn học lớn của Việt Nam và của thế giới,
tham gia cách mạng, sáng tác thơ ca cổ vũ chiến đấu…Ở lĩnh vực nào Xuân
Diệu cũng sống và làm việc hết mình, cháy hết mình với bầu nhiệt huyết
của mình. Nhìn vào công trình sáng tác đồ sộ trên nhiều thể loại của Xuân Diệu
cho thấy ông là một cây bút có sức sáng tạo mãnh liệt, bên bỉ, dồi dào có đóng

góp to lớn đối với nền văn học Việt Nam hiện đại. Xuân Diệu xứng đáng với
danh hiệu một nhà thơ lớn, một nghệ sĩ lớn, một nhà văn hóa lớn. Nhắc đến
Xuân Diệu là nhắc đến một nhà thơ hàng đầu của nền văn học Việt Nam hiện
đại.
2.1.2. Tác phẩm
Sự nghiệp văn học của Xuân Diệu rất lớn, từ làm thơ đến viết văn, từ tiểu
luận phê bình đến bút kí và dịch thơ tất cả đã cho ta thấy quá trình cầm bút sáng
tạo không ngừng nghĩ của Xuân Diệu. Các tác phẩm tiêu biểu như:
* Thơ
-Thơ thơ (1938, 1939, 1968, 1970)
-Gửi hương cho gió (1945, 1967)
-Ngọn quốc kỳ (1945, 1961)
-Hội nghị non sông (1946)
-Dưới ánh sao vàng (1949)
-Sáng (1953)
-Mẹ con (1954)
-Ngôi sao (1955)
-Riêng chung (1960)
-Mũi Cà Mau – Cầm tay (1962)
-Một khối hồng (1964)
-Hai đợi sóng (1967)
-Tôi giàu đôi mắt (1970)
-Hồn tôi đôi cánh (1976)
-Thanh ca (1982)
* Truyện ngắn
- Tập truyện ngắn Phấn thông vàng (1939) bao gồm các truyện:
+Phấn thông vàng
+Thương vay
10



+Cái giây
+Người học trò tốt
+Cái giây không dứt
+Thân thể
+Sợ
+Cái hỏa lò
+Ba nàng công chúa (bao gồm ba truyện: Suối cá vàng, Suối tóc đẹp, Bà chúa
vinh quang)
+Mèo hoang
+Chó hoang
+Đứa ăn mày
+Tỏa nhị kiều
+Thư tình, mùa thu
+Truyện cái giường
Ngoài ra còn rất nhiều tập bút ký, trường ca hay bản dịch thơ có giá trị.
2.2. Phân loại và thống kê tính từ chỉ màu sắc trong truyện ngắn Phấn
thông vàng của Xuân Diệu.
2.2.1. Phân loại
Tính từ chỉ màu sắc được chia làm hai loại. Đó là tính từ chỉ màu sắc
không xác định thang độ và tính từ chỉ màu sắc xác định thang độ. Bởi vậy khi
tìm hiểu về tính từ chỉ màu sắc trong truyện ngắn Phấn thông vàng của tác giả
Xuân Diệu chúng ta cũng tìm hiểu cụ ở hai khía cạnh này
2.2.2. Thống kê .
Trong truyện ngắn Phấn thông vàng tác giả đã rất nhiều lần nhắc tới sắc
vàng, cụ thể dưới đây là trích lục các câu văn xuất hiện sắc vàng trong truyện
ngắn:
“ Hoạ sĩ đến đó, trong giờ đẹp nhất của buổi chiều. Trưa đã đi, ngày chưa ngả,
sắc nắng ở giữa mầu vàng héo và mầu đỏ tươi.[1- 2]
“Buổi chiều vàng, có lẽ ở đâu thì chỉ xinh đẹp; ở đây rừng thông, chiều lại thêm

lực lưỡng; sư sống không phô bày rõ rệt quá như trong buổi sáng hay buổi trưa,
nên thịnh vượng mà có duyên.” .[1- 3]
“Chiều với rừng lặng lẽ; nhưng sắc vàng phảng phất âm thanh, nắng là một sự
hiển hiện rõ rệt và đều hoà, tưởng có thể gõ vào không khí ở trên đầu để nghe sự
lặng im rung rinh, xao xuyến.” .[1- 4]
11


“Và ly kỳ thay! Phấn vàng ở đâu nhẹ tuôn bay xuống, quả là một trận mưa phấn
vàng, vì tiếng thông reo đã giống sẵn tiếng mưa.” .[1- 5]
“ấy giờ hoạ sĩ mới hiểu, nhớ lại những bài cách trí nói về màu hoa thông chín,
gió tải nhị vàng đem đi, khiến dân núi gọi là mưa lưu huỳnh. Không gian đã
thành một điệu vàng mênh mông; nắng vàng nhuộm vàng những cây, và phấn
thông vàng lẫn vàng trong nắng”.[1- 6 ]
“Nhị vàng của thông , ồ! tình yêu của thông đó chăng?” .[1- 7]
“Nhị vàng mênh mông tràn đầy, dư dật cùng nhau viễn hành, rắc vàng khắp nơi.
Phấn thông vàng đi đến sự vu vơ.” .[1- 8]
“Phấn thông vàng không gặp hoa cái chăng, thì phấn cũng đã làm lộng lẫy
không gian trong một buổi chiều nọ.” .[1- 9]
“Có lẽ ai nấy cũng đã gặp chàng hoạ sĩ tóc đen ấy chứ; .[2- 2]
Và càng hoạ sĩ đã ngửng đầu hứng lấy bao nhiêu nhị vàng từ trên toả xuống trên
mái tóc đen, và chàng đã mở lòng nhận lầy bài học ngụ ý trong bài thơ của phấn
thông vàng” .[2- 3]
“Và khi những bước hồi hộp của chàng trai chạy đến cuối rừng, chàng xuýt mê
ngã trên cỏ xanh, vì thấy trên trời bao la, phấn hông vàng đương bay lan trong
tám hướng của cõi đời.” .[3- 1]
2.3. Tính từ chỉ màu sắc trong truyện ngắn Phấn thông vàng của Xuân
Diệu.
Xuân Diệu là ông hoàng cuả thơ tình yêu, nhà thơ của thiên nhiên, của
sức sống và tuổi trẻ. Ông là đại biểu ưu tú và đầy đủ nhất của phong trào thơ

mới.Thơ ca của ông luôn thể hiện sự giao cảm, hòa hợp thiết tha với cuộc sống,
nỗi luyến tiếc trước sự trôi chảy của dòng đời, của thời gian. Chính vì thế thơ
văn của ông luôn thể hiện sự đong đầy, no nê hương sắc của tình yêu, của thiên
nhiên và của cuộc đời. Điều đó chúng ta có thể thấy rõ qua việc lựa chọn, sắp
xếp và sử dụng các tính từ chỉ màu sắc của ông qua tập truyện ngắn Phấn thông
vàng. Qua bàn tay của Xuân Diệu các màu sắc trong tập truyện ngắn này bỗng
trở nên sinh động, hài hòa, hòa hợp một cách kì diệu. Các tính từ chỉ màu sắc
chủ yếu tập trung khắc họa thiên nhiên để thể hiện tâm trạng của nhân vật hay
bộc lộ tâm sự, nỗi niềm mà Xuân Diệu muốn gửi gắm vào từng tác phẩm của
mình. Điều đó cho ta thấy được tài năng của ông trong việc quan sát, cảm nhận
một cách tinh tế và độc đáo. Dưới ngòi bút của Xuân Diệu, các màu sắc
được vận dụng rất linh hoạt và sáng tạo vẽ nên những nét đặc sắc riêng cho từng
tác phẩm. Để hiểu rõ hơn nét đặc sắc đó, ta sẽ tìm hiểu lần lượt từng tính từ chỉ
màu sắc trong tập truyện ngắn Phấn thông vàng của ông.
2.3.1. Tính từ chỉ màu sắc không xác định thang độ
2.3.1.1. Màu vàng
12


Trong truyện ngắn Phấn thông vàng thì tính từ “vàng” là màu chiếm
số lượng nhiều nhất. Điều đó không ngạc nhiên, bởi ngay từ nhan đề của tập
truyện ngắn thì ta đã thấy được màu vàng là màu bao phủ, là màu chủ đạo của
tập truyện. Màu vàng là màu tượng trưng cho ánh sáng, sự sống, thiên nhiên và
của cuộc đời. Chắc có lẽ vì là một người yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, luôn
thiết tha với đời nên tác giả đã sử dụng rất nhiều màu vàng trong tập truyện ngắn
này và đặc biệt là trong truyện Phấn thông vàng. Đọc Phấn thông vàng ta thấy
được một màu vàng tràn ngập và lan tỏa, đó là màu “vàng” của âm thanh, ánh
sáng, màu “vàng” của hoa thông, nhị thông,… Tất cả đã vẽ nên một bức tranh
màu vàng tuyệt đẹp và trên cái nền của bức tranh ấy, tâm trạng, cảm xúc của tác
giả được bộc lộ, được phơi bày. Như chúng ta đã biết thời điểm buổi chiều là

thời điểm con người đầy tâm trạng nhất. Bởi đó là lúc mà cảnh vật trở nên yên
lặng, đang dần chìm vào giấc ngủ trong sự mệt mỏi sau một ngày hoạt động.
Chính sự yên lặng ấy làm cho con người có những phút giây trải lòng để nhìn
nhận lại cuộc đời, nhìn nhận lại con người của mình. Trong truyện Phấn thông
vàng, tác giả đã rất thành công khi phác họa cảnh vật bằng chất liệu “vàng”, một
chất liệu cho sự sống, cho khát vọng yêu đang cháy và sôi sục trong lòng người
họa sĩ. Đi sâu vào tìm hiểu phân tích từng màu cụ thể ta sẽ thấy được sự tinh tế
của Xuân Diệu khi sử dụng màu “vàng”. “Ngày như đứng sững đẻ cho sắc vàng
đừng trôi chảy hay đổ xiêu” Ngày như dừng lại, đứng lại, cảnh vật như ngưng
đọng lại trong giây phút ấy, giây phút mà họa sĩ bắt gặp rừng thông và chính
điều đó đã làm thay đổi biết bao suy nghĩ và quan niệm về tình yêu của tác giả.
Sắc “vàng” của ánh sáng mặt trời, của rừng thông dường như rất đậm đặc, màu
sắc như ngưng tụ lại, kết đọng lại thành một dòng chảy của thời gian đứng sững,
không để đổ xiêu, không dễ phai nhạt. Rừng thông đang đong đầy màu “vàng”
đong đầy sự sống, rừng thông chứa đựng hương sắc của cuộcđời. Chính điều đó
đã làm cho họa sĩ ý thức lại giá trị sống, cách sống của mình, một cách sống mà
họa sĩ đang có sự lệch lạc trong sự tuyệt vọng và buông xuôi tình yêu của mình.
Đến câu “Chiều với rừng lặng lẽ, những sắc vàng phảng phất âm thanh” [1.-4]
Ta ta thấy được sắc “vàng” như biết nói, như biết trò truyện, đồng điệu cảm
xúc với người họa sĩ. Sắc “vàng” không phải là một màu sắc vô tri, vô giác nữa
mà đang phảng phất, góp tiếng nói của mình để thay đổi tâm trạng của nhà họa
sĩ. Trên cái nền không gian lặng lẽ của buổi chiều, sắc “vàng” trở nên nổi bật
nhất, phấn vàng, nhị vàng của thông cùng với ánh nắng đã thu hút sự chú ý, thu
hút ánh nhìn của họa sĩ. Đễ qua sự cảm nhận tinh tế của mình họa sĩ đã tìm được
tiếng nói chung của mình với rừng thông, với phấn thông vàng. Đó là tiếng nói
chung, cảm xúc khi yêu. Họa sĩ nhận ra rằng khi yêu thì ta hãy yêu hết mình,
hãy cho thật nhiều không một chút tính toan, không chút vụ lợi. Và tình yêu của
họa sĩ nếu không viên mãn thì cũng đã làm đẹp cho cuộc đời “Phấn thông vàng
làm đẹp cho không gian, tình yêu của ta sẽ thiêu mộng cho tấm vải xoàng xĩnh
của cuộc đời, bầu trời sẽ vang động những tiếng đàn hát, những phấn vàng của

lòng yêu”. Trong truyện ngắn Phấn thông vàng sự tinh tế của Xuân Diệu được
thể hiện rất rõ nét. Còn nhiều chi tiết khác nữa cho ta thấy rõ điều đó, chẳng
13


hạn như chi tiết “ Không gian đã thành một điệu vàng mênh mông; nắng vàng
nhuộm vàng những cây và phấn thông vàng lẫn trong nắng” [1-6]. Không gian
tràn ngập sắc “vàng”, màu vàng của ánh nắng, của nhị thông, của phấn thông
vàng đang reo hò, đang nhảy điệu nhạc rừng tưng bừng, sôi nổi. Tất cả màu sắc
không gian điều quyện vào một màu “vàng”, tất cả chìm đắm trong sắc “vàng”
làm cho chúng ta không thể nhận biết những màu sắc, cảnh vật khác nữa. Cũng
giống như chúng ta khi đang yêu, chúng ta chỉ biết đến người mình yêu và tình
yêu của mình, ta sẽ không còn để ý đến ai khác nữa, đến điều gì được nữa. Đó là
sự trùng hợp rất tình cờ giữa tình yêu của tác giả với rừng thông. Sự cảm nhận
tinh tế của họa sĩ đã làm cho hình ảnh tưởng chừng vô tri, vô giác kia trở nên
hiện hữu và trở thành bài học về tình yêu của họa sĩ. Nắng và phấn thông vàng
nhuộm vào nhau, trộn lẫn vào nhau làm ta không thể nào nhận ra đâu là nắng,
đâu là phấn thông vàng nữa. Tất cả hòa quyện, đã giao hợp trong một buổi chiều
vàng. Ta không thể nào nhận ra đâu là màu của nắng, đâu là màu của phấn thông
vàng nữa “ dư dật cùng nhau viễn hành, rắc vàng khắp nơi”. Màu “vàng” ấy
đang cộng hưởng với tâm hồn họa sĩ. “Và chàng họa sĩ đã ngửng đầu hứng lấy
bao nhiêu nhị vàng tỏa xuống từ mái tóc đen. Màu vàng ấy tượng trưng cho tình
yêu, cho cuộc sống, cho khát vọng tuổi trẻ. Đồng thời cũng là bài học cho cách
yêu cũng như cách cho đi khi yêu đã được tác giả nhận thức đúng đắn.. Qua sắc
vàng trong tác phẩm người đọc như được thả hồn váo khoảng thiên nhiên vô
cùng lãng mạn và tươi đẹp, để dường như trong lòng ta thổn thức niềm yêu quê
hương đất nước đến lạ kỳ.
2.3.1.2. Màu đen.
Trong tác phẩm Phấn thông vàng không chỉ có màu vàng thơ mộng, màu
trắng tinh khôi thì màu đen cũng được tác giả sử dụng nhiều lần, đó laftinhs từ

màu sắc dùng để tả mái tóc của chàng họa sĩ. “ có lẽ ai nấy đã được gặp chàng
họ sĩ tóc đen ấy chứ.”
Mái tóc đen của chàng họ sĩ trẻ trung, tràn đầy sức sống, khát khao yêu rất
nhiều. cái hay là tác giả không chỉ đích danh tên tuổi mà chỉ để cho người đọc
nhân biết chàng thanh niên qua mái tóc đen. Nhưng có lẽ chỉ với mái tóc đen
thôi cũng đã nói lên được ngoại hình và tích cách. Mái tóc đen là tuổi trẻ, đồng
thời cho thấy được nét lịch lãm, tài hoa và tinh tế của anh họa sĩ và trải qua
nhiều cuộc tình đổ vỡ. Mái tóc đen ấy đủ biết rằng anh quá non nớt trong tình
yêu, và khi vào rừng thông mái tóc đen, con người ấy bỗng lạc lõng trước sắc
vàng., trước cuộc đời đang trôi chảy kia..
Hình ảnh “ nhị vàng tỏa xuống mái tóc đen” thể hiện con người của họa
sĩ được hương sắc cuộc đời thay đổi và chàng đã có nhiều hiểu biết hơn về cuộc
sống và tình yêu. Con người có mái tóc đen ấy đã bừng sáng đã được tiếp lửa để
sống nhiệt huyết hơn
2.3.1.2. Màu xanh.
Tính từ “xanh” tượng trưng cho niềm tin và hi vọng, dùng để tả muôn vật
tốt tươi và tràn trề nhựa sống. Chính vì thế màu xanh cũng đóng vai trò quan
trọng trong truyện ngăn Phấn thông vàng của Xuân Diệu.
14


Hình ảnh “Và khi những bước hồi hộp của chàng trai chạy đến cuối rừng,
chàng xuýt mê ngã trên cỏ xanh, vì thấy trên trời bao la, phấn hông vàng đương
bay lan trong tám hướng của cõi đời” [3-1] thể hiện cho hạnh phúc viên mãn
tràn đầy. Một sự thay đổi trong nhận thức, trong tình yêu của con người. Mặc dù
tính từ xanh chỉ xuất hiện một lần trong truyện ngắn nhưng nó là cho người đọc
có cảm giác vỡ òa, trong lòng như thanh thản nhẹ nhàng đến bất ngờ.
3. NHẬN XÉT TÍNH TỪ CHỈ MÀU SẮC TRONG TRUYỆN NGẮN
PHẤN THÔNG VÀNG CỦA XUÂN DIỆU.
Với hệ thống từ loại tính từ chỉ màu sắc được tác giả Xuân Diệu sử dụng

rất nhiều lần trong tác phẩm, mỗi lần sử dụng mang một sắc thái ý nghĩa biểu
đạt khác nhau, nó thể hiện một ý nghĩa vô cùng sâu sắc, qua cảnh vật nói lên tâm
trạng, chân dung con người. Con người được nhìn nhận nhiều chiều thông qua
cảnh vật mà cụ thể là các gam màu được nêu đó là: Sắc vàng, màu đen và màu
xanh. Qua bàn tay của Xuân Diệu các màu sắc trong truyện ngắn này bỗng trở
nên sinh động, hài hòa, hòa hợp một cách kì diệu. Các tính từ chỉ màu sắc chủ
yếu tập trung khắc họa thiên nhiên để thể hiện tâm trạng của nhân vật hay bộc lộ
tâm sự, nỗi niềm mà Xuân Diệu muốn gửi gắm vào từng tác phẩm của mình.
So sánh với một số tác giả cũng rất thành công trong việc sử dụng lớp từ
loại tính từ chỉ màu sắc như Thạch Lam, Sơn Nam, Anh Đức, Xuân Quỳnh… thì
Xuân diệu là một trong những cây bút điêu luyện và tài tình trong việc đưa tác
phẩm đến với người đọc bằng thành công của việc sử dụng tính từ chỉ màu sắc.
KẾT LUẬN
Tính từ chỉ màu sắc là một trong lớp từ thuộc từ loại tính từ trong tiếng Việt.
Trong mỗi tác phẩm văn chương của mình, các tác giả luôn thể hiện sinh động
nội dung qua kết cấu, các biên pháp tu từ… và một trong những từ loại được sử
dụng có hiệu quả đó chính là tính từ chỉ màu sắc. Đã có rất nhiều tác giả thành
công trong việc sử dụng linh hoạt từ loại. Với tác giả Xuân Diệu, mà cụ thể là
tác phẩm Phấn thông vàng, ông đã đưa người đọc lạc vào một không gian thiên
nhiên tuyệt đẹp, được gặp một con người thay đổi trong tình yêu và cuộc đời, tất
cả đều được tô, vẽ cho kì diệu đến lạ lùng nhưng cũng chân thực và gần gũi biết
bao. Qua tác phẩm Phấn thông vàng làm cho người đọc càng thêm yêu thiên
nhiên, yêu con người, thêm tin yêu vào cuộc sống và tình yêu, biết thay đổi vì
cuộc đời và thay đổi vì tình yêu, biết yêu và gìn giữ tình yêu ấy. Qua tác phẩm
dưới ngòi bút tài tình của Xuân Diệu ta thấy được hiệu quả của việc sử dụng các
tính từ chỉ màu sắc từ đó càng có quyết tam giữ gìn sự trong sáng của Tiếng
Việt.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Diệp Quang Ban, Ngữ pháp tiếng Việt, Nhà xuất bản Giáo dục, 2005.
2. Trần Ngọc Ninh. Cơ-cấu Việt-ngữ. 2007.

15


3. Sách giáo khoa Tiếng Việt 5, tập hai, NXB Giáo dục. Hà Nội
4. Sách giáo khoa Ngữ văn 7, tập hai, NXB Giáo dục. Hà Nội.
5. Nguồn thông tin trên internet và các diễn đàn.

MỤC LỤC
STT

NỘI DUNG
Phần mở đầu

TRANG
1

16

GHI
CHÚ


I

Lí do chọn đề tài

1

II


Lịch sử vấn đề

2

III

Phương pháp nghiên cứu

2

IV

Đối tượng, mục đích nghiên cứu

2

V

Phạm vi nghiên cứu

2

Nội dung

3

Chương I- Khái quát về từ loại tính từ

3


Tính từ

3

1. 1

Từ loại tính từ

3

1.2

Tính từ chỉ màu sắc

6

Chương II. Tính từ chỉ màu sắc trong truyện ngắn Phấn

8

thông vàng của Xuân Diệu
Tác giả và tác phẩm Xuân Diệu

8

1

2.12.2

Phân loại và thống kê tính từ chỉ màu sắc trong truyện

ngắn Phấn thông vàng của Xuân Diệu.

11

2.3

Tính từ chỉ màu sắc trong truyện ngắn Phấn thông
vàng của Xuân Diệu.

12

Tính từ chỉ màu sắc trong truyện ngắn Phấn thông

15

vàng của Xuân Diệu
Kết luận

15

Tài liệu tham khảo

16

3

17


MỤC LỤC

STT

NỘI DUNG

TRANG

1

Phần mở đầu

1

2

Phương pháp nghiên cứu

1

3

Mục đích nghiên cứu

1

4

Kết cấu bài tiểu luận

1


5

Các vấn đề liên quan

2

6

Nội dung

3

7

I. Khái quát về hôn nhân tự nguyện tiến bộ (Luật hôn nhân

4

8

và gia đình năm 2014).
II.Thực trạng việc thực hiện nguyên tắc tự nguyện trong

6

9

quan hệ hôn nhân gia đình
Nguồn gốc hình thành và biểu hiện của Tư duy xã hội về


6

hôn nhân theo quan niệm “Cha mẹ đặt đâu con ngối đấy”

18

GHI
CHÚ


10

dẫn tới tư duy con cái đặt đâu cha mẹ ngồi đấy
III. Nguyên nhân tồn tại tư tưởng “ Con cái đặt đâu cha mẹ

8

ngồi đấy”
11

IV. Hậu quả của việc tồn tại tư duy “Con cái đặt đâu cha mẹ

8

12

ngồi đấy”:
V. Tư duy “ Con cái đặt đâu cha mẹ ngồi đấy trong xã hội

9


13

ngày nay.
VI. Ý kiến cá nhân trong việc thực hiện nguyên tắc tự

9

14

nguyện trong quan hệ hôn nhân gia đình
Kết luận

11

15

Danh mục tài liệu tham khảo

12

19



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×