Tải bản đầy đủ (.pdf) (224 trang)

Đánh giá thực tiễn xét xử các tội phạm về ma túy theo bộ luật hình sự năm 1999 phục vụ triển khai áp dụng bộ luật hình sự năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (9.12 MB, 224 trang )

BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG

ĐÁNH GIÁ THỰC TIỄN XÉT XỬ
CÁC TỘI PHẠM VỀ MA TÚY THEO BỘ LUẬT HÌNH SỰ
NĂM 1999 PHỤC VỤ TRIỂN KHAI ÁP DỤNG BỘ LUẬT
HÌNH SỰ NĂM 2015

MÃ SỐ: LH – 2016 – 13/ĐHL – HN

Chủ nhiệm đề tài:

TS. Nguyễn Tuyết Mai

Thư kí đề tài:

ThS. Đào Phương Thanh

Hà Nội, tháng 08 năm 2017


THAM GIA THỰC HIỆN ĐỀ TÀI

* Ban chủ nghiệm đề tài:
- TS. Nguyễn Tuyết Mai - ĐH Luật Hà Nội, chủ nhiệm đề tài
- ThS. Đào Phương Thanh - ĐH Luật Hà Nội, thư kí đề tài

* Các thành viên tham gia thực hiện đề tài:
- ThS. Nguyễn Xuân Thiện, Phó Vụ trưởng Vụ Giám đốc - Kiểm tra I


Tòa án nhân dân tối cao
- ThS. Nguyễn Thị Bình, Thẩm tra viên Vụ Giám đốc - Kiểm tra I
Tòa án nhân dân tối cao
- ThS. Lưu Hải Yến, ĐH Luật Hà Nội


BẢNG TỪ VIẾT TẮT

Bộ luật hình sự

BLHS

Cấu thành tội phạm

CTTP

Hội đồng thẩm phán

HĐTP

Tòa án nhân dân tối cao

TANDTC

Trách nhiệm hình sự

TNHS

Viện kiểm sát nhân dân tối cao


VKSNDTC


MỤC LỤC

Trang

PHẦN I BÁO CÁO TỔNG THUẬT
I TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI
II KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI

1-79
1
12

1. MỘT SỐ NỘI DUNG LÍ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN THỰC
TIỄN XÉT XỬ CÁC TỘI PHẠM VỀ MA TÚY

12

1.1 Nhận thức chung về thực tiễn xét xử tội phạm và quy
định của pháp luật

12

1.2 Quy định các tội phạm về ma túy trong BLHS năm

16

1999 – căn cứ pháp lý để xét xử tội phạm

2. ĐÁNH GIÁ THỰC TIỄN XÉT XỬ CÁC TỘI PHẠM VỀ
MA TÚY THEO BLHS NĂM 1999

29

2.1 Thực tiễn định tội và định tội danh đối với các tội 30
phạm về ma túy theo BLHS năm 1999
2.2 Thực tiễn định khung hình phạt và quyết định hình
phạt đối với các tội phạm về ma túy theo BLHS năm 1999

43

2.3. Nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc trong

53

thực tiễn xét xử các tội phạm về ma túy
3. TRIỂN KHAI ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA BLHS NĂM
2015 SỬA ĐỔI, BỔ SUNG NĂM 2017 TRONG THỰC TIỄN
XÉT XỬ VỀ CÁC TỘI PHẠM VỀ MA TÚY

65

3.1 Cần thống nhất nhận thức về quy định mới của BLHS
năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) khắc phục một số
bất cập của BLHS năm 1999, tháo gỡ một số vướng mắc
trong thực tiễn xét xử các tội phạm về ma túy

65


3.2 Một số nội dung cần lưu ý khi triển khai áp dụng 71
BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 trong thực
tiễn xét xử các tội phạm về ma túy


PHẦN II

CÁC BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ

80-193

Chuyên đề 1:

CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN LẬP PHÁP CÁC TỘI 80
PHẠM VỀ MA TÚY Ở VIỆT NAM

Chuyên đề 2:

THỰC TIỄN XÁC ĐỊNH CHẤT MA TÚY VÀ TIỀN
CHẤT TRONG XÉT XỬ CÁC TỘI PHẠM VỀ MA TÚY
Ở VIỆT NAM

111

Chuyên đề 3:

THỰC TIỄN ĐỊNH TỘI VÀ ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI
CÁC TỘI PHẠM VỀ MA TÚY Ở VIỆT NAM

141


Chuyên đề 4:

THỰC TIỄN ĐỊNH KHUNG HÌNH PHẠT VÀ QUYẾT
ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI CÁC TỘI PHẠM VỀ MA
TÚY Ở VIỆT NAM

172

DANH MỤC THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC BẢN ÁN ĐƯỢC NGHIÊN CỨU


PHẦN I
BÁO CÁO TỔNG THUẬT


1
I. TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ nhiều thế kỷ nay, ma tuý đã trở thành vấn đề nhức nhối của toàn cầu,
tội phạm về ma túy là một trong những thách thức lớn đối với nhân loại. Ngày
26/6/1988, tại trụ sở của Liên hợp quốc, Ủy ban quốc tế về phòng chống ma túy
và tội phạm (UNODC) đã tổ chức một cuộc mít tinh kéo dài trong hơn 2 giờ để
kêu gọi mọi người tích cực phòng, chống ma túy. Kể từ đó, ngày 26/6 hàng năm
được Liên hợp quốc chọn làm “Ngày thế giới phòng, chống ma túy”. Năm 1998,
nhận thức được hiểm họa ma túy đang diễn ra nghiêm trọng trên thế giới, Đại
hội đồng Liên hợp quốc đã tổ chức kỳ họp đặc biệt về vấn đề ma túy toàn cầu
(UNGASS 1998), thông qua Tuyên bố chính trị và các biện pháp phòng, chống
ma túy. Trong diễn văn khai mạc, Tổng thư kí Liên hợp quốc đã nhấn mạnh “Ma

túy hủy hoại cuộc sống và cộng đồng, làm xói mòn sự tồn tại và phát triển của
loài người và là nguồn phát sinh tội phạm. Ma túy là mối đe dọa lớn đến độc
lập, dân chủ và ổn định của các Nhà nước và các dân tộc, đến cấu trúc xã hội,
nhân phẩm và hy vọng của hàng triệu triệu người và gia đình họ. Ma túy đã trở
thành hiểm họa chung của cả nhân loại. Không một quốc gia, dân tộc nào thoát
ra ngoài vòng xoáy khủng khiếp của nó để tránh những hậu quả do nghiện hút
và buôn lậu ma túy gây ra…”. Rất nhiều nghiên cứu đã tổng kết thực trạng ma
túy trên thế giới và Việt Nam. Hậu quả do lạm dụng ma túy và tội phạm về ma
túy gây ra vô cùng nghiêm trọng: Ma túy đang làm gia tăng tội phạm, bạo lực,
tham nhũng, vắt cạn kiệt nhân lực, tài chính, hủy diệt những tiềm năng quý báu
khác mà lẽ ra phải được huy động cho việc phát triển kinh tế xã hội, đem lại ấm
no, hạnh phúc cho mọi người. Ma túy đang làm suy thoái nhân cách, phẩm giá,
tàn phá cuộc sống yên vui gia đình, gây xói mòn đạo lý… Ma túy và sự lạm
dụng ma túy đã ảnh hưởng tới tự do và phát triển của lớp trẻ, một giá trị của
nhân loại. Ma túy là tác nhân chủ yếu thúc đẩy căn bệnh thế kỷ HIV/AIDS phát
triển, là một đe dọa lớn đối với sức khỏe và sự tồn tại của con người.
Lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay ghi nhận 03 lần
pháp điển hóa mà thành tựu là Bộ luật hình sự (BLHS) năm 1985, BLHS năm
1999 và BLHS năm 2015; 06 lần sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS, bao
gồm 04 lần sửa đổi, bổ sung BLHS năm 1985 (vào các năm 1989, 1991, 1992,
1997), 01 lần sửa đổi, bổ sung BLHS năm 1999 (vào năm 2009) và 01 lần sửa


2
đổi bổ sung BLHS năm 2015 (vào năm 2017). Ngoài lần pháp điển hóa đầu tiên
BLHS năm 1985 thì có 6 trong 9 lần nêu trên, nhà làm luật đã xem xét điều
chỉnh quy định về các tội phạm về ma túy (vào năm 1989, 1997, 1999, 2009,
2015 và 2017). Đáng kể là, ngay sau khi trở thành thành viên của các công ước
của Liên hợp quốc về kiểm soát ma túy, Việt Nam đã nỗ lực sửa đổi, bổ sung,
hoàn thiện pháp luật hình sự về tội phạm ma túy. Năm 1997, BLHS đã bổ sung

một chương riêng quy định 10 tội danh về các tội phạm ma túy. Từ đó đến nay,
trong tất cả các lần sửa đổi, bổ sung tiếp theo của BLHS (bao gồm lần pháp điển
hóa thứ hai BLHS 1999, lần sửa đổi bổ sung BLHS vào năm 2009, lần pháp
điển hóa thứ 3 BLHS năm 2015, lần sửa đổi bổ sung BLHS vào năm 2017) quy
định về các tội phạm về ma túy đều được coi là trọng tâm sửa đổi, bổ sung của
BLHS.
Trên bình diện thực tiễn tội phạm và xét xử tội phạm, các tội phạm về
ma túy là một trong các nhóm tội phạm diễn ra phổ biến, tốc độ gia tăng nhanh
chóng, tính chất và mức độ nguy hiểm đặc biệt cao, hậu quả gây ra đặc biệt
nghiêm trọng. Các công trình nghiên cứu dưới góc độ tội phạm học đều chỉ ra
rằng tội phạm về ma túy luôn ở tốp ba các tội phạm bị xét xử nhiều nhất trên
phạm vi toàn quốc và ở các địa phương. Các hình phạt nghiêm khắc nhất đã
tuyên đều tập trung ở các bị cáo phạm các tội phạm về ma túy.
Hoạt động áp dụng pháp luật trong xét xử các tội phạm về ma túy diễn ra
thường xuyên nhất, ở phạm vi lớn nhất, với nhiều nội dung nhất… trong số các
hoạt động áp dụng pháp luật xét xử các tội phạm cụ thể. Hoạt động áp dụng
pháp luật trong xét xử các tội phạm về ma túy có liên quan đến nhiều yếu tố, bao
gồm sự điều chỉnh của pháp luật thực định, sự dự liệu của pháp luật, diễn biến
của tội phạm, trình độ, năng lực, ý thức của cán bộ áp dụng pháp luật,… Hoạt
động áp dụng pháp luật trong xét xử các tội phạm về ma túy là môi trường phát
huy hiệu quả quy định của pháp luật, đồng thời cũng là môi trường đánh giá tính
phù hợp của pháp luật, từ đó có sự điều chỉnh tương ứng. Bên cạnh những đóng
góp đáng kể vào công cuộc đấu tranh phòng chống loại tội phạm này, hoạt động
áp dụng pháp luật trong xét xử các tội phạm về ma túy cũng đã chỉ ra khá nhiều
điểm chưa hoàn thiện của pháp luật, cũng như bộc lộ nhiều hạn chế, vướng mắc
trong quá trình xét xử tội phạm. Quy định về các tội phạm về ma túy trong
BLHS năm 1999, mặc dù đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009, nhưng vẫn chưa


3

đáp ứng được yêu cầu là căn cứ pháp lý đầy đủ, vững chắc để đấu tranh chống
các tội phạm về ma túy. Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử tội phạm phụ thuộc
nhiều vào các văn bản hướng dẫn trong khi các văn bản hướng dẫn lại chậm
được ban hành, nội dung hướng dẫn còn chồng chéo, thiếu hụt do thiếu thống
nhất giữa các bộ, ngành chức năng về yêu cầu và năng lực chứng minh tội phạm,
nhiều diễn biến mới của tội phạm chưa được dự liệu và điều chỉnh.
Các tội phạm về ma túy quốc tế và Việt Nam vẫn đang và được dự đoán
có diễn biến gia tăng, phức tạp. Theo báo cáo của Liên hợp quốc, năm 2015 khu
vực Đông Nam Á có trên 760 tấn thuốc phiện (tương đương 76 tấn heroin), 20
tấn Methamphetamine dạng tinh thể (ma túy đá) và 500 triệu viên ma túy tổng
hợp được sản xuất và lưu hành bất hợp pháp. Tình trạng mua bán, vận chuyển và
lạm dụng các chất hướng thần mới vẫn diễn ra rất nghiêm trọng. Trong số gần
600 chất hướng thần mới thì có trên 100 chất bị lạm dụng ở nhiều nước, song
hầu hết các nước vẫn còn lúng túng trong biện pháp đối phó, từ khâu xây dựng
văn bản pháp luật để kiểm soát, giám định… Do chịu tác động trực tiếp từ diễn
biến tội phạm và tệ nạn ma túy trong khu vực, tình hình tội phạm và tệ nạn ma
túy ở Việt Nam có nhiều diễn biến phức tạp và tiềm ẩn nhiều nguy hiểm. Dự báo
các tổ chức tội phạm ma túy quốc tế sẽ lợi dụng quá trình hình thành cộng đồng
ASEAN để tăng cường tổ chức sản xuất, mua bán, vận chuyển trái phép các chất
ma túy và tiền chất, biến Việt Nam thành địa bàn trung chuyển ma túy [1]. Năm
2014, các lực lượng chức năng Việt Nam đã bắt giữ hơn 19.000 vụ, 28.000 đối
tượng liên quan đến ma túy. Tội phạm ma túy gia tăng trên tất cả các tuyến
đường bộ, đường hàng không, đường biển. Hàng loạt các ổ, nhóm sản xuất ma
túy tổng hợp quy mô lớn đã bị phát hiện và triệt phá trên khắp ba miền Bắc,
Trung, Nam.
BLHS năm 2015 đã được Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam thông qua
ngày 27 tháng 11 năm 2015. Ngoài nhiệm vụ khắc phục những hạn chế trong
các quy định của BLHS năm 1999, bổ sung các quy định mới nhằm củng cố và
tăng cường hơn nữa căn cứ pháp lý xử lý tội phạm, BLHS năm 2015 còn có
nhiệm vụ thể hiện chủ trương hoàn thiện pháp luật hình sự bảo đảm các quyền

1

Dẫn theo Tình hình tội phạm ma túy khu vực ASEAN và Việt Nam năm 2015
truy
cập ngày 1/8/2017


4
con người, nhân đạo hóa các biện pháp trừng trị hình sự, phù hợp với điều kiện
phát triển, đạo đức của người Việt Nam và bảo đảm tính minh bạch, rõ ràng,
thuận lợi cho việc áp dụng điều luật trong xử lý tội phạm [2]. Ngay sau khi được
ban hành, BLHS năm 2015 đã bộc lộ một số sai sót. Ngày 29/6/2016, Quốc hội
khóa XIII đã ban hành Nghị quyết số 144/2016/QH13 về việc lùi hiệu lực thi
hành của BLHS năm 2015 và một số văn bản luật có liên quan. Ngày 20/6/2017,
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 (Luật
số 12/2017/QH14) đã được Quốc hội khóa XIV thông qua, nhằm khắc phục
những sai sót của BLHS năm 2015, bảo đảm tính thống nhất, tính khả thi của
BLHS, góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm và bảo đảm tốt hơn quyền
của người phạm tội.
Có thể thấy rằng, rà soát, sửa đổi hoàn thiện BLHS là yêu cầu cấp thiết,
liên tục và cần có thái độ nghiêm túc. Trên tinh thần đó, nghiên cứu đề tài Đánh
giá thực tiễn xét xử các tội phạm về ma túy theo BLHS năm 1999 phục vụ triển
khai áp dụng Bộ luật hình sự năm 2015 là cần thiết để có cơ sở đánh giá tính
phù hợp của pháp luật về các tội phạm này và kiến nghị liên quan đến triển khai
áp dụng các quy định mới của pháp luật, nâng cao chất lượng của hoạt động áp
dụng pháp luật về các tội phạm về ma túy, hướng tới hiệu quả chung đấu tranh,
phòng ngừa loại tội phạm này.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Xét xử các tội phạm về ma túy về bản chất là hoạt động áp dụng pháp luật
trong xét xử các tội phạm về ma túy. Áp dụng pháp luật hình sự xét xử các tội

phạm về ma túy nói riêng trên cơ sở và bị chi phối bởi nội dung và chất lượng
các quy định của pháp luật, các văn bản hướng dẫn áp dụng quy định của pháp
luật về các tội phạm về ma túy; chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố chủ quan của
người áp dụng (nhận thức, thái độ, kĩ năng…). Đánh giá thực tiễn xét xử các tội
phạm về ma túy là đánh giá hoạt động áp dụng pháp luật trong xét xử các tội
phạm về ma túy, cụ thể và cơ bản là hoạt động định tội, định tội danh, định
khung hình phạt và quyết định hình phạt. Đánh giá thực tiễn xét xử các tội phạm
về ma túy hướng đến mục tiêu nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong xét xử

2

Xem thêm Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về nhiệm vụ trọng tâm công tác tư
pháp và Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020.


5
tội phạm. Trên bình diện khoa học, các nội dung nói trên đều đã được nghiên
cứu, đề cập đến ở các góc độ và mức độ khác nhau. Cụ thể là:
(1) Những vấn đề lý luận chung về quy định tội phạm, định tội, định tội
danh và quyết định hình phạt được tổng kết, phân tích trong:
- Các giáo trình luật hình sự Việt Nam như Giáo trình luật hình sự Việt
Nam - phần các tội phạm (PGS. TS Võ Khánh Vinh chủ biên, Nxb Công an
nhân dân, 2001), Giáo trình luật hình sự Việt Nam tập 2 (Trường Đại học Luật
Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2009) …;
- Các sách chuyên khảo có nội dung lý luận liên quan bao gồm: Luật hình
sự Việt Nam – quyển 1 Những vấn đề chung (Đào Trí Úc, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội, 2000, trang 376 – 391); Trách nhiệm hình sự và hình phạt (PGS. TS.
Nguyễn Ngọc Hòa chủ biên, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, 2001); Định tội
danh: lí luận, hướng dẫn mẫu và 350 bài thực hành (PGS. TSKH Lê Cảm –

PGS. TS. Trịnh Quốc Toản, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2004); Định tội danh
và quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt Nam (Lê Văn Đệ, Nxb Công an
nhân dân, 2004); Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (phần
chung) (TSKH. PGS Lê Văn Cảm, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2005, trang
186 – 198); Định tội danh và quyết định hình phạt (TS. Dương Tuyết Miên, Nxb
Lao động-xã hội, 2007); Sửa đổi Bộ luật hình sự - những nhận thức cần thay
đổi? (GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa chủ biên, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2015, trang
160 - 195) …;
- Luận văn thạc sĩ như Định tội danh đối với các tội phạm về ma túy của
tác giả Nguyễn Thanh Dung (Đại học quốc gia Hà Nội, năm bảo vệ 2012) …;
- Các bài viết đăng trên tạp chí chuyên ngành như Một số vấn đề về định
tội theo BLHS năm 1999 (Phạm Mạnh Hùng, Tạp chí Kiểm sát, số 8/2001, trang
13) …
(2) Các quy định của pháp luật hình sự hiện hành và các văn bản hướng
dẫn về các tội phạm ma túy đều được tổng kết, trích dẫn trong các giáo trình luật
hình sự Việt Nam (phần các tội phạm) của các cơ sở đào tạo luật ở Việt Nam;
(3) Đánh giá thực trạng và đề xuất hoàn thiện quy định của pháp luật và
các văn bản pháp luật hình sự về các tội phạm về ma túy trong:


6
- Đề án khoa học cấp Bộ Phân tích, đánh giá và kiến nghị nhằm hoàn
thiện các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực hình sự phục vụ nhiệm vụ
sửa đổi BLHS năm 1999 (Bộ Tư pháp, Chủ nhiệm đề tài: TS. Trần Văn Dũng,
nghiệm thu 2015)…;
- Các bài tham luận trong các hội thảo khoa học về hoàn thiện pháp luật
hình sự như Hoàn thiện quy định của BLHS về các tội phạm ma túy của TS.
Nguyễn Tuyết Mai trong Kỷ yếu hội thảo khoa học “Hoàn thiện các quy định
trong phần các tội phạm của BLHS” (2009, trường Đại học Luật Hà Nội); Bài
tham luận Quy định mới về các tội phạm về ma túy trong BLHS năm 2015 và

một số vấn đề cần chú ý khi triển khai áp dụng của TS. Nguyễn Tuyết Mai trong
Kỷ yếu hội thảo “Những quy định mới trong phần các tội phạm của BLHS năm
2015 (2016, trường Đại học Luật Hà Nội) …;
(4) Kết quả và tồn tại, khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn xét xử các tội
phạm về ma túy liên tục được các bộ, ngành tổng kết, rút kinh nghiệm cũng như
thu hút được nhiều ý kiến bình luận tham gia góp ý của các nhà khoa học, các
cán bộ làm công tác thực tiễn. Đó là:
- Báo cáo tổng kết các năm của ngành Tòa án;
- Tham luận của các Tòa hình sự, Tòa phúc thẩm liên quan đến xét xử
các tội phạm;
- Các bài viết đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành như Bài tổng hợp
Cần sửa đổi, bổ sung Thông tư liên tịch số 17 hướng dẫn áp dụng một số quy
định tại chương XVIII – “Các tội phạm về ma túy” của Bộ luật hình sự năm
1999 đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 20 (tháng 10/2011, trang 29-37) số chuyên
đề Kinh nghiệm thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án về tội
phạm ma túy; Bài viết Những khó khăn, vướng mắc văn bản 234 ngày 17/9/2014
của TANDTC được tháo gỡ góp phần tích cực đấu tranh với tội phạm ma túy,
Đại tá Phạm Văn Chình (Phó Cục trưởng Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về ma
túy) đăng trên chuyên trang thông tin điện tử của Cục cảnh sát điều tra tội phạm
về ma túy [3] ...; Bài viết Pháp luật về ma túy và thực tiễn của tác giả Bùi Thị

3

/>

7
Phương Quỳnh đăng trên trang điện tử của Khoa luật trường Đại học Vinh [4];
Bài viết Quy định của pháp luật về tội phạm ma túy, thực tiễn và kiến nghị của
tác giả Phạm Thị Hồng Đào đăng trên cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp [5];
Các công trình nghiên cứu trên hướng tới các mục đích nghiên cứu khác

nhau, với các thời điểm nghiên cứu khác nhau. Ở các góc độ và mức độ khác
nhau, các nghiên cứu trên đều đã chỉ ra được một số vướng mắc, bất cập, khó
khăn trong thực tiễn xét xử các tội phạm về ma túy, có liên quan đến hạn chế
trong quy định của pháp luật thực định về các tội phạm về ma túy, và đề xuất
hoàn thiện quy định của chương Các tội phạm về ma túy trong BLHS năm 1999
và BLHS năm 2015. Nhìn chung, có thể nhận xét tổng quan về tình hình nghiên
cứu có liên quan đến đề tài như sau:
Thứ nhất, một số công trình đã nghiên cứu chuyên sâu những vấn đề lý
luận của việc quy định tội phạm, các hoạt động áp dụng pháp luật hình sự, mối
quan hệ giữa quy định tội phạm và thực tiễn xét xử tội phạm. Tuy nhiên, các
nghiên cứu đều trên bình diện chung mà chưa gắn trực tiếp và chuyên biệt với
các tội phạm cụ thể, trong đó có các tội phạm về ma túy;
Thứ hai, các nghiên cứu đánh giá thực tiễn xét xử các tội phạm về ma túy
còn thiếu tổng thể, chỉ gắn với một hoặc một số trong các hoạt động như định
tội, định tội danh, định khung hình phạt, quyết định hình phạt. Hầu hết các đánh
giá đều không đặt trong mối liên hệ với nền tảng lý luận của việc đánh giá.
Thứ ba, các đánh giá thực tiễn luôn được xác định và giới hạn ở thời điểm
hoặc giai đoạn nghiên cứu nhất định, như vậy một số đề xuất tương ứng có thể
không còn có giá trị tham khảo. Bối cảnh hiện tại đã ghi nhận hàng loạt diễn
biễn rất mới trong hoạt động lập pháp hình sự nói chung, về các tội phạm về ma
túy nói riêng. Đó là Quốc hội đã thông qua BLHS năm 2015 thay thế BLHS
năm 1999; BLHS năm 2015 có một số sai sót nên bị dừng hiệu lực thi hành;
BLHS năm 2015 được sửa đổi, bổ sung vào năm 2017, sẽ có hiệu lực vào ngày
01/08/2018; Trong đó quy định của chương Các tội phạm về ma túy trong BLHS
năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 liên tục được sửa đổi so với quy định
tương ứng trong BLHS năm 1999 và BLHS năm 2015. Vì vậy, nhiệm vụ mới
của việc nghiên cứu, đánh giá thực tiễn xét xử các tội phạm về ma túy theo
4
5


/> />

8
BLHS năm 1999 được đặt ra là nhằm phục vụ triển khai áp dụng BLHS năm
2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Đề tài Đánh giá thực tiễn xét xử các tội phạm về ma túy theo BLHS năm
1999 phục vụ triển khai áp dụng BLHS năm 2015 được thực hiện trên cơ sở
công nhận, kế thừa một số kết quả nghiên cứu đã công bố như những vấn đề lý
luận về quy định tội phạm, định tội, quyết định hình phạt…; những tổng kết, rút
kinh nghiệm trong thực tiễn xét xử các tội phạm về ma túy theo BLHS năm
1999;
Trên cơ sở lý luận về tội phạm và áp dụng pháp luật hình sự trong các
nghiên cứu khoa học đã công bố, đề tài phát triển các nội dung lý luận này gắn
với các tội phạm về ma túy.
Đề tài thu thập, nghiên cứu, phân tích các bản án, quyết định của Tòa án,
một mặt kiểm nghiệm lại các kết luận về thực tiễn xét xử các tội phạm về ma túy
đã công bố, mặt khác nhằm bảo đảm tính xác thực, tính cập nhật và độc lập của
các đánh giá trong đề tài.
Điểm mới của đề tài là đối chiếu những vướng mắc, thiếu sót trong thực
tiễn xét xử các tội phạm về ma túy theo BLHS năm 1999 với các quy định của
BLHS năm 1999, BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, để nhận định về
vai trò của thực tiễn xét xử các tội phạm về ma túy trong việc kiểm tra tính
chính xác, khoa học và giá trị của các quy định của pháp luật, đánh giá các quy
định sửa đổi trong BLHS năm 2015 trong việc đáp ứng yêu cầu đặt ra từ thực
tiễn xét xử các tội phạm về ma túy, đề xuất những nội dung cần chú ý khi triển
khai áp dụng quy định của BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung BLHS năm 2017
trong xét xử các tội phạm về ma túy.
3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
- Thống nhất nhận thức về các quy định của BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ
sung năm 2017– cơ sở pháp lý cho hoạt động xét xử các tội phạm về ma túy

trong tình hình mới; đặc biệt là quy định mới, sửa đổi của BLHS năm 2015 tháo
gỡ những vướng mắc của thực tiễn.
- Kiến nghị liên quan đến những bất cập của BLHS năm 1999, vướng mắc
trong thực tiễn xét xử các tội phạm về ma túy theo BLHS năm 1999 nhưng chưa
được khắc phục trong BLHS năm 2015;


9
- Kiến nghị liên quan đến những vấn đề mới phát sinh của BLHS năm
2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 …
4. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Làm rõ nhận thức lý luận cơ bản về thực tiễn xét xử các tội phạm về ma
túy, bao gồm: lý luận về định tội, định tội danh, định khung hình phạt và quyết
định hình phạt; cơ sở khoa học và căn cứ pháp lý của quy định tội phạm và xét
xử tội phạm, vai trò của thực tiễn xét xử trong hoàn thiện pháp luật;
- Đánh giá thực tiễn lập pháp hình sự về các tội phạm về ma túy ở Việt
Nam, đối chiếu với cơ sở lý luận của việc quy định tội phạm và kiểm nghiệm
của thực tiễn;
- Đánh giá hoạt động định tội, định tội danh, định khung, quyết định hình
phạt đối với các tội phạm về ma túy theo BLHS năm 1999, trong đó cần chỉ ra
những thiếu sót, vướng mắc;
- Chỉ ra các nguyên nhân của thiếu sót, vướng mắc trong thực tiễn xét xử
các tội phạm về ma túy: do quy định của luật còn thiếu hay bất cập; do giải
thích, hướng dẫn chưa đầy đủ hoặc chưa hợp lý; do chuyển biến mới của tình
hình tội phạm; do trình độ, năng lực, thái độ của cán bộ áp dụng pháp luật…
- Phân tích những nội dung sửa đổi, bổ sung quy định về các tội phạm về
ma túy trong BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017; đánh giá những nội
dung đã khắc phục thiếu sót của BLHS năm 1999, vướng mắc của thực tiễn; chỉ
ra những nội dung cần được tiếp tục khắc phục; những hạn chế trong quy định
của BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017; những nội dung cần được được

hướng dẫn cụ thể trong triển khai áp dụng, những nội dung cần tiếp tục nghiên
cứu quy định…
- Kiến nghị khắc phục: về hoàn thiện quy định của pháp luật, về giải thích
hướng dẫn áp dụng quy định của pháp luật, về bồi dưỡng, nâng cao trình độ
chuyên môn nghiệp vụ, rèn luyện ý thức của cán bộ áp dụng…
5. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu của đề tài
Giới hạn nội dung: Đề tài đánh giá thực tiễn xét xử các tội phạm về ma
túy theo quy định của BLHS năm 1999, tập trung ở một số nội dung như:


10
- Thực tiễn định tội, định tội danh, định khung hình phạt và quyết định hình
phạt đối với các tội phạm về ma túy: Đây là các hoạt động cơ bản, chủ yếu trong
áp dụng pháp luật hình sự xét xử tội phạm.
- Thực tiễn xác định loại và định lượng các chất ma túy, tiền chất trong xét
xử các tội phạm về ma túy: Đây là hoạt động đặc thù trong xét xử các tội phạm
về ma túy. Quá trình triển khai áp dụng có nhiều vướng mắc và nhiều ý kiến
tranh luận.
- Thực tiễn xét xử tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm
đoạt chất ma túy: Đây là tội phạm ma túy diễn ra chiếm tỉ trọng lớn trong các tội
phạm về ma túy, có nhiều quan điểm tranh luận về xử lý tội phạm;
Giới hạn thời gian: Đề tài nghiên cứu thực tiễn xét xử các tội phạm về ma
túy trong giai đoạn áp dụng BLHS năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009, cơ bản
là từ năm 2010 đến năm 2015, có cập nhật thực tiễn xét xử đến thời điểm hoàn
thành và công bố đề tài (đầu năm 2017).
Giới hạn không gian: Đề tài phân tích thực tiễn xét xử các tội phạm về ma
túy trên phạm vi cả nước, có chú trọng thực tiễn xét xử ở một số tỉnh, thành phố
trọng điểm về ma túy.
Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu cơ bản là các bản án sơ
thẩm, phúc thẩm, quyết định giám đốc thẩm về các tội phạm về ma túy được xét

xử trong giai đoạn 2010 – 2015 (số lượng 150 bản án, quyết định).
Về cơ bản, nhóm nghiên cứu thu thập ngẫu nhiên các bản án sơ thẩm,
phúc thẩm, quyết định giám đốc thẩm về các tội phạm về ma túy. Bên cạnh đó,
nhóm tập hợp nghiên cứu các bản án, quyết định được đề xuất thành án lệ, hoặc
có nhiều tranh luận. Đối với các bản án, quyết định có nhiều ý kiến trái chiều,
nhóm nghiên cứu tiếp tục tập hợp, xem xét cả các quyết định kháng nghị phúc
thẩm và giám đốc thẩm về vụ án để có đánh giá tổng thể, chính xác hơn.
Các bản án sơ thẩm được thu thập từ Tòa án nhân dân cấp tỉnh một số địa
phương có số vụ xét xử tội phạm về ma túy nhiều và phức tạp là Thái Nguyên,
Quảng Ninh, Bắc Ninh, Hà Nội, Nghệ An, Đăk Lăk, TP. Hồ Chí Minh; các bản
án phúc thẩm được thu thập từ các Tòa phúc thẩm TANDTC (Tòa án nhân dân
cấp cao); các quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán TANDTC.
Các kết quả nghiên cứu bản án, quyết định của Tòa án được nhóm nghiên


11
cứu đối chiếu, rà soát với số liệu thống kê chính thức của Tòa án, các báo cáo rút
kinh nghiệm, tổng kết hoạt động xét xử các tội phạm về ma túy theo quy định
của BLHS năm 1999 của ngành Tòa án.
Nhóm nghiên cứu cũng tập hợp, phân tích một số văn bản chỉ đạo hướng
dẫn áp dụng quy định về các tội phạm về ma túy của các cơ quan chức năng,
liên quan đến một số vướng mắc, tranh luận của thực tiễn.
6. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Các phương pháp nghiên cứu sẽ được sử dụng trong nghiên cứu đề tài là:
Phân tích, so sánh, tổng hợp, thống kê khảo sát, đọc bản án…
Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng cơ bản trong toàn bộ quá
trình thực hiện đề tài, bao gồm phân tích, tổng hợp nhưng nội dung lý luận, phân
tích, tổng hợp quy định về các tội phạm ma túy trong các BLHS, phân tích, tổng
hợp nội dung cụ thể của việc áp dụng pháp luật hình sự trong định tội, định tội
danh, định khung hình phạt, quyết định hình phạt, …

Phương pháp so sánh được sử dụng nhiều khi nghiên cứu thực tiễn lập
pháp hình sự về các tội phạm về ma túy, so sánh các BLHS và các lần sửa đổi,
so sánh pháp luật thực định với cơ sở lý luận của việc quy định, so sánh áp dụng
luật với quy định luật, so sánh áp dụng luật trong các trường hợp tương tự…
Phương pháp thống kê được sử dụng trong quá trình đọc bản án và số liệu
thống kê chính thức của Tòa án.
7. Thành viên tham gia thực hiện đề tài
* Ban chủ nhiệm đề tài:
- TS. Nguyễn Tuyết Mai, ĐH Luật Hà Nội, chủ nhiệm đề tài
- ThS. Đào Phương Thanh, ĐH Luật Hà Nội, thư kí đề tài
* Các thành viên tham gia thực hiện đề tài:
- ThS. Nguyễn Xuân Thiện, Phó Vụ trưởng Vụ Giám đốc - Kiểm tra I
TANDTC
- ThS. Nguyễn Thị Bình, Thẩm tra viên Vụ Giám đốc - Kiểm tra I
TANDTC
- ThS. Lưu Hải Yến, ĐH Luật Hà Nội.


12
II. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
1. MỘT SỐ NỘI DUNG LÍ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN THỰC TIỄN XÉT XỬ
CÁC TỘI PHẠM VỀ MA TÚY
1.1 Nhận thức chung về thực tiễn xét xử tội phạm và quy định của
pháp luật
1.1.1 Thực tiễn xét xử tội phạm
Không có nhiều nghiên cứu lý luận về thực tiễn xét xử tội phạm. Khi đề
cập đến thực tiễn xét xử tội phạm, đa số các ý kiến đều mặc định hoạt động xét
xử tội phạm là một hoạt động áp dụng pháp luật của Tòa án, và là một trong
những hoạt động cơ bản, trung tâm của hoạt động áp dụng pháp luật. Trong một
nghiên cứu lý luận cơ bản về luật hình sự, thực tiễn xét xử tội phạm được xác

định có 4 hình thức chủ yếu là (1) cụ thể hóa và áp dụng pháp luật để giải quyết
các vụ án tại phiên tòa; (2) tự do sáng tạo pháp luật của Tòa án”; (3) các án lệ;
(4) tổng kết và đưa ra những giải thích thống nhất có tính chất chỉ đạo về việc áp
dụng pháp luật [6]. Ở góc độ các hoạt động tố tụng của Tòa án, thực xét xử tội
phạm thể hiện chủ yếu ở thực tiễn định tội (bao gồm cả định tội danh), thực tiễn
định khung hình phạt và quyết định hình phạt.
Định tội là quá trình so sánh, đối chiếu, tìm ra sự đồng nhất giữa hành vi
nguy hiểm cho xã hội đã thực hiện với các dấu hiệu pháp lí của một tội phạm cụ
thể được quy định trong BLHS. Định tội danh là việc gọi tên của tội phạm đã
thực hiện. Định tội danh chỉ là một khâu và là khâu cuối của hoạt động định tội
nói chung và việc này chỉ được đặt ra khi BLHS có đặt tội danh cho từng loại
hành vi phạm tội cụ thể. Trong thực tế, “chúng ta thường đồng nhất giữa định tội
và định tội danh và thường gọi chung là định tội danh” [7]. Với vai trò xác định
hành vi đã thực hiện có phải là hành vi phạm tội hay không, định tội cần dựa vào
căn cứ pháp lý là các dấu hiệu đặc trưng tội phạm được phản ánh trong cấu
thành tội phạm (cơ bản); tội danh giúp họ gọi tên của tội phạm đã thực hiện
(trong trường hợp hành vi đã thực hiện là tội phạm).

6

TSKH.PGS Lê Văn Cảm, Thực tiễn xét xử và Đạo luật hình sự, trong sách Những vấn đề cơ bản trong khoa
học luật hình sự (phần chung), NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 2005, trang 189
7
GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa (2016), Sửa đổi BLHS những nhận thức cần thay đổi?, sđd, trang và xem thêm Võ
Khánh Vinh (2000) Giáo trình luật hình sự Việt Nam, sđd; Nguyễn Thanh Dung (2012) Định tội danh đối với
các tội phạm về ma túy, Luận văn thạc sĩ, sđd.


13
Định khung hình phạt là hoạt động tiếp theo sau khi đã xác định xong tội

danh. Về nguyên tắc, chỉ trên cơ sở định tội danh xong, Tòa án mới xác định
khung hình phạt. Nếu điều luật về tội phạm chỉ có một khung hình phạt thì
khung hình phạt đã được xác định một cách đương nhiên, hay nói cách khác Tòa
án đương nhiên không cần phải xác định khung hình phạt. Khung hình phạt là
giới hạn tối thiểu và giới hạn tối đa (theo luật định) của hình phạt được phép áp
dụng. Định khung hình phạt ảnh hưởng trực tiếp đến việc quyết định hình phạt.
Khi định khung hình phạt, Tòa án đối chiếu các tình tiết thực tế với các dấu hiệu
được quy định trong CTTP giảm nhẹ hoặc CTTP tăng nặng của tội phạm cụ thể.
Nếu các tình tiết thực tế thỏa mãn các dấu hiệu được quy định trong CTTP
(giảm nhẹ, tăng nặng) nào thì Tòa án sẽ xác định khung hình phạt tương ứng với
CTTP đó. Trong phạm vi các giới hạn của khung hình phạt, hình phạt cụ thể sẽ
được quyết định. Có ý kiến cho rằng định khung hình phạt không phải là một
hoạt động độc lập mà thuộc về hoạt động quyết định hình phạt [8].
Quyết định hình phạt, theo nghĩa hẹp, là “việc Tòa án lựa chọn loại hình
phạt cụ thể (bao gồm hình phạt chính và có thể cả hình phạt bổ sung) với mức
độ cụ thể trong phạm vi luật định để áp dụng đối với người phạm tội” [9]. Theo
nghĩa rộng, quyết định hình phạt – không chỉ bao gồm quyết định hình phạt
chính, quyết định hình phạt bổ sung, mà còn bao gồm cả quyết định biện pháp
chấp hành hình phạt, quyết định các biện pháp tư pháp với mục đích thay thế
hoặc hỗ trợ cho hình phạt, quyết định miễn trách nhiệm hình sự (TNHS) [10],
quyết định miễn hình phạt. Khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào các quy
định của BLHS, tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm
tội; nhân thân người phạm tội; các tình tiết giảm nhẹ, tặng nặng TNHS.
1.1.2 Quy định tội phạm trong pháp luật hình sự
Quy định tội phạm trong pháp luật hình sự là việc quy định một loại hành
vi này hay một loại hành vi khác là tội phạm và chế tài hình sự đối với hành vi
đó.

8


Nguyễn Ngọc Hòa (2001), Trách nhiệm hình sự và hình phạt, sđd tr.67.
Nguyễn Ngọc Hòa (2001), Trách nhiệm hình sự và hình phạt, sđd tr.67.
10
Theo GS. TSKH Lê Cảm, miễn TNHS là một nội dung của hoạt động quyết định hình phạt nhưng không chỉ
thuộc về giai đoạn quyết định hình phạt mà còn có thể thuộc về giai đoạn định tội danh, và có thể được thực hiện
bởi các cơ quan tiến hành tố tụng khác Tòa án. Xem Lê Cảm (2000), Các nghiên cứu chuyên khảo về Phần
chung luật hình sự, NXB CAND, tr.753.
9


14
Quy định tội phạm thuộc về chính sách hình sự, bao gồm tội phạm hóa và
phi tội phạm hóa, hình sự hóa và phi hình sự hóa. Tội phạm hóa là quy định một
hành vi nguy hiểm cho xã hội nào đó là tội phạm. Phi tội phạm hóa là việc loại
bỏ các hành vi đang bị coi là tội phạm nhưng tính chất, mức độ nguy hiểm cho
xã hội không còn ở mức đáng kể, không cần thiết phải sử dụng biện pháp chế tài
hình sự. Hình sự hóa là việc xác định loại hình phạt, khung hình phạt, điều kiện
quyết định hình phạt đối với loại tội phạm này hay tội phạm khác. Phi hình sự
hóa là việc điều chỉnh loại bỏ bớt khung hình phạt, loại hình phạt, điều kiện áp
dụng hình phạt đối với loại tội phạm nhất định.
Việc quy định tội phạm trong pháp luật hình sự là kết quả của quá trình
đánh giá tổng thể, toàn diện, cân nhắc kĩ lưỡng và trả lời các câu hỏi, bao gồm:
(1) Hành vi được xem xét có tính chất, mức độ nguy hiểm đến mức phải
xử lý bằng các biện pháp hình sự không?
Để trả lời câu hỏi này, cần xem xét hành vi gây thiệt hại đáng kể hay
không đáng kể cho các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ; thực trạng, diễn
biến của hành vi như thế nào, có phổ biến không, gia tăng hay đã được kiềm
chế… Kết quả của việc xem xét tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi có ý
nghĩa nền tảng cho quyết định tội phạm hóa hay phi tội phạm hóa, hình sự hóa
hay phi hình sự hóa. Đặc biệt là trong 3 trường hợp: Hành vi được xem xét là

hành vi mới thể hiện tính nguy hiểm đáng kể và ở mức độ phổ biến; Hành vi
được xem xét đang bị coi là tội phạm, nhưng đã mất đi tính nguy hiểm đáng kể
cho xã hội hoặc không còn phổ biến nữa; Hành vi được xem xét đang bị coi là
tội phạm, vẫn thể hiện tính nguy hiểm đáng kể, nhưng mức độ nguy hiểm có
chiều hướng tăng hoặc giảm.
Trong tất cả các lần quy định, sửa đổi, bổ sung các tội phạm về ma túy,
nhà làm luật đều rà soát, cân nhắc tính chất nguy hiểm cho xã hội của các hành
vi về ma túy để đi đến quyết định có điều chỉnh quy định về tội phạm và hình
phạt đối với các tội phạm về ma túy hay không. Đặc biệt, ở thời điểm sửa đổi,
bổ sung BLHS vào năm 1997, căn cứ vào tính chất nguy hiểm đáng kể và mức
độ phổ biến của các hành vi về ma túy ở Việt Nam, BLHS đã quy định mới 08
tội phạm về ma túy.


15
(2) Chính sách của Nhà nước trong việc xử lý hành vi nguy hiểm đáng kể
cho xã hội như thế nào?
Trường hợp hành vi được xem xét được khẳng định là đã mất đi tính nguy
hiểm đáng kể cho xã hội thì được coi là đủ cơ sở để phi tội phạm hóa đối với
hành vi đó, các câu hỏi tiếp theo không cần được đặt ra. Trường hợp hành vi
được xem xét được khẳng định là (vẫn) có tính nguy hiểm đáng kể cho xã hội,
thì không đương nhiên dẫn đến quyết định tội phạm hóa hay giữ nguyên quy
định về tội phạm. Trong các trường hợp này, bước tiếp theo phải xét đến chính
sách hình sự của Nhà nước trong giai đoạn hiện tại. Chính sách hình sự đối với
hành vi được xem xét cần được đặt trong tổng thể chính sách pháp luật của Nhà
nước nói chung, có cân nhắc quan điểm của quốc tế và phản ứng của người dân
(trong nước) đối với việc quy định hành vi được xem xét là tội phạm. Chính
sách của Nhà nước trong việc xử lý hành vi nguy hiểm cho xã hội bao gồm có
xử lý bằng biện pháp hình sự không và nếu xử lý hình sự thì xử lý ở mức độ
nào.

Trong lần sửa đổi, bổ sung BLHS vào năm 2009, khi xem xét hành vi sử
dụng trái phép chất ma túy, mặc dù hành vi này vẫn thể hiện tính chất nguy hiểm
đáng kể và mức độ phổ biến, song quan điểm và chính sách pháp luật của Nhà
nước có sự điều chỉnh phi tội phạm hóa đối với hành vi sử dụng trái phép chất
ma túy;
(3) Nếu xét thấy cần thiết xử lý hình sự đối với hành vi nguy hiểm cho xã
hội thì triển khai quy định tội phạm và hình phạt đối với tội phạm đó như thế
nào?
Quy định các tội phạm về ma túy phải tuân thủ các nguyên tắc về nguồn
quy định tội phạm và kĩ thuật lập pháp hình sự nói chung, đồng thời xét đến cả
khả năng chứng minh tội phạm... [11]
1.1.3 Mối quan hệ giữa thực tiễn xét xử tội phạm và quy định về tội phạm
Để quy định tội phạm có tính chính xác về khoa học, tính khả thi và hiệu
quả về mặt xã hội, thì quy định tội phạm phải dựa trên các căn cứ khoa học, tổng
kết tình hình tội phạm và tham khảo ý kiến của những nhà hoạt động thực tiễn.
Những quy định của pháp luật không dựa trên thực tiễn tội phạm và xét xử tội
11

Xem Chuyên đề 1 của Đề tài này.


16
phạm chỉ là những quy định chết hoặc không có giá trị xã hội. Những vướng
mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật thường liên quan đến sự thiếu chính xác,
thiếu hợp lý, thiếu tính dự liệu… trong các quy định của pháp luật. Như vậy,
thực tiễn xét xử tội phạm giúp kiểm tra “sự chính xác về mặt khoa học, tính khả
thi và hiệu quả về mặt xã hội”, cũng như góp phần khẳng định “tính quyết định
và giá trị xã hội” của các quy định của pháp luật. Thực tiễn xét xử tội phạm có
vai trò quan trọng trong việc sáng tạo và hoàn thiện quy định của pháp luật về
tội phạm [12].

Thực tiễn xét xử tội phạm cần là căn cứ thực tiễn cho việc rà soát và hoàn
thiện luật. Những vướng mắc của thực tiễn xét xử tội có thể có nguyên nhân từ
sự chưa hoàn thiện của pháp luật (luật chưa quy định, quy định không hợp lý, ...
Yêu cầu đặt ra là phải sửa đổi luật khắc phục những vướng mắc này. Trong
trường hợp vướng mắc của thực tiễn về các vấn đề đã có quy định của luật,
nhưng quy định còn chung chung, chưa có hướng dẫn cụ thể, hoặc đã có hướng
dẫn nhưng chưa rõ ràng, thiếu hợp lý dẫn đến thiếu thống nhất trong nhận thức
và áp dụng, thì cần nghiên cứu thêm để có các văn bản giải thích, hướng dẫn có
tính chất chỉ đạo. Tiến tới, các nội dung giải thích, hướng dẫn có tính chất chỉ
đạo này cần được xem xét để luật hóa hoặc ở các hình thức khác là nguồn của
luật hình sự.
1.2 Quy định các tội phạm về ma túy trong BLHS năm 1999 – căn cứ
pháp lý để xét xử tội phạm
1.2.1 BLHS năm 1999 kế thừa và hoàn thiện các quy định của BLHS
1985 về các tội phạm ma tuý, khẳng định cơ sở pháp lý đấu tranh toàn diện các
hành vi cung và cầu bất hợp pháp chất ma tuý ở Việt Nam. Chương XVIII Các
tội phạm về ma túy giữ nguyên quy định về các hành vi bị coi là tội phạm [13];
12

Xem TSKH.PGS Lê Văn Cảm, sđd, trang 187.
Chương XVIII BLHS 1999 - Các tội phạm về ma túy:
Điều 192 - Tội trồng cây thuốc phiện hoặc các loại cây khác có chứa chất ma túy;
Điều 193 - Tội sản xuất trái phép chất ma túy;
Điều 194 - Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy;
Điều 195 - Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất
ma túy;
Điều 196 - Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán các phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sản xuất hoặc
sử dụng trái phép chất ma túy;
Điều 197 - Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy;
Điều 198 - Tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy;

Điều 199 - Tội sử dụng trái phép chất ma túy;
Điều 200 - Tội cưỡng bức, lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy;
13


17
đồng thời có 03 điều chỉnh cơ bản:
- Thứ nhất, quy định gộp các tội tàng trữ trái phép chất ma túy, tội vận
chuyển trái phép chất ma túy, tội mua bán trái phép chất ma túy và tội chiếm
đoạt chất ma túy trong 01 điều luật ghép (Điều 194);
- Thứ hai, sửa đổi, bổ sung các khung chế tài (tình tiết định khung hình
phạt và hình phạt) đối với các tội phạm cụ thể;
- Thứ ba, quy định hình phạt bổ sung ngay trong điều luật về các tội
phạm cụ thể.
Hình phạt được quy định cho các tội phạm về ma tuý thể hiện rõ nét
đường lối xử lý nghiêm khắc. Trong tổng số 32 CTTP các tội phạm về ma tuý
trong BLHS năm 1999, hình phạt chính được quy định như sau:
- Phạt tiền:

1

(3,13%)

- Tù đến 3 năm:

2

(6,25%)

- Tù trên 3 năm đến 7 năm:


10

(31,25%)

- Tù trên 7 năm đến 15 năm: 8

(25%)

- Tù trên 15 năm:

6

(18,75%)

- Tù chung thân:

6

(18,75%)

- Tử hình:

3

(9,38%)

Những vướng mắc của thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma
tuý được giải quyết từng bước trong các văn bản hướng dẫn như Nghị quyết số
02/2003/NQ-HĐTP ngày 17-4-2003; Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày

12-5-2006, Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTCBTP ngày 24-12-2007.
Năm 2009, BLHS năm 1999 được sửa đổi, bổ sung lần thứ nhất, trong đó
có 2 sửa đổi quan trọng về các tội phạm về ma túy. Đó là: (1) Phi hình sự hoá
đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý; và (2) Bãi bỏ hình phạt tử hình
đối với tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy.
Tiếp tục hướng dẫn áp dụng quy định của BLHS về các tội phạm về ma
túy, tháo gỡ một số vướng mắc của các văn bản hướng dẫn, Thông tư liên tịch số
Điều 201 - Tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy khác.


18
08/2015/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 14-11/2015 được ban
hành, sửa đổi một số nội dung của Thông tư số 17/2007.
1.2.2 Một số nguyên tắc chung quy định các tội phạm về ma túy
- Về nguồn quy định tội phạm: Theo quy định của BLHS, “tội phạm là
hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS…” (Điều 8 BLHS).
Như vậy, kết quả của tội phạm hóa, hình sự hóa các hành vi về ma túy (phải)
được thể hiện trong BLHS. BLHS là nguồn duy nhất của luật hình sự Việt Nam,
là căn cứ pháp lý thống nhất và trực tiếp xác định hành vi có là tội phạm không
và hình phạt áp dụng như thế nào. Để cụ thể hóa, giải thích diễn đạt của điều
luật quy định tội phạm, TANDTC, VKSNDTC cùng các bộ ngành có liên quan
thường phối kết hợp ra các văn bản hướng dẫn ở dạng Nghị quyết của Hội đồng
thẩm phán TANDTC, Thông tư liên tịch… Từ năm 2005, Nghị quyết số 49/NQTW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2010 xác định: “Tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét
xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phát triển án lệ và xét xử giám đốc
thẩm, tái thẩm”. Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 quy định Hội đồng
Thẩm phán TANDTC có nhiệm vụ: “Lựa chọn quyết định giám đốc thẩm của
Hội đồng Thẩm phán TANDTC, bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, có
tính chuẩn mực của các Tòa án, tổng kết phát triển thành án lệ và công bố án lệ
để các Tòa án nghiên cứu, áp dụng trong xét xử” (Điểm c khoản 2 Điều 22). Từ

năm 2016, các án lệ được Hội đồng thẩm phán TANDTC thông qua và Chánh
án TANDTC kí quyết định công bố, là nguồn bổ trợ cho việc định tội danh và
quyết định hình phạt.
- Về kĩ thuật phân nhóm tội phạm và đặt tên chương tội phạm: Trong
BLHS, các tội phạm cụ thể được quy định trong phần các tội phạm, được phân
nhóm và quy định thành các chương. Tên chương là tên gọi cho nhóm tội danh,
phải bao quát được tất cả các tội danh và ngắn gọn. Việc quy định nhóm các tội
phạm về ma túy thành một chương được căn cứ vào khách thể loại của bị nhóm
tội phạm xâm hại. Một trong các công thức xây dựng tên chương là “Các tội
phạm về + đối tượng bị xâm phạm hoặc đối tượng có liên quan”. Tên chương
Các tội phạm về ma túy được xây dựng theo công thức này.
- Về điều luật quy định tội phạm: Một điều luật có thể quy định về một tội
phạm độc lập hoặc là điều luật quy định ghép nhiều tội phạm. Cơ sở của việc lựa


19
chọn là tính chất của tội phạm, các dấu hiệu đặc trưng, khả năng chứng minh tội
phạm, đường lối xử lý… Các lần sửa đổi, bổ sung BLHS vào năm 1997, năm
1999 và năm 2015 đều cân nhắc đến kĩ thuật này. Các ý kiến tranh luận tập
trung vào việc cân nhắc quy định các tội tàng trữ trái phép chất ma túy, tội vận
chuyển trái phép chất ma túy, tội mua bán trái phép chất ma túy và tội chiếm
đoạt chất ma túy trong các điều luật độc lập (như quy định trong BLHS năm
1985 sửa đổi lần thứ 4 và BLHS năm 2015) hay trong cùng một điều luật (như
quy định trong BLHS năm 1999). Ngoài tính chất nguy hiểm của hành vi phạm
tội, nhà làm luật còn xét đến khả năng chứng minh tội phạm trên thực tế.
- Về kĩ thuật xây dựng tội danh: Tội danh là tên của tội phạm được luật
hình sự xác định và nhìn chung có sự khác biệt tương đối rõ theo luật hình sự
từng quốc gia. Tội danh được biểu đạt bằng từ hoặc cụm từ. Việc xây dựng tội
danh cần đáp ứng yêu cầu về tính chính xác, tính hệ thống, đúng về ngữ học và
ngắn gọn. Đối với những loại hành vi nguy hiểm cho xã hội đã có sẵn thường

ngữ phản ánh các khái niệm tương ứng, nhà làm luật có thể kế thừa các thường
ngữ có sẵn đó để đặt tội danh. Đối với những loại hành vi nguy hiểm cho xã hội
phát sinh trong các ngành, lĩnh vực mới, nhà làm luật phải xây dựng tội danh từ
đầu bằng cách thuật ngữ hóa từ ngữ thông thường, sao phỏng và dịch nghĩa [14].
Các tội danh về ma túy đa số ở dạng liệt kê các hành vi phạm tội.
- Về kĩ thuật xây dựng CTTP: CTTP là kết quả phản ánh tội phạm trong
luật có nội dung là sự mô tả tội phạm qua các dấu hiệu thuộc các yếu tố của tội
phạm nhằm (1) phân biệt các tội phạm, (2) phân biệt trường hợp bị coi là tội
phạm với trường hợp chưa bị coi là tội phạm của cùng loại hành vi vi phạm, (3)
phân biệt các trường hợp tội phạm chưa hoàn thành với trường hợp tội phạm
hoàn thành của cùng một tội danh, (4) phân biệt giữa các hành vi đồng phạm với
hành vi thực hiện tội phạm của cùng một tội danh, (5) phân biệt các trường hợp
phạm tội có tính chất nguy hiểm khác với trường hợp phạm tội thông thường của
cùng một tội danh [15]. Trước BLHS năm 2015, đối với các tội phạm về ma túy,
CTTP được xây dựng chỉ thể hiện ý nghĩa (1) và (5), riêng Điều 192 BLHS năm
1999 thể hiện cả ý nghĩa (2). Trên thực tế, các nghị quyết, thông tư đã hướng
dẫn chi tiết, cụ thể hóa áp dụng quy định của điều luật để đạt đầy đủ cả 5 ý nghĩa
14

Xem GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa, Kĩ thuật lập pháp hình sự trong sửa đổi Bộ luật hình sự, trong Sửa đổi Bộ
luật hình sự - Những nhận thức cần thay đổi, NXB Tư pháp, 2015, trang 179 – 183.
15
Xem GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa, sdd, trang 191, 192.


×