ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THU HƢƠNG
TéI “LµM NHôC NG¦êI KH¸C”
THEO LUËT H×NH Sù VIÖT NAM. Lý LUËN Vµ THùC TIÔN
XÐT Xö LO¹I TéI PH¹M NµY TR£N §ÞA BµN THµNH PHè Hµ NéI
LUẬT VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THU HƢƠNG
TéI “LµM NHôC NG¦êI KH¸C”
THEO LUËT H×NH Sù VIÖT NAM. Lý LUËN Vµ THùC TIÔN
XÐT Xö LO¹I TéI PH¹M NµY TR£N §ÞA BµN THµNH PHè Hµ NéI
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04
LUẬT VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN NGỌC CHÍ
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Thu Hƣơng
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục từ viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục các biểu đồ
MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI LÀM NHỤC
NGƢỜI KHÁC 7
1.1. Khái niệm Tội làm nhục ngƣời khác 7
1.2. Ý nghĩa của việc quy định Tội làm nhục ngƣời khác trong
luật hình sự Việt Nam 9
1.3. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của các quy định
pháp luật hình sự Việt Nam từ thời phong kiến đến trƣớc khi
ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 về Tội làm nhục ngƣời khác 12
1.3.1. Tội làm nhục người khác trong thời kỳ phong kiến và Pháp thuộc 12
1.3.2. Tội làm nhục người khác trong thời kỳ từ khi Cách mạng
tháng Tám năm 1945 thành công cho đến trước khi Bộ luật
hình sự năm 1985 14
1.3.3. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến trước
khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 16
1.4. Tội làm nhục ngƣời khác trong luật hình sự một số nƣớc 19
Kết luận chƣơng 1 24
Chƣơng 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 VÀ
THỰC TIỄN XÉT XỬ TỘI LÀM NHỤC NGƢỜI KHÁC
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI 25
2.1. Dấu hiệu pháp lý đặc trƣng của Tội làm nhục ngƣời khác
theo Bộ luật hình sự năm 1999 và phân biệt tội này với một
số tội phạm khác cùng chƣơng 25
2.1.1. Những dấu hiệu pháp lý đặc trưng của Tội làm nhục người khác
theo bộ luật hình sự năm 1999 25
2.1.2. Phân biệt Tội làm nhục người khác với tội phạm khác trong Bộ
luật hình sự năm 1999 32
2.2. Thực tiễn xét xử của Bộ luật hình sự năm 1999 về Tội làm
nhục ngƣời khác trên địa bàn thành phố Hà nội từ năm
2009-2013 35
2.3. Những tồn tại, hạn chế trong xét xử Tội làm nhục ngƣời khác
trong công tác xét xử trên địa bàn Thành phố Hà Nội và
nguyên nhân của nó 43
Kết luận chƣơng 2 53
Chƣơng 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ CÁC GIẢI PHÁP
NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẤU TRANH PHÒNG CHỐNG
TỘI LÀM NHỤC NGƢỜI KHÁC TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH
PHỐ HÀ NỘI 54
3.1. Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả phòng, chống Tội
làm nhục ngƣời khác 54
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam về Tội
làm nhục ngƣời khác 57
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự đối
với Tội làm nhục ngƣời khác 60
3.3.1. Tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về
quyền con người và Tội làm nhục người khác 60
3.3.2. Nâng cao hiệu quả công tác hòa giải ở cơ sở 65
3.3.3. Nâng cao hiệu quả hoạt động của Cơ quan Công an, Viện kiểm
sát, Tòa án về Tội làm nhục người khác 67
Kết luận chƣơng 3 77
KẾT LUẬN 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 81
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLHS: Bộ luật hình sự
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu bảng
Tên bảng
Trang
Bảng 2.1:
So sánh các vụ án về Tội làm nhục người khác với tổng
số các vụ án hình sự trên địa bàn thành phố Hà Nội
36
Bảng 2.2.
Tình hình xét xử các vụ án về Tội làm nhục người khác
trên địa bàn thành phố Hà Nội
37
Bảng 2.3.
So sánh tỷ lệ Tội làm nhục người khác với nhóm tội xâm phạm
tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự (Chương XII)
40
Bảng 2.4.
Hình phạt được áp dụng đối với các bị cáo phạm Tội làm
nhục người khác từ năm 2009 đến năm 2013
42
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Số hiệu biểu đồ
Tên biểu đồ
Trang
Biểu đồ 2.1.
Các vụ án về Tội làm nhục người khác từ năm 2009
đến năm 2013
39
Biểu đồ 2.2.
Các bị cáo về Tội làm nhục người khác từ năm 2009
đến năm 2013
39
Biểu đồ 2.3.
Số vụ án Tội làm nhục người khác và số vụ án của
Chương XII từ năm 2009 đến năm 2013
41
Biểu đồ 2.4.
Số bị cáo Tội làm nhục người khác và số bị cáo của
Chương XII từ năm 2009 đến năm 2013
41
Biểu đồ 2.5.
Tỷ lệ hình phạt tù áp dụng đối với các bị cáo phạm Tội
làm nhục người khác trong 5 năm (từ năm 2009 đến
năm 2013)
43
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, thực hiện chính sách đổi mới, nền kinh tế
nước ta đã từng bước ổn định và phát triển. Các lĩnh vực hành chính, văn
hoá… cũng từng bước được cải cách, đổi mới; đời sống xã hội không ngừng
được cải thiện, thu nhập và đời sống của nhân dân ngày càng được nâng lên.
Bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được thì mặt trái của nên kinh tế thị
trường cũng ngày càng bộc lộ và tác động không nhỏ tới đời sống xã hội, làm
cho tình hình an ninh, chính trị có những diễn biến phức tạp. Chính phủ đã có
nhiều biện pháp cấp bách tăng cường bảo vệ an ninh, trật tự an toàn xã hội
trong tình hình mới. Các ngành, các cấp và toàn thể nhân dân đã tích cực
hưởng ứng và tham gia, tình hình trật tự an toàn xã hội nói chung có chuyển
biến tích cực, đạt được kết quả nhất định, góp phần ổn định tình hình chung của
đất nước. Tuy nhiên, tình hình tội phạm ở nước ta hiện nay vẫn có xu hướng
gia tăng và diễn biến phức tạp. Cơ cấu, thành phần tội phạm có thay đổi, đối
tượng phạm tội là thanh, thiếu niên ngày càng cao, đặc biệt là các tội xâm
phạm tính mạng, sực khỏe, nhân phẩm danh dự của con người như tội giết
người, tội hành hạ người khác, Tội làm nhục người khác ngày càng nhiều,
gây hậu quả hết sức nghiêm trọng gây lo lắng cho toàn xã hội, ảnh hưởng đến
sự phát triển của nền kinh tế, đến sự ổn định và an toàn đời sống người dân.
Pháp luật hình sự là một trong những công cụ sắc bén, hữu hiệu để
đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, góp phần đắc lực vào việc bảo vệ
độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân, tổ chức, góp phần duy trì trật tự an toàn xã hội, trật tự quản lý
kinh tế, bảo đảm cho mọi người được sống trong một môi trường xã hội và
sinh thái an toàn, lành mạnh, mang tính nhân văn cao [27]. Như vậy, bảo vệ
2
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân được coi là một trong những mục
tiêu quan trọng của Bộ luật Hình sự. Những quyền con người được pháp luật
nói chung và luật hình sự nói riêng bảo vệ là quyền được sống, quyền bất
khả xâm phạm về thân thể, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm. Vì vậy, Bộ luật
Hình sự đã quy định một phần riêng biệt quy định các tội phạm xâm phạm
tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của con người tại một chương
riêng trong đó có Tội làm nhục người khác. Tuy nhiên, do các quy định của
Luật hình sự Việt Nam về Tội làm nhục người khác còn chưa cụ thể rõ ràng,
chưa đảm bảo tính hệ thống đồng bộ, đặc biệt thiếu khái niệm cụ thể về hành
vi làm nhục người khác nên dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau không thống
nhất trong việc nhận thức các dấu hiệu pháp lý, định tội danh, đường lối xử
lý đối với tội phạm này.
Nhận thức được điều đó, tác giả đã nghiên cứu sâu sắc hơn nữa những
vấn đề lý luận về Tội làm nhục người khác và thực tế áp dụng tại thành phố
Hà Nội để từ đó đánh giá việc xét xử trong thực tiễn đưa ra kiến giải lập pháp
là mô hình lý luận và các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy phạm của
tội phạm này trong giai đoạn hiện nay để có những ý nghĩa lý luận- thực tiễn
pháp lý quan trọng và đáp ứng tính cấp thiết của xã hội. Chính vì vậy, tác giả
chọn đề tài Tội “Làm nhục người khác” theo Luật hình sự Việt Nam. Lý
luận và thực tiễn xét xử loại tội phạm này trên địa bàn Thành phố Hà Nội”
làm luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tội làm nhục người khác là một trong những tội phạm được đề cập rất
sớm trong luật Hình sự Việt Nam và được quan tâm nghiên cứu. Tội làm nhục
người khác được đề cập trong các giáo trình, sách pháp lý, đề tài nghiên cứu
sau khi Bộ luật hình sự năm 1985 được ban hành như: Giáo trình luật hình sự
Việt Nam (Phần các tội phạm) của Khoa luật, Đại học quốc gia Hà Nội, Nxb
3
Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 1997; Giáo trình luật hình sự Việt Nam, tập
II của Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 1998;
Bình luận khoa học Bộ luật hình sự của Viện khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1987 (tái bản năm 1992, 1997); đề tài khoa
học cấp Bộ “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn phục vụ xây dựng Bộ luật
hình sự (sửa đổi)”, mã số 95-98-107/ĐT của Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư
pháp, nghiệm thu năm 1998…
Sau khi Bộ luật hình sự năm 1999 được ban hành, Tội làm nhục người
khác được đề cập trong công trình: Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe,
nhân phẩm, danh dự của con người của TS. Trần Văn Luyện, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2000; Giáo trình luật hình sự Việt Nam của Trường Đại học
Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2000; Giáo trình luật hình sự
Việt Nam (Phần các tội phạm) của Khoa luật, Đại học quốc gia Hà Nội, Nxb
Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2002; Bình luận khoa học Bộ luật hình sự
1999 (Phần các tội phạm) của TS. Phùng Thế Vắc, TS. Trần Văn Luyện, LS.
Th.S. Phạm Thanh Bình. TS. Nguyễn Đức Mai, Th.S Nguyễn Sĩ Đại, Th.S
Nguyễn Mai Bộ, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2001; Bình luận khoa học
Bộ luật hình sự, Phần các tội phạm, tập I (Bình luận chuyên sâu) của Th.S
Đinh Văn Quế, Nxb thành phố Hồ Chí Minh, 2002…
Các nghiên cứu trên về Tội làm nhục người khác đã có những đóng góp
khoa học nhất định và đáng trân trọng cả về lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên,
hiện nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống
các vấn đề lý luận và thực tiễn xét xử đối với Tội làm nhục người khác trên
địa bàn thành phố Hà Nội ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học. Xuất phát từ tình
hình nghiên cứu như trên cho thấy cần phải có nghiên cứu về mặt lý luận
cũng như thực tiễn xét xử đối với Tội làm nhục người khác trên địa bàn thành
phố Hà Nội và đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện vấn đề này.
4
3. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu, luận văn tập trung nghiên cứu và làm sáng tỏ
những vấn đề lý luận và thực tiễn xét xử đối với Tội làm nhục người khác
trên địa bàn thành phố Hà Nội cụ thể là: “Khái niệm xúc phạm nghiêm
trọng ”, “làm nhục người khác”, nguyên nhân, điều kiện của tội phạm.
Những đặc trưng của Tội làm nhục người khác với các tội phạm khác cùng
chương, kết hợp thực tiễn áp dụng, xét xử tại Tòa án nhân thành phố Hà Nội
để qua đó chỉ ra nguyên tắc cơ bản và đề xuất các kiến giải lập pháp cũng
như các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng Tội làm nhục người khác trong
pháp luật hình sự Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về lý luận: Luận văn làm sáng tỏ bản chất pháp lý của Tội làm nhục
người khác theo luật hình sự Việt Nam dưới góc độ luật hình sự; xây dựng
khái niệm khoa học về Tội làm nhục người khác và ý nghĩa.
+ Về pháp luật: Luận văn tập trung nghiên cứu những nội dung cơ bản
của pháp luật hình sự về Tội làm nhục người khác.
+ Về thực trạng hoạt động xét xử Tội làm nhục người khác trên địa bàn
thành phố Hà Nội từ năm 2009 đến năm 2013.
+ Về kiến nghị: Tập trung vào kiến nghị hoàn thiện pháp luật hình sự
về Tội làm nhục người khác.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ một cách có hệ thống về mặt lý
luận những nội dung cơ bản về Tội làm nhục người khác, việc áp dụng các
quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về tội này trong thực tiễn xét xử trên
địa bàn thành phố Hà Nội, từ đó rút ra những tồn tại, bất cập để đề xuất kiến
giải lập pháp bằng việc đưa ra các mô hình lý luận của quy phạm về Tội làm
nhục người khác theo luật hình sự Việt nam cũng như đưa ra các giả pháp
5
nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của BLHS hiện hành về tội phạm này
trong thực tiễn xét xử.
Để đạt được mục đích trên, tác giả xác định nhiệm vụ cụ thể của
luận văn là:
Về mặt lý luận: Trên cơ sở nghiên cứu các chính sách hình sự của nhà
nước về Tội làm nhục người khác, phân tích khái niệm, dấu hiệu pháp lý, đặc
điểm của tội phạm, phân biệt tội phạm đối với tội phạm khác cùng chương, để
làm sáng tỏ bản chất pháp lý và những nội dung cơ bản của quy phạm theo
luật hình sự Vệt Nam.
Về mặt thực tiễn: Nghiên cứu, đánh giá việc áp dụng quy phạm pháp
luật hình sự của Tội làm nhục người khác trong thực tiễn xét xử trên địa bàn
thành phố Hà Nội, đồng thời phân tích những tồn tại xung quanh việc lập
pháp và áp dụng pháp luật nhằm đề xuất và luận chứng sự cần thiết phải hoàn
thiện và đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy phạm pháp luật
về tội này trong pháp luật hình sự Việt nam.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được hoàn thành dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử của triết học Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh. Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học sau: Thống
kê, phân tích, so sánh, tổng hợp, lịch sử, lý luận kết hợp với thực tiễn để
nghiên cứu đề tài.
6. Đóng góp mới của luận văn
Luận văn đã có những đóng góp mới như sau:
- Luận văn nghiên cứu một cách tương đối hệ thống và toàn diện những
vấn đề lý luật và thực tiễn của Tội làm nhục người khác theo luật hình sự Việt
Nam ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học. Luận văn còn có ý nghĩa làm tài liệu
tham khảo lý luận cần thiết cho các nhà khoa học- luật gia, cán bộ thực tiễn và
6
các sinh viên, học viên cao học, nghiên cứu sinh chuyên ngành tư pháp hình
sự, cũng như góp phần phục vụ cho công tác lập pháp và hoạt động thực tiễn
áp dụng pháp luật hình sự trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm, cũng
như công tác giáo dục, cải tạo người phạm tội ở nước ta hiện nay.
- Luận văn góp phần và việc xác định đúng đắn những điều kiện cụ thể
của các trường hợp phạm tội “làm nhục người khác” trong thực tiễn điều tra,
truy tố, cũng như đưa ra các kiến nghị hoàn thiện các quy phạm của chế định
miễn trách nhiệm hình sự ở khía cạnh lập pháp, cũng như việc áp dụng chúng
trong thực tiễn.
- Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật nước ta về tội
phạm này để rút ra những nhận xét, đánh giá.
- Phân tích thực tiễn xét xử Tội làm nhục người khác trong thực tiễn xét
xử trên địa bàn thành phố Hà Nội từ năm 2009 đến năm 2013, qua đó góp phần
đánh giá đúng thực trạng phạm tội “Làm nhục người khác”, những nguyên nhân
và điều kiện phạm tội, những khó khăn khi xét xử loại tội này trên thực tế.
- Luận văn còn chỉ ra một số tồn tại, vướng mắc trong thực tiễn truy tố
và xét xử, nguyên nhân và đề xuất những giải pháp khắc phục.
7. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo phần
nội dung chính của luận văn bao gồm 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về Tội làm nhục người khác
Chương 2: Tội làm nhục người khác theo Bộ luật hình sự năm 1999
và thực tiễn xét xử loại tội phạm này trên địa bàn thành
phố Hà Nội từ năm 2008 đến 2011.
Chương 3: Những yêu cầu và giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật
về Tội làm nhục người khác và nâng cao công tác đấu tranh
phòng chống tội phạm này trên địa bàn thành phố Hà Nội.
7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI LÀM NHỤC NGƢỜI KHÁC
1.1. Khái niệm Tội làm nhục ngƣời khác
Tội làm nhục người khác có mối quan hệ chặt chẽ với danh dự, nhân
phẩm con người. Cho nên, để có thể làm sáng tỏ khái niệm Tội làm nhục
người khác cần làm rõ khái niệm danh dự, nhân phẩm con người.
Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, con người là vốn quý nhất. Đối với con
người, chẳng những tính mạng, sức khỏe là vô giá mà danh dự, nhân phẩm
cũng không kém phần quan trọng. Quyền được bảo vệ tính mạng, sức khỏe,
nhân phẩm, danh dự của con người đều rất thân thiết đối với con người và là
những quyền quan trọng nhất trong các quyền cơ bản của công dân được
Hiến pháp ghi nhận và bảo hộ. Điều 70 Hiến pháp năm 1992 quy định:
“Công dân có quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, tài sản, danh dự
và nhân phẩm” [29, tr.19].
Theo Từ điển bách khoa Việt Nam, “danh dự là phạm trù đạo đức chỉ
lòng tôn trọng của con người trong mọi cử chỉ, hành vi của mình” [24, tr. 647].
Người có danh dự biết tôn trọng lời mình đã hứa và có ý thức bảo vệ danh
dự của mình, của dòng họ, của đoàn thể, Tổ quốc mình. Mất danh dự có
nghĩa là mất sự tin yêu, mến phục của người khác và đối với người có danh
dự, thì đó là tổn thất lớn nhất. Vấn đề tiếp theo cần làm sáng tỏ là khái niệm
nhân phẩm. Theo Từ điển tiếng Việt, "nhân phẩm là phẩm chất và giá trị con
người" [48, tr. 1762 -1323].
Nhân phẩm và danh dự là những giá trị nội tại, vốn có được hình thành
và phát triển cùng với sự phát triển và hoàn thiện của con người về mặt nhân
tính. Đây là thuộc tính chung của tất cả các cá nhân trong cộng đồng nhân
loại, không dựa trên bất kỳ sự phân biệt hay khác biệt nào về địa vị xã hội,
8
kinh tế, chính trị, chủng tộc, tôn giáo, dân tộc, giới tính,… Nhân phẩm và
danh dự của con người chính là những cái làm nên sự khác biệt và cũng là
bước tiến vượt bậc của con người với phần còn lại của giới tự nhiên. Vì chúng
là những giá trị chỉ thuộc tính chung của con người, do vậy, tôn trọng nhân
phẩm, danh dự của mỗi cá nhân con người là sự tôn trọng đối với chính mình,
đối với đồng loại. Tôn trọng nhân phẩm, danh dự của con người là tôn trọng
những giá trị của con người, nhờ đó con người thực hiện được sự công bằng
và bình đẳng.
Tội làm nhục người khác phải thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu của tội
phạm, mà theo PGS.TSKH Lê Cảm, phải thể hiện ba bình diện với năm đặc
điểm (dấu hiệu) của nó là: a) bình diện khách quan: tội phạm là hành vi nguy
hiểm cho xã hội; b) bình diện pháp lý: tội phạm là hành vi trái pháp luật hình sự;
c) bình diện chủ quan: tội phạm là hành vi do người có năng lực trách nhiệm
hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách có lỗi [7, tr. 105].
Trong khoa học pháp lý hình sự, các nhà hình sự học đã đưa ra khái
niệm Tội làm nhục người khác. Các tác giả của Giáo trình luật hình sự Việt
Nam (Phần các tội phạm), Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội cho rằng,
“Tội làm nhục người khác là hành vi xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm,
danh dự của người khác” [9, tr.158].
Các tác giả của Giáo trình luật hình sự Việt Nam, trường Đại học Luật -
Hà Nội cũng cho rằng, “Tội làm nhục người khác là hành vi xúc phạm
nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác” [42, tr.335].
Từ sự phân tích các quan điểm được trình bày ở trên, chúng tôi xin đưa
ra khái niệm Tội làm nhục người khác như sau: Tội làm nhục người khác là
hành vi nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật hình sự, do người có năng lực
trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện dưới hình
thức lỗi cố ý, xâm phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác.
9
1.2. Ý nghĩa của việc quy định Tội làm nhục ngƣời khác trong luật
hình sự Việt Nam
Tội làm nhục người khác lần đầu tiên được quy định trong Bộ luật hình
sự năm 1985 rồi đến Bộ luật hình sự năm 1999 của nước ta, có ý nghĩa về mặt
lập pháp hình sự hết sức to lớn. Nó đánh dấu sự trưởng thành về kỹ thuật lập
pháp hình sự của nước ta trong lĩnh vực bảo vệ quyền con người nói chung,
bảo vệ danh dự, nhân phẩm của con người nói riêng. Việc chính thức ghi
nhận về mặt pháp lý hình sự Tội làm nhục người khác trong pháp luật hình sự
Việt Nam hiện hành là một biểu hiện cụ thể của việc tôn trọng và bảo vệ
quyền con người được ghi nhận tại Điều 14 Hiến pháp 1992 sửa đổi, bổ sung
năm 2013: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con
người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công
nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật” [29, tr.9].
Việc quy định Tội làm nhục người khác trong Bộ luật hình sự Việt
Nam có những ý nghĩa sau:
Thứ nhất, biểu hiện cụ thể mối quan hệ chặt chẽ giữa đạo đức và pháp
luật hình sự.
Đạo đức và pháp luật là những hình thái ý thức xã hội, có mối quan hệ
hữu cơ, tác động qua lại, bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau trong quá trình điều chỉnh
hành vi của con người. Pháp luật lấy đạo đức làm cơ sở, nhiều quy tắc, chuẩn
mực đạo đức được Nhà nước thừa nhận đã trở thành quy phạm pháp luật và
Nhà nước cũng sử dụng pháp luật để bảo về đạo đức. Bộ luật hình sự Việt
Nam quy định Tội làm nhục người khác có ý nghĩa các giá trị đạo đức như
nhân phẩm, danh dự của con người được Nhà nước bảo vệ bằng pháp luật
hình sự. Thông qua việc quy định hành vi xâm phạm nghiêm trọng nhân
phẩm, danh dự của con người là tội phạm và phải chịu hình phạt – biện pháp
cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước, pháp luật hình sự đóng vai trò tác
10
động mạnh mẽ đến sự hình thành, phát triển nền đạo đức hướng tới con
người, tôn trọng con người và vì con người.
Đạo đức nói chung, các giá trị đạo đức như nhân phẩm, danh dự của
con người nói riêng, một mặt kế thừa các giá trị đạo đức truyền thống, nhưng
mặt khác, nó phải bảo đảm phù hợp với những yêu cầu của pháp luật nói
chung, pháp luật hình sự nói riêng, khuyến khích công dân tuân thủ pháp luật,
trong đó có pháp luật hình sự.
Thứ hai, tạo cơ sở pháp lý cho cuộc đấu tranh phòng, chống các hành vi
xâm phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác.
Đạo đức hình sự giữ vai trò hết sức quan trọng trong đấu tranh phòng
ngừa tội phạm nói chung, Tội làm nhục người khác nói riêng, bởi vì chỉ văn
bản này mới quy định hành vi xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự
của người khác là tội phạm và hình phạt có thể áp dụng đối với người đã gây
ra hành vi đó. Việc Nhà nước quy định Tội làm nhục người khác và hình phạt
áp dụng với người phạm tội là nhân danh ý chí của nhân dân, là sự thể hiện
thái độ của nhân dân (thông qua Nhà nước đối với tội phạm). Quy phạm pháp
luật hình sự về Tội làm nhục người khác vừa có tính chất cấm chỉ, vừa có tính
chất bắt buộc. Quy phạm này, một mặt cấm người ta không được thực hiện
hành vi xúc phạm nhân phẩm, danh dự của người khác bằng sự răn đe áp
dụng hình phạt đối với người phạm tội; mặt khác, quy phạm pháp luật hình sự
này cũng buộc các cơ quan có trách nhiệm khi phát hiện có dấu hiệu của Tội
làm nhục người khác thì phải điều tra, truy tố, xét xử một cách nghiêm minh,
buộc người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự.
Thứ ba, thể hiện sự quan tâm của Nhà nước ta đối với việc bảo vệ và
phát triển quyền con người nói chung, nhân phẩm, danh dự của con người
nói riêng.
Dưới chế độ Xã hội chủ nghĩa, Nhà nước ta luôn xác định con người
11
vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp xây dựng đất nước. Nhà nước
ta khẳng định, con người là trung tâm của các chính sách kinh tế - xã hội, thúc
đẩy và bảo vệ quyền con người nói chung, bảo vệ nhân phẩm, danh dự của
con người nói riêng, là nhân tố quan trọng cho sự phát triển bền vững, bảo
đảm thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Việc pháp
luật hình sự Việt Nam quy định Tội làm nhục người khác, cũng như các quy
định khác về quyền con người trong hệ thống pháp luật Việt Nam chứng tỏ
mọi chủ trương, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước ta đều nhằm
phấn đấu cho mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh”. Tất cả vì con người và cho con người.
Thứ tư, bảo vệ danh dự, nhân phẩm của công dân, góp phần tích cực
vào việc thực hiện nhiệm vụ giữ gìn trật tự, an toàn xã hội.
Việc pháp luật hình sự hiện hành quy định Tội làm nhục người khác
góp phần quan trọng trong việc bảo vệ danh dự, nhân phẩm của con người;
đồng thời góp phần tích cực vào nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa,
giữ gìn trật tự, an toàn xã hội.
Tuy nhiên, nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa đòi hỏi các cơ quan
có thẩm quyền phải áp dụng đúng đắn những quy định của pháp luật hình sự
về tội phạm nói chung, Tội làm nhục người khác nói riêng trong hoạt động
điều tra, truy tố, xét xử. Việc áp dụng những quy định của pháp luật hình sự
về Tội làm nhục người khác một cách tùy tiện, không đúng pháp luật bị coi là
những hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng. Bởi nó không những xâm hại
hoạt động đúng đắn của các cơ quan bảo vệ pháp luật mà còn làm giảm sút
lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước.
Do vậy, việc quy định một cách chặt chẽ Tội làm nhục người khác trong pháp
luật hình sự và việc áp dụng đúng đắn trong thực tiễn, thể hiện sự tôn trọng
quyền con người của Nhà nước ta, bảo đảm sự giám sát của nhân dân, xã hội
12
trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử nói chung và điều tra, truy tố, xét xử
về Tội làm nhục người khác nói riêng.
Việc quy định Tội làm nhục người khác trong pháp luật hình sự hiện
hành, ngoài ý nghĩa về mặt lập pháp hình sự còn có ý nghĩa nâng cao nhận
thức của nhân dân nói chung, cán bộ các cơ quan bảo vệ pháp luật nói riêng
về sự cần thiết phải tôn trọng nhân phẩm, danh dự của con người.
Mặt khác, việc quy định cụ thể về Tội làm nhục người khác trong pháp
luật hình sự còn giúp các cơ quan bảo vệ pháp luật nắm vững nội dung, bản
chất pháp lý; từ đó áp dụng đúng đắn quy phạm pháp luật hình sự này, góp
phần nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh phòng ngừa Tội làm nhục người khác.
Động viên quần chúng nhân dân tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh này.
1.3. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của các quy định
pháp luật hình sự Việt Nam từ thời phong kiến đến trƣớc khi ban hành
Bộ luật hình sự năm 1985 về Tội làm nhục ngƣời khác
1.3.1. Tội làm nhục người khác trong thời kỳ phong kiến và Pháp thuộc
Tội làm nhục người khác là một trong những tội phạm được đề cập rất
sớm trong luật hình sự Việt Nam. Thời kỳ phong kiến, trong Quốc triều hình
luật (Bộ luật Hồng Đức) là “Bộ luật chính thống và quan trọng nhất của triều
đại nhà Lê”, cũng là “Bộ luật xưa nhất còn được lưu giữ đầy đủ ở nước ta” đã
đề cập Tội làm nhục người khác tại các điều 489, 491 492, 496. Điều 489 quy
định: “Học trò mà đánh và lăng mạ thầy học, thì xử nặng hơn tội (đánh, lăng
mạ) người thường ba bậc; đánh chết thì phải tội chém" [1, tr.178]. Đây là quy
định mang tính nhân văn, thể hiện truyền thống “tôn sư trọng đạo” của dân
tộc, để cho quy tắc đạo đức “thầy ra thầy, trò ra trò” được thực hiện nghiêm
chỉnh. Điều 495 Bộ luật còn quy định: “Lăng mạ vợ của quan tại chức, thì bị
tội cùng tiền tạ, đều xử giảm tội lăng mạ người chồng ba bậc; lăng mạ đối với
con thì tội lại xử giảm một bậc nữa” [1, tr.180].
13
Trong Hoàng Việt luật lệ (Bộ luật Gia Long) được biên soạn trong một
thời gian dài, đến năm 1811 thì hoàn tất và năm 1812 được khắc in lần đầu ở
Trung Quốc, có hiệu lực từ năm 1813 trên phạm vi toàn quốc, Tội làm nhục
người khác được đề cập tại các điều 293, 294, 295, 296, 297, 298, 299, 300.
Điều 293 quy định: “Phàm mắng người thì bị phạt 10 roi. Cùng mắng nhau,
thì mỗi người bị phạt 10 roi” [2, tr. 810]. Đáng lưu ý, hành vi làm nhục người
khác những người thuộc giai cấp bị trị thực hiện, bị trừng phạt rất nặng trong
Hoàng Việt luật lệ. Điều đó cho thấy, pháp luật hình sự bao giờ cũng mang
tính giai cấp, được sử dụng để bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị. Điều
296 Bộ luật quy định:
Phàm nô tì mắng gia trưởng thì bị phạt treo cổ (giam chờ),
mắng hàng kỳ thân của gia trưởng và ông bà ngoại của gia trưởng
thì bị phạt 80 trượng, đồ hai năm, đại công thì bị phạt 80 trượng,
hàng tiểu công thì bị phạt 70 trượng, hàng ti ma thì bị phạt 60
trượng. Nếu kẻ làm công mắng gia trưởng thì bị phạt 80 trượng, đồ
hai năm. Mắng hàng kỳ thân và ông bà ngoại gia trưởng thì phạt
trăm trượng, mắng hàng đại công thì phạt 60 trượng, mắng hàng
tiểu công thì phạt 50 roi, mắng hàng ti ma bị phạt 40 roi, bị thưa lên
là bị tội. (Đó là nói cho rõ, trong qua lại e có sự nghe lầm, cho nên
phải chính người ấy nghe, có thể vì tình mà bỏ qua, hay có ý giấu
đi, cho nên phải chính người ấy thưa lên [2, tr.812 - 813].
Dưới thời Pháp thuộc, để bảo đảm thực hiện mục tiêu kinh tế thực dân,
thu lợi nhuận tối đa, thực dân Pháp thực hành chính sách chuyên chế về chính
trị. Chúng dùng lối cai trị trực tiếp, thẳng tay đàn áp, tuyệt đối không cho dân
ta bất cứ quyền tự do, dân chủ nào. Pháp luật nói chung, pháp luật hình sự do
thực dân Pháp đặt ra là để bảo vệ chế độ thực dân, phong kiến. Tội làm nhục
người khác cũng được đề cập trong pháp luật hình sự thời gian này, nhưng là
14
để bảo vệ nhân phẩm, danh dự của giai cấp thống trị, bóc lột. Trên tinh thần
đó, Điều 154 Luật hình An Nam quy định:
Trong khi quan lại đương làm chức vụ, người nào lấy văn
từ, ngôn ngữ, thư chỉ và làm việc gì hay là dọa điều gì, để cho
mất danh dự, thể diện của các viên quan lại ấy, phải phạt giam từ
một tháng đến hai năm, và phạt bạc từ hai mươi đồng đến hai
trăm đồng [32, Điều 154, tr.25].
Tương tự như vậy, Điều 222 Hình luật canh cải quy định:
Người nào xỉ mạ quan bên chánh trị, bên Tòa hội đồng thẩm
án, trong lúc mấy vị ấy làm việc bổn phận hoặc dùng lời nói mà xỉ
mạ, hoặc viết chữ hoặc vẽ hình mà không có truyền ra ngoài, trong
các cách ấy hoặc nói xấu cho danh giá, cho sự liêm sỉ của các vị ấy,
thì phải bị phạt tù từ 15 ngày cho tới 2 năm [14, Điều 122, tr.54];
Hoàng Việt hình luật quy định:
Dùng lời nói, hoặc giấy má, viết tay hay giấy in, bức vẽ
hoặc những phương pháp khác mà lỵ mạ một người viên chức
đương khi làm chức vụ hay là nhân khi làm chức vụ, bất kỳ là
công việc hay không cũng gọi là lỵ mạ và chiếu theo Điều 145
chương thứ 12 mà nghĩ xử [14, Điều 320, tr. 445].
1.3.2. Tội làm nhục người khác trong thời kỳ từ khi Cách mạng tháng
Tám năm 1945 thành công cho đến trước khi Bộ luật hình sự năm 1985
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á ra đời, đã ban hành
một loạt các văn bản quy phạm pháp luật hình sự, nhằm bảo vệ chính quyền
nhân dân, chống thực dân Pháp, trừng trị bọn việt gian phản động. Do tình
hình kháng chiến diễn ra hết sức khẩn trương, không thể ban hành kịp các văn
bản quy phạm pháp luật nói chung, văn bản quy phạm pháp luật hình sự cần
15
thiết nói riêng, ngày 10-10-1945, Nhà nước ta đã ban hành Sắc lệnh số 47-SL
cho tạm thời giữ các luật lệ cũ, trong đó có Bộ "Luật hình An Nam", Bộ
"Hoàng Việt hình luật" và Bộ "Hình luật pháp tu chính" với điều kiện "không
trái với nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam và chính thể dân chủ cộng
hòa" [3, tr.190]. Trong bối cảnh này, việc đấu tranh chống Tội làm nhục
người khác chưa được đặt ra.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơnevơ được ký kết, miền
Bắc hoàn toàn được giải phóng, miền Nam tạm thời bị đế quốc Mỹ và bọn tay
sai thống trị. Ở miền Bắc, Đảng ta chủ trương tiến hành cách mạng xã hội chủ
nghĩa, xây dựng miền Bắc thành căn cứ vững mạnh của cách mạng cả nước; ở
miền Nam, tiến hành cách mạng dân tộc, dân chủ nhằm giải phóng miền Nam
khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà.
Trong thời kỳ này, đối với việc bảo vệ tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm,
danh dự của con người, pháp luật hình sự chủ yếu đề cập các tội xâm phạm tính
mạng, sức khỏe như giết người, gây thương tích, làm chết người trong Thông
tư số 442-TTg ngày 19-11-1955 của Thủ tướng Chính phủ, mà chưa có văn
bản pháp luật hình sự nào quy định về các tội xâm phạm danh dự, nhân phẩm
nói chung, về Tội làm nhục người khác nói riêng. Ngày 15-06-1960, Tòa án
nhân dân tối cao ra Chỉ thị số 1024 có đề cập Tội hiếp dâm, nhưng chưa đề cập
Tội làm nhục người khác. Trên cơ sở các kinh nghiệm mà thực tiễn xét xử đã
đúc kết được trong thời gian trước đó, ngày 11-05-1967, Tòa án nhân dân tối
cao đã thông qua Bản tổng kết và hướng dẫn đường lối xét xử Tội hiếp dâm và
các tội phạm khác về mặt tình dục, đề cập một cách toàn diện 4 hình thức phạm
tội: hiếp dâm, cưỡng dâm, giao cấu với người dưới 16 tuổi, dâm ô, nhưng vẫn
chưa đề cập Tội làm nhục người khác [31, tr.389].
Sau khi miền Nam được giải phóng, trong khi chờ đợi thống nhất nước
nhà về mặt Nhà nước, trên thực tế về hình thức, tạm thời tồn tại hai Nhà nước:
16
Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và Nhà nước Cộng hòa miền Nam Việt
Nam; mỗi Nhà nước có pháp luật riêng. Nhà nước Cộng hòa miền Nam Việt
Nam đã ban hành ngay một số chính sách, văn bản quy phạm pháp luật hình sự
nhằm phục vụ thực hiện một trong những nhiệm vụ quan trọng, cấp bách là
trấn áp bọn phản cách mạng và tội phạm khác, bảo vệ vững chắc an ninh chính
trị và trật tự an toàn xã hội ở nửa đất nước mới được giải phóng.
Cùng với việc ban hành Sắc luật về tổ chức Tòa án nhân dân và Viện
Kiểm sát nhân dân, Sắc luật quy định việc bắt, giam, khám người, khám nhà
ở, đồ vật của Người phạm tội, Nhà nước Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã
ban hành Sắc luật số 03-SL/76 ngày 15-3-1976 quy định các tội phạm và hình
phạt. Sắc luật này được áp dụng trong phạm vi toàn quốc trước khi Bộ luật
hình sự được ban hành. Sắc luật số 03-SL/76 có quy định về các tội xâm
phạm đến thân thể và nhân phẩm của công dân một cách đầy đủ hơn so với
Thông tư số 442-TTg ngày 19-11-1955 của Thủ tướng Chính phủ Điểm d
Điều 5 Sắc luật quy định: “Phạm các tội khác xâm phạm thân thể và nhân
phẩm của công dân thì bị phạt tù từ 3 tháng đến 5 năm những kẻ lập công
chuộc tội" [32, tr.236]. Trên cơ sở quy định này, các Tòa án đã vận dụng xử
lý một số trường hợp phạm Tội làm nhục người khác.
1.3.3. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến
trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999
Trong quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IV, V của Đảng, nhân dân ta đã giành được một số thành tựu nhất định
trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, tạo ra những cơ sở đầu tiên cho sự
phát triển mới. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đó, chúng ta đã gặp phải
nhiều khó khăn và khuyết điểm do duy trì quá lâu cơ chế quản lý quan liêu,
bao cấp, nên không thực hiện được mục tiêu đã đề ra là ổn định một cách cơ
bản tình hình kinh tế – xã hội và đời sống nhân dân. Về mặt lập pháp hình sự,
17
các văn bản quy phạm pháp luật hình sự đơn hành không thể hiện được toàn
diện, đầy đủ chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta. Trong bối cảnh đó,
việc ban hành Bộ luật hình sự là vấn đề mang tính tất yếu khách quan và cấp
thiết, có ý nghĩa góp phần phục vụ thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Ngày
27-6-1985, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam khóa VII, đã thông qua Bộ luật hình sự, có hiệu lực từ ngày 1-1-1986
(sau đây gọi tắt là Bộ luật hình sự năm 1985). Bộ luật hình sự năm 1985 đã kế
thừa và phát triển những thành tựu lập pháp hình sự Việt Nam, tổng kết kinh
nghiệm đấu tranh phòng, chống tội phạm trong thời gian trước năm 1985 và
dự báo được tình hình tội phạm trong thời gian tới. Trong Bộ luật hình sự
năm 1985, tiếp theo việc quy định các tội xâm phạm an ninh quốc gia ở
chương 1, nhà làm luật đã quy định các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe,
nhân phẩm, danh dự ở chương 2 và quy định các tội xâm phạm quyền tự do,
dân chủ của công dân ở chương 3. Đây là hai chương của Bộ luật hình sự bao
gồm những quy phạm pháp luật trực tiếp bảo vệ con người với tính chất là
chủ thể của các quan hệ xã hội. Bộ luật hình sự năm 1985 quy định Tội làm
nhục người khác tại Điều 116, Tội làm nhục người chỉ huy hoặc cấp trên tại
Điều 253, Tội làm nhục cấp dưới tại Điều 254, Tội làm nhục đồng đội tại
Điều 255. Việc Bộ luật hình sự năm 1985 lần đầu tiên chính thức ghi nhận về
mặt pháp lý Tội làm nhục người khác, Tội làm nhục người chỉ huy hoặc cấp
trên, Tội làm nhục cấp dưới, Tội làm nhục đồng đội, đánh dấu sự trưởng
thành về kỹ thuật lập pháp hình sự của nước ta trong lĩnh vực bảo vệ nhân
phẩm, danh dự của con người Bộ luật đã đưa ra định nghĩa pháp lý của khái
niệm Tội làm nhục người khác là hành vi xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm,
danh dự của người khác và quy định hai khung hình phạt. Khung cơ bản có
mức phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến 1 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng