Tải bản đầy đủ (.docx) (85 trang)

Nghiên cứu giải phẫu ứng dụng động mạch thận trên hình ảnh chụp các lớp vi tính đa dãy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.12 MB, 85 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ

Động mạch thận (ĐMT) là nhánh lớn của động mạch chủ bụng mang
hai nhiệm vụ là lọc máu và nuôi dưỡng. Về chức năng động mạch thận mang
máu đến các đơn vị thận tham gia quá trình lọc. Chức năng nuôi dưỡng, động
mạch thận cấp máu chủ yếu cho thận bằng các nhánh chia nhỏ vào nhu mô,
nuôi dưỡng cho phần dưới tuyến thượng thận và phần trên niệu quản [1]. Các
biến đổi giải phẫu của động mạch thận rất đa dạng và xuất hiện với tần số
tương đối lớn [2],[3]. Sự biến đổi của các nhánh động mạch trong thận ảnh
hưởng rất lớn đến các phẫu thuật cắt bỏ bán phần. Đồng thời số lượng, kích
thước và đường kính của động mạch cũng là vấn đề quan tâm của các cuộc
phẫu thuật này đặc biệt là trong ghép thận [4],[5],[6].
Các nghiên cứu động mạch thận trên thế giới đã có từ thế kỉ thứ XV [7]
. Tuy nhiên, ở mỗi thời kì lại có những phương pháp nghiên cứu khác nhau,
trong mỗi nghiên cứu tồn tại những ưu nhược điểm riêng. Phẫu tích xác có
ưu thế là thấy được các nhánh nhỏ nhưng không khảo sát được trên cơ thể
sống, và kích thước động mạch thường giảm do sự co rút. Phương pháp
nghiên cứu trên tiêu bản ăn mòn cải tiến hơn so với phẫu tích xác là phân tích
được các nhánh nhỏ đi trong tạng, vùng cấp máu và liên quan các thành phần.
Phương pháp này, được Trịnh Xuân Đàn dưới sự hướng dẫn của giáo sư Trịnh
Văn Minh nghiên cứu và đạt được các kết quả với độ tin cậy cao [3].
Trên thực tế lâm sàng, các kỹ thuật hình ảnh khác nhau như: UIV
(Urographie intraveineuse) chụp niệu tĩnh mạch đồ, các lớp vi tính, cộng
hưởng từ, chụp mạch can thiệp, ngay cả kỹ thuật xạ hình, PET(Positron
Emission Tomograpgy) chụp Positron, SPECT (Single Photon Emission


2


Computerized Tomography) chụp cắt lớp đơn photon … ngày một phát triển
đã đóng góp lớn trong thăm dò động mạch thận. C h ụ p c á c l ớ p v i t í n h
( CLVT) là một kỹ thuật phát triển nhanh chóng những năm gần đây, đặc
biệt sau khi CLVT xoắn ốc ra đời cùng với các công nghệ đa lớp cắt, việc tạo
ảnh mạch máu ngày càng được ứng dụng rộng rãi, từ khi có CLVT thế hệ 16
dãy (từ cuối 2002-2003), 32 dãy, 64 dãy, 128 dãy, 256 dãy đến 320 dãy độ
nhậy và độ đặc hiệu trong đánh giá bệnh lý mạch máu nói chung cũng như
trong đánh giá cấu trúc mạch máu nói riêng là rất cao mà không cần xâm
lấn. Các công trình nghiên cứu về hình ảnh động mạch thận trên máy chụp
các lớp vi tính của các tác giả trên thế giới và trong nước có Gümüş H và CS
[8], Tuncay Hazirolan và CS [9], Võ Văn Hải và CS [10]……..
Việc đánh giá cấu trúc giải phẫu của động mạch thận có ý nghĩa quan
trọng trong lâm sàng. Nó làm cơ sở trong việc đánh giá, tiến hành, tiên
lượng trong phẫu thuật thay thận. Đồng thời còn giúp chẩn đoán bệnh về
phình mạch, tắc mạch thận. Trong nước hiện các đề tài nghiên cứu về động
mạch thận trên các lớp vi tính đang được quan tâm, các đề tài đã nghiên cứu
thường chỉ dừng lại mô tả các dị dạng, chưa quan tâm nhiều đến sự phân chia
nhánh trong thận, kích thước và ứng dụng hình ảnh giải phẫu thực tiễn. Với lí
do trên chúng tôi thực hiện đề tài: “Nghiên cứu giải phẫu ứng dụng động
mạch thận trên hình ảnh chụp các lớp vi tính đa dãy” với mục tiêu chung
nhằm cung cấp cho các nhà phẫu thuật thêm thông tin tham khảo, và bổ sung
cho sách giáo khoa giải phẫu học các dạng động mạch trong và ngoài thận,
kích thước động mạch thận, mục tiêu cụ thể:
1. Mô tả giải phẫu động mạch thận ở ngoài thận trên hình ảnh chụp các lớp vi
tính đa dãy.
2. Xác định một số dạng giải phẫu các động mạch phân thùy ở trong thận trên


3


hình ảnh chụp các lớp vi tính đa dãy.


4

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Giải phẫu điển hình mạch thận
1.1.1. Giải phẫu động mạch thận
Theo sách giáo khoa giải phẫu người [1],[11],[12]
1.1.1.1. Nguyên ủy: Thường chỉ có 1 động mạch cho mỗi thận, song cũng
có trường hợp có 2 – 3 động mạch. Động mạch thận xuất phát từ động
mạch chủ bụng, ngang mức đốt sống thắt lưng I hoặc khe liên đốt sống thắt
lưng I - II, ở dưới nguyên ủy động mạch mạc treo tràng trên khoảng 1 cm.
Động mạch thận phải dài hơn động mạch thận trái.

Hình 1.1 Nguyên ủy của động mạch thận [4]
1.1.1.2 Đường đi liên quan: Từ nguyên ủy, động mạch thận chạy ngang ra
ngoài, ra sau hướng tới rốn thận và nằm sau tĩnh mạch thận tương ứng.


5

1.1.1.3 Phân nhánh- cấp máu cho thận: Khi tới gần rốn thận, mỗi động
mạch thận thường chia làm 2 ngành cùng:
- Ngành trước (ĐMTB) : thường chia 4 nhánh động mạch toả rộng trước
bể thận.
- Ngành sau (ĐMSB): trèo lên bờ trên bể thận rồi vòng ra sau, đi dọc
mép sau rốn thận để hở một phần mặt sau bể thận (thường rạch mặt sau bể
thận, khi phải lấy sỏi đài bể thận).

ĐM gian thùy
ĐM phân thùy trên

ĐM gian tiểu thùy

ĐM thượng thận dưới
ĐM cung
ĐM thận trái
ĐM phân thùy sau
ĐM phân thùy trước trên
ĐM niệu quản trên
ĐM phân thùy trước dưới

Nhánh xuyên bao

ĐM phân thùy dưới

Hình 1.2 Phân nhánh chi phối của động mạch thận [13]
Trên đường đi động mạch thận tách nhánh nhỏ cấp máu cho tuyến
thượng thận (động mạch thượng thận dưới); các nhánh cho mô mỡ quanh
thận, bao thận, bể thận và nhánh cho phần trên niệu quản đoạn bụng. Các
nhánh này nối tiếp ở ngoài thận với các động mạch lân cận (động mạch


6

hoành, động mạch sinh dục, động mạch đại tràng) và nối tiếp với nhau
trong lớp mỡ quanh thận tạo thành vòng mạch ngoài thận rất phong phú.
Đôi khi có động mạch cực vào nhu mô qua các cực, không qua rốn thận.
Động mạch cực dưới đôi khi đi bắt chéo phía trước niệu quản, có

thể làm gấp khúc niệu quản - bể thận gây bí đái.
Các nhánh động mạch thận khi vào thận sẽ cung cấp máu cho từng
vùng nhu mô thận riêng biệt gọi là phân thùy thận (phân thùy thận động
mạch). Tuy nhiên, cũng có những quan điểm khác trong phân thùy thận
nhưng nhìn chúng các phân thùy này không tương đương với các phân
thùy thận cổ điển (phân thùy theo đài bể thận).
Các nhánh của ngành động mạch trước bể thận cung cấp máu cho một
vùng rộng hơn các nhánh ở phía sau. Giữa hai khu có một vùng ít mạch
gọi là đường Hyrtl cổ điển. Đường này là một đường cong cách bờ ngoài
thận về phía sau độ 1 cm. Thường rạch thận ở đường này để lấy sỏi nhu mô
thận. Trong thận, các nhánh tiếp tục phân chia nhiều lần trong tổ chức thận
tới tận tiểu cầu.


7

Hình 1.3 Hình ảnh VR động mạch thận (A: Động mạch trước bể, B: Động
mạch phân thùy trên, C: Động mạch phân thùy trước trên, D: động mạch
phân thùy trước dưới, E: động mạch phân thùy dưới) [14]

Hình 1.4 Hình ảnh MIP động mạch thận và các nhánh phân thùy
(A:ĐMTB, B: ĐMPTT, C: ĐMPTTT, D: ĐMPTTD, E: ĐMPTD) [14]


8

 Các động mạch phân thùy trên quan với hệ thống bể đài thận

Theo danh pháp quốc tế:
Động mạch phân thùy thận:

o Động mạch phân thùy (ĐMPT) trên (S1)
o Động mạch phân thùy trước trên (S2)
o Động mạch phân thùy trước dưới (S3)
o Động mạch phân thùy dưới (S4)
o Động mạch phân thùy sau (S5+S6): hạ phân thùy sau trên (S5) và sau dưới (S6)

Hệ thống bể đài thận:
- Nhóm đài các trên (I): dẫn lưu 1/4 - 1/3 trên thận, gồm 3 - 5

đài nhỏ. Đôi khi một số đài trên hoặc cả nhóm đài hoà thành
một khối. Khi nhóm đài trên phân đôi thì ở mặt ngoài phễu
ứng với khe liên đài, có 1 nhánh động mạch từ rốn thận đi
lên lách qua.
- Nhóm giữa trên (II): dẫn lưu 1/6 - 1/5 giữa trên thận, gồm 1

- 2 đài nhỏ đổ vào giữa đài lớn trên hoặc vào giữa bể thận
hay lệch lên trên sát nhập với nhóm đài I và được bù trừ bởi
sự có mặt của 1 - 2 đài trung gian đổ vào phần giữa bể thận.
- Nhóm giữa dưới (III): dẫn lưu nhỏ hơn 1/5 - 1/4 giữa dưới

thận, thường gồm 2 đài nhỏ đổ vào đài lớn dưới hay vào
phần giữa dưới bể thận. Đôi khi, nó phát triển trội gồm 2 đôi
đài nhỏ cùng đổ vào đài lớn dưới hoặc 1 đôi đổ lệch vào
giữa bể thận.
- Nhóm cực dưới (IV): dẫn lưu khoảng 1/4 dưới thận, thường


9

gồm 3 đài nhỏ. Đôi khi 1 đài nhỏ trên cùng của nhóm có thể

tách rời khỏi phần còn lại của nhóm
 Động mạch phân thùy trên (S1)

Là 1 động mạch phân thùy nhỏ nhất, rất thay đổi về nguyên ủy có thể
tách ra từ ngành trước động mạch thận, từ 1 thân chung với S 2 hoặc nhánh
của S2 hoặc từ ngành sau động mạch thận. Về liên quan và phạm vi cấp máu
cũng rất thay đổi có thể đi qua bờ trong nhóm đài I hay đi giữa khối trong
nhóm đài I hoặc đi ở rãnh giữa 2 khối trong, ngoài nhóm đài I. Như vậy diện
tích phân thùy S1 thay đổi trung bình hoặc nhỏ, dọc bờ trong cực trên.

1. Phân thùy trên
2. Phân thùy trước trên
3. Phân thùy trước dưới
4. Phân thùy dưới
5. Hạ phân thùy sau trên
6. Hạ phân thùy sau dưới
A. Mặt trước thận
B. Mặt sau thận
C. Mặt trong thận

Hình 1.5 Liên quan động mạch phân thùy thận và hệ thống đài bể thận [3]
 Động mạch phân thùy trước trên (S2)

Thường tách ở ngoài rốn thận từ ngành trước, ngành sau hoặc từ động
mạch thận. Động mạch S2 này thường chia sớm thành 2 hoặc 3 nhánh bắt chéo
trước đài lớn trên, đi theo khe giữa các nhóm đài nhỏ I - II, II - III và/hoặc rãnh
giữa 2 khối trong và ngoài nhóm đài I.
Phạm vi cấp máu ở mặt trước thận tương ứng với nhóm đài II, một phần



10

nhóm đài I và một phần nhóm trung gian (nếu có) hay phần trên khoảng trống
giữa 2 nhóm II- III. Phân thùy S2 chiếm khoảng 1/3 giữa trên mặt trước thận.
 Động mạch phân thùy trước dưới (S3)

Thường xuất phát sớm ở ngoài rốn thận, từ ngành trước chung
thân với động mạch S2 hay động mạch S4 hoặc một tận cùng động mạch
thận. Động mạch S3 đi vào thận trong khe giữa 2 nhóm đài II - III hoặc một
đài trung gian và nhóm III, hãn hữu đi dưới nhóm đài III.
Động mạch S3 cấp máu cho một phần ở mặt trước dưới thận (nhỏ
hơn l/4 nửa trước thận) tương ứng với nhóm đài III và một phần trung gian
giữa 2 nửa thận.
 Động mạch phân thùy dưới (S4)

Nguyên ủy rất đa dạng và có thể tách độc lập hay chung thân với
động mạch S3 từ: động mạch thận, ngành trước, ngành sau động mạch thận
hoặc từ động mạch chủ bụng. Vào xoang thận, động mạch S4 thường chia
sớm thành 1- 3 nhánh trước và 1 nhánh sau.
- Nhánh của các nhánh trước thường đi trước và dưới nhóm đài IV, đôi
khi có thể qua khe giữa 2 nhóm đài III - IV tuỳ theo sự phát triển cân bằng
bù trừ với động mạch S3
- Nhánh sau: đi dưới bờ dưới của bể thận và đài lớn dưới, vòng ra
sau tới một vùng rộng hẹp ít nhiều thay đổi ở mặt sau cực dưới thận.
Động mạch S4 cấp huyết chủ yếu cho nhóm đài IV, khoảng 1/4 dưới
thận và diện tích ở mặt trước lớn hơn ở mặt sau thận.
 Động mạch phân thùy sau (S5+S6)

Là ngành sau động mạch thận, nhưng cũng có nguyên ủy luôn thay
đổi. Theo sát bờ trên mép sau rốn thận tới sau góc trên bể thận, bắt chéo

mặt sau bể thận xuống dưới và phân nhánh bên theo kiểu trục chính và đôi
khi theo kiểu phân đôi.


11

Các nhánh bên ngành động mạch sau bể thường tách ra thành 2 nhóm. Vì
vậy, phân thùy sau có thể chia thành 2 hạ phân thùy sau trên (S5) và sau dưới (S6)
tương ứng với các phân thùy trước trên (S2) và trước dưới (S3):
- Nhóm ĐM sau trên cấp máu cho hạ phân thùy sau trên (S 5): thường
gồm 1-2 nhánh tách từ góc quặt xuống của ngành động mạch sau bể, chạy theo
khe giữa 2 nhóm đài I - II. Nhóm này gần tương đương với hướng đi của động
mạch S2.
- Nhóm ĐM sau dưới cho hạ phân thùy sau dưới (S6): gồm 1 nhánh
bên chạy ngang giữa bể thận đi qua khe 2 nhóm đài II - III và nhánh tận
qua khe giữa nhóm đài III - IV.
1.2. Lược sử nghiên cứu về giải phẫu động mạch thận
Nghiên cứu động mạch thận đã được nghiên cứu từ lâu Eustachius là
người mô tả về biến thể động mạch thận bằng cách khắc lên bức tranh đồng
năm 1564. Lancisi xuất bản bản khắc với lời bình vào năm 1714 và giới thiệu
các biến thể như một điều tự nhiên [7]. Năm 1867, Hyrlt và Bordel (1901)
nghiên cứu hệ thống bể-đài và mạch máu thận, tìm ra đường vô mạch nằm sau
bờ ngoài 1cm, được ứng dụng lấy sỏi. Năm 1952 nhà phẫu thuật tiết niệu
người Anh F.T.Gaves qua nghiên cứu trên 43 khuôn đúc mạch thận đã nhận
xét động mạch trong nhu mô thận sắp xếp theo một mẫu nhất định. Dựa vào
sự phân bố động mạch phân thùy, ông chia làm 5 phân thùy: Đỉnh, trên, giữa,
dưới và sau [15]. Các tác giả đều thống nhất là động mạch thận không có sự
nối tiếp trong thận, khi tổn thương một nhánh động mạch sẽ gây nhồi máu
cho cả vùng nhu mô mà động mạch đó chi phối.
Nghiên cứu trong nước có Trịnh Xuân Đàn nghiên cứu trên tiêu bản ăn

mòn về sự phân chia động mạch thận trong thận liên quan các động mạch này
với hệ thống đài bể thận [3], Lê Văn Cường chỉ ra các dạng và kích thước của


12

động mạch thận trên xác ngâm formol [2].


13

1.2.1. Nghiên cứu về nguyên ủy động mạch thận.
1.2.1.1 Nguyên ủy động mạch thận theo cột sống
Theo nghiên cứu của Gümüş H. và cộng sự [8] trên 820 phim chụp
MDCTA cho kết quả:
+ Động mạch thận phải: 0,2% tại T12, 3,2% tại T12-L1, 44,1% tại L1,
37% tại L1-L2, 12,9% tại L2, 1,3 % tại L2-L3, 0,1 % tại L3
+ Động mạch thận trái: 0,2% tại T12, 2,9% tại T12-L1, 39,5% tại L1,
38,9% tại L1-L2, 17% tại L2, 0,9 % tại L2-L3, 0 % tại L3
Theo nghiên cứu của Ulku Cenk Turba và cộng sự [16] trên 399 phim
chụp MDCTA cho kết quả: Động mạch thận phải: 3 (0,75%) t ại T12, 6
(1,50%) tại T12-L1, 146 (36,59%) tại L1, 111 (27,82%) tại L1-L2, 131
(32,83%) tại L2, 1 (0,25%) tại L2-L3, 1 (0,25%) tại L3.
Như vậy động mạch thận phải đa số có nguyên ủy từ đốt sống L1 đến
đốt sống L2 chiếm: 98,1% [8], 97,24% [16]. Động mạch thận trái đa số từ
đốt sống L1 đến đốt sống L2: 95,4% [8]
1.2.1.2 Nguyên ủy động mạch thận phải so với thận trái
Trong mẫu nghiên cứu của Võ Văn Hải và cộng sự CS (2012) [17]
khảo sát trên 3 nhóm: 81 thi hài, 31 trường hợp người hiến thận được chụp
bằng DSA và 25 trường hợp người hiến thận được chụp bằng các lớp vi tính,

thận bên phải thường ở vị trí thấp hơn thận bên trái. Do quá trình phát triển đi
lên của thận phải và sự phát triển của gan về thể tích nên thận phải bị gan đè
xuống khiến thấp hơn thận trái. Tuy thế khi so sánh với động mạch thận trái
thì nguyên ủy động mạch thận phải lại thường cao hơn hoặc bằng (83,2%), và
số ít còn ở vị trí thấp hơn (16,8%). Riêng về vị trí nguyên ủy của động mạch
thận phải thấp hơn động mạch thận trái của các tác giả như sau: nhóm trong


14

nước: 16,8 % của Võ Văn Hải và cộng sự (2012) [17], 28,6 % của Trịnh
Xuân Đàn (1999) [3]; nhóm nước ngoài: 11,5% của tác giả Cicekcibasi (2005)
[18].
1.2.1.3 Các góc động mạch thận tại nguyên ủy
1.2.1.3.1 Góc giữa động mạch thận và động mạch chủ trên mặt phẳng đứng
ngang (Coronal)

Hình 1.6 Góc giữa động mạch thận và động mạch chủ [19]
Góc được đo giữa động mạch thận và động mạch chủ hướng xuống
dưới trên mặt phẳng đứng ngang. Theo Barry D. Hutchinson và cộng sự [19]
góc này bên trái là: 65 ± 140 bên phải là: 57 ± 160.
1.2.1.3.2 Góc giữa động mạch thận và động mạch chủ trên mặt phẳng ngang
(Axial)


15

Hình 1.7 Góc giữa động mạch thận và động mạch chủ trên mặt phẳng ngang [19]
Góc được đo giữa động mạch thận và động mạch chủ trên mặt phẳng
ngang. Theo Barry D. Hutchinson và cộng sự [19] góc này bên trái là: 98 ±

170 bên phải là: 67 ± 200.
1.2.2. Kích thước các động mạch thận
Theo Lê Văn Cường (1994) [2] động mạch thận phải dài 55mm, động
mạch thận trái dài 48,3mm, đường kính cả hai trung bình 4,2-4,3 mm.
Theo Trịnh Xuân Đàn (1999) [3] Động mạch thận phải dài 39,5mm
đường kính 5,2 mm, động mạch thận trái dài 28,9mm đường kính 5,1mm
1.2.3. Các dạng động mạch thận ngoài thận.
1.2.3.1 Các dạng đa động mạch thận
Nhóm I: Nhóm quả thận có 1 động mạch thận cung cấp:

Hình 1.8 Các loại động mạch thuộc nhóm I [17]


16

- 1A: Chỉ có 1 động mạch rốn thận
- 1 B: một động mạch rốn thận và một động mạch cực trên
- 1C: một động mạch rốn thận và hai động mạch cực trên
- 1D: một động mạch rốn thận và một động mạch cực dưới
- 1E: một động mạch rốn thận và một động mạch cực trên, một động
mạch cực dưới
- 1F: một động mạch rốn thận chia sớm
(Động mạch cực trên và cực dưới là những động mạch thận nhưng không
đi vào rốn thận được gọi là các :”Động mạch thêm vào” (additional renal
arteries) [20],[21].
Nhóm II: Nhóm quả thận có hai động mạch cung cấp máu:
- 2A: Hai động mạch rốn thận
- 2B: Hai động mạch rốn thận và một động mạch cực trên
- 2C: Hai động mạch rốn thận và hai động mạch cực trên


Hình 1.9 Các loại động mạch thuộc nhóm II [17]
- 2D: Hai động mạch rốn thận và một động mạch cực trên và động mạch
cực dưới
- 2E: một động mạch rốn thận và một động mạch cực trên
- 2F: một động mạch rốn thận và một động mạch cực dưới
- 2G: một động mạch rốn thận cho động mạch cực trên, và một động
mạch cực dưới


17

Hình 1.10 Hình ảnh hai động mạch thận phải [22]
Nhóm III: Nhóm quả thận có ba động mạch cung cấp máu:
- 3A: ba động mạch rốn thận và nhánh động mạch cực trên
- 3B: hai động mạch rốn thận và 1 động mạch cực trên
- 3C: 2 động mạch rốn thận cho nhánh động mạch cực trên và 1 động
mạch cực trên
- 3 D: 1 động mạch rốn thận và hai động mạch cực trên


18

Hình 1.11 Hình ảnh ba động mạch thận phải [23]
Nhóm IV: Nhóm thận có 4 động mạch thận cung cấp máu
- 4A: 3 động mạch rốn thận và 1 động mạch cực trên
- 4B: 1 động mạch rốn thận, hai động mạch cực trên và 1 động mạch cực dưới

Hình 1.2 Hình ảnh bốn động mạch thận (P) [14]



19

Theo nghiên cứu của Võ Văn Hải và cộng sự (2012) [17] với N=224 thì
tỷ lệ các loại động mạch thận là 1(76,2%), 2A,B,C,D(13,0%), 2E(3,6%),
2F,G(4,0%) 3A(0,5%), 3B,C(1,3%), 3D(0,5%), 4A(0,5%), 4B(0,5%).
Còn theo Khamanarong và cộng sự (2004) [24] N=534 thì tỷ lệ các loại
động mạch thận là 1(81,6%), 2A,B,C,D(7,5%), 2E(6,9%),2F,G(3,0%),
3A(0,0%), 3B,C(0,4%), 3D(0,5%), 4A(0,0%), 4B(0,0%).
Theo Trịnh Xuân Đàn (1999) [3] N= 108 tỷ lệ các loại động mạch thận
là 1(65,8%), 2(26,8%), 3(7,4%), 4(0,0%).
Phạm Ngọc Hoa, Huỳnh Đức Long, Thi Văn Gừng [25] N= 32 tỷ lệ các
loại động mạch thận là 1(84,4%), 2A,B,C,D(12,5%), 2E(0,0%),2F,G(3,1%),
3(0,0%), 4(0,0%).
1.2.3.2. Tỷ lệ các động mạch rốn thận của các tác giả trong nước và ngoài nước

Tác giả
(Mẫu khảo sát)

Tỷ lệ các dạng đa động mạch rốn thận
(%)
1 Động
mạch rốn
thận

2 động mạch 3động mạch
rốn thận
rốn thận

Võ Văn Hải (2012) [17] (274 thận)


86,9

12,4

0,7

Trịnh Xuân Đàn(1999) [3] (145 thận)

68,52

20,37

11,11

Khamanarong và cộng sự (2004) [24] (534
thận)

91,57

8,43

0

Sampaio và Spassos (1992) [20] (266 thận)

84,2

13,5

2,3


Boe deii (2004) [21] (272 thận)

79,1

19,8

1,1


20

(Động mạch rốn thận là động mạch thận chính thức có nguyên ủy từ động
mạch chủ đi vào rốn thận) [20], [21]

Hình 1.13 Các loại động mạch rốn thận [17]
1.2.3.3. Các dạng nguyên ủy của động mạch cực trên và động mạch cực dưới

Hình 1.14 Các dạng nguyên ủy của động mạch cực trên [17]
Nguyên ủy của động mạch cực trên có thể từ động mạch chủ(1)hoặc động
mạch rốn thận(2): Theo Võ Văn Hải (N=224) (2012) [17] (1): 7,1%, (2): 31,3%,
tỷ lệ xuất hiện động mạch cực trên xuất phát từ hai động mạch này : 38,4%
Theo Lê Văn Cường (1994) [2] (1): 4,8%, (2): 12,9%, tỷ lệ xuất hiện
động mạch cực trên xuất phát từ hai động mạch này : 17,7%
Theo Trịnh Xuân Đàn (1999) [3] tác giả không thống kê nơi riêng


21

nguyên ủy của động mạch cực trên từ ĐMC, ĐMR mà chỉ thống kê chung tỷ

lệ xuất hiện động mạch cực trên xuất phát từ hai động mạch này : 9,3%

Theo Oelrich (1966) [26] chỉ ra (1): 7%, (2): 12%, tỷ lệ xuất hiện động
mạch cực trên xuất phát từ từ ĐMC, ĐMR là : 19%
Tỷ lệ nguyên ủy của động mạch cực dưới của tác giả trong và ngoài nước

Hình 1.15 Các dạng nguyên ủy của động mạch cực dưới [19]
Nguyên ủy của động mạch cực dưới có thể xuất phát từ động mạch chủ
(3) hoặc động mạch rốn thận (4) hoặc động mạch trước bể nhưng ở đay chỉ
xét 2 trường hợp đầu:


22

Hình ảnh 1.16: ĐM cực dưới (P) xuất phát từ động mạch chủ, ĐM cực dưới
(T) từ động mạch thận [14].
Theo Võ Văn Hải (N=224) (2012) [17] (3): 4,5%, (4): 3,5% tỷ lệ xuất
hiện động mạch cực dưới xuất phát từ ĐMC, ĐMR là: 8,0%
Còn theo Lê Văn Cường (1994) [2] (3): 20,8%, (4): 0% tỷ lệ xuất hiện
động mạch cực dưới xuất phát từ ĐMC, ĐMR là: 20,8%
Theo Trịnh Xuân Đàn (1999) [3] tỷ lệ xuất hiện động mạch cực dưới
xuất phát từ ĐMC, ĐMR là: 5,43%
Theo Hlaing và CS (2010) [27] chỉ ra 2% động mạch cực dưới xuất
phát từ động mạch chủ.
1.2.4. Các dạng nhánh động mạch trong thận
1.2.4.1. Động mạch phân thùy trên
Theo Graves[15] chia động mạch phân thùy trên ra thành bốn dạng dựa
trên nguyên ủy động mạch



23

Hình 1.17 Các dạng của động mạch phân thùy trên [15]
- Dạng I: xuất phát động mạch trước bể hoặc chung thân với động mạch
phân thùy trước trên.
- Dạng II: xuất phát tại nơi phân chia động mạch trước và sau bể từ
thân động mạch thận.
- Dạng III: Xuất phát từ động mạch thận hoặc động mạch chủ
- Dạng IV: xuất phát từ động mạch sau bể.


24

Bảng 1.1. Bảng tóm tắt kết quả nghiên cứu của các tác giả:
F.T.Graves

Kher et al

Verma et

[15]

[28]

al [29]

[30]

S. et al [31]


Năm

1954

1960

1961

1967

2014

Mẫu (Thận)

-

54

98

60

100

Dạng I

43.03%

60.33%


20.45%

70%

40%

Dạng II

23.03%

5.66%

16.30%

-

14%

Dạng III

23.03%

4.31%

29.70%

16.70%

21%


Dạng IV

10%

29.70%

-

23%

Tác giả

Singh et al Chandragirish

1.2.4.2. Động mạch phân thùy trước dưới
Phân chia động mạch phân thùy trước dưới thành 6 nhóm theo nguyên
ủy [32]
- Nhóm I : Động mạch có nguyên ủy từ động mạch trước bể.
- Nhóm II: Động mạch có nguyên ủy từ động mạch phân thùy trước trên.
- Nhóm III: Động mạch có nguyên ủy từ động mạch phân thùy dưới.
- Nhóm IV: Động mạch có nguyên ủy từ động mạch thận.
- Nhóm V: Động mạch có nguyên ủy từ động mạch chủ bụng.
- Nhóm VI: Động mạch có nguyên ủy từ động mạch sau bể.


25

Hình 1.18 Các dạng của động mạch phân thùy trước dưới [32]
Bảng 1.2. Bảng tóm tắt kết quả nghiên cứu của các tác giả:
Chandragirish S. et


Tác giả

Verma et al [29]

Fine. H et al [33]

Năm

1961

1966

2014

98

107

100

Nhóm I

74%

-

47%

Nhóm II


8%

16%

16%

Nhóm III

4%

65%

24%

Nhóm IV

-

-

10%

Nhóm V

-

-

0%


Nhóm VI

1%

-

1%

Mẫu nghiên
cứu (thận)

al [32]

1.2.4.3. Động mạch phân thùy dưới:
Theo Kher et al[28]chia động mạch phân thùy dưới ra thành bốn nhóm
dựa trên nguyên ủy động mạch


×