Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Nghiên cứu sự di động đạm của các loại phân viên nhả chậm và ảnh hưởng của chúng đến sinh trưởng, phát triển, năng suất ngô trồng trên đất đỏ vàng lào cai tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 27 trang )

HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

NGUYỄN THỊ LAN ANH

NGHIÊN CỨU SỰ DI ĐỘNG ĐẠM CỦA CÁC LOẠI PHÂN VIÊN
NHẢ CHẬM VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA CHÚNG ĐẾN SINH TRƯỞNG,
PHÁT TRIỂN, NĂNG SUẤT NGÔ TRỒNG TRÊN
ĐẤT ĐỎ VÀNG LÀO CAI

Chuyên ngành: Khoa học cây trồng
Mã số:

9 62 01 10

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ

NHÀ XUẤT BẢN HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP - 2019

1


Công trình hoàn thành tại:
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Tất Cảnh
PGS.TS. Nguyễn Thế Hùng

Phản biện 1:

GS.TS. Nguyễn Thế Đặng
Trƣờng Đại học Nông lâm, Đại học Thái Nguyên


Phản biện 2:

PGS.TS. Tăng Thị Hạnh
Học viện Nông nghiệp Việt Nam

Phản biện 3:

TS. Đặng Ngọc Hạ
Viện nghiên cứu Ngô

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng Đánh giá luận án cấp Học viện
họp tại:
Học viện Nông nghiệp Việt Nam
Vào hồi giờ

phút, ngày tháng

năm 2019

Có thể tìm hiểu luận án tại:
Thư viện Quốc gia Việt Nam
Thư viện Lương Định Của - Học viện Nông nghiệp Việt Nam

2


PHẦN 1. MỞ ĐẦU
1.1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Cây ngô (Zea mays L.) là một loại cây ngũ cốc quan trọng trên thế giới,
đến năm 2014 diện tích ngô đứng thứ 2 chỉ sau lúa mì và có sản lượng vượt lên

lúa mì và lúa gạo. Ở Việt Nam, cây ngô là cây lương thực được trồng ở tất cả
các vùng sinh thái (FAOSTAT, 2014).
Nitơ là yếu tố quan trọng hàng đầu đối với cây trồng nói chung và cây
ngô nói riêng, là yếu tố dinh dưỡng quan trọng để cây sinh trưởng phát triển và
hình thành năng suất, chất lượng. Các nghiên cứu của các nhà khoa học đã chỉ ra
đạm (N) là nguyên tố hạn chế chính đến năng suất cây trồng, do hiệu quả sử
dụng thấp vì N chỉ được cây hấp thụ và sử dụng một phần (Trenkel, 2010;
Shaviv, 2001) nên hiệu lực của phân bón hóa học rất thấp, chiếm khoảng 40 50% phân đạm, 50 - 60% phân kali và 40 - 50% phân lân (Vanek, 2001). Tính
chung trên toàn thế giới, hiệu quả sử dụng đạm của cây lấy hạt nói chung và ngô
nói riêng chỉ đạt 33%. Có tới 67% lượng đạm bị mất đi, tương ứng với khoảng
15,9 tỷ đô la (William and Gordon, 1999).
Tại tỉnh Lào Cai ngoài lúa thì ngô cũng là cây lương thực chính của cộng
đồng dân tộc ít người, diện tích trồng ngô năm 2015 là 36,8 nghìn ha (Tổng cục
Thống kê, 2016) năng suất đạt 36,2 tạ/ha. Theo kết quả điều tra sơ bộ cho thấy
người dân Lào Cai chỉ bón phân đơn hoặc NPK vào lúc gieo hạt, một số ít người
dân bón bổ sung 1 lần vào lúc cây 5-7 lá, lượng bón không theo quy trình. Do
vậy, vừa tốn công mà không phát huy được hiệu quả của phân bón do lúc cây
cần lượng dinh dưỡng vào giai đoạn quan trọng thì một lượng lớn phân bón bị
mất đi do rửa trôi, bay hơi, thấm sâu vào trong đất làm giảm độ mầu mỡ của đất,
nước ngầm bị ô nhiễm đe dọa đến môi trường và sức khỏe con người
(Cameron et al., 2013).
Phân viên nhả chậm (PVNC) là loại phân kiểm soát sự hòa tan đạm do
được bọc bới các phụ gia giúp cho việc giải phóng các chất dinh dưỡng đáp ứng
lý tưởng nhu cầu của cây (Trenkel, 2010). Như vậy, phân viên nhả chậm được
xem là phương pháp thúc đẩy nâng cao năng suất cây trồng và làm giảm những
tác động tiêu cực đến môi trường gây ra do phát thải khí (NH3, N2O, etc)
(Trenkel, 2010). Tuy nhiên, tại Việt Nam còn ít nghiên cứu ảnh hưởng của phân
viên nhả chậm đến lượng NO3- và NH4+ trong đất, đặc biệt đối với đất đỏ vàng
của Lào Cai chưa có nghiên cứu nào. Do vậy, nghiên cứu sự di động đạm của
các loại phân viên nhả chậm (PVNC) bón một lần cho ngô trên đất đỏ vàng Lào

Cai nhằm kiểm soát được lượng phân bón cho cây ngô được đánh giá là có tiềm
năng ứng dụng cao từ đó nâng cao hiệu quả kinh tế cho ngành sản xuất ngô, góp
phần bảo vệ môi trường và nâng cao chất lượng sản phẩm là rất cần thiết.
1


1.2. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI
1.2.1. Mục tiêu chung
Xác định sự di động đạm N - NH4+ của các loại phân viên nhả chậm và
biện pháp kỹ thuật phù hợp cho ngô góp phần hoàn thiện quy trình thâm canh
ngô đạt năng suất và hiệu quả cao trên đất đỏ vàng của Lào Cai.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
- Đánh giá thực trạng sản xuất, thâm canh ngô làm căn cứ xác định liều
lượng bón phân cho ngô của Lào Cai;
- Xác định mức độ di động đạm N - NH4+ của các loại phân viên nhả
chậm trên đất đỏ vàng của Lào Cai;
- Xác định được phương pháp bón phân viên nhả chậm nhằm nâng cao
hiệu quả sử dụng phân bón cho Ngô;
- Xây dựng mô hình trồng ngô bón phân viên nhả chậm trên đất đỏ vàng
Lào Cai đạt năng suất và hiệu quả kinh tế cao.
1.3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Nghiên cứu mức độ di động đạm N - NH4+ của các loại phân viên nhả
chậm trên đất đỏ vàng của Lào Cai;
- Nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật nâng cao hiệu quả sử dụng phân
bón cho ngô trên đất đỏ vàng Lào Cai (xác định được loại phân viên nhả chậm,
khoảng cách bón);
- Đề tài luận án được thực hiện từ năm 2013 - 2017 tại Học viện Nông
nghiệp Việt Nam và huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai.
1.4. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA ĐỀ TÀI
Đã mô hình hóa được sự di động đạm N - NH4+ của các dạng phân viên

nhả chậm trong đất đỏ vàng Lào Cai theo chiều sâu ở các thời điểm khác nhau.
Kết quả cho thấy đạm di động chủ yếu theo chiều sâu và tập trung nhiều ở độ
sâu từ 9-11cm. Sau 30 ngày đạm di động đều khắp vùng rễ cây.
Đã xác định được phương pháp bón phân viên nhả chậm phù hợp cho
giống ngô NK66 khi trồng trên đất đỏ vàng của Lào Cai là bón một lần khi gieo
hạt; bón 2 viên/1gốc ngô, trọng lượng 1 viên là 4,2g. Với mật độ 5,7 vạn cây/ha,
lượng phân bón là 110 kg N + 24kg P2O5 + 57kg K2O/ha và bót lót bổ sung 36
kg P2O5/ha, bón cách hạt ngô 10cm và sâu 10 cm.
1.5. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.5.1. Ý nghĩa khoa học
Công trình nghiên cứu đã cung cấp những dẫn liệu khoa học có giá trị về
xác định được sự di động đạm N - NH4+ trên đất đỏ vàng là cơ sở khoa học quan
trọng để xác định được độ sâu bón và khoảng cách bón phù hợp cho một giống
ngô và một loại đất cụ thể.
2


Sự di động của đạm N - NH4+ phụ thuộc khá nhiều vào các chất kìm hãm
quá trình thủy phân đạm và hạn chế mức độ hòa tan của đạm, đây là cơ sở khoa
học để nghiên cứu sản xuất các loại phân đạm chậm tan phù hợp cho từng loại
cây trồng và từng vùng đất cụ thể.
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự di động đạm N - NH4+ sau khi bón phân
viên nhả chậm cùng với kết quả xác định độ sâu bón và khoảng cách bón phù
hợp cho ngô là tài liệu tham khảo có giá trị cho các nghiên cứu tiếp theo và phục
vụ cho công tác giảng dạy.
1.5.2. Ý nghĩa thực tiễn
Xác định được hiệu quả, cách bón phân viên nhả chậm cho giống ngô lai
NK66 trên đất đỏ vàng Lào Cai, góp phần xây dựng quy trình kỹ thuật bón phân
viên nhả chậm trồng ngô đạt hiệu quả kinh tế cao tại huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai.
PHẦN 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU

2.1. TÌNH HÌNH SẢN XUẤT NGÔ TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM
2.1.1. Tình hình sản xuất ngô trên thế giới
Cây ngô là được trồng ở hầu hết các nước trên thế giới. Năm 2005 diện
tích ngô là 148,08 triệu ha, năng suất 48,19 tạ/ha, sản lượng 713,59 triệu tấn/ha,
đến 2016 diện tích ngô là 187,95 triệu ha, năng suất 56,40 tạ/ha, sản lượng
1.060,03 triệu tấn/ha. Những năm gần đây nhà khoa học đã nghiên cứu ra nhiều
giống biến đổi gen (GM) đã góp phần đưa sản lượng ngô thế giới vượt lên trên
lúa mì và lúa nước (Drinic et al., 2007; Zhang et al., 2010).
2.1.2. Tình hình sản xuất ngô tại Việt Nam
Sản xuất ngô cả nước qua các năm không ngừng tăng về diện tích, năng
suất, sản lượng: Năm 2005 diện tích là 1.052,6 nghìn ha, năng suất đạt 36,00
tạ/ha, sản lượng 3.789,3 nghìn tấn đến năm 2015 diện tích ngô là 1.164,8 nghìn
ha, năng suất đạt 45,4 tạ/ha và sản lượng đạt 5.288,1 nghìn tấn, trong đó, giống
ngô lai chiếm trên 80% diện tích trồng ngô của cả nước.
2.1.3. Tình hình sản xuất ngô tại Lào Cai
Nhìn chung năng suất ngô của Lào Cai cũng đã tăng đáng kể, năm 2008
diện tích ngô là 28,8 nghìn ha, năng suất 28,06 tạ/ha, sản lượng 80,8 nghìn tấn
đến năm 2015 diện tích ngô là 36,8 nghìn ha, năng suất 36,2 tạ/ha, sản lượng
133,2 nghìn tấn nhưng năng suất vẫn thấp hơn năng suất bình quân cả nước 9,2
tạ/ha (năm 2015).
3


2.2. NGHIÊN CỨU BÓN PHÂN CHO NGÔ TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT
NAM
2.2.1. Sự mất đạm trong nông nghiệp
Nông nghiệp sử dụng nhiều dạng phân đạm khác nhau. Nguồn phân đạm
hóa học được sử dụng trực tiếp cho cây trồng chỉ khoảng 50%, còn lại đi vào môi
trường (Phan Trung Quý và Trần Văn Chiến, 2008) do bay hơi, phản nitrat hóa,
thấm sâu, chảy ngang. Theo White (1987) thì sự mất nitơ do rửa trôi và phản

nitrat hóa có thể tới 30 - 35% của lượng phân bón vào đất (dẫn theo Lê Văn Khoa
và cs., 1996). Quá trình phản đạm hóa ở đất cây trồng cạn, thoát nước kém mất
đạm đạt 20-40%, còn ở đất ngập nước như đất lúa có thể mất 60-79% đạm.
2.2.2. Nghiên cứu về phân bón cho ngô trên thế giới và Việt Nam
Ở thành phố Longkou, tỉnh Shandong bón phân viên nhả chậm (CRF) bọc
polime cho ngô làm tăng năng suất ngô so với đối chứng từ 36,2 đến 46,6% và
FUE tăng từ 12,5 đến 25,2% (Liu et al., 2002; Yan et al., 2008). Theo Thomas
and Ernst (2001) lượng dinh dưỡng mà ngô hút như sau: Ngô lai năng suất 4,5
tấn/ha tổng lượng hút 115 kg N, 20 kg P2O5, 75 kg K2O, 9 kg Ca, 16 kg Mg, 12
kg S/ha.
Để xác định ảnh hưởng của phân ure có bọc và không bọc nutrisphere
(một loại vật liệu polime) đã cho thấy năng suất ngô hạt tăng 18,3% và lượng
đạm trong hạt cao nhất khi bón ure bọc (ure nhả chậm) ở lượng bón là 180 và
270 kg N/ha vào vụ mùa mưa và vụ xuân. (Wiatrak and Walter, 2014).
Li et al. (2017) đã nghiên cứu ảnh hưởng của phân ure được kiểm soát
(CRU) cho thấy: CRU ảnh hưởng đáng kể đến năng suất ngô và hiệu quả sử
dụng N trong các điều kiện nước khác nhau. Khi độ ẩm đất 35% ± 5% thì chất
khô tích lũy và năng suất thấp nhất, vật chất khô và năng suất cao nhất khi cây
được bón mức 315kg/ha ở độ ẩm duy trì ở 55% ± 5%.
Nguyễn Văn Lộc và Nguyễn Tất Cảnh (2009) nghiên cứu ảnh hưởng của
việc sử dụng phân viên nén kết hợp với chế phẩm phân bón lá komix đến sinh
trưởng và năng suất giống ngô LVN4 cho thấy hiệu quả kinh tế cao hơn 36,9% so
với bón vãi phân ure.
Trần Đức Thiện và cs. (2014) nghiên cứu ảnh hưởng của phân đạm dạng
nén đến sinh trưởng, phát triển và năng suất ngô C919 cho thấy mức bón 120N 210N năng suất ngô đạt được dao động từ 70,46 tạ/ha đến 78,13 tạ/ha; tăng hơn
4


so với bón đạm ure từ 16,9 - 21,7%.
Nguyễn Văn Hà và cs. (2017) khi nghiên cứu xác định mức phân bón và

mật độ trồng thích hợp cho nhân dòng bố mẹ của giống ngô nếp lai VNUA69
cho thấy mức đạm thích hợp là 140 kg N/ha trên nền 80 kg P2O5 + 70 kg K2O
ứng với mật độ 6 - 7 vạn cây/ha.
2.3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP KỸ THUẬT NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ
DỤNG PHÂN BÓN
2.3.1. Sử dụng phân viên nhả chậm bón cho cây trồng
Phân viên nén chậm tan hay phân viên nhả chậm (PVNC) được sản xuất
với công nghệ lý - hóa đặc biệt tạo ra những viên phân chứa đầy đủ nhất các
chất dinh dưỡng đa lượng, trung lượng và vi lượng. Hơn thế là tất cả các dinh
dưỡng này đều được hòa tan một cách từ từ, hợp lý theo từng giai đoạn sinh
trưởng, phát triển của cây trồng. Có 2 loại phân viên nhả chậm là phân không
bọc (SRF) và phân có vỏ bọc (CRF).
Ứng dụng phân viên nhả chậm để tăng hiệu quả sử dụng đạm (NUE) do
vậy làm giảm hàm lượng dư thừa trong đất, tăng năng suất cây trồng, cải thiện
chất lượng đất, tăng tỉ lệ nảy mầm cây, giảm số lần bón trong một vụ (Babar
Azeem et al., 2014; Trenkel, 2010; IFA, 2014).
2.3.2. Sử dụng phần mềm HYDRUS để mô phỏng sự di chuyển của đạm
trong đất nghiên cứu
Phần mềm Hydrus phiên bản 2.0 nhằm chẩn đoán dòng chảy nước bão hoà,
sự di chuyển nhiệt và di động chất tan, các chất ô nhiễm, các chất hóa học nông
nghiệp khi bón vào đất theo không gian ba chiều và hai chiều. Phần mềm Hydrus
dựa trên phương pháp số theo phương trình Rechard về dòng chảy nước trong
điều kiện bão hòa - không bão hòa và phương trình khuếch tán đối lưu về sự di
động của nhiệt và chất tan. Các phương trình di động chất tan cũng được lồng
ghép với các phương trình phản ứng bậc nhất, phương trình phân hủy bậc nhất
độc lập với các chất tan khác, và các phản ứng phân hủy bậc nhất yêu cầu kết nối
các chất tan trong chuỗi phản ứng bậc nhất liên tục (Langergraber and Šimůnek,
2005, 2006; Tamás et al., 2015).
2.3.3. Sử dụng dịch chiết thực vật có khả năng ức chế urease
Để hạn chế quá trình mất đạm trong trồng trọt gần đây các nhà khoa học

đã tìm ra và chiết xuất một số hoạt chất có nguồn gốc thực vật khả năng ức chế
enzyme urease đã được sử dụng với mục tiêu làm tăng hiệu quả sử dụng đạm là
5


một giải pháp tiềm năng, có ý nghĩa tích cực trong phát triển nông nghiệp bền
vững, bảo vệ hệ sinh thái và môi trường sống của con người (Lata, 2012;
Farzaneh et al., 2012). Năm 1997, các nhà khoa học đã sử dụng hoạt chất
nBTPT đưa vào phân đạm để ức chế emzym ureaza, hạn chế quá trình chuyển
hóa urê thành amoniac sau khi bón vào đất, làm giảm thất thoát đạm. Công nghệ
này đã hạn chế tối đa việc thất thoát đạm, giúp tăng hiệu suất sử dụng phân đạm
lên 75 - 80% và tiết kiệm 20 - 25% lượng đạm cần bón.
PHẦN 3. VẬT LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. ĐỊA ĐIỂM NGHIÊN CỨU
- Nội dung điều tra, thí nghiệm đồng ruộng, xây dựng mô hình kiểm
chứng được thực hiện tại huyện Bát Xát tỉnh Lào Cai;
- Thí nghiệm nghiên cứu về sự di động đạm của phân viên nhả chậm được
tiến hành tại Học viện Nông nghiệp Việt Nam.
3.2. THỜI GIAN NGHIÊN CỨU
Đề tài được thực hiện từ năm 2013 đến năm 2017.
3.3. ĐỐI TƢỢNG VÀ VẬT LIỆU NGHIÊN CỨU
- Giống ngô lai đơn NK66; Phân viên nhả chậm (PVNC) do Công ty Cổ
phần Công nghệ Xanh Nông nghiệp I sản xuất và phân phối. Khối lượng 1 viên
phân 4,2g, có hàm lượng N: 23%, P2O5:5%, K2O:12%. Các dạng phân viên nhả
chậm được nén, bọc hỗn hợp keo PVA (Polyvinyl Acetate (C4H6O2)n), bọc dịch
chiết thực vật (AUN1) làm chậm quá trình thủy phân urea và quá trình nitrat
hóa.
- Đất nghiên cứu là đất đỏ vàng (feralite) tại huyện Bát Xát, Lào Cai.
3.4. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
- Nội dung 1: Đánh giá hiện trạng sản xuất ngô vùng nghiên cứu;

- Nội dung 2: Nghiên cứu sự di động của đạm trong phân viên nhả chậm
khi bón vào đất đỏ vàng Lào Cai;
- Nội dung 3: Nghiên cứu ảnh hưởng các loại PVNC và kĩ thuật bón đến
sinh trưởng, phát triển và năng suất ngô;
- Nội dung 4: Xây dựng mô hình thử nghiệm và đánh giá hiệu quả kinh tế.
3.5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.5.1. Phƣơng pháp thu thập số liệu
Số liệu thứ cấp được thu thập thông qua các số liệu thống kê của Cục
6


Thống kê tỉnh Lào Cai, Trạm khí tượng thủy văn và các báo cáo sản xuất nông
nghiệp của UBND huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai. Số liệu sơ cấp được thu thập
bằng phương pháp điều tra nhanh nông thôn (RRA) với việc sử dụng phiếu điều
tra. Thời gian điều tra: tháng 3/2013. Tiến hành điều tra 90 hộ trồng ngô lai đơn
NK66 ở 3 xã Quang Kim, Bản Qua, Bản Vược huyện Bát Xát, Lào Cai.
3.5.2. Phƣơng pháp thí nghiệm
3.5.2.1. Nghiên cứu mô phỏng rửa trôi đạm hòa tan theo chiều sâu của đất có
độ ẩm khác nhau bằng mô hình Hydrus-2D
Thí nghiệm gồm 2 cột đất có chiều cao 70cm, đường kính trong 5cm, một
cột đất bão hòa nước (C1), một cột đất bão hòa và ẩm luân phiên (C2). Thí
nghiệm lặp lại 3 lần. Các cột đất được chứa đất đỏ vàng tại xã Quang Kim,
huyện Bát Xát, Lào Cai. Phân đạm ure (46%N) được hòa tan theo tỷ lệ 184 mg
ure/L nước và bơm đều lên bề mặt cột đất. Mẫu nước thoát ra được tiến hành
phân tích hàm lượng amon, nitrat.
3.5.2.2. Xác định lượng NH4+ giải phóng và di chuyển sau bón các loại phân
viên nhả chậm (PVNC) trong đất đỏ vàng Lào Cai
Thí nghiệm có 4 công thức: C1: PVNC bọc keo và dịch chiết; L1: PVNC
bọc dịch chiết; LS: PVNC dạng nén; SL1: PVNC bọc keo. Các công thức phân
viên nhả chậm (PVNC) đều cho 1 viên phân có khối lượng 4,2g, có hàm lượng

N: 23%, P2O5: 5%, K2O: 12%. Thí nghiệm được thực hiện bằng ống trụ (đường
kính 5cm, cao 70cm), mỗi ống trụ chứa 1kg đất đỏ vàng của Lào Cai đã khô và
nghiền nhỏ. Thí nghiệm được thực hiện từ tháng 4 đến tháng 7 năm 2013.
3.5.2.3. Ảnh hưởng của các loại phân viên nhả chậm (PVNC) đến sinh trưởng,
phát triển và năng suất ngô
Thí nghiệm gồm 5 công thức: P1: không bón phân; P2: PVNC dạng nén;
P3: PVNC bọc keo; P4: PVNC bọc dịch chiết; P5: PVNC bọc keo và dịch chiết.
Các công thức phân viên nhả chậm có hàm lượng 110 N+ 24 P2O5 + 57 K2O/ha
và bón lót bổ sung 36 P2O5/ha (dạng phân thương phẩm supe lân). Thí nghiệm
được bố trí theo kiểu khối ngẫu nhiên đầy đủ (RCBD) với 3 lần nhắc lại. Diện
tích của 1 ô thí nghiệm 14 m2, mật độ trồng 5,7 vạn cây/ha (hàng cách hàng
70cm, cây cách cây 25cm). Thí nghiệm được tiến hành ở vụ xuân năm 2013 và
vụ xuân năm 2014 tại huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai.

7


3.5.2.4. Ảnh hưởng của độ sâu bón và khoảng cách bón phân viên nhả chậm
đến sinh trưởng, phát triển và năng suất ngô NK66
Thí nghiệm gồm 2 nhân tố được bố trí theo kiểu (split-plot) với 3 lần nhắc
lại. Phân viên nhả chậm được bón vuông góc với hàng cách điểm gieo hạt 5cm
9(K5); 10cm (K10) và 15cm (K15) và ở độ sâu 5cm (D5), 10cm (D10) và 15cm
(D15). Diện tích của 1 ô là 14 m2, mật độ trồng 5,7 vạn cây/ha, hàng cách hàng
70 cm, cây cách cây 25 cm. Các công thức đều được bón trên nền phân viên nhả
chậm: 110 N+ 24 P2O5 + 57 K2O/ha, đồng thời bón lót bổ sung 36 P2O5/ha
(dạng phân thương phẩm supe lân). Thí nghiệm được tiến hành ở vụ xuân năm
2014 và vụ xuân năm 2015.
3.5.3. Xây dựng mô hình bón phân viên nhả chậm cho ngô
Diện tích mô hình 15.120 m2, gồm 10 hộ trồng trồng ngô cho 2 mô hình.
Mô hình 1 (3 hộ có diện tích 5.040 m2) thực hiện theo quy trình thông thường

làm đối chứng với lượng phân bón 160 N + 60 P2O5 + 60 K2O/ha. Mô hình 2 (7
hộ có diện tích 10.080 m2) theo quy trình sử dụng phân viên nhả chậm được bọc
keo và dịch chiết với lượng phân bón là 110 N + 24 P2O5 + 57 K2O/ha, đồng
thời bón lót bổ sung 36 P2O5/ha.
Địa điểm thực hiện: xã Quang Kim, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai.
3.6. CHỈ TIÊU VÀ PHƢƠNG PHÁP THEO DÕI
Các chỉ tiêu theo dõi được áp dụng theo Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về
khảo nghiệm giá trị canh tác và sử dụng của giống ngô (QCVN 01-56:
2011/BNNPTNT) của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
3.7. PHƢƠNG PHÁP PHÂN TÍCH VÀ XỬ LÝ SỐ LIỆU
3.7.1. Phƣơng pháp phân tích mẫu đất, nƣớc
Phân tích một số chỉ tiêu về lý, hóa học đất thí nghiệm bằng phương pháp
phân tích theo sổ tay phân tích đất, nước, phân bón, cây trồng của Viện Thổ
nhưỡng Nông hoá (1998), Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. Tuyển tập
tiêu chuẩn Nông nghiệp Việt Nam (2001). Tập III. NXB Hà Nội.
3.7.2. Phƣơng pháp xử lý số liệu
Các số liệu thí nghiệm được xử lý trên phần mềm Excel 2007,
IRRISTART 5.0 và số liệu nghiên cứu về sự di động của phân đạm trong đất
được xử lý bằng phần mềm Hydrus 2.0 trên máy vi tính.
8


PHẦN 4. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
4.1. THỰC TRẠNG SẢN XUẤT NGÔ TẠI HUYỆN BÁT XÁT, LÀO CAI
4.1.1. Tình hình sản xuất ngô vùng nghiên cứu
Kết quả điều tra thực trạng sản xuất ngô tại huyện Bát Xát có thể rút ra
một số kết luận:
- Diện tích ngô từ năm 2005 là 2.697 ha năm, năng suất 26,93 tạ/ha đến
năm 2016 diện tích tăng lên 5.328 ha, năng suất đạt 36,94 tạ/ha (Cục Thống kê
Lào Cai, 2017);

- Giống ngô chủ yếu các hộ sử dụng là giống ngô lai đơn như: NK66,
Bioseed 9698, LVN 885, C919, AG59… Trong đó giống ngô NK66 được trồng
nhiều nhất diện tích đạt cao nhất 972,2 ha (năm 2012);
- Việc sử dụng phân bón: 100% hộ dân sử dụng phân NPK 5:10:3 để bón
lót, 28% - 57% số hộ sử dụng phân đạm, kali, phân hỗn hợp NPK để bón lót lúc
cây được 5-7 lá lượng bón theo khả năng của gia đình.
Kết quả điều tra cho thấy có 47,78% số hộ đạt năng suất ngô từ 41- 45
tạ/ha/vụ với lượng N, P, K bón là 281,3 kg/ha ứng với 161,5 kg N + 71,5 kg
P2O5 + 48,3 kg K2O /ha.So với quy trình khuyến cáo của Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn 160 kg N + 60 kg P2O5 + 60 kg K2O /ha thì lượng phân
người dân bón là chưa cân đối, đặc biệt lượng kali còn thấp. Trong quá trình
canh tác phân đơn phải bón phân nhiều lần, tốn công lao động, lượng bón chưa
cân đối nên hiệu quả của phân bón chưa cao, do lúc cây cần lượng dinh dưỡng
vào giai đoạn quan trọng thì một lượng lớn phân bón bị mất đi do rửa trôi, bay
hơi, thấm sâu vào trong đất, làm giảm độ màu mỡ của đất, nước ngầm bị ô
nhiễm đe dọa đến môi trường và sức khỏe con người (Cameron et al., 2013). Vì
vậy, việc nghiên cứu các giải pháp kỹ thuật nhằm nâng cao hiệu suất sử dụng
đạm cho cây ngô là hết sức cần thiết.
4.2. NGHIÊN CỨU SỰ DI ĐỘNG CỦA ĐẠM TRONG PHÂN VIÊN NHẢ
CHẬM KHI BÓN VÀO ĐẤT
4.2.1. Nghiên cứu mô phỏng rửa trôi đạm hòa tan theo chiều sâu của đất có
độ ẩm khác nhau bằng mô hình Hydrus-2D
4.2.1.1. Sự biến thiên hàm lượng nước
Hàm lượng nước được đo hàng ngày ở độ sâu 10cm và 30cm và được mô
phỏng bằng phần mềm HYDRUS 2D (Hình 4.1a,b) cho thấy hàm lượng nước
trung bình đo được là 0,2cm3/cm3, trong đó ở độ sâu 15cm dao động mạnh trong
9


thời gian 8 ngày, ở vị trí đo 30cm dao động mạnh trong thời gian 4 ngày đo đầu

tiên sau đó mức độ dao động giảm thấp và ổn định từ ngày 11 trở đi. Tuy nhiên
hàm lượng nước mô phỏng thấp hơn so với hàm lượng nước đo được trong giai
đoạn đầu, nhưng ở giai đoạn sau sự khác nhau này rất thấp ở cả hai vị trí đo. Sự
chênh lệch cao là do bốc hơi của đất, dòng chảy ưu tiên, giả thuyết về đường
biên dòng chảy gây nên sự sai khác giữa giá trị đo thực và giá trị mô phỏng.

Hình 4.1a. Sự biến thiên hàm lƣợng nƣớc theo thí nghiệm và mô phỏng
ở cột đất bão hòa C1, độ sâu nghiên cứu 10cm

Hình 4.1b. Sự biến thiên hàm lƣợng nƣớc theo thí nghiệm và mô phỏng
ở cột đất bão hòa C1, độ sâu nghiên cứu 30cm
4.2.1.2. Động thái phân bố đạm
So sánh số liệu đo hàng ngày và số liệu mô phỏng nồng độ amon và nitrat
được biểu diễn ở Hình 4.2 (a) và (b) ở độ sâu 15cm, 30cm và 50cm cho thấy mô
hình có số liệu mô phỏng cao hơn ở độ sâu đất 15cm trong khi ở 2 độ sâu còn lại
10


có sự tương đồng rất cao giữa số liệu đo và số liệu mô phỏng ngoại trừ một số
điểm, đặc biệt là ở độ sâu 50cm.
Đối với nitrat số liệu mô phỏng của mô hình có sự tương đồng cao với các
số liệu thí nghiệm, chỉ có một số chênh lệch nhỏ ở độ sâu 15cm. Mô hình có trị
số nồng độ nitrat thấp hơn ở độ sâu 30cm và 50cm so với độ sâu 15cm. Nghiên
cứu của Skagg et al. (2010) cũng cho kết quả tương tự.

(MP: Mô phỏng; TN: Thí nghiệm)

Hình 4.2a. Diễn biến nồng độ amon theo thời gian và độ sâu đất

(MP: Mô phỏng; TN: Thí nghiệm)


Hình 4.2b. Diễn biến nồng độ nitrat theo thời gian và độ sâu đất
Càng xuống sâu như đã chỉ ra ở hình 4.2 (a), nồng độ amon đạt đến nồng
độ tối đa 78 mg/L ở đỉnh cột đất và thấp nhất (49 mg/L) ở đáy cột đất. Điều này
cho thấy có sự biến thiên theo độ sâu do tác động của việc hấp thụ và quá trình
nitrat hóa dọc theo chiều dài cột đất. Hệ số nitrat hóa được ước lượng là 0,25/ngày
được tính toán từ kết quả mô phỏng của mô hình. Tổng lượng amon bị rửa trôi do
11


quá trình nitrat hóa và hấp thụ là 50%. Diễn biến nồng độ amon theo thời gian và
độ sâu đất được đánh giá qua phương trình tương quan.
y = 0,92X + 6,83 với R2 = 0,93
Qua phương trình tương quan nồng độ amon thí nghiệm theo thời gian và
độ sâu đất có mối tương quan thuận với nồng độ amon mô phỏng và có tương
quan chặt r = 0,96.

a. Nồng độ amon thí nghiệm và mô phỏng ở độ sâu 15cm và 50cm.

Hình 4.3a. Diễn biến nồng độ amon khi tƣới nƣớc luân phiên khô và ƣớt (AWD)

b. Nồng độ nitrat thí nghiệm và mô phỏng ở độ sâu 15cm và 50cm.

Hình 4.3b. Diễn biến nồng độ nitrat khi tƣới nƣớc luân phiên khô và ƣớt (AWD)
Trong trường hợp tưới nước khô ướt luân phiên như đã chỉ ra ở hình 4.3
(a) và (b) mô hình mô phỏng được dòng chảy theo cột đất nhưng không ước
lượng được tốc độ nitrat hóa. Mô hình chỉ ước lượng được nồng độ amon nhưng
dự đoán thấp nồng độ nitrat. Như đã trình bày ở hình 4.3a nồng độ amon đạt 80
mg/L sau 4 ngày sau đó đạt ổn định giá trị này cho đến hết thí nghiệm.
Để đánh giá mối quan hệ nồng độ amon thí nghiệm và mô phỏng chúng

tôi đã thiết lập phương trình tương quan ở độ sâu 15cm và 50 cm khi tưới luân
phiên khô ướt ứng với hàm số sau:
Ở độ sâu 15 cm: y = 1,06X + 1,81 với R2 = 0,97;
Ở độ sâu 50 cm: y = 0,95X + 0,59 với R2 = 0,99.

12


Qua phương trình tương quan nồng độ amon thí nghiệm khi tưới luân
phiên khô ướt ở độ sâu 15cm và 50 cm có mối tương quan thuận với nồng độ
amon mô phỏng và có tương quan chặt r = 0,97 (độ sâu 15cm) và r = 0,99 (độ
sâu 50cm).
Như vậy sự di động đạm nitrat phụ thuộc nhiều vào lượng nước tưới và độ
ẩm của phẫu diện đất. Khi tưới liên tục lượng đạm mất đi cao hơn 50% so với
chia làm nhiều lần tưới. Khi bón phân đạm dạng rời cho thấy 45% đạm N- NH4+
bị di động ra khỏi cột đất, 3% bị hấp thụ, 23% (ở độ sâu 50cm) bị rửa trôi vào
nước ngầm, khoảng 25,2% bị mất do quá trình phản nitrat hóa.
4.2.2. Sự thay đổi nồng độ amon khi bón các loại phân viên nhả chậm
Nồng độ NH4+ thấp hơn ở trong đất khi bón phân viên nhả chậm bọc keo
với dịch chiết (C1) và phân viên nhả chậm bọc dịch chiết (L1) so với bón phân
viên nhả chậm dạng nén (LS), điều này cho thấy chúng giải phóng N chậm hơn.
Nồng độ NH4+ trong đất khi bón phân viên nhả chậm dạng nén (LS) bị giảm
mạnh ở giai đoạn đầu tiếp tục giảm chậm hơn cho đến ngày 28. Sau đó, nồng độ
NH4+ ở đất được bón phân viên nhả chậm dạng nén (LS) có xu hướng di chuyển
lên phía trên. NH4+ tích lũy khi bón phân viên nhả chậm bọc dịch chiết (L1) ở
đất đỏ vàng Lào Cai giảm dần và sau đó ổn định, trong khi NH4+ tích lũy ở đất
được bón phân viên nhả chậm bọc keo và dịch chiết (C1) tăng nhẹ, kết quả này
cũng trùng với các kết quả nghiên cứu trước (Paramasivam and Alva, 1997).

Ghi chú: C1: PVNC bọc keo + dịch chiết, L1 PVNC bọc dịch chiết, LS: PVNC dạng nén, SL1: PVNC bọc keo


Hình 4.4. Sự thay đổi hàm lƣợng amon của các dạng phân viên nhả chậm trên
đất đỏ vàng Lào Cai
Phương trình khuếch tán parabol và phương trình đơn giản Elovich đã mô
tả tốt động thái tích lũy NH4+ trong đất khi bón phân viên nhả chậm bọc keo và
dịch chiết (C1) hoặc phân viên nhả chậm bọc dịch chiết (L1).
13


Bảng 4.1. Đặc điểm động thái của NH4+ trong đất đỏ vàng Lào Cai
Công thức
LS

C1

L1

Mô hình
Phƣơng trình
Động học bậc 1
Simple Elovich
qt = 1233,599 – 243,888 ln (t)
Khuếch tán Parabol
qt = 1022,234 – 108,333 t0,6
Động học bậc 1
qt = 434 (1-e-0,299t)
Simple Elovich
qt = 277,214 + 47,076 ln(t)
Khuếch tán Parabol
qt = 299,344 + 26,212 t0,5

Động học bậc 1
Simple Elovich
qt = 499,966 - 37,006 ln(t)
Khuếch tán Parabol
qt = 489,044 - 16,012 t0,5
Significant at α<0,05

r
0,845
0,807
0,555
0,825
0,826
0,898
0,906

SE
90,57
98,99
22,31
18,98
18,01
8,098
11,01

Ghi chú: LS: PVNC dạng nén, C1: PVNC bọc keo + dịch chiết, L1 PVNC bọc dịch chiết

Động thái tích lũy NH4+ trong đất đỏ vàng Lào Cai khi được bón phân
viên nhả chậm dạng nén không mô tả được một cách thích hợp thông qua các
phương trình động học bởi vì các thông số (r = 0,845, SE = 90,57) là không có ý

nghĩa. Khuếch tán parabol và phương trình simple Elovich mô tả tốt động thái
tích lũy amon trong đất khi được bón phân viên nhả chậm bọc keo và dịch chiết
(C1). Mặc dù giá trị r của phương trình phù hợp với NH4+ ở mức độ thấp, giá trị
SE nhỏ hơn phản ánh độ chính xác của các phương trình được sử dụng để mô tả
động học của NH4+ là cao hơn.
Khi nghiên cứu động thái giải phóng đạm từ phân viên nhả chậm bọc keo
và dịch chiết (C1) với phân viên nhả chậm bọc dịch chiết (L1), hình 4.5 chỉ rõ
lượng đạm giải phóng của các loại phân viên nhả chậm là khác nhau.

Ghi chú: C1: PVNC bọc keo + dịch chiết, L1 PVNC bọc dịch chiết

Hình 4.5. Lƣợng đạm giải phóng từ phân viên nhả chậm C1 và L1
14


Ở giai đoạn đầu của thí nghiệm, N giải phóng từ phân viên nhả chậm bọc
dịch chiết (L1) nhanh hơn so với phân viên nhả chậm bọc keo và dịch chiết
(C1). Thoạt đầu trong thí nghiệm lượng đạm giải phóng của phân viên nhả chậm
bọc dịch chiết (L1) tăng lên nhanh chóng theo phương trình tuyến tính được giải
phóng trước 7 ngày cuối cùng. Sau đó, lượng N giải phóng tích lũy tăng lên
chậm dần. Ngược lại lượng N giải phóng của phân viên nhả chậm bọc keo và
dịch chiết (C1) tăng lên ổn định trước 21 ngày sau bón, nhưng N được coi là giải
phóng nhanh hơn ở giai đoạn sau vì độ dốc của đường cong lớn hơn.
Bảng 4.2. Đặc điểm động thái của giải phóng đạm
từ phân viên nhả chậm C1 và L1
Công thức
C1

L1


Mô hình
Động học bậc 1
Simple Elovich
Khuếch tán Parabol
Động học bậc 1
Simple Elovich
Khuếch tán Parabol

Phƣơng trình
qt = -15,678 (1-e 0.017t)
qt = 1233,599 – 243,888 ln (t)
qt = 1022,234 – 108,333 t0,6
qt = 434 (1-e-0,299t)
qt = 277,214 + 47,076 ln(t)
qt = 299,344 + 26,212 t0,5
Significant at α<0,05

r
0,966
0,845
0,807
0,555
0,825
0,826

SE
1,761
90,57
98,99
22,31

18,98
18,01

Ghi chú: C1: PVNC bọc keo + dịch chiết, L1 PVNC bọc dịch chiết

Khi sử dụng lượng N giải phóng của phân viên nhả chậm bọc keo và dịch
chiết (C1) và phân viên nhả chậm bọc dịch chiết (L1) phương trình động học
bậc 1 trong số 3 phương trình được chỉ ra phù hợp nhất cho lượng N giải phóng
từ phân viên nhả chậm bọc keo và dịch chiết (C1) với r cao nhất là 0,966 và SE
nhỏ nhất là 1,761.
Dựa vào các kết quả phân tích tương quan NO3- và NH4+ được chọn như
là những biến số nhị nguyên trong mô hình dự đoán giải phóng N từ phân viên
nhả chậm bọc keo và dịch chiết (C1) và phân viên nhả chậm bọc dịch chiết (L1).
Mô hình và kết quả đánh giá được chỉ ra ở bảng 4.3.
Bảng 4.3. Mô hình tuyến tính dự đoán giải phóng N từ C1 và L1

C1 = 0,03816N+0,05614A – 24,3

Cộng tuyến
T
VIF
0,4845 2,312

0,957

1,501

L1 = -0,005012N – 0,1510A+ 94,86

0,2452


0,801

3,735

Phƣơng trình hồi quy

4,333

r

SE

P<0.05 Hệ số phóng đại phương sai (VIF)
Ghi chú: C1: PVNC bọc keo + dịch chiết, L1 PVNC bọc dịch chiết
T: Tỷ số T dùng trong kiểm định giả thiết; VIF: Hệ số phóng đại phương sai.
N: hàm lượng nitrat; A: hàm lượng amon. Hàm lượng nitrat được tính toán từ hàm lượng amon thông qua quá
trình nitrat hóa theo lý thuyết trên đất cây trồng cạn

15


Mô hình với mối tương quan chặt (r = 0,957, SE = 1,501) đối với phân
viên nhả chậm bọc keo và dịch chiết (C1) phản ánh tốt lượng N giải phóng tích
lũy ở đất đỏ vàng Lào Cai.
4.2.3. Nghiên cứu sự di động đạm của các loại phân viên nhả chậm khi đƣợc
bón vào đất đỏ vàng của Lào Cai trên phần mềm HYDRUS -2D
Thí nghiệm xác định sự di động của đạm khi bón các dạng phân viên nhả
chậm trong đất đỏ vàng Lào Cai ở các thời điểm 5, 10, 20, 30, 60 ngày sau khi
bón phân, kết quả phân tích được biểu diễn trên các đồ thị (hình 4.6- 4.10).


Ghi chú: LS: PVNC dạng nén, SL1: PVNC bọc keo, L1 PVNC bọc dịch chiết, C1: PVNC bọc keo + dịch chiết

Hình 4.6. Nồng độ amon trong đất sau 5 ngày bón PVNC
Kết quả nghiên cứu tại hình 4.6 cho thấy nồng độ amon của cả 4 dạng
phân viên nhả chậm đều tăng và đạt cực đại ở độ sâu 10,5 cm. Trong đó phân
viên nhả chậm dạng nén (LS) chất dinh dưỡng giải phóng từ viên phân có nồng
độ amon đạt cao nhất 986,6 mg/kg, thấp nhất là phân viên nhả chậm bọc keo và
dịch chiết (C1) có nồng độ amon là thấp nhất 378,7 mg/kg. Như vậy, so với
phân viên nhả chậm dạng nén thì phân viên nhả chậm bọc keo và dịch chiết việc
giải phóng đạm từ viên phân chỉ còn 38,4%.

Ghi chú: LS: PVNC dạng nén, SL1: PVNC bọc keo, L1 PVNC bọc dịch chiết, C1: PVNC bọc keo + dịch chiết

Hình 4.7. Nồng độ amon trong đất sau 10 ngày bón PVNC
16


Kết quả nghiên cứu sự giải phóng đạm từ viên phân sau 10 ngày bón được
biểu diễn theo hình 4.7 cho thấy nồng độ đạm ở độ sâu 10,5 cm ở phân viên nhả
chậm dạng nén chỉ còn 55% (541,3 mg/kg so với 986,6 mg/kg), tiếp đến phân
viên nhả chậm bọc keo (39%), phân viên nhả chậm bọc dịch chiết (40%) và
phân viên nhả chậm bọc keo + dịch chiết là cũng đạt 40%. Các loại phân viên
nhả chậm đều di động mạnh ở độ sâu 10 cm kết quả này cũng phù hợp với
nghiên cứu của (Trần Đức Thiện và cs., 2015).

Ghi chú: LS: PVNC dạng nén, SL1: PVNC bọc keo, L1 PVNC bọc dịch chiết, C1: PVNC bọc keo + dịch chiết

Hình 4.8. Nồng độ amon trong đất sau 20 ngày bón PVNC
Tại hình 4.8 cho thấy lượng đạm giải phóng ra khỏi phân viên nhả chậm

dạng nén so với 5 ngày đầu chỉ đạt 9%, phân viên nhả chậm bọc keo đạt 8%;
phân viên nhả chậm bọc dịch chiết đạt 8,5% và phân viên nhả chậm bọc keo +
dịch chiết là 9%. Điều này cho thấy đến ngày 20 sau bón lượng đạm giải phóng
ra ở các dạng phân viên nhả chậm là không có sự sai khác.

Ghi chú: LS: PVNC dạng nén, SL1: PVNC bọc keo, L1 PVNC bọc dịch chiết, C1: PVNC bọc keo + dịch chiết

Hình 4.9. Nồng độ amon trong đất sau 30 ngày bón PVNC
Kết quả nghiên cứu di động đạm ở thời điểm 30 ngày tại hình 4.9 cho
thấy nồng độ đạm trong đất ở độ sâu 10,5 cm so với nồng độ đạm cũng tại độ
sâu này sau 5 ngày bón không có sự sai khác đáng kể nào. Cụ thể phân viên nhả
chậm dạng nén là 2,7%, các loại phân viên nhả chậm còn lại là 2%. Như vậy, có
17


thể nói đến ngày thứ 30 sau khi bón, dinh dưỡng đạm từ phân viên nhả chậm
khác nhau đã gần đi ra hết khỏi viên phân.

Ghi chú: LS: PVNC dạng nén, SL1: PVNC bọc keo, L1 PVNC bọc dịch chiết, C1: PVNC bọc keo + dịch chiết

Hình 4.10. Nồng độ amon trong đất sau 60 ngày bón PVNC
Kết quả nghiên cứu sự di động của đạm ở thời điểm 60 ngày sau khi bón
được trình bày tại hình 4.16 cho thấy, hầu như nồng độ amon trong phân viên
nhả chậm đã lan đều trong toàn phẫu diện nghiên cứu, lúc này nồng độ amon
của các loại phân viên nhả chậm bằng 0 mg/kg.
Qua nghiên cứu sự di động của đạm cho thấy bón phân viên nhả chậm có
bọc keo và dịch chiết khả năng giữ đạm trong đất tốt hơn và khi được bón ở độ
sâu 10cm so với bề mặt luống ngô, cách gốc ngô 10cm là phù hợp nhất với sinh
trưởng phát triển của cây ngô trên đất đỏ vàng của Lào Cai.
4.3. NGHIÊN CỨU ẢNH HƢỞNG CÁC DẠNG PHÂN VIÊN NHẢ CHẬM

VÀ KỸ THUẬT BÓN ĐẾN SINH TRƢỞNG, PHÁT TRIỂN VÀ NĂNG
SUẤT NGÔ
4.3.1. Ảnh hƣởng của các dạng phân viên nhả chậm đến sinh trƣởng cây ngô
4.3.1.1. Ảnh hưởng của các loại phân viên nhả chậm đến sinh trưởng của cây ngô

Nghiên cứu ảnh hưởng của các dạng phân bón đến chỉ số diện tích lá được
trình bày tại bảng 4.4 cho thấy Vụ Xuân năm 2013 và vụ Xuân năm 2014 ở giai
đoạn 7 - 9 lá, chỉ số diện tích lá đạt cao nhất ở công thức phân viên nhả chậm
nén có bọc keo và dịch chiết (CT5) (Xuân 2013:0,81 m2 lá/m2 đất; Xuân 2014:
0,74 m2 lá/m2 đất) và thấp nhất ở công thức không bón phân (CT1) (Xuân 2013:
0,38m2 lá/m2 đất; Xuân 2014: 0,35 m2 lá/m2 đất).
Điều này cho thấy, việc sử dụng phân viên nhả chậm có bọc keo và dịch
chiết đã làm cho lượng dinh dưỡng giải phóng ra chậm hơn, do dịch chiết thực
vật có tác dụng ức chế enzyme urease có trong đất nhằm làm giảm sự mất đạm
(Lin et al., 2014; An et al., 2014) nên phân cung cấp được dinh dưỡng cho cây
18


trong suốt thời gian sinh trưởng, do đó đã có ảnh hưởng tốt đến chỉ số diện tích
lá của cây ngô.
Bảng 4.4. Ảnh hƣởng của phân viên nhả chậm tới chỉ số diện tích lá
của giống ngô NK66
Đơn vị: m2lá/m2đất
Công
thức

LAI 7- 9 lá
Xuân
Xuân
2013

2014
c
0,38
0,35c
0,64b
0,59b
0,66ba
0,61ba
0,75ab
0,68ab
0,81a
0,74a
9,0
9,2
0,10
0,10

1
2
3
4
5
CV (%)
LSD0.05

LAI xoắn nõn
Xuân
Xuân
2013
2014

c
1,66
1,82c
2,91ba
2,93b
3,03ba
3,04b
3,19ab
3,12b
3,37a
3,35a
5,8
4,5
0,31
0,24

LAI chín sữa
Xuân
Xuân
2013
2014
c
2,26
2,01c
3,28ba
3,49b
3,65ab
3,72ba
3,79a
3,80ab

3,97a
4,01a
6,1
4,4
0,38
0,28

Ghi chú: CT1 không bón phân;CT2 PVNC dạng nén; CT3 phân PVNC dạng nén có bọc keo; CT4 PVNC dạng
nén có bọc dịch chiết; CT5 PVNC nén có bọc keo và dịch chiết

4.3.1.2. Ảnh hưởng của loại phân viên nhả chậm tới các yếu tố cấu thành
năng suất của giống ngô NK66
Kết quả đánh giá ảnh hưởng của các loại phân viên nhả chậm tới các yếu
tố cấu thành năng suất của giống ngô NK66 được trình bày trong bảng 4.5.
Bảng 4.5. Ảnh hƣởng của phân viên nhả chậm đến các yếu tố cấu thành
năng suất của giống ngô NK66
Công
thức

Số bắp hữu
hiệu/cây

Số hàng
hạt/bắp

Số hạt/hàng

Khối lƣợng
1000 hạt (g)


Xuân
2013

Xuân
2014

Xuân
2013

Xuân
2014

Xuân
2013

Xuân
2014

Xuân
2013

Xuân
2014

1

1,0

1,0


12,8b

12,8c

21,6b

23,1b

261,0

269,7

2
3
4
5

1,0
1,0
1,0
1,0

1,0
1,0
1,0
1,0

14,4a
14,5a
14,3a

14,4a

13,8b
14,0a
13,9ab
14,1a

31,9a
33,9a
33,3a
34,1a

34,3a
35,0a
34,6a
35,6a

305,7
314,1
320,2
331,6

311,3
312,3
312,0
328,3

2,9
0,77


1,0
0,26

4,4
2,59

2,5
1,53

CV (%)
LSD 0.05

Khi so sánh giữa các công thức bón các dạng phân khác nhau (CT2 đến
CT5) cho thấy. Các dạng phân bón khác nhau có làm thay đổi đến các chỉ tiêu số
hạt hàng/ bắp, số hạt/ hàng, tuy nhiên không có ý nghĩa thống kê.
19


4.3.1.3. Ảnh hưởng các loại phân viên nhả chậm đến năng suất giống ngô
NK66
Kết quả theo dõi ảnh hưởng của loại phân viên nhả chậm tới năng suất
giống ngô NK66 được trình bày trong bảng 4.6.
Kết quả thí nghiệm trong bảng 4.6 cho thấy: Sử dụng phân viên nhả chậm
đã ảnh hưởng đến năng suất của giống ngô NK66, năng suất ngô dao động từ
35,18 -79,75 tạ/ha, trong đó công thức phân viên nhả chậm dạng nén có bọc keo
và dịch chiết (CT5) có năng suất thực thu cao nhất ở cả 2 vụ và có sự sai khác có
ý nghĩa ở độ tin cậy 95%.
Bảng 4.6. Ảnh hƣởng của phân viên nhả chậm đến năng suất
giống ngô NK66
Công thức


NSTT

Hiệu suất sử dụng phân bón

(tạ/ha)

(kg ngô/kg NPK)

Xuân 2013

Xuân 2014

Xuân 2013

Xuân 2014

1

35,18c

38,95c

2
3

68,03b
75,01a

71,48b

74,15b

14,5
17,5

14,3
15,5

4
5

73,63a
78,97a

73,02b
79,75a

16,9
19,2

15,0
18,0

CV (%)

5,4

4,4

LSD 0.05


6,784

5,635

Hiệu suất sử dụng phân bón ở công thức phân viên nhả chậm dạng nén có
bọc keo và dịch chiết (CT5) có hiệu suất sử dụng phân bón cao nhất ở cả 2 vụ
(Xuân năm 2013: 19,2 kg ngô/kg NPK; Xuân năm 2014: 18,0 kg ngô/kg NPK).
Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thị Phương Thảo và cs. (2016) cũng cho thấy
khi bổ dung dịch chiết thực vật vào phân đạm ure giúp làm tăng hiệu suất sử dụng
đạm so với cách sử dụng phân ure thông thường.
4.3.1.4. Đánh giá hiệu quả kinh tế thu được khi sử dụng phân viên nhả chậm
cho giống ngô NK66
Kết quả tính toán cho thấy, tại các công thức bón phân nhả chậm lãi thuần
thu được từ 0,6 - 17,2 triệu đồng (vụ Xuân năm 2013) và 2,6 - 17,6 triệu đồng
(vụ Xuân năm 2014). Công thức phân viên nhả chậm dạng nén có bọc keo và
dịch chiết (CT5) mang lại lãi thuần cao nhất ở cả 2 vụ.

20


Bảng 4.7. Hiệu quả kinh tế thu đƣợc với giống ngô NK66
Công
thức

Tổng chi
(triệu đồng/ha)

1
2

3
4
5

17,9
23,8
24,1
24,1
24,5

Tổng thu
(triệu đồng/ha)
2013
2014
18,6
20,6
36,0
37,8
39,7
39,2
39,0
38,7
41,8
42,2

Lãi thuần
(triệu đồng/ha)
2013
2014
0,6

2,6
12,2
14,0
15,6
15,2
14,9
14,6
17,2
17,6

4.3.2. Ảnh hƣởng của khoảng cách và độ sâu bón phân viên nhả chậm đến
sinh trƣởng, phát triển và năng suất ngô
4.3.2.1. Ảnh hưởng của khoảng cách và độ sâu bón phân viên nhả chậm đến
Kết quả ở bảng 4.8 cho thấy bón phân viên nhả chậm ở khoảng cách và độ
sâu khác nhau đã ảnh hưởng đến chỉ số diện tích lá của giống ngô tham gia thí
nghiệm. Trong đó, sự phối hợp giữa K5 và K10 với D5 và D10 (khoảng cách
bón từ 5 đến 10 cm và độ sâu bón từ 5 đến 10 cm) cho giá trị chỉ số diện tích lá
cao nhất ở cả hai vụ thí nghiệm. Tổ hợp K10D10 có giá trị chỉ số diện tích lá
vượt trội hơn cả (đạt 4,12 m2 lá/m2 đất ở vụ xuân 2014 và 4,08 m2 lá/m2 đất ở vụ
xuân năm 2015). Ở tổ hợp này phân viên nhả chậm được bón ở khoảng cách và
độ sâu phù hợp so với rễ cây trồng, vì vậy phân bón được cung cấp kịp thời cho
cây nên cây sinh trưởng, phát triển tốt, tăng chỉ số diện tích lá.
Bảng 4.8. Ảnh hƣởng tƣơng tác của khoảng cách và độ sâu bón đến chỉ số
diện tích lá và khả năng tích luỹ chất khô của giống ngô NK66

Công thức

D5
D10
D15

D5
K10 D10
D15
D5
K15 D10
D15
CV (%)
LSD0,05
K5

Chỉ số diện tích lá (m2lá/m2đất)
Giai đoạn
Giai đoạn
Giai đoạn
7-9 lá
xoắn nõn
chín sữa
Xuân Xuân Xuân Xuân Xuân Xuân
2014 2015
2014
2015 2014 2015
bc
0,84
0,73 3,12
3,20ab 3,97ab 4,05ab
0,87
0,77
3,28a 3,20ab 3,91ab 3,96ab
0,91
0,78 3,13bc 3,03b 3,85ab 3,93ab

0,90
0,75
3,19b 3,16ba 4,00ab 4,13a
0,89
0,71
3,37a 3,37a 4,12a 4,08a
0,91
0,77 3,09bc 3,17ba 3,81ab 4,01ab
0,86
0,71 3,03cb 3,21ab 4,09ab 3,66b
0,85
0,75 3,03cb 3,20ab 3,99ab 3,83ba
0,84
0,73
2,83c 3,09ba 3,79b 3,75ba
3,7
8,2
2,2
3,0
4,2
3,3
0,05
0,10
0,12
0,17
0,29
0,23

21


Lƣợng chất khô tích lũy (tấn/ha)
Trỗ cờ
Xuân
2014
5,95ab
6,01ab
5,76ba
6,17ab
6,33a
5,82ba
5,57ba
5,47ba
5,19b
4,8
0,49

Xuân
2015
5,89a
5,76a
5,51ab
5,85a
5,82a
5,38ba
5,41ab
5,16ba
5,00b
5,6
0,55


Thu hoạch
Xuân
2014
13,47b
13,78b
12,59c
13,73b
14,72a
13,38b
13,51b
12,75c
12,77c
2,7
0,65

Xuân
2015
13,99a
13,62b
13,26b
13,73b
14,71a
13,70b
13,21b
13,22b
13,43b
3,0
0,72



Ở 2 vụ thí nghiệm, khi bón phân viên nhả chậm ở độ sâu 10 cm (D2),
khoảng cách bón 10 cm (K10) ngô đạt lượng chất khô tích luỹ cao nhất ở thời kỳ
thu hoạch (14,72 tấn/ha ở vụ Xuân 2014 và14,71 tấn/ha ở vụ Xuân 2015).
Kết quả nghiên cứu đã cho thấy, bón phân viên nhả chậm ở độ sâu 10 cm
và khoảng cách bón 10 cm (K10D10) đã làm tăng chỉ số diện tích lá và khả năng
tích lũy chất khô của cây ngô NK66 trên đất đỏ vàng Lào Cai.
4.3.2.2. Ảnh hưởng của khoảng cách và độ sâu bón phân viên nhả chậm đến
các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất của giống ngô NK66
Khi xem xét sự tương tác đồng thời của cả hai yếu tố khoảng cách và độ
sâu bón phân đến chỉ tiêu số hạt/hàng ở cả hai vụ thí nghiệm đều cho thấy, công
thức K10D10 (bón phân cách hạt ngô 10 cm ở độ sâu 10 cm) cho giá trị số
hạt/hàng lớn nhất (đạt 35,7 ở vụ xuân năm 2014 và 34,9 ở vụ xuân năm 2015).
Khối lượng 1000 hạt cũng bị ảnh hưởng mạnh bởi độ sâu và khoảng cách
bón. Bón ở khoảng cách 10 cm cách hạt và ở độ sâu 10 cm cho khối lượng 1000
hạt cao nhất (vụ xuân 2014 là 330,7 g, vụ xuân 2015 là 335,0 g).
Bảng 4.9. Các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất giống ngô NK66

K5

D5
D10
D15

Số hàng
Số hạt/hàng
hạt/bắp
Xuân Xuân Xuân Xuân
2014
2015
2014 2015

14,1b 14,4ab 33,8bc 33,2ab
14,8a 14,4ab 34,3b 34,4ab
13,7bc 13,9ba 33,3cb 34,2ab

Khối lƣợng
NSTT
1000 hạt (g)
(tạ/ha)
Xuân
Xuân
Xuân
Xuân
2014
2015
2014
2015
317,0cb 323,7b 73,41bc 74,95ba
321,7bc 325,0b 79,17a 77,98ab
314,3c 313,3c 69,70c
71,99b

K10

D5
D10
D15

13,8bc
14,4ab
14,4ab


14,0ab 35,1a
14,4ab 35,7a
14,7a 33,9bc

34,7a
34,9a
33,9ab

324,7b
330,7a
320,0bc

76,51b
82,30a
75,62b

76,56ab
81,69a
77,42ab

K15

D5
D10
D15

13,5cb
13,5cb
13,1c


13,6bc 33,8bc
13,1cb 32,7cd
13,1cb 32,1d

33,6ab
33,2ab
32,9b

318,0cb 321,7b 70,14cb
320,0bc 311,0cd 68,22c
302,0d 305,7d 61,31d

71,45b
65,34c
63,65c

Công thức

CV (%)
LSD0,05

2,1
0,51

2,9
0,71

1,2
0,72


2,8
1,71

0,9
5,35

325,7b
335,0a
321,7b

1,3
7,39

2,9
3,77

4,6
5,98

Năng suất thực thu của giống ngô NK66 ở vụ xuân 2014 ở các công thức thí
nghiệm biến động từ 61,31 đến 82,30 tạ/ha, ở vụ xuân năm 2015 biến động 63,85 81,69 tạ/ha. Công thức đạt năng suất cao nhất là K10D10 (bón cách hạt 10 cm và ở
độ sâu 10 cm), năng suất ở vụ xuân năm 2014 là 82,30 tạ/ha và vụ xuân năm 2015
là 81,69 tạ/ha và cao hơn các công thức còn lại ở mức ý nghĩa α = 0,05.
Căn cứ vào kết quả thí nghiệm có thể kết luận như sau: Đối với giống ngô
NK66 tại vùng nghiên cứu, khi sử dụng phân viên nhả chậm nên bón ở khoảng
cách 10 cm và độ sâu bón 10 cm.
22



4.4. XÂY DỰNG MÔ HÌNH ỨNG DỤNG KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CHO
NGÔ NK66 TẠI VÙNG ĐẤY ĐỎ VÀNG CỦA LÀO CAI
Tại địa điểm triển khai mô hình cho thấy: mô hình 2 (bón phân viên nhả
chậm) các yếu tố cấu thành năng suất cao hơn so mô hình 1 (bón phân thông
thường) cụ thể như sau: chiều dài bắp cao hơn 4,54%; đường kính bắp cao hơn
2,12%; số hạt/hàng cao hơn 4,51%; số hàng/bắp cao hơn 2,94%; P1000 hạt cao
hơn 4,30%. Năng suất thực thu của mô hình 2 (quy trình) cao hơn mô hình 1
(đ/c) là 14,97%.
Bảng 4.10. Khả năng sinh trƣởng, các yếu tố cấu thành năng suất
và năng suất mô hình thử nghiệm
Chỉ tiêu
Thời gian sinh trưởng
Chiều cao cây
Chiều cao đóng bắp
Chiều dài bắp
Đường kính bắp
Số hạt/hàng
Số hàng/ bắp
P1000 hạt
Năng suất thực thu

Đơn
vị
tính
ngày
cm
cm
cm
cm
hạt

hàng
gam
tạ/ha

Mô hình 1
(đối chứng)

Mô hình 2
(quy trình)

107
170,8
78,22
17,6
4,7
31,0
13,6
311,2
62,03

So với đối
chứng (%)

109
201,2
91,35
18,4
4,8
32,4
14,0

324,6
71,32

+1,87
+17,7
+16,7
+4,54
+2,12
+4,51
+2,94
+4,30
+14,97

Ghi chú: Dấu “+” đứng trước giá trị thể hiện tăng của tiêu chí nghiên cứu so với đối chứng.

Về hiệu quả kinh tế. Lãi thuần mô hình bón phân theo quy trình đạt 19,41
triệu/ha cao hơn mô hình bón phân theo đối chứng là 9,35 triệu/ha.
Bảng 4.11. Hiệu quả kinh tế mô hình sử dụng phân viên nhả chậm
bón cho giống ngô NK66 tại Quang Kim, Bát Xát
Đơn vị: triệu đồng/ha

Mô hình

Chi phí sản xuất

Tổng thu

Lãi thuần

Đối chứng

Quy trình

28,3
24,8

38,4
44,2

10,06
19,41

Như vậy mô hình áp dụng biện pháp kỹ thuật bón phân viên nhả chậm
cho thấy năng suất và lãi thuần cao hơn cách bón phân thông thường. Phương
pháp bón lại đơn giản, ít tốn công.
PHẦN 5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
5.1. KẾT LUẬN
1) Bát Xát là một trong bốn huyện trồng ngô nhiều nhất trong toàn tỉnh
Lào Cai, có 90% giống ngô lai được trồng, trong đó giống ngô NK66 là giống
23


×