Tải bản đầy đủ (.doc) (62 trang)

Ảnh hưởng của gibberellin đến sinh trưởng phát triển, năng suất và chất lượng của xà lách vụ Xuân - Hè 2008 tại thành Phố Huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (358.67 KB, 62 trang )

PHẦN THỨ NHẤT
MỞ ĐẦU
1.1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Rau xanh là loại thực phẩm không thể thiếu được trong bữa ăn hàng ngày
của mỗi người Việt. Theo (2002) và ICARD (2004) thì hầu hết các hộ gia đình
đều tiêu thụ lượng rau tăng hơn so với năm trước đó. Các loại rau được tiêu thụ
nhiều nhất là rau muống (95% số hộ), cà chua (88%). Hộ gia đình Việt Nam tiêu
thụ trung bình 71kg rau quả/người/năm, trong đó rau chiếm 3/4.
Xà lách (Lactuca sativa L.) là loại rau ăn sống phổ biến, có giá trị dinh
dưỡng cao, cung cấp cho cơ thể người các chất khoáng, enzim, hợp chất hữu cơ,
đặc biệt nguồn vitamin E và C phong phú và rẻ tiền. Ngoài ra, trong xà lách còn
chứa chất lactucarium có hoạt tính sinh học cao, có tác động đến thần kinh, làm
giảm đau và gây ngủ. Xà lách còn có tác dụng giải nhiệt, kích thích tiêu hóa, lợi
sữa, trị ho, suy nhược tâm thần, táo bón, thấp khớp. Từ cây xà lách có thể chiết
ra một loại dịch như nhựa để chế thành xirô hoặc để khô làm thành viên thuốc
chữa bệnh. Xà lách là loại rau được làm xa lát quan trọng nhất. Xà lách quyết
định chất lượng của hỗn hợp rau tươi và tính ngon miệng, nên được người tiêu
dùng ưa chuộng, nhu cầu và khả năng tiêu thụ quanh năm rất lớn.
Xà lách là loại rau ăn lá có đặc điểm sinh trưởng như: cây thấp; rễ ngắn, ăn
nông; có thể trồng dày; có khả năng cho năng suất cao; thích ứng rộng trên nhiều
vùng sinh thái; ít sâu bệnh; thời gian sinh trưởng ngắn ngày, quay vòng/6 - 7 lần/
năm... nên mang lại hiệu quả kinh tế cao. Nếu được đầu tư thâm canh đúng mức,
đẩy mạnh trồng xà lách là điều kiện sử dụng có hiệu quả các loại đất, góp phần
cải tạo đất trong chế độ luân canh thích hợp, tận dụng được sức lao động ở địa
phương, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, tạo thêm nhiều sản
phẩm cho xã hội, đáp ứng nhu cầu rau xanh tại chỗ ngày càng cao của nhân dân.
Tuy nhiên, xà lách yêu cầu đất tơi xốp, thoáng khí, giàu chất dinh dưỡng,
yêu cầu ẩm độ cao trong suốt chu kỳ sinh trưởng. Thêm vào đó việc khó bảo
1
quản khi di chuyển xa đã làm cho xà lách khan hiếm và có giá trị cao trên thị
trường miền Trung.


Diện tích sản xuất rau toàn tỉnh Thừa Thiên Huế trên 4.700 ha, song phân
bố không đều, manh mún, nhỏ lẻ, mang tính thời vụ, năng suất thấp chỉ có một
số vùng trồng tập trung, chuyên canh, ở thành phố Huế và một số xã như: Điền
Lộc - huyện Phong Điền; Quảng Thành, Quảng Thọ - Quảng Điền; Hương Xuân,
Hương Chữ, Hương An - Hương Trà; Phú Mậu - Phú Vang; Hương Lộc, Hương
Phú - Nam Đông...
Trên bờ thành thuộc phường Tây Lộc là vùng sản xuất và cung cấp rau
thường xuyên cho thành phố Huế. Tuy nhiên năng suất còn thấp do diện tích ít,
đất chủ yếu là đất thịt nhẹ, hàm lượng dinh dưỡng thấp, các chất dinh dưỡng
thường xuyên bị rửa trôi do mưa lớn. Mùa khô, chủng loại, năng suất và chất
lượng rau thường thấp. Bù lại, giá rau mùa khô thường cao gấp 3 - 7 lần, lợi
nhuận cao, đã hấp dẫn người sản xuất...
Trong các chất điều hòa sinh trưởng thực vật, GA
3
tăng vận chuyển auxin về
vùng sinh trưởng mạnh. Do vậy, gibberellin ảnh hưởng lên sự giãn của tế bào
theo chiều dọc, kích thích sự sinh trưởng kéo dài của thân và lóng cây.
Gibberellin kích thích sự nảy mầm, chồi của các loại hạt và củ. của chúng. GA
3
có tác dụng hoạt hóa sự hình thành các enzim thủy phân trong hạt như
α
-
amylaza. Enzim này sẽ xúc tác phản ứng biến đổi tinh bột thành đường, tạo điều
kiện cho sự nảy mầm. Việc nghiên cứu, ứng dụng chất điều hòa sinh trưởng cho
cây rau ở Thừa Thiên Huế còn ít được quan tâm, hiện chưa xác định được nồng
độ xử lý phù hợp trong điều kiện thời tiết vụ Xuân – Hè.
Điều đó thúc đẩy chúng tôi thực hiện đề tài “Ảnh hưởng của gibberellin đến
sinh trưởng phát triển, năng suất và chất lượng của xà lách vụ Xuân - Hè 2008
tại thành Phố Huế”
2

1.2. MỤC ĐÍCH ĐỀ TÀI
- Đánh giá khả năng sinh trưởng, năng suất và chất lượng của cây xà lách
trồng trên đất thịt nhẹ dưới ảnh hưởng của GA
3
.
- Xác định được nồng độ GA
3
phù hợp cho xà lách khi trồng trên đất thịt
nhẹ ở Thành Phố Huế.
- Xác định được nồng độ GA
3
phù hợp cho sự nảy mầm của hạt và sinh
trưởng của cây xà lách con.
1.3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Đề tài chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu về khả năng sinh trưởng và năng
suất xà lách dưới ảnh hưởng của GA
3
trên đất thịt nhẹ và xử lý GA
3
đến sự nảy
mầm của hạt và sinh trưởng của cây con trên đĩa petri và cốc nhựa.
- Thời gian nghiên cứu:
+ Thí nghiệm 1: từ ngày 23 đến ngày 28 tháng 3/2008
+ Thí nghiệm 2: từ ngày 27 đến ngày 2 tháng 4/2008
+ Thí nghiệm 3: từ ngày 16/4 đến ngày 6/5/2008
- Địa điểm:
+ Thí nghiệm 1và 2: tiến hành trong phòng.
+ Thí nghiệm 3: vùng đất thịt nhẹ tại phường Tây Lộc – Thành phố Huế.
1.4. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
- Ý nghĩa khoa học:

Cung cấp thêm dữ liệu mới về sinh trưởng, năng suất và chất lượng của xà
lách trồng trên đất thịt nhẹ khi được phun GA
3
.
Cung cấp thêm dữ liệu mới về khả năng nảy mầm của hạt xà lách và sinh
trưởng của cây con khi được xử lý GA
3
.
- Ý nghĩa thực tiễn:
Xác định được nồng độ GA
3
phù hợp với điều kiện thời tiết ở Thừa Thiên
Huế, góp phần đề xuất hướng tác động giúp vườn rau đạt năng suất cao. Đồng
thời có thể tiếp tục nghiên cứu để mở rộng cho các vùng trồng rau khác có điều
kiện khí hậu và đất đai tương tự.
3
PHẦN THỨ HAI
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CÂY XÀ LÁCH
2.1.1. Nguồn gốc và phân loại
Theo Ryder và Whitaker, xà lách có nguồn gốc từ Địa Trung Hải sau đó
được các nhà truyền đạo, thương nhân du nhập ra khắp thế giới. Những dấu hiệu
sớm nhất cho thấy sự tồn tại của xà lách khoảng 4.500 năm trước công nguyên
qua hình khắc trên mộ cổ Ai Cập mới được tìm thấy.
Xà lách đã phát triển lan rộng qua khỏi lòng chảo Địa Trung Hải, đặc biệt
đã có mặt trong nền văn minh của La Mã và Hy Lạp cổ đại. Về sau xà lách phát
triển đến Tây Âu rồi các địa phương khác. Xà lách là thực vật bậc cao có đơn vị
phân loại như sau:
Ngành hạt kín: Angiosprematophy
Lớp 2 lá mầm: Dicotyledoneae

Dưới lớp cúc: Asteridae
Bộ cúc: Asterales
Họ cúc: Compositae
Chi: Lactuca, có số lượng nhiễm sắc thể là 8, 9, 17 cặp.
Có rất nhiều loài hoang dại được sử dụng như nguồn chống chịu sâu bệnh.
Giống xà lách (Lactuca sativa L.) có khoảng 300 loại, có 7 cấp độ nhiễm sắc thể
như 2n = 10, 16, 18, 32, 34, 36, 48, vv...Nhưng chỉ có 4 loại được công nhận từ
việc thành lập nhóm nhân giống hữu ích bởi các phương pháp đã có ở giai đoạn
1940 - 1960. Các loài đó là:
+ Lactuca sativa: là loài thông dụng nhất, có nhiều dạng khác nhau, năng
suất cao phẩm chất ngon được người dân ưa thích và được trồng rộng rãi ở nhiều
nơi.
+ Lactuca serriola: loại này có hạt rất nhỏ, mầm hình thành ngay ở thân, lá
tương đối nằm ngang có thể có răng cưa ở mép lá hoặc bản lá hình cánh hoa
hồng.
4
+ Lactuca saligna: bản lá trải ngang và có răng cưa.
+ Lactuca virosa: có hạt và phẳng, lá có màu xanh lục nhạt có cả dạng hai
năm và hàng năm. Mỗi loài có 2n = 18. L. sativa và L. serriola giao phấn tự
nhiên với nhau và có thể được xếp cùng một loài. L. saligana và L. virosa khác
nhau rõ rệt. L. saligana trông giống L. serriosa nhưng chúng có thể phân biệt
bằng nhiều đặc điểm hình thái học.
- Các giống xà lách: xà lách không cuốn mùa đông và xà lách cuốn ăn ngon,
giòn, năng suất cao, thời gian sinh trưởng dài, được người dân ưa chuộng. Ngoài
ra còn có giống xà lách thu hoạch về mùa Hè, loại này được trồng ở vùng Tây
Tựu – Hà Nội.
- Rau diếp: có 2 loại
+ Rau diếp xoắn: năng suất cao, ăn ngon, giòn, được người dân ưa thích,
trồng nhiều.
+Rau diếp thẳng: lá vàng hoặc lá xanh, bản lá mỏng, chịu nóng, gân đắng;

có thể thu tỉa hoặc thu cả cây; có thể gieo trồng trong mùa nóng.
2.1.2. Giá trị của cây xà lách
- Giá trị dinh dưỡng
Xà lách được sử dụng là rau sống quan trọng và phổ biến ở vùng ôn đới
trước đây. Tuy nhiên ngày nay nó cũng có vai trò lớn trong hỗn hợp rau ở vùng
nhiệt đới. Rau xà lách có giá trị dinh dưỡng cao. Trước hết nó cung cấp chất
tươi, chất xơ cho cơ thể để cân bằng và tiêu thụ lượng đạm, mỡ từ thịt cá trong
thức ăn. Phần lớn các loại thực phẩm, được nấu chín vì vậy enzim, vitamin
không còn nhiều, chỉ duy rau xà lách luôn luôn được dùng tươi sống với số
lượng lớn trong mỗi bữa ăn. Vì vậy, xà lách là nguồn vitamin chủ yếu trong bữa
ăn.
Xà lách chứa nhiều vitamin A, C chất khoáng: kali, canxi, sắt, có vai trò
chữa một số bệnh. Theo viện nghiên cứu ung thư ở Mỹ, thực phẩm chứa nhiều
vitamin A, C như xà lách có khả năng ngăn chặn một số dạng ung thư.
5
Bảng 2.1: Thành phần dinh dưỡng trong rau xà lách ở một số nước và Việt Nam
(trong 100g phần ăn được)
Nước
T. P dinh dưỡng
Mỹ Ấn Độ Việt Nam
Calori (calo) 9 21 15
Dietary (fiber) 1,3 - -
Protêin (g%) 1 2,1 1,5
Carbohydrate (g) 1,34 2,5 2,2
Chất béo (%) 0,3 - -
Nước (%) - 93,4 95,0
Chất khoáng (g) - - 1,2
Vitamin A (IU) 1456 - 1650
Caroten (mg) - 66 2,0
Vitamin C (mg%) 13,44 10,0 15

B
1
(mg) - - 0,14
B
2
(mg) - - 0,12
PP (mg) - - 0,70
Tro (g%) - - 0,8
Xellulose (g%) - - 0,5
Ca (mg) 20,16 50,0 77,0
Fe (mg) 0,62 0,7 0,9
P (mg) - - 34,0
K (mg) 162,4 - -
Thiamin (mg) - 0,09 -
Riboflavin - 0,13 -
(Nguồn: viện ung thư Mỹ 1998; viện dinh dưỡng quốc gia Ấn Độ 1980; thành
phần hoá học thức ăn Việt Nam, 1980)
6
- Giá trị kinh tế
Xà lách chiếm một vị trí quan trọng trong cơ cấu cây lương thực, thực phẩm
nói chung và các loại rau nói riêng. Cây lương thực như: Lúa, ngô, cao lương,
khoai, sắn... chủ yếu cung cấp năng lượng cho con người. Cây thực phẩm bao
gồm các loại đậu, rau, gia vị... nhằm bổ sung chất dinh dưỡng các loại.
Trong các loại rau thì xà lách có diện tích trồng nhiều nhất nên chiếm một
vị trí đáng kể trong cơ cấu cây rau các loại. Với khoảng thời gian sinh trưởng
đến thu hoạch ngắn, xà lách thường được trồng gối vụ, trồng xen giữa 2 vụ cây
lương thực như ngô, khoai, sắn... Nhờ vậy nó góp phần tăng thu nhập cho nông
dân, tạo thêm việc làm cho hàng trăm người lao động ở khu vực nông thôn. Xà
lách còn giúp đất được luân canh với giai đoạn ngắn để đất có thời gian tiêu huỷ
chất hữu cơ và phục hồi dinh dưỡng đất với loại cây trồng chính ở vụ tiếp theo.

Xà lách còn là cây ít có sâu bệnh. Do vậy luân canh xà lách sẽ giúp sự gián
đoạn vòng đời của sâu bệnh, giảm thiểu được sự tồn tại của sâu bệnh đối với vụ
trồng chính tiếp theo sau. Thêm vào đó với bộ lá phát triển nhanh và rộng, che
phủ toàn bộ diện tích đất canh tác đã góp phần hạn chế cỏ dại cho vụ sau.
Xà lách còn được trồng xen với ngô, đậu, cao lương để tận dụng tối đa diện
tích, hạn chế cỏ dại và góp phần tăng thu nhập cho nhà nông.
2.1.3. Đặc điểm thực vật học của cây xà lách
- Bộ rễ:
Xà lách có rễ cọc phát triển, làm nhiệm vụ chính là giữ cây, bám vào đất
được chắc ngoài ra còn làm nhiệm vụ hút nước và dinh dưỡng nuôi cây. Trên rễ
cọc có rất nhiều rễ phụ giúp cây bám đất, hút nước và chất khoáng. Nhìn chung
xà lách có bộ rễ phát triển mạnh và nhanh.
- Thân:
Thân xà lách thuộc thân thảo, là nơi kết nối giữa bộ rễ và lá, vận chuyển
chất khoáng do bộ rễ hút lên và chất hữu cơ do bộ lá tổng hợp nuôi cây. Thân xà
lách giòn, trên thân có dịch trắng sữa. Thời gian đầu thân phát triển chậm nhưng
sau khi cây đạt cao nhất về sinh khối, thân vống rất nhanh và ra hoa.
7
- Lá:
Xà lách có số lượng lá lớn, lá sắp sếp trên thân theo hình xoắn ốc, lúc đầu
mật độ lá, giai đoạn sau mật độ lá thưa dần. Lá ngoài có màu xanh đến xanh
đậm, lá trong xanh nhạt đến trắng ngà. Các lá phía trong mềm có chất lượng cao.
Bề mặt lá không phẳng mà lồi lõm, gấp khúc do đặc tính di truyền. Lá làm
nhiệm vụ chủ yếu là tổng hợp chất hữu cơ nuôi cây.
- Hoa:
Chùm hoa dạnh đầu, chứa số lượng hoa lớn, các hoa nhỏ duy trì chặt chẽ
với nhau trên một đế hoa, với 5 đài hoa, 4 nhị và 2 lá noãn. Độ tự thụ rất cao, hạt
phấn và có độ hữu thụ cao.
- Quả và hạt:
Quả xà lách thuộc loại quả bế đặc trưng. Hạt không có nội nhũ, hạt hơi dài

và dẹt, có màu nâu vàng.
2.1.4. Yêu cầu điều kiện ngoại cảnh của cây xà lách
Đối với xà lách, tuỳ giống mà lá có thể cuốn hay không cuốn, mép lá có
răng hay không có răng. Thân xà lách thuộc loại thân thảo và có một loại dịch
trắng như sữa dùng làm thuốc. Cây có bộ rễ phát triển nhanh.
- Yêu cầu về nhiệt độ:
Xà lách có nguồn gốc ôn đới, ưa nhiệt độ thấp. Tuy nhiên trong quá trình
trồng trọt, chọn lọc và thuần hoá, ngày nay cây xà lách có thể trồng được trên
nhiều vùng khí hậu khác nhau như nhiệt đới, cận nhiệt đới. Để cây sinh trưởng
tốt thì nhiệt độ thích hợp là 13 - 16
0
C. Nhiệt độ ngày và đêm rất quan trọng cho
sinh trưởng phát triển của xà lách. Nhiệt độ ngày và đêm thích hợp là 20/18. Xà
lách cuốn phát triển được trong khoảng 10 - 27
0
C.
- Yêu cầu về ẩm độ:
Cũng như các loại rau nói chung xà lách rất cần nước để phát triển do cây
có bộ lá lớn, tốc độ thoát hơi nước cao. Tuy nhiên nếu mưa kéo dài hay đất úng
nước sẽ ảnh hưởng xấu đến sinh trưởng phát triển xà lách. Để đảm bảo nhu cầu
nước cho cây sinh trưởng tốt, ẩm độ thích hợp trong khoảng 70 - 80%.
8
- Yêu cầu về ánh sáng:
Ánh sáng là yếu tố quan trọng cho sự sống của thực vật. Đối với xà lách
ánh sáng thích hợp là ánh sáng vùng cận nhiệt đới với cường độ khoảng 17000
lux và 16 giờ. Để xà lách sinh trưởng bình thường và cho năng suất cao yêu cầu
thời gian chiếu sáng 10 - 12 giờ/ngày. Cường độ chiếu sáng không chỉ ảnh
hưởng đến quá trình tổng hợp chất hữu cơ cho cây, giúp cây tăng nhanh sinh
khối mà còn ảnh hưởng đến sự hình thành hoa.
- Yêu cầu về dinh dưỡng:

Để tạo nên sinh khối cho cây, bên cạnh các yếu tố nhiệt độ, ẩm độ, ánh sáng
thì xà lách cần hàm lượng dinh dưỡng trong đất trung bình đến cao. Mặc dù xà
lách không kén đất, tuy nhiên cũng như các loại rau khác để cây cho năng suất
cao, phẩm chất tốt yêu cầu đất phải tơi xốp, kết cấu viên, thoát nước tốt, hàm
lượng dinh dưỡng trong đất trung bình đến cao, độ pH đất thích hợp 5,8 - 6,6.
Do xà lách có thời gian sinh trưởng ngắn, sau gieo 40-60 ngày là thu hoạch
được, nên cần các loại phân dễ tiêu. Đối với xà lách, bón lót các loại phân hữu
cơ (phân chuồng hoai mục; bánh dầu đậu phụng; đậu tương; phân cút) và phân
vô cơ NPK 16:16:18 sẽ thích hợp cho cây.
2.2. SẢN XUẤT, TIÊU THỤ VÀ NGHIÊN CỨU RAU XÀ LÁCH
2.2.1. Sản xuất và tiêu thụ rau trên thế giới
- Tình hình sản xuất rau:
Nhu cầu tiêu thụ rau của người dân ngày càng cao, do đó diện tích cũng như
sản lượng rau ngày càng tăng. Qua các năm, sản lượng rau trên thế giới tăng
nhanh năm 1980 sản lượng rau chỉ đạt 375,737 triệu tấn nhưng đến năm 1990
sản lượng rau đạt được 451,523 triệu tấn, chỉ sau 10 năm sản lượng rau trên toàn
thế giới đã tăng 66 triệu tấn. Không dừng ở đó, với sự phát triển của khoa học kỹ
thuật sản lượng rau, trên thế giới không ngừng tăng nhanh, đến năm 1997 sản
lượng rau trên toàn thế giới đạt 595,565 triệu tấn, tăng 144 triệu tấn, so với năm
1990 [12]. Đến năm 2005, sản lượng rau trên thế giới đạt 249,879 triệu tấn, sản
lượng rau thế giới giảm không phải do năng suất giảm mà do diện tích trồng rau
của một số nước bị giảm xuống đáng kể.
9
Bảng 2.2: Tình hình sản xuất rau ở một số nước trên thế giới năm 2005
Quốc gia
Diện tích
(ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lượng

(triệu tấn)
Toàn thế giới 17999009 138,829 249,879
Trung Quốc 8266500 171,790 142,000
Ấn Độ 3400000 102,941 35,000
Việt Nam 525000 133,500 7,008
Philippin 500000 88,000 4,400
Liên Bang Nga 207000 162,802 3,370
Hàn Quốc 195000 318,966 6,219
Brazin 195000 115,385 2,250
Băngladét 150000 62,800 0,942
Thái Lan 145000 162,802 2,361
Italia 144000 180,556 2,600
Nhật Bản 110000 280,412 3,084
Phần Lan 75000 200,000 1,500
Hoa Kỳ 11050 771,801 0,853
(Nguồn: FAO,2006)
Từ bảng 2.2 cho thấy:
Diện tích trồng rau trên thế giới năm 2005 đạt 17.999.009 ha. Trong đó
nước có diện tích trồng rau lớn nhất là Trung Quốc với đến 8.266.500 ha, đứng
thứ hai thế giới về diện tích trồng rau là Ấn Độ với là 3.400.000 ha. Việt Nam là
một trong những nước có diện tích trồng tương đối lớn, 525.000ha, đứng thứ 3,
sau Trung Quốc và Ấn Độ. Bên cạnh các nước có diện tích trồng rau lớn thì cũng
có không ít nước có diện tích trồng rau nhỏ như Hoa Kỳ (11.050 ha), Phần
10
Lan(75.000 ha), Nhật Bản là nước có nhu cầu rau lớn nhưng diện tích trồng chỉ
110.000 ha.
Trong những năm gần đây cùng với sự thay đổi chủng loại rau và quá trình
áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản suất đã làm năng suất rau của nhiều
nước trên thế giới tăng đáng kể. Ở một số nước, tuy có diện tích trồng không lớn
song lại cho năng suất khá cao như: Hoa Kỳ (778,01tạ/ha), Nhật Bản

(280,412tạ/ha), Phần Lan (200,000tạ/ha), ở Việt Nam (133,500tạ/ha) năng suất
rau cũng tương đối cao so với các nước trên thế giới.
Sản lượng rau Trung Quốc lớn nhất thế giới, tiếp theo là Ấn Độ với sản
lượng là 35,000 triệu tấn ( chiếm 14%). Việt Nam cũng là nước có sản lượng rau
lớn trên thế giới với 7,008 triệu tấn.
- Tình hình tiêu thụ rau:
Rau là loại thức ăn, không thể thiếu được trong bữa ăn hàng ngày của mỗi
gia đình. Nó cung cấp các chất cấn thiết cho cơ thể. Khi mức sống của người
dân tăng thì nhu cầu về rau quả tăng lên. Theo tính toán của nhiều nhà khoa học
dinh dưỡng, mỗi khu vực trên thế giới có nhu cầu về rau quả khác nhau. Tình
hình tiêu thụ rau ở mỗi nước phụ thuộc vào điều kiện kinh tế. Ở khu vực Châu Á
và Viễn Đông, theo nghiên cứu dự báo, cứ thu nhập tăng 1,0% thì nhu cầu rau,
đậu quả tươi tăng 0,9%; đậu hạt tăng 0,3%;đường tăng 1,3%; sữa tăng 1,8%;
dầu, mỡ và bơ tăng 1,2%… [12].
Rau là cây trồng rất được chú trọng trên thế giới, theo thống kê của các tổ
chức lương thực thì tổng diện tích trồng rau trên thế giới là 17.730.887 ha với
tổng sản lượng là 246.480.485 tấn, đạt năng suất bình quân 139.012 tạ/ha. Trong
đó, một số nước có diện tích trồng rau lớn như: Trung Quốc (8,0668 triệu ha),
Ấn Độ (3.37 triệu ha), Nigeria (0,67 triệu ha), Philippin (0,5 triệu ha); nhưng
cũng có nước chỉ có trồng 700 ha như Quata, 300 ha như Singgapore.
Bảng 2.4: Xuất nhập khẩu rau quả trên thế giới (năm 2003)
11
Nước
Rau sản xuất trong nước đáp ứng (1000 tấn)
Sản lượng Nhập khẩu Dự trữ Xuất khẩu Tổng số
Thế giới 848161 47197 415 49242 846531
Châu Phi 50310 1232 483 1227 50798
Bắc Mỹ 56294 9069 7 9395 55975
Nam Mỹ 20637 819 1 1372 20084
Châu Á 618243 9556 -190 13405 614204

Châu Âu 99357 26102 121 23153 102427
Châu Đại Dương 3321 419 -7 691 3042
(Nguồn: FAO, 2006)
Ở một số nước diện tích trồng rau không lớn nhưng năng suất lại đạt rất cao
như: Nhật Bản (245,5 tạ/ha), Hoa Kỳ (516,8 tạ/ha). Theo Gansen, năm 1992 nhu
cầu rau bình quân cho một người là 200 g/ngày, mức tiêu thụ đầu người là 73 kg/
năm (1996) và ngày có xu hướng tăng.
Bảng 2.4: Tiêu thụ rau tính theo đầu người trong ngày ở một số nước
Nước Rau (g/người/ngày) % so thế giới
Thế giới 250 100
Liên Xô(cũ) 564 225
Trung Quốc 280 112
Nhật Bản 197 71
Việt Nam 177 71
Ý 167 66
Ấn Độ 135 54
Pháp 122 49
Srilanca 120 48
Pakistan 69 27
(Nguồn: FAO, 1999)
Trước nhu cầu rau ngày càng tăng, một số nước trên thế giới đã có chính
sách nhập khẩu rau. Năm 2005, nước nhập khẩu rau nhiều rất thế giới là Pháp
12
(145,224 nghìn tấn); tiếp theo là các nước như: Canada (143,332 nghìn tấn); Anh
(140,839 nghìn tấn); Đức (116, 866 nghìn tấn). 5 nước chi tiêu cho nhập khẩu
rau lớn trên thế giới là: Đức (149.140 nghìn USD); Trung Quốc (80.325 nghìn
USD); Pháp (132.942 nghìn USD); Canada (84.496 nghìn USD); Nhật Bản
(75.236 nghìn USD).
2.2.2. Tình hình sản xuất, tiêu thụ và nghiên cứu rau ở Việt Nam
- Tình hình sản xuất:

Kể từ đầu thập kỷ 90, diện tích trồng rau của Việt Nam phát triển nhanh
chóng và ngày càng có tính chuyên canh cao. Tính đến năm 2005 diện tích trồng
rau cả nước là 525,0 nghìn ha, tăng 59,96% so với năm 1995 (328,2 nghìn ha).
Bình quân mỗi năm tăng 19,68 nghìn ha (5,99 %/năm). Đồng Bằng Sông Hồng
là vùng sản xuất lớn nhất chiếm khoảng 29% sản lượng rau toàn quốc. Điều này
là do đất đai ở vùng ĐBSH tốt hơn, khí hậu mát hơn và gần thị trường Hà Nội.
Đồng Bằng Sông Cửu Long là vùng trồng rau lớn thứ 2 của cả nước chiếm 23%,
tổng sản lượng rau. Đà Lạt là vùng chuyên canh sản xuất rau cho xuất khẩu và
tiêu thụ thành thị, nhất là thị trường thành phố Hồ Chí Minh.
Bảng 2.5: Tình hình sản xuất rau ở Việt Nam giai đoạn 1995 - 2005
Năm
Chỉ tiêu
1995 2000 2005
Diện tích (1000 ha) 328,2 377,0 525,0
Năng suất (tạ/ha) 125,5 147,5 133,5
Sản lượng (triệu tấn) 4,1 5,5 6,6
(Nguồn: FAO, 2006)
Năng suất rau Việt Nam nói chung còn thấp và bấp bênh, năm 2005 năng
suất đạt 133,5 tạ/ha, đạt 96,16% so với mức trung bình của thế giới (138,829
tạ/ha). Trong khi đó sản lượng rau cả nước năm 2005 đạt 6,6 triệu tấn so với năm
1995 (4,1 triệu tấn) tăng 60,97%. Mức sản lượng tăng trung bình hàng năm là
0,25 triệu tấn, chủ yếu là do tăng diện tích gieo trồng.
Bảng 2.6: Diện tích, năng suất, sản lượng rau phân theo vùng
13
Vùng
Diện tích
(1000 ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lượng

(1000 tấn)
1999 2005 1999 2005 1999 2005
Cả nước 459,6 635,1 126,0 151,8 5792,2 9640,3
Đồng bằng sông Hồng 126,7 158,6 157,0 179,9 1988,9 2852,8
Trung du miền núi
Bắc Bộ
60,7 91,1 105,1 110,6 637,8 1008
Bắc Trung Bộ 52,7 68,5 81,2 97,8 427,8 670,2
Duyên hải nam
Trung Bộ
30,9 44,0 109,0 140,1 336,7 616,4
Tây Nguyên 25,1 49,0 177,5 201,7 445,6 988,2
Đông Nam Bộ 64,2 59,6 94,2 129,5 604,9 772,1
Đồng bằng sông
Cửu Long
99,3 164,3 136 166,3 1350,5 2732,6
(Nguồn: )
Rau quả nước ta tuy đa dạng, phong phú và có diện tích lớn. Nhưng sự phát
triển chưa theo yêu cầu của thị trường, quy trình canh tác chưa đồng đều, nhiều
nơi còn lạc hậu. Mặc dù sản xuất rau phân bố đều trong cả nước, nhưng đa số
phát triển với diện tích manh mún, nhỏ lẻ. Phần lớn rau không đáp ứng được yêu
cầu của thị trường về chất lượng, kích thước, hình dạng, số lượng nên không đủ
tiêu chuẩn xuất khẩu.
- Tình hình tiêu thụ
Một số nghiên cứu về tình hình tiêu thụ các loại rau của Việt Nam trong
thời gian qua cho thấy rau là sản phẩm khá phổ biến trong các hộ gia đình.
Thành phần tiêu thụ rau thay đổi theo vùng, đậu, su hào và cải bắp là những loại
rau được tiêu thụ rộng rãi ở miền Bắc. Rõ nét nhất có thể thấy là trường hợp su
hào với trên 96% số hộ nông thôn ở miền núi phía bắc và Đồng Bằng Sông Hồng
tiêu thụ nhưng dưới 15% số hộ ở miền Đông Nam bộ và Đồng Bằng Sông Cửu

Long. Theo tính toán của IFPRI, tiêu thụ ở khu vực thành thị có xu hướng tăng
mạnh hơn so với các vùng nông thôn. Khi thu nhập cao hơn thì các hộ cũng tiêu
14
thụ rau nhiều hơn, tiêu thụ rau quả theo đầu người giữa hộ giàu nhất gấp 5 lần hộ
nghèo nhất, từ 26 kg đến 134 kg.
Bảng 2.7: Tỷ lệ tiêu thụ đối với từng sản phẩm theo vùng
Vùng
Sản phẩm
HN
HCM
Tp
khác
Thị

MNPB ĐBSH BTB NTB TN ĐNB SCL
Rau muống 97 99 96 91 98 98 90 79 94 94
Su hào 42 69 45 91 96 68 19 59 12 3
Bắp cải 94 92 90 90 94 70 47 78 79 78
Cà chua 98 99 95 85 94 78 76 79 89 87
Rau khác 94 93 91 81 84 91 98 97 98 97
(Nguồn: IFPRI, 2002)
Ở Việt Nam, nhiều nhà nghiên cứu về thực phẩm và sức khỏe tính bình
quân chung là 250 - 300g/người /ngày. Theo tính toán thì tại Hà Nội và thành
phố Hồ Chí Minh trong điều kiện hiện tại lao động một ngày hoạt động nặng cần
dùng từ 400 - 500g rau. Theo tính toán của Dorolle năm 1942 thì lượng rau cần
thiết cho mỗi người Việt Nam khoảng 360g/người/ngày [13]
Theo FAO, nhu cầu tiêu thụ rau quả trên thế giới tăng bình quân 3,6% năm,
nhưng mức cung chỉ tăng 2,8% năm. Điều này cho thấy thị trường xuất khẩu rau
quả có nhiều tiềm năng. Tuy nhiên, trong nhiều năm qua thị trường xuất khẩu
rau quả Việt Nam giảm mạnh. Nếu năm 2001 rau quả Việt Nam xuất khẩu đến

42 nước và vùng lãnh thổ thì đến năm 2004 chỉ còn lại 39 nước và năm 2005
còn lại 36 nước. Sự suy giảm này có nhiều nguyên nhân, trong đó chủ yếu vẫn là
do sản xuất manh mún, số lượng không tập trung, giá cao, đặc biệt lượng dư
thuốc bảo vệ thực vật vượt mức cho phép.
Bảng 2.8: Tình hình tiêu thụ rau trên đầu người ở Việt Nam
15
Năm
Dân số
(triệu người)
Tiêu thụ
(kg/người/năm)
Diện tích trồng
(ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lượng
(1000 tấn)
2000 82,10 82,30 500.000 135,20 6.760,00
2005 88,50 96,30 600.000 140,00 8.520,00
2010 95,80 105,90 700.000 145,00 10.105,00
(Nguồn: FAO, 2000)
* Tình hình sản xuất rau xà lách ở Thừa Thiên Huế
Thừa Thiên Huế năm trong khu vực bắc miền Trung, đây là vùng đang gặp
nhiều khó khăn, đất đai kém phì nhiêu, khí hậu khắc nghiệt. Tuy vậy, đây cũng
là vùng đa dạng về loại cây trồng nói chung và cây rau nói riêng vì là nơi giao
thoa gữa khí hậu hai miền Nam Bắc. Diện tích sản xuất rau toàn tỉnh Thừa Thiên
Huế trên 4.700 ha, song phân bố không đều, manh mún, nhỏ lẻ, sản xuất mang
tính thời vụ. Cơ cấu giống rau còn nghèo nàn, rau muống là loại rau phổ biến,
chiếm khoảng 32% diện tích (năm 2005), các loại rau còn lại được gieo trồng
phổ biến gồm: rau ăn lá (cải bẹ xanh, xà lách, tần ô, rau má, rau dền...và một số

loại rau gia vị) được trồng gần như quanh năm; rau ăn quả (đậu côve, cà tím,
mướp đắng, dưa gang,...) trồng một vụ trong năm; rau ăn củ rất ít loại và quy mô
nhỏ...Tuy nhiên những năm gần đầy cùng với sự phát triển của ngành sản xuất
nông nghiệp thì ngành sản xuất rau ở đây đã có những bước tiến đáng kể.
Qua bảng cho ta thấy Phú Vang là huyện có diện tích trồng rau lớn nhất tỉnh
(năm 2006 là 1.352ha), tiếp đó là huyện Quảng Điền, TP Huế, huyện Hương Trà.
Tuy Phú Vang là huyện có diện tích trồng rau lớn nhất nhưng năng suất lại chưa
cao, năm 2006 là 89,4 tạ/ha, thành phố Huế có năng suất cao nhất, năm 2006 đạt
122,0 tạ/ha. Bên cạnh các huyện có năng suất và diện tích lớn thì còn một số
huyện có diện tích và năng suất rất thấp như Nam Đông (năng suất năm 2006 là
68,5 tạ/ha), A lưới (năm 2006 đạt 66,7 tạ/ha). Nguyên nhân chính là do hạn chế
về diện tích, giống địa phương năng suất thấp.
16
Thành phố Huế và huyện Phú Vang, huyện Quảng Điền, huyện Hương Thủy là
các khu vực đầu mối để cung cấp rau cho Thừa Thiên Huế.
Bảng 2.9: Diện tích, năng suất và sản lượng rau ở thành phố Huế và các huyện
Chỉ tiêu
Năm
Huyện
Diện tích (ha) Năng suất (tạ/ha) Sản lượng (tấn)
2005 2006 2005 2006 2005 2006
Tổng 4341 4752 92,3 91,5 40.062 43.485
Tp. Huế 520 560 133,1 122,0 6.922 6.82
Phong Điền 345 370 81,5 71,5 2.467 2.646
Quảng Điền 995 1.136 85,2 87,5 8.477 9.943
Hương Trà 520 529 106,1 105,4 5.519 5.577
Phú Vang 1.150 1.352 88,3 89,4 10.160 12.088
Hương Thủy 294 314 84,7 85,1 2.491 2.656
Phú Lộc 253 205 89,2 88,0 2.258 1.799
Nam Đông 126 130 68,6 68,5 864 890

A Lưới 138 158 65,5 66,7 904 1.054
(Nguồn: niên giám thống kê Thừa Thiên Huế, 2006)
Tóm lại diện tích rau của miền Trung chiếm 20% so với cả nước nhưng sản
lượng chỉ chiếm 11,2 %, điều đó chứng tỏ năng suất rau bình quân của các tỉnh
miền Trung thấp hơn năng suất rau của cả nước. Sản xuất rau trong vùng chủ yếu
là phục vụ tại chỗ, sản xuất rau ở đây hiện chỉ mới đáp ứng 40-50% nhu cầu,
lượng thiếu hụt được bổ sung từ nguồn rau của miền Bắc, Đà Lạt, thậm chí từ
nguồn nhập khẩu [13].
2.2.3. Tình hình nghiên cứu rau, xà lách trên thế giời và Việt Nam
* Trên thế giới:
17
Trong lĩnh vực sản xuất rau, trên thế giới có nhiều công trình và nhiều tác
giả nghiên cứu về rau. Cùng với việc thay thế dần tập quán canh tác rau, nhiều
nước đã chọn lựa được nhiều dòng giống rau phong phú, có chất lượng, năng
suất cao đáp ứng được các điều kiện canh tác và nhu cầu tiêu dùng trên thế giới.
Một trong những cơ quan nghiên cứu về rau đó là Trung tâm Nghiên cứu và Phát
triển rau Châu Á (AVRDC) đã nghiên cứu và phân phối nhiều nguồn gen rau có
uy tín cho các nước và địa phương trên thế giới. Đến năm 1993, có 67 quốc gia
trên thế giới đã dùng mẫu và giống rau của AVRDC, 17.618 mẫu rau được phân
phối ra thị trường và 5.390 mẫu rau được trung tâm AVRDC thu nhập để sử
dụng vào mục đích nghiên cứu.
AVRDC cũng đã có 40.000 giống biểu tượng cho sự độc nhất về giá trị
nguồn giống rau trên thế giới và đã tiến hành khảo sát những đặc tính các giống
rau ở Malaisia, Indonedesia, Philippin và Thái Lan. Ngoài ra, AVRDC đã có sự
hợp tác quốc tế ở Nhật về nguồn di truyền rau trong chu trình bảo tồn, đánh giá
và sử dụng nguồn rau, một mạng lưới canh tác ở miền nam Châu Á.
Về rau xà lách, E. D. Ward J. Ryder đã có nhiều nghiên cứu về giống rau xà lách
trên thế giới. Theo ông có 5 dòng xà lách phổ biến là:
Xà lách quắn đầu (Crisphead)
Xà lách La Mã (Romaine or cos)

Xà lách láng dầu (Butterhead)
Xà lách lá (Leaf lettuce)
Xà lách măng (Stem lettuce)
Những nhà lai tạo ở Caliofornia đã chọn tạo được các dòng xà lách kháng
được bệnh khô nâu (brow blight), bệnh phấn trắng (downy mildew), bệnh khảm
(mosaic) và bệnh cháy đót (tipburn). Ở Forida có giống kháng bệnh khảm
(mosaic). Ở Texas có giống kháng bệnh héo rũ vi khuẩn (bacterial wilt). Nhiều
quốc gia ở châu Âu cũng đã tạo ra được những giống kháng bệnh này. I.C.
Jagger (1926) đã tạo ra dòng kháng bệnh khô nâu (brow blight) đầu tiên. Ông
tuyển chọn những cây xà lách khỏe còn lại, từ đó chọn lọc lai tạo để đạt được kết
quả nói trên.
18
Ở Mỹ đã có những chương trình cải tạo xà lách nhằm vào các mục tiêu như:
Tạo ra những dòng kháng, cải thiện tạo ra các giống có chất lượng, hình thức ưa
thích, làm đồng dạng về kích cỡ và tạo giống rau thích nghi với những điều kiện
môi trường đặc biệt.
Ở Úc, Trung tâm Công nghệ Rau Quốc gia đã có những nghiên cứu về áp
dụng IPM cho xà lách, áp dụng nhiều biện pháp trong trừ sâu bệnh trên rau xà
lách như: phương pháp canh tác, phương pháp sinh học, phương pháp hóa học và
phương pháp cơ học.[11]
* Ở Việt Nam:
Cây rau là một thế mạnh trong phát triển nông nghiệp miền Trung, giúp xóa
đói giảm nghèo. Để tăng sản lượng rau, nhiều nhà nghiên cứu đã và đang chọn
tạo ra nhiều chủng loại rau cho năng suất cao, phẩm chất tốt, có khả năng chống
chịu sâu bệnh và điều kiện khắc nhiệt ở miền Trung.
Theo Nguyễn Văn Duy [5] khi so sánh một số giống rau xà lách có triển
vọng ở Thừa Thiên Huế nhận thấy thời gian sinh trưởng phát triển và năng suất
của 7 giống xà lách được xếp theo thứ tự giảm dần như sau: xà lách bẹ Pháp > xà
lách quăn > xà lách Trang Nông 591 > xà lách thẳng > xà lách dúm > xà lách
Panarama > xà lách Huế ( đối chứng). Hiện có loại xà lách xoong phát triển ở

dọc các khe suối (A Lưới, Nam Đông).
Một số đối tượng rau được nghiên cứu có kết quả tốt và được ứng dụng vào
sản xuất như so sánh giống, kỹ thuật canh tác, sử dụng chất kích thích sinh
trưởng, phủ luống cho rau từ năm 1996.
Nghiên cứu khu vực hóa một số giống nhập nội như giống dưa chuột, giống
bắp cải, giống ớt ngọt, giống ngô bao tử với mục đích thay thế một số giống địa
phương đã thoái hóa và đưa một số giống mới vào sản xuất.
Mới đây khoa Nông học đã triển khai đề tài đưa giống ngô bao tử vào sản xuất
tại xã Hương Long và bước đầu đánh giá giống ngô bao tử thích nghi với khí hậu
thổ nhưỡng vùng đất này, là cây có giá trị kinh tế cao.
19
Với sụ giúp đỡ của Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển rau Châu Á
(AVRDC), từ năm 2000 nhóm nghiên cứu rau của khoa Nông học, trường Đại
học Nông Lâm Huế đã triển khai nhiều đề tài nghiên cứu thuộc các lĩnh vực sau:
Nghiên cứu về giống rau: nghiên cứu tập đoàn các giống ớt cay, dưa chuột,
đậu cô ve, cà tím, cà chua, đậu tượng rau, ngô bao tử, …
Nghiên cứu về giống và kỹ thuật: sử dụng thuốc hóa học phòng trừ bệnh
thán thư trên cây ớt, héo dây trên dưa hấu, sử dụng phân khoáng cho dưa hấu.
Nghiên cứu liều lượng phân khoáng đối với hành hoa làm giống, thời vụ mật độ
đối với hành hoa, nghiên cứu hệ thống cây rau trên đất cát, tập đoàn giốmg ớt, cà
chưa nhập nội tại Thừa Thiên Huế,…
Nghiên cứu ảnh hưởng của phương pháp lót Polyethylen đến sinh trưởng và
năng suất xà lách trồng trên đất cát biển Sơn Trà- Đà Nẵng.[4]
Nguyễn Văn Định, 1999 [6] điều tra tính đa dạng, thu thập, định danh một
số giống rau và thực vật sử dụng làm rau ở huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí
Minh trong mùa mưa. Kết quả điều tra, thu được 44 loài thuộc nhiều họ khác
nhau. Nhóm rau thu hái từ cây trồng có mục đích khác, có 5 loài như: cóc, điều,
khế, bắp chuối hột và chuối hột. Nhóm thu hái từ thực vật trong vườn nhà gồm
18 loài, 16 giống thuộc 13 họ. Nhóm rau thu hái từ thiên nhiên có 40 loài, 35
giống thuộc 28 họ. Tương tự, nghiên cứu tại Thừa Thiên Huế và Quảng Trị,

Nguyễn Văn Trương [20] đã kết luận: tổng cộng có 191 loài rau ăn được, trong
đó rau trồng có 59 loại thuộc 16 họ; rau mọc quanh vườn có 19 loài thuộc 14 họ,
rau hoang dại có 72 loài thuộc 37 họ và thực vật làm rau có 20 loài với 14 họ.
Tôn Nữ Thục Chinh, 2001 [2] điều tra thu thập và đánh giá các giống rau ở
Đà Nẵng đã thống kê được 53 loại rau đang sử dụng ở thành phố Đà Nẵng thuộc
19 họ. Các loài rau chia làm 4 nhóm khác nhau, có tổng thời gian sinh trưởng 80
– 160 ngày. Rau quả có 16 loài; ăn lá có 23 loài; rau ăn củ có 10 loài; rau ăn trái
và ăn hạt có 4 loài.Theo của Bùi Chí Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh có 30
loài rau trồng chính, 27 giống thuộc 16 họ thực vật. Trong các loài này thì giống
đậu côve sữa đang được trồng phổ biến trong các hộ nông dân. Có 18 loài, 16
giống thuộc 13 họ thực vật được khai thác từ các cây trồng trong vườn hộ. Nhóm
20
rau khai thác từ cây trồng với mục đích khác tìm thấy ở các quán ăn gồm: 5 loài,
3 giống thuộc 3 họ.
Nguyễn Văn Chương, 2002 [3] điều tra tình hình sản xuất rau trái vụ cho
thấy chủng loại rau trồng rất đa dạng (59 loại), trong đó có 10 loại rau trồng trái
vụ. Diện tích trồng rau mỗi hộ không lớn, từ 500 – 1000 m
2
là phổ biến. Hiệu
quả kinh tế cây xà lách là cao nhất, tuy nhiên năng suất không ổn định.
Phạm Đình Đông, 2002 [7]; Hồ Phi Cảnh, 2002 [1]; Trần Viết Phương,
2002 [15] nghiên cứu về ảnh hưởng của nồng độ và giai đoạn xử lý GA
3
thích
hợp với xà lách vụ Đông Xuân là 5 – 10 ppm.
Nguyễn Văn Kế và Yoshitaka Tanaka, nghiên cứu một số rau hoang dã ở
Việt Nam. Tại nông thôn ở những vùng núi như ở Mai Châu (Hòa Bình), Sơn La
phần lớn các sắc dân ở đây như người Dao, Thái Mường, Mèo...đều sử dụng
dạng rau rừng, rau mọc hoang trên rẫy. Tại Lam Hà và Lạc Dương tuy gần vùng
trồng rau rất lớn là Đà Lạt những nhưng dân ở đây đã sử dụng rau hoang lên tới

80%, người Kinh ăn rau trồng nhiều hơn, tỉ lệ rau hoang chỉ chiếm từ 10 - 30%.
Ở Đồng bằng Sông Cửu Long mức độ tiêu thu rau ít hơn, một phần rau ở sông
nước tươi hơn, tỉ lệ loại bỏ ít, mức độ tiêu thụ sắc dân được ước lượng là 0,25
kg/người/ngày. Trong đó rau hoang dã chiếm 50% [10]
Vũ Quang Hưng, khảo sát sự nảy mầm của một số hạt giống rau tại thành
phố Hồ Chí Minh, các loại hạt rau nảy mầm thấp và một số không nảy mầm, tùy
theo loại bao bì chứa hạt mặc dù chưa quá hạn sử dụng. Nguyên nhân chính là do
trong điều kiện tồn trữ ở nhiệt độ cao đã làm giảm sức nảy mầm của hạt. Các
loại bao bì tồn trữ hạt như bao bì thiếc, bao nhôm, chai thủy tinh đều bị ảnh
hưởng của nhiệt độ cao làm giảm tỷ lệ này mầm. [9]
Phan Thị Thu Hằng, Nguyễn Đình Mạnh. Tìm hiểu hiện trạng sản xuất rau
tại thành phố Thái Nguyên nhận thấy xu thế chung của nền sản xuất thâm canh là
việc sử dụng với lượng lớn và mất cân đối các loại phân hóa học, thời gian cách
ly đạm ngắn hơn nhiều so với qui định, đây là vấn đề phổ biến tại các vùng trồng
rau ở Thái Nguyên, thêm vào đó là thuốc bảo vệ thực vật với nhiều chủng loại
và liều lượng cao đã ảnh hưởng đến chất lượng rau. Trong tổng số mẫu điều tra
21
có đến 90% mẫu rau có hàm lượng NO
-
3
vượt quá qui định 2 - 11 lần, 100% mẫu
kiểm tra đều phát hiện kim loại nặng (Pb, Cd) hầu hết đều có một kim loại nặng
vượt quá qui định. [8]
Đông Sĩ Toàn điều tra thực trạng sản xuất và tiêu thụ rau an toàn tại Thừa
Thiên Huế [19]. Nhận thấy chủng loại rau hiện có khá đa dạng, phong phú gồm
có 51 loại rau, trong đó phổ biến nhất là rau ăn lá và ăn quả với 17 loại. Có nhiều
loại rau có giá trị kinh tế cao như: mướp đắng, hành lá, ngò, đậu cô ve, đậu bắp,
cải. Nhưng chủng loại rau an toàn ít và không đa dạng, qua điều tra chỉ có nhóm
rau ăn lá gồm rau cải, xà lách là chủ yếu, rau gia vị chỉ có ngò, Prô và hành lá;
rau ăn quả có đậu cô ve, cà tím, đậu bắp, một số rau khác như xà lách xoong,

mướp đắng, rau dền đỏ, rau má nhưng diện tích không đáng kể. Tuy nhiên, các
năm trở lại đây nghề trồng rau trên địa bàn tỉnh có xu hướng tăng về diện tích,
chủng loại và sản lượng, điều này chứng tỏ sản xuất rau có lãi. [18]
Hoàng Trọng Tỉ Nhân nghiên cứu thành phần sâu hại, thiên địch, thăm dò
hiệu lực của một số loại thuốc trừ sâu sinh học trên rau cải an toàn ở Thừa Thiên
Huế. Cho thấy thành phần sâu hại cải khá phong phú: có 19 đối tượng, trong đó
4 đối tượng thường xuyên xuất hiện gây hại và nguy hiểm nhất là bọ nhảy sọc
cong (Phyullotrella striolara), sâu tơ (Plutella xylostella), sâu xanh bướm trắng
(Pier rapae) và rệp xám (Aphid sp). Cần phải có công tác dự tính dự báo kịp thời
để phòng trừ đúng lúc. Thành phần thiên địch trên ruộng có 22 loài trong đó có
12 loài côn trùng bắt mồi, 6 loài nhện và 4 loài ký sinh. Quần thể nhện là thiên
địch có khả năng bắt mồi đa thực và hiệu quả diệt sâu cao. Trong 5 lọai thuốc trừ
sâu sinh học thử nghiệm thì thuốc Bitadin WP Cypemthrin 5 EC có hiệu quả diệt
sâu cao nhất. [14]
2.3. Giới thiệu chất điều hòa sinh trưởng Gibberellin
2.3.1. Lịch sử nghiên cứu
Gibberellin là nhóm phytohormon thứ hai được phát hiện sau auxin. Từ
việc nghiên cứu bệnh lí “bệnh lúa von” do loài nấm Gibberella fujikuroi gây nên,
giai đoạn gây bệnh nấm này có tên là Fusarium moniliforme.
22
Năm 1962, nhà bệnh lí thực vật Kurosawa (Nhật) đã thành công trong thí
nghiệm “bệnh von” nhân tạo cho lúa và ngô. Nhưng cho đến năm 1955 các nhà
nghiên cứu Anh, Mỹ mới chiết xuất được acid gibberellin (GA).
Hiện nay người ta đã xác định được trên 126 loại gibberellin. Trong đó
loại quan trọng, có tác dụng sinh lí mạnh nhất là GA
3
.
2.3.2. Vai trò sinh lí của Gibberellin
Gibberellin xúc tiến hoạt động của auxin, hạn chế sự phân giải auxin. Do
chúng có tác dụng kìm hãm hoạt tính xúc tác của Enzim phân giải auxin

(auxinoxydaza, flavinaxydaza) khử tác nhân kìm hãm hoạt động của auxin.
Hiệu quả rõ rệt nhất của GA là kích thích mạnh mẽ sự sinh trưởng về chiều
cao của thân, chiều dài của cành, rễ, sự kéo dài của lóng cây hòa thảo. Hiệu quả
này có được là do ảnh hưởng kích thích đặc trưng của GA lên sự giãn theo chiều
dọc của tế bào (tăng auxin về vùng sinh trưởng mạnh).
GA có hiệu quả trong việc phân hóa giới tính, ức chế sự hình thành hoa cái
và kích thích hình thành hoa đực. Có thể sử dụng GA để tăng tỉ lệ hoa đực cho
cây có hoa đực hoa cái riêng biệt như bầu bí...
Gibberellin kích thích sự nảy mầm, chồi của hạt và củ. Do nó có tác dụng
phá bỏ trạng thái ngủ nghỉ của chúng. GA có tác dụng hoạt hóa sự hình thành
các enzim thủy phân trong hạt như
α
-amylaza. Enzim này sẽ xúc tác phản ứng
biến đổi tinh bột thành đường, tạo điều kiện cho sự nảy mầm..
Trong nhiều trường hợp, GA có hiệu quả kích thích sự ra hoa. Theo học
thuyết của Trailakhian thì GA là một trong hai thành phần của horcmon ra hoa
(florigen) là GA và antesin. GA cần cho sự hình thành và phát triển của cuống
hoa, còn antesin cần cho sự phát triển của hoa. Xử lý GA có thể làm cho cây
ngày dài ra hoa trong điều kiện ngày ngắn hoặc làm cho bắp cải, su hào ra hoa
trong điều kiện Việt Nam.
Gibberellin ảnh hưởng rõ rệt đến trao đổi chất và các hoạt động sinh lí trong
cây do chúng có tác dụng điều hòa sinh tổng hợp tế bào, nảy mầm, ra hoa.
23
Trong sự sinh trưởng của quả và tạo quả không hạt thì GA có vai trò gần
giống với auxin. Một số cây trồng có phản ứng đặc hiệu với GA như nho, anh
đào...Trong việc sản xuất nho, biện pháp xử lý GA có ý nghĩa quan trọng việc
tăng tỉ lệ đậu quả và quả không hoặc ít hạt, tăng năng suất quả.
Gibberellin được sử dụng có hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp. Người ta
tổng hợp GA bằng cách nuôi cấy nấm Gibberellin fujikura trong môi trường rồi
chiết thành gibberellin dạng thương phẩm.

2.3 Nguyên tắc và phương pháp sử dụng chất điều hòa sinh trưởng
Nguyên tắc sử dụng
Nguyên tắc về nồng độ: hiệu quả của chất điều hòa sinh trưởng lên cây
trồng hoàn toàn phụ thuộc vào nồng độ sử dụng. Nồng độ thấp thường gây hiệu
quả kích thích, nồng độ cao thường gây ảnh hưởng ức chế, còn nồng độ rất cao
có thể gây chết. Tùy theo chất sử dụng và loại cây trồng mà nồng độ kích thích,
ức chế và hủy diệt khác nhau. Vì vậy, tùy theo mục đích sử dụng mà ta chọn
nồng độ xử lý thích hợp. [17]
Nguyên tắc không thay thế: các chất điều hòa sinh trưởng chỉ có tác dụng
hoạt hóa quá trình trao đổi chất và sinh trưởng mà không có ý nghĩa về dinh
dưỡng nên không thể thay thế chất dinh dưỡng. Muốn áp dụng đạt kết quả tốt,
cần phải thỏa mãn nhu cầu về dinh dưỡng, nước cho cây.[17]
Nguyên tắc đối kháng sinh lí: khi xử lý các chất ngoại sinh phải quan tâm
đến các phytohormon trong cây có hoạt tính sinh lý đối kháng nhau thì mới có
hiệu quả tốt được. Sự đối kháng thường xảy ra giữa chất kích thích và chất ức
chế sinh trưởng. Ví dụ xử lý GA thúc đẩy nảy mầm cần quan tâm đến hàm lượng
abcixic acid trong cây...[17]
Nguyên tắc chọn lọc: khi sử dụng chất điều hòa sinh trưởng cho mục đích
diệt cỏ dại thì phải quan tâm đến tính độc chọn lọc của thuốc. Đảm bảo chất sử
dụng không có hại cho cây trồng, thậm chí tính độc chọn lọc cho từng loại cỏ
dại. Vì vậy, phải chọn thuốc diệt cỏ không có hại cho cây trồng hoặc sử dụng
24
đồng thời nhiều loại thuốc để diệt được nhiều loại cỏ dại có tính mẫn cảm với
các loại thuốc khác nhau.[17]
Phương pháp sử dụng
Phun lên cây: dùng để phun cho các cây trồng lấy lá, hoa, quả và thân.
Nồng độ phun được tính bằng mg/lít (ppm). Tùy từng giai đoạn phát triển của
cây mà có nồng độ phun thích hợp. [19]
Ngâm (hoặc nhúng) hạt, củ, cành vào dung dịch thuốc: thường áp dụng để
phá ngủ nghỉ, kích thích nảy mầm cho hạt và củ, nhân nhanh các cây bằng

phương pháp giâm cành để kích thích ra rễ. [19]
Tiêm, chích lên cây: thường dùng trong chiết cành cây giống, làm cho cành
mau ra rễ. Áp dụng trong công tác nghiên cứu để so sánh, xác định hiệu quả của
chất điều hòa sinh trưởng ở các nồng độ khác nhau. [19]
Bôi lên cây: khi các phương pháp trên không thực hiện được thì người thực
hiện phương pháp bôi trực tiếp dung dịch lên cây. Chất điều hòa sinh trưởng có
thể được nhào trộn với các chất mang khác nhau như cao lanh … thành một chất
dẻo để đắp lên cây. Trường hợp này thường dùng để chiết cành cây giống, tạo
cho cành chiết nhanh ra rễ.
2.4. Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài
2.4.1. Cơ sở lý luận
- Tăng khả năng nảy mầm của hạt xà lách:
+ Ở Thừa Thiên Huế vào vụ Xuân – Hè thường gặp thời tiết nắng nóng và
khô hạn nên tỷ lệ nảy mầm của hạt xà lách thấp, khoảng 40%.
+ Việc đóng gói hạt xà lách trong bao thiếc giảm tỷ lệ nảy mầm do trong
bao nhiệt độ tự nhiên cao.
+ Gibberellin được sử dụng để xử lý cho một số loại rau khó nảy mầm như
cà rốt, su hào, hành. Kết quả xử lý GA trước khi gieo đã làm tăng tỷ lệ nảy mầm
của cà chua hồng 11%, su hào Sa Pa 18,5% và cải xanh 7%.[16]
25

×