Tải bản đầy đủ (.doc) (2 trang)

Thuyết minh chùa Trăm Gian (NSHải Dương)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (29.63 KB, 2 trang )

Phật giáo là tôn giáo có ảnh hưởng sâu rộng nhất ở Việt Nam. Đi khắp nước Việt ta,
đâu đâu cũng có hiện thân của Phật giáo là chùa chiền. Còn ở địa phương em, người dân nơi
đây tự hào với chùa Trăm Gian.
Ngôi chùa tọa lạc tại làng An Ninh, xã An Bình, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương với
diện tích khoảng 21.000m2. Theo hệ thống bia ký, chùa Trăm gian có quy mô khá lớn và độc
đáo vào bậc nhất ngày từ đầu thế kỷ XVII.
Tương truyền: Nói tới chùa Vĩnh Khánh thì phải nói tới người con gái tên Toàn Lương
có sắc đẹp nghiêng thành. Năm 20 tuổi bà được vua gọi vào cung, song bà từ chối. Bà trở về
quê nhà qui y Phật đạo. Năm 1101 dịch bệnh hoành hành, người chết rất nhiều. Bà gia tâm
giải hạn, lập đàn niệm chú 7 ngày liền, cứu giúp dân chúng, ai ai cũng cảm ơn ân đức của bà.
Năm 1103 bà đột ngột qua đời khi mới 27 tuổi. Năm 1287 giặc Nguyên kéo quân sang xâm
lược nước ta lần thứ 3. Vua Trần Nhân Tông phái Trần Quan mang 30 vạn quân xông thẳng
vào đồn giặc nhưng bất phân thắng bại, bèn tạm thời lui binh. Đến Vãn Lộng đóng quân tại
chùa làng. Đêm Trần Quan mộng thấy một người con gái hiện ra xin nguyện phù vua giúp
nước. Trần Quan tỉnh mộng, ngay đêm đó cho tế lễ trước chùa và dẫn đại quân xông thẳng
vào trại giặc. Tướng Ô Mã Nhi và quân lính bỏ chạy tán loạn, giặc chết đuối nhiều vô kể.
Chùa Trăm gian được xây dựng từ đầu thế kỷ XVII đến năm Chính Hòa đời vua Lê
Hy Tông sửa thượng điện, năm Vĩnh Thịnh thứ 1 đời vua Lê Dụ Tông vua tiếp tức sửa thượng
điện, các năm 1740, 1809 tu sửa và tôn tạo khá nhiều công trình trong chùa. Thế kỷ XIX, XX
chùa Trăm gian được trùng tu lớn. Đường vào chùa qua một cầu gỗ xây dựng theo kiểu
"thượng gia hạ kiều" vào năm Cảnh Hưng thứ 1. Năm 1795, "thượng gia hạ kiều" bị giải hạ
và thay vào đó là một cầu đá 9 nhịp. Đến khoảng năm 1938-1939, cầu đá bị sông ngòi vùi lấp.
Đến nay cầu chỉ còn 3 hàng cột nhô lên mặt nước
Các công trình chính của chùa hiện nay nằm tập trung trong một quần thể kiến trúc
gần như khép kín. Từ phía đông, mở đầu là gác chuông, có quy mô lớn và độc đáo. Trên gác
chuông ở gian trung tâm treo quả chông đồng đúc vào năm Thành Thái thứ 2, đây là quả
chuông hiếm có của tỉnh Hải Dương. Gác chuông gồm 5 gian, trong đó 3 gian giữa có kiến
trúc chồng diêm, cổ các. Hai đầu hồi kiến trúc theo kiểu bít đốc tạo dáng quai chảo, trên bờ
nóc có phù điêu rồng ngoảnh mặt nhìn mặt nguyệt của mái trên, được đắp bằng vôi, giấy, gắn
sành sứ. Bộ mái của phần chồng diêm là hai vỉ kèo, cột đặt trên xà thượng của công trình phía
dưới. Phía trên mái chồng diêm có 4 đầu đao với phù điêu rồng chầu, phượng mớm, các con


chối, con số lạc long được đắp bằng vôi và giấy bản. Hệ thống bờ nóc, bờ chầy mềm mại, cải
hoa chanh. Công trình bằng gỗ lim, lợp ngói mũi cổ, tường xây gạch Bát Tràng và gạch chỉ
chắc chắn . Diện tích gác chuông là 128m². Phía sau gác chuông, qua một sân nhỏ là chùa
chính. Chùa có kiến trúc kiểu chữ đinh, được xây dựng vào năm Chính Hòa thứ 12 nhưng đã
được trùng tu nhiều lần, kiến trúc hiện nay mang phong cách thời Nguyễ. Gần đây, thượng
điện đã được tu sửa lại.
Tiền đường 7 gian, có kích thước 16m x 8m, kết cấu các vì kèo theo kiểu chồng rường
đấu sen. Các chi tiết như cột cái, cột quân, bẩy hiên, xà nách, các con thuận, câu đầu, trụ, con
vành, đấu gòi được chế tạo rất công phu. Các xà thượng, xà hạ, hoành, rui đều được soi chỉ.
Kết cấu hệ thống giằng ngang và giằng dọc hợp lý, chặt chẽ. Trong tiền đường có một số bức
chạm hoa lá "long quần", chạm khắc rất tinh vi. Phần ngõa cũng được tạo dựng khá chắc
chắn, tường, móng xây dựng bằng gạch Bát Tràng đe lộ bắt mạch, mái lợp ngói mũi cổ, kỹ
thuật lợp phẳng.
Nối liền gian tiền đường với 3 gian thượng điện là hai máng xối. Thượng điện có kích
thước 11m x 8m, phần mộc của thượng điện có kết cấu và chế tác giống tiền đường, nhưng
các chi tiết phần mộc nhỏ hơn. Tường xây bằng gạch Bát Tràng, bên trong trát vữa, ngoài đe
mộc bắt mạch nõn dong, mái lợp ngói mũi. Bên trái thượng điện là 7 gian nhà thờ mẫu, kích
thước 14m x 4m. Các vì kèo kết cấu theo kiểu kèo cầu, đơn giản. Bên phải là hai nhà khách:
nhà khách trong có kích thước 9m x 6m và nhà khách ngoài kích thước 13m x 6m. Hai nhà
khách nối liền nhau như một hành lang. Sau thượng điện là nhà tứ ân, có kích thước 16m x
7m, kết cấu theo kiểu kẻ chuyền, chồng chóp, các con chồng, đấu sen, các bức chạm lá lật


chạm trồ tinh vi. Nhà thờ tổ nằm phía sau nhà tứ ân. Sau nhà tổ là nhà cung 9 gian có kích
thước 20m x 5,4m, kết cấu theo kiểu kèo cầu trụ đấu, mái thấp, gian hẹp, được tu sửa năm
2002. Phía bắc chùa có sân rộng chừng 1.000m², có một số công trình quay ra sân là nhà tháp
nhà tăng, am trong, am ngoài cùng nhiều công trình phụ khác.
Phía sau chùa là một vườn tháp gồm 10 ngôi, trong đó có 9 ngôi được xây dựng vào
thời Nguyễn, một ngôi được xây dựng năm 2003.
Đầu thế kỷ XX, chùa Trăm gian còn đủ 100 gian, nhưng hiện nay chùa chỉ còn 85

gian. Chùa còn lưu giữ hệ thống cổ vật phong phú gồm 57 pho tượng Phật có niên đại thời Lê
và thời Nguyễn, trong đó có tượng Trúc Lâm tam tổ, 12 bức đại tự, 12 đôi câu đối các loại,
738 bản khắc kinh Phật, 7 bia đá có niên đại thời Lê và thời Nguyễn, nhiều cổ vật có chất liệu
gỗ, gốm, đồng và khá nhiều đồ tế tự mới.
Để tưởng nhớ công ơn của hai vị quan thần là quan Nguyễn Tĩnh và ni cô Phạm Thị
Toàn, người dân làng An Ninh cứ đến các ngày sinh, hóa của hai thần là mở hội lớn. Mỗi kỳ
lễ hội dù diễn ra mấy ngày thì dân làng cũng vẫn tổ chức nhiều trò chơi dân gian đặc sắc như:
đánh vật, chọi gà, đu tiên, cờ tướng… trong những sinh hoạt văn hoá trên, đáng chú ý nhất là
trò chơi cờ người, tam cúc điếm, và hát chèo. Trong các buổi tối diễn ra lễ hội, hôm nào cũng
có các hoạt động văn nghệ, đặc biệt là hát chèo: các gánh chèo ở trong thôn và các nơi được
mời về, những tích chèo truyền thống như Tấm Cám, Trương Viên, Lưu Bình - Dương Lễ...
được diễn ngay tại sân chùa thu hút hàng nghìn người nô nức đi xem. Ngoài phần "lễ" mang
tính chất tôn nghiêm thì còn có một phần không kém phần hấp dẫn hội "chạy lợn".Và tất cả
diễn biến của hội "chạy lợn" nhằm tái diễn lại cảnh tượng dân làng nô nức đem lương thực,
thực phẩm ra khao mừng quân ta đánh thắng giặc năm nào trên sông Bạch Đằng. Đây không
chỉ là trò vui dân gian đơn thuần mà ý nghĩa cốt yếu ở đây, dân làng muốn răn dạy con cháu
phải nhớ đến công ơn của các thánh thần đã có công dựng làng giữ nước. Nó còn thể hiện
lòng yêu nước của người dân trong mọi hoàn cảnh cả thời chiến và thời bình, cho biết dân ta
dù ở bất cứ đâu, bất cứ thời đại nào cũng chứa chan tình yêu nước. Lễ hội này, ngày trước
được tổ chức thường niên hằng năm nhưng theo thời gian thì tục lệ không còn vì nó quá cầu
kì và tốn kém. Và đến ngày nay, dường như cái tên "hội chạy lợn" không phải người dân nào
trong làng cũng biết đến. Chùa Trăm gian đã được xếp hạng di tích cấp quốc gia năm 1990.
Trải qua bao thăng trầm của dân tộc cũng là bấy nhiêu thăng trầm bi ai của ngôi chùa
linh thiêng. Dưới sự chỉ đạo của nhiều đời sư uyên bác và lòng hướng mộ của nhân dân trong
vùng, chùa mỗi ngày một thêm to đẹp. Trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước,
ngôi chùa được dùng làm Viện Quân Y 7, nơi đây đã chữa trị hàng ngàn thương binh. Mang
trong mình những giá trị tâm linh đặc biệt, sự độc đáo, chùa Trăm gian là một danh thắng có
một không hai của xứ Đông và là niềm tự hào của người dân Nam Sách.




×