Tải bản đầy đủ (.docx) (66 trang)

ĐÁNH GIÁ tác DỤNG của bài THUỐC“TÁN dục đơn” TRONG điều TRỊ SUY GIẢM TINH TRÙNG THỂ THẬN DƯƠNG hư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (356.63 KB, 66 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ

Suy giảm tinh trùng là một thuật ngữ chỉ sự giảm sút về số lượng và/
hoặc chất lượng của tinh dịch và tinh trùng trong tinh dịch. Hiện tượng này
được chẩn đoán qua xét nghiệm tinh dịch đồ. Đây là một trong những nguyên
nhân trực tiếp gây vô sinh nam [1]. Tình trạng này ngày nay có xu hướng gia
tăng. Theo nghiên cứu của Tổ chức Y tế thế giới, mật độ tinh trùng đang giảm
từ 40 triệu/ml (1980) xuống 20 triệu/ml (1999) và 15 triệu/ml (2010). Tỷ lệ
tinh trùng tiến tới giảm từ 50% (1999) xuống 32% (2010) [2],[3].
Xã hội ngày một phát triển nhưng kèm theo công nghiệp hóa hiện đại
hóa là ô nhiễm môi trường nặng, stress, lạm dụng hóa chất…. Những yếu tố
đó tác động trực tiếp hoặc gián tiếp lên quá trình sinh sản và trưởng thành của
tinh trùng khiến cơ chế bệnh sinh của suy giảm tinh trùng phức tạp [4],[5],
[6]. Y học hiện đại (YHHĐ) đã có nhiều thành tựu trong điều trị suy giảm
tinh trùng nhưng kết quả chưa ổn định [7],[8].
Từ lâu, Y học cổ truyền (YHCT) đã quan tâm đến vấn đề này. Suy giảm
tinh trùng trong YHCT được gọi là “thiểu tinh” hoặc “tinh lãnh” [9], [10],
[11]. Nhiều món ăn, gia vị và bài thuốc lưu truyền trong dân gian có tác dụng
tăng khả năng sinh sản [12],[13]. Tuy nhiên, việc tổng kết đánh giá hiệu quả
điều trị chứng suy giảm tinh trùng bằng YHCT chưa nhiều. Do vậy nghiên
cứu khoa học để đánh giá tác dụng của các phương pháp YHCT trong điều trị
suy giảm tinh trùng là cần thiết.
Theo YHCT, tạng thận chủ về sinh dục, đa số các nguyên nhân gây tinh
trùng ít, chất lượng kém là do thận dương hư [11]. Bài thuốc “Tán dục đơn”
được ghi trong Cảnh Nhạc toàn thư từ nửa đầu thế kỷ XVII có tác dụng bổ
thận dương kèm theo bồi bổ tinh huyết, dùng điều trị các trường hợp dương
hư tinh kiệt [9],[10].



2

Tuy nhiên chưa có công trình nghiên cứu khoa học nào chứng minh tác
dụng của bài thuốc này trên lâm sàng. Vì vậy chúng tôi tiến hành đề tài nghiên
cứu này nhằm hai mục tiêu:
1.

Đánh giá tác dụng tăng số lượng và chất lượng tinh trùng của bài
thuốc “Tán dục đơn”(dạng thuốc sắc) trong điều trị suy giảm tinh
trùng thể thận dương hư.

2.

Theo dõi một số tác dụng không mong muốn của bài thuốc.


3

Chương 1
TỔNG QUAN

1.1. Y HỌC HIỆN ĐẠI
1.1.1. Quá trình tạo tinh trùng và các yếu tố ảnh hưởng
1.1.1.1. Quá trình biệt hóa hệ thống sinh sản nam
Biệt hóa giới tính nam ở thời kỳ phôi thai là tiền đề tiên quyết cho chức
năng sinh sản của nam giới. Quá trình hình thành giới tính nam được quyết
định và diễn ra ngay từ khi tinh trùng mang nhiễm sắc thể (NST) Y gặp tế bào
noãn mang NST X [14].
Ở phôi có giới tính nam, cặp nhiễm sắc thể (NST) giới tính là XY. Trên
NST Y có yếu tố TDF (Testis Determining factor). Ngày nay người ta phân

lập và định khu được hai gen của TDF là ZFY (Zinc Finger Code Y ) và SRY
(Sex Determining Region of the Y Chromosome) [14].
Ở phôi người vào ngày thứ 21, xuất hiện các tế bào sinh dục nguyên
thủy. Nhờ có gen ZFY, những tế bào này di cư tới trung bì trung gian để tạo ra
mầm tuyến sinh dục (mào sinh dục). Bắt đầu từ tuần thứ bảy, mào sinh dục
bắt đầu biệt hóa thành tinh hoàn. Những dây sinh dục tủy phát triển thành
những ống sinh tinh. Trong ống sinh tinh, một số tế bào sinh dục nguyên thủy
thoái hóa rồi biến mất, số còn lại gián phân và biệt hóa sẽ tạo ra những tinh
nguyên bào [14],[15].
Những tế bào biểu mô nằm trong các dây sinh dục tủy, do mang gen
SRY sẽ biệt hóa thành tế bào Sertoli. Khi bắt đầu biệt hóa thành tế bào Sertoli,
tế bào tiền Sertoli bài tiết ra hormon kháng ống cận trung thận AMH
(Antimullerian hormone) chất này tác động lên những tế bào trung mô nằm
trong mào sinh dục để biệt hóa thành tế bào kẽ tinh hoàn Leydig. Tế bào
Leydig tiết ra testosteron. Lúc đầu chế tiết một cách chủ động sau đó là do tác


4

dụng của hướng hormon nhau thai sinh dục HCG (Human Chorionic
Gonadotropin) và hormon LH (Luteinizing hormon) của tuyến yên thai nhi.
Testosteron ngay lập tức làm nhiệm vụ kích thích sự biệt hóa các ống Wolf
thành mào tinh, ống dẫn tinh, túi tinh và ống phóng tinh. Đến tuần thứ 8, dưới
tác dụng của dihydrotestosteron, cơ quan sinh dục ngoài của nam được biệt
hóa (dương vật, bìu chẻ đôi...) [14],[15]. Cơ quan sinh sản nam hoàn thiện
đầy đủ gồm: hai tinh hoàn, các ống dẫn tinh, các tuyến phụ và dương vật [16].
1.1.1.2. Cấu trúc và chức năng của tinh hoàn
Ở nam giới trưởng thành, thể tích của tinh hoàn trung bình là 18,6 ± 4,8
cm3. Nhu mô tinh hoàn được chia làm khoảng 100 – 250 thùy bởi các vách
xơ. Mỗi thùy có 1 đến 3 ống sinh tinh – là nơi sản sinh tinh trùng [14],[16].

Cắt ngang ống sinh tinh sẽ thấy thành ống được tạo nên bởi màng đáy
bao bọc lấy một khung bởi những tế bào Sertoli đang che chở cho các tế bào
dòng tinh ở các giai đoạn phát triển khác nhau. Trong lòng ống là tinh trùng.
Các tế bào Sertoli nối với nhau nhờ các thể liên kết, tạo thành hàng rào máu –
tinh hoàn, tránh cho tinh trùng tiếp xúc với các tế bào có chức năng miễn dịch
trong cơ thể, để chúng không bị hoạt hóa sinh ra tự kháng thể chống lại tinh
trùng của chính cơ thể mình [14],[17].
Xen kẽ giữa các ống sinh tinh là mô kẽ bao gồm mạch máu, thần kinh
và những tế bào Leydig [14].
Tiếp nối ống sinh tinh là ống mào tinh, ống dẫn tinh, và kết thúc bởi
ống phóng tinh sát tiền liệt tuyến [14],[16].
Tinh hoàn có hai chức năng: chức năng ngoại tiết là sản sinh tinh trùng
từ các ống sinh tinh; chức năng nội tiết là bài tiết hormon sinh dục nam, chủ
yếu là testosteron do tế bào Leydig đảm nhiệm [16].
1.1.1.3. Quá trình tạo tinh trùng
Quá trình tạo tinh trùng gồm quá trình sản sinh tinh trùng từ các tế bào
mầm ở ống sinh tinh và quá trình trưởng thành của tinh trùng khi di trú qua
ống mào tinh dưới sự điều khiển của các hormon sinh dục [14].


5

● Quá trình sản sinh tinh trùng
Quá trình sản sinh tinh trùng xảy ra ở tất cả các ống sinh tinh của nam
giới, bắt đầu từ tuổi dậy thì (khoảng 15 tuổi) và được duy trì suốt cuộc đời
[16],[18].
Thành ống sinh tinh chứa một lượng tế bào biểu mô mầm được gọi là
tinh nguyên bào. Các biểu mô mầm ban đầu dưới ảnh hưởng của testosteron
sẽ mất khoảng 64 ngày với rất nhiều giai đoạn biệt hóa để thành tinh trùng.
Quá trình này chia thành các giai đoạn: tinh nguyên bào, tinh bào I, tinh bào

II, tinh tử, tinh trùng [14].
- Tinh nguyên bào:
Nằm ngay trên lớp màng đáy của ống sinh tinh, có bộ NST lưỡng bội 2n
(46,XY). Vào tuổi dậy thì, tế bào này trải qua một loạt quá trình phân bào để
tạo ra hai loại tinh nguyên bào: tinh nguyên bào A và tinh nguyên bào B. Ở
người, tinh nguyên bào A biệt hóa thành tinh nguyên bào B. Các tinh nguyên
bào B sau khi chui qua hàng rào để vào lớp tế bào Sertoli thì dần dần thay đổi
và lớn lên tạo ra những tế bào lớn đó là tinh bào I [15].
- Tinh bào I:
Là những tế bào có bộ NST lưỡng bội 2n (46,XY), nằm cách màng đáy một
hàng tinh nguyên bào. Nhân hình cầu, hạt nhiễm sắc hợp thành đám. Giai
đoạn tinh bào I kéo dài 22 – 24 ngày. Cuối thời kì này các tinh bào I phân chia
giảm nhiễm I thành tinh bào II [15].
- Tinh bào II:
Là những tế bào đơn bội nhưng chưa 23 NST kép, rất nhỏ và chỉ tồn tại ngắn.
Sau 2 – 3 ngày, mỗi tinh bào II tiếp tục phân chia giảm nhiễm II để cho 2 tế
bào tinh tử [15].
- Tinh tử (tiền tinh trùng)
Có hình hơi dài, nhân sáng, có một hạt nhân lớn, tế bào nhân chứa những
bào quan giống như tinh bào I. Bộ NST của tinh tử là n (23,X; 23,Y) [14],[ 15].


6

Quá trình sinh sản từ tinh bào I thành tinh tử kéo dài 24 ngày. Tinh tử
không có khả năng sinh sản mà biệt hóa thành tinh trùng. Trong quá trình này
nhân tinh tử cô đặc lại, tế bào chất co lại, hình thành thể cực đầu và phát triển
đuôi [16].
- Tinh trùng:
Quá trình biệt hóa từ tiền tinh trùng thành tinh trùng chia làm 4 pha [16]:

* Pha Golgi: các hạt xuất hiện trong phần túi của bộ máy Golgi, những túi
này hợp lại với nhau thành một túi duy nhất gọi là không bào cực đầu [15],[ 19].
* Pha mũ: tạo ra phần đầu tinh trùng với sự có mặt của một số enzym
thủy phân như hyaluronidase, neuraminidase, acid phosphate và protease có hoạt
tính giống trypsin. Những enzym này có tác dụng phân hủy protein trong thành
phần cấu trúc xung quanh trứng, giúp tinh trùng xâm nhập vào trứng [15].
* Pha thể cực đầu: nhân tế bào bắt đầu dài ra và nhiều chất nhiễm sắc tụ
đặc lại. Các ty thể tập trung xung quanh sợi trục, tạo thành một vùng rất dày
gọi là đoạn giữa. Sự sắp đặt này của các ty thể và việc tập trung các phần nội
bào ở quanh sợi trục có liên quan đến hoạt động tiêu thụ năng lượng cao khi
tinh trùng di động. Sự di chuyển sợi trục của tinh trùng là nhờ tác động tương
hỗ của các vi ống, ATP (adenosine triphosphat) và ATPase được gọi là dyein.
Khi bị các dược chất tác động vào pha này sẽ làm giảm khả năng di động của
tinh trùng [20].
* Pha trưởng thành: các chất cặn bã trong bào tương bị loại bỏ và bị các
tế bào Sertoli thực bào, tinh trùng được giải phóng vào lòng ống sinh tinh
[14],[ 16].
Tinh trùng chỉ có 23 NST (23,X hoặc 23,Y). Giới tính của thế hệ con
được xác định bởi loại tinh trùng nào thụ tinh với noãn [21].

 Quá trình trưởng thành của tinh trùng
Tinh trùng được sinh ra và giải phóng vào lòng ống sinh tinh, lúc này
chỉ là một tế bào đang “ngủ”. Nó được cơ trơn quanh ống sinh tinh đẩy trôi


7

sang ống mào tinh và bắt đầu được mào tinh “đánh thức”. Tinh trùng được
hoàn toàn tỉnh giấc sau 10 – 12 ngày sau khi lưu trú đến hết đuôi mào tinh.
Chỉ đến lúc đó, quá trình tạo tinh trùng mới thực sự hoàn thiện: tinh trùng có

khả năng chuyển động xâm nhập vào trứng và sẵn sàng cho sự thụ tinh [16].
Khi tinh trùng ở tiểu quản tinh, đầu, giữa và đuôi mào tinh, khả năng di động
của chúng theo thứ tự tương ứng với các vùng là 0; 3%; 12%; 30%; 60% [16].
Quá trình trưởng thành của tinh trùng chịu ảnh hưởng của dịch và chất chế tiết
từ ống mào tinh. Thành phần hóa sinh trong dịch ống mào tinh không chỉ
khác huyết tương mà còn thay đổi trong những vùng khác nhau của mào tinh.
Thành phần đặc biệt của dịch ống mào tinh gồm glycerylphosphoryl choline,
carnitine và acid sialic. Ngoài ra trong dịch còn có protein, các protein này tác
động đến sinh lý tinh trùng, ví dụ EP 2 - EP3 làm giảm khả năng tinh trùng gắn
vào vùng pellucida của trứng [22].
- Đặc điểm của tinh trùng trưởng thành :
Mỗi tinh trùng gồm 3 phần [20]:

+ Đầu: hình bầu dục, phần trước có nguyên sinh chất, phần sau là một
nhân to có nhiễm sắc thể.
+ Thân: ở giữa có dây trục, nằm ở giữa các dây xoắn ốc, gần phía đầu
có trung thể.
+ Đuôi: là phần dài nhất, ở giữa có dây trục.


8

+ Số lượng ≥ 15 triệu/ ml tinh dịch.
+ Tỷ lệ hoạt động (lúc mới phóng tinh) trên 80%
+ Tốc độ di chuyển là 1,5 – 2,5 mm/ phút
Thời gian sống trong đường sinh dục nữ phụ thuộc vào độ pH của môi trường.
+ Ở âm đạo pH toan tinh trùng sống được < 2giờ.
+ Ở ống cổ tử cung: pH > 7,5 tinh trùng sống được 2 – 3 ngày.
+ Trong vòi trứng: tinh trùng sống được 2 – 3 ngày.
Tóm lại trung bình tinh trùng có thể sống trong bộ phận sinh dục nữ từ 2 – 3

ngày [23].
1.1.1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình hình thành và phát triển của
tinh trùng
* Vai trò của các nội tiết tố sinh sản
Quá trình tạo tinh trùng ở các ống sinh tinh được kích thích bởi
testosteron do tế bào Leydid sản xuất, dưới sự điều khiển bởi hormon GnRH
(Gonadotropin Releasing Hormone) của vùng dưới đồi và FSH (Follicle
Stimulating Hormone), LH (Luteinizing Hormone) của tuyến yên [16].
- Thiểu năng nội tiết tố hướng sinh dục:
● Thiếu hụt hormon GnRH của vùng dưới đồi: những rối loạn chức
năng hoặc bất thường về hình thái của vùng dưới đồi dẫn đến suy giảm
GnRH, làm thay đổi quá trình sinh tổng hợp và chế tiết hormon hướng sinh
dục, giảm nồng độ LH, FSH trong máu [16]. Hậu quả là quá trình sinh tinh bị
giảm một phần hoặc hoàn toàn. Một số hội chứng bẩm sinh gây ra tình trạng
này như:
+ Hội chứng Prader Willi: do bất thường gen ở NST thường số 15.
Bệnh nhân béo phì, trương lực nhẽo, tinh thần chậm chạp, bàn tay bàn chân
nhỏ, thân hình thấp [19].
+ Hội chứng Morsier – Kallman: bệnh mang tính di truyền gia đình,
trên thân thể không có đường giữa hoặc có thể mất khứu giác một phần hay
hoàn toàn [19].


9

● Thiếu hụt hormon LH đơn thuần: là bệnh hiếm gặp. Do nồng độ LH
trong máu thấp, giảm kích thích đối với các tế bào Leydig, dẫn đến androgen
trong máu thấp, làm cho các đặc tính sinh dục phụ nam giới phát triển không
bình thường [16]. Những đàn ông này mang dáng dấp của “hoạn quan”, còn
gọi là hội chứng “hậu cắt bỏ hai tinh hoàn”. Thực tế kích thước tinh hoàn của

họ bình thường nhưng thể tích tinh dịch thấp, số lượng tinh trùng ít, khi sinh
thiết tinh hoàn vẫn thấy tế bào dòng tinh trưởng thành [19].
● Thiếu hụt FSH đơn thuần: những bệnh nhân này vẫn thể hiện nam
tính mạnh mẽ bởi chế tiết LH của tuyến yên vẫn đủ để kích thích tế bào
Leydig sản xuất testosteron bình thường nhưng do thiếu FSH nên tinh trùng
rất ít hoặc không có [24],[25].
- Tăng quá mức các hormon khác:
● Sản xuất quá nhiều androgen: do quá sản tuyến thượng thận hoặc
thiếu men 21 – hydroxylase bẩm sinh. Vì androgen không chỉ được tổng hợp
bởi tế bào Leydig mà còn được tổng hợp ở tuyến thượng thận. Sự thiếu hụt
men 21 – hydroxylase làm giảm tổng hợp corticoid, làm tuyến yên tăng tiết
ACTH để kích thích tuyến thượng thận, gây hậu quả tăng androgen [16].
Testosteron trong máu tăng cao gây ức chế sản xuất LH và FSH của tuyến
yên, dẫn tới kích thích không đầy đủ tế bào Leydig và Sertoli, tinh hoàn teo
bé và giảm sinh tinh trong khi dương vật có thể vẫn to [21],[24],[25].
● Nồng độ estradiol quá cao: do u vỏ tuyến thượng thận, u tế bào
Sertoli, u tế bào Leydig, suy gan. Nồng độ estradiol trong máu tăng quá mức sẽ
ức chế sản xuất các hormon hướng sinh dục dẫn đến suy tinh hoàn thứ phát [16].
● Prolactin bài tiết quá mức: do u tuyến yên, suy thận mạn, xơ gan, hoặc
stress, hạ đường huyết, các chất đối kháng dopaminergic. Tăng prolactin làm ức
chế FSH, LH, testosteron gây rối loạn cương dương và ức chế sinh tinh [16].
● Cường năng các nội tiết khác:
- Bệnh cường giáp: những bệnh nhân này kèm theo dị tật tinh hoàn và
tuyến yên, nồng độ estradiol trong máu cao [6],[26].


10

- Hàm lượng glucocorticoid trong máu cao (hội chứng Cushing hoặc do
trị liệu): gây ức chế bài tiết LH, làm giảm nồng độ androgen trong máu gây

thiểu năng sinh tinh và tế bào dòng tinh ngừng trưởng thành[6],[26].
* Bất thường vật chất di truyền
- Hội chứng Klinefelter: là bệnh rối loạn số lượng NST (47, XXY). Tổn
thương tinh hoàn tiến triển từ từ. Các ống sinh tinh bị xơ hóa và biến thành
hyalin. Quá trình sinh tinh ngừng hoạt động nên mặc dầu có sự khác nhau
giữa bệnh nhân này với bệnh nhân khác nhưng đa số là không có tinh trùng
trong tinh dịch. Những bệnh nhân có khả năng sinh sản thuộc nhóm có khảm
(46,XY)/ (47,XXY) [21].
- Hội chứng đảo ngược giới tính: là nam nhưng NST giới tính là XX.
Mô tinh hoàn giống như hội chứng Klinefelter điển hình. Nồng độ LH, FSH
trong máu tăng cao nhưng testosteron lại thấp. Các bệnh nhân này có nhận
một NST X của cha nhưng đoạn xa của nhánh ngắn đã được chuyển vị và
thay thế bằng đoạn xa của nhánh ngắn NST Y, có chứa gen SRY và vùng
autosome giả của NST Y. Vì vậy biệt hóa tinh hoàn và giới tính nam vẫn xảy
ra mà không cần có mặt của NST Y [21],[27].
- Đột biến gen AZF: nằm ở đầu gần trên nhánh dài của NST Y có
những gen kiểm soát chiều cao của nam giới nhưng lại có khả năng điều
khiển sinh tinh. Nếu gen này bị đột biến sẽ gây nên tình trạng không có tinh
trùng [28].
- Hội chứng Noonan: bệnh nhân mang NST 46 XY nhưng có thể có
biến đổi của protein gắn ADN thuộc nhóm protein di động cao được SRY mã
hóa. Bệnh nhân thường có tật tinh hoàn ẩn, GnRH trong máu và nước tiểu
cao, các androgen vẫn đảm bảo cho bệnh nhân phát triển đầy đủ các đặc tính


11

sinh dục nam. Bệnh này cho đến nay chưa có phương pháp điều trị để sinh
sản được bởi các ống sinh tinh xơ hóa [19].
- Hội chứng Down: tế bào dòng tinh bất sản hoàn toàn hoặc không

trưởng thành. Nồng độ LH và FSH trong máu tăng cao [19].
* Một số nguyên nhân bẩm sinh:
- Không có tinh hoàn: những người này là nam giới, NST giới tính vẫn
là 46 XY, vẫn có các đặc tính sinh dục nam nhưng không sờ thấy tinh hoàn
[19],[24].
- Hội chứng chỉ có tế bào Sertoli: nguyên nhân chưa được biết. Bệnh
nhân thường teo nhỏ hai tinh hoàn, mật độ mềm, không có tinh trùng . Các
đặc tính sinh dục nam bình thường. Các ống sinh tinh được nối với nhau bởi
các tế bào Sertoli, hoàn toàn không thấy tế bào dòng tinh nhưng mô kẽ bình
thường. Nồng độ FSH không bao giờ tăng cao bởi vì không có tế bào mầm,
LH, testosteron bình thường hoặc tăng nhẹ [6],[7],[19],[24].
- Thiếu thụ cảm thể androgen: Các bệnh nhân này có nồng độ LH và
testosteron trong máu cao nhưng các dấu hiệu lâm sàng thể hiện hoạt tính của
testosteron lại không rõ ràng [6].
- Một số rối loạn cấu trúc tinh trùng bẩm sinh [6],[20]:
+ Bất thường về sợi trục: các sợi trục có thể không đầy đủ hay các
thành phần tạo sợi trục bị thiếu có thể làm giảm hoặc mất khả năng chuyển động
của tinh trùng. Người bị bệnh này thường phối hợp với hiện tượng không có lông
chuyển trong đường hô hấp, còn được gọi là hội chứng không lông chuyển.
+ Những thiếu hụt ở đầu tinh trùng như không có acrosom làm
cho đầu tinh trùng tròn trùng trục. Tinh trùng của các bệnh nhân này không
xuyên qua vùng trong suốt của trứng nên không có khả năng thụ thai.
+ Bất thường ở cổ làm cho thân và đầu tinh trùng như tách rời nhau.
* Các nguyên nhân khác
- Nhiễm khuẩn


12

Viêm tinh hoàn, biến chứng của quai bị, viêm mào tinh hoàn,

viêm đường sinh dục do lao, giang mai... biểu mô tinh bị thương tổn hay hủy
hoại hoàn toàn do tác động trực tiếp của nhiễm khuẩn, phản ứng viêm, tăng
nhiệt độ, hay do phản ứng miễn dịch sau khi hàng rào máu – tinh hoàn bị phá
hủy [5],[26].
- Nhiệt độ
Ở người, nhiệt độ ở bìu thường thấp hơn thân nhiệt khoảng 2oC
[16]. Một số bệnh như: tinh hoàn lạc chỗ, giãn tĩnh mạch thừng tinh, tràn dịch
màng tinh hoàn... làm tăng nhiệt độ vùng tinh hoàn và mào tinh hoàn ngang
với nhiệt độ cơ thể sẽ làm quá trình sinh tinh bị ngưng lại, cũng như ảnh
hưởng đến quá trình trưởng thành của tinh trùng khi đi qua mào tinh hoàn.
Sốt, nghề lái xe, thợ hồ, thợ luyện kim làm giảm chất lượng tinh trùng [6].
- Miễn dịch
Khi có sự xâm hại hàng rào máu – tinh hoàn sau khi chấn
thương, viêm tinh hoàn, hoặc tắc ống dẫn tinh, các hành vi giao hợp bất
thường..., làm tinh trùng và các sản phẩm thoái hóa của nó xuất hiện trong
máu sẽ phát động hệ thống miễn dịch sinh kháng thể chống tinh trùng làm bất
động tinh trùng hoặc kết dính tinh trùng. Nếu người vợ có kháng thể kháng
tinh trùng, tinh trùng sẽ bị kết dính trong âm đạo mà không xuyên qua chất
nhày cổ tử cung vào tiếp cận với trứng để thụ thai [8].
- Môi trường sống và làm việc
Nghiện rượu, hút thuốc lá, nghiện cần sa nặng, nghiện heroin,
cocain, một số hóa chất: thuốc trừ sâu diệt cỏ (DBCP, chlordecone, ethylene
dibromide), dioxin, một số kim loại nặng như chì, thủy ngân làm giảm sinh
tinh và gây dị dạng tinh trùng. Tiếng ồn cường độ cao làm giảm chất lượng
tinh trùng [1],[29].
- Tia X, các tia phóng xạ và hóa chất


13


Đa số các tế bào dòng tinh bị các hóa chất chống ung thư ức chế
ở pha tổng hợp tế bào và phân bào. Tinh nguyên bào trong giai đoạn phân
chia rất nhạy cảm với phóng xạ, làm giảm sinh tinh. Phóng xạ có thể gây đột
biến NST và gây nên những bất thường cho thế hệ sau [30].
- Suy giảm tinh trùng do mắc bệnh toàn thân
Các bệnh lý toàn thân đều ít nhiều có ảnh hưởng đến hoạt động
của tinh hoàn, nhưng nhiều khi không được chú ý. Các tình trạng bệnh lý cấp
tính nặng như phỏng, nhồi máu cơ tim, chấn thương, phẫu thuật… đều ức chế
chức năng tinh hoàn [31].
Suy thận mạn tính dẫn đến rối loạn điều hòa trực hạ đồi tuyến
yên và gián tiếp ức chế chức năng tinh hoàn. Suy gan mạn tính gây rối loạn
nội tiết, dẫn đến giảm sinh tinh, teo tinh hoàn, nữ hóa, giảm chức năng sinh
hoạt tình dục. Các bệnh lý về đường tiêu hóa, huyết học, nội tiết đều được báo
cáo có tác dụng giảm quá trình sinh tinh sinh tinh [32].
Ở những bệnh nhân có bệnh lý ác tính, sinh tinh thường giảm
mạnh hoặc ngưng hoàn toàn, chủ yếu do tác động của các phương pháp điều
trị ung thư như xạ trị, hóa trị [30]. Quá trình sinh tinh cũng giảm trong các
bệnh lý nhiễm trùng mạn tính, cấp tính [6].
- Các thuốc gây suy giảm tinh trùng
Theo WHO (2000), một số thuốc được ghi nhận có thể ảnh hưởng
đến sinh tinh như: nội tiết tố, cimetidine, sulphasalazine, spironolactone,
nitrofurantoin, niridazone, colchichine [29].
Thuốc
Nội tiết
Cimetidine
Sulphasalazine
Spironolactone
Nitrofurantoin
Niridazone
Colchichine


Tác động
Các thuốc corticoid hoặc androgens gây ức chế tuyến
yên, có thể ức chế sinh tinh và teo tinh hoàn
Ức chế cạnh tranh với androgen, ức chế sinh tinh
Tác dụng độc trực tiếp lên quá trình sinh tinh
Ức chế tác động của androgens
Tác dụng độc trực tiếp lên quá trình sinh tinh
Ức chế trực tiếp quá trình sinh tinh
Ức chế trực tiếp quá trình sinh tinh


14

Các thuốc điều trị ung thư đều ảnh hưởng nhiều đến quá trình
sinh tinh và gây tình trạng vô tinh tạm thời. Cơ chế ức chế tác động của các
thuốc hóa trị có thể bào gồm: gây tổn thương tế bào mầm sinh dục, rối loạn
chức năng tế bào Sertoli, rối loạn tổng hợp nội tiết tố. Đồng thời, tổn thương
nhiễm sắc thể ở tinh trùng sau điều trị hóa chất cũng được ghi nhận. Đây là
những tổn thương có thể có thể truyền cho con [30].
- Độ pH của tinh dịch
Tinh trùng thích hợp và hoạt động mạnh ở môi trường trung tính
hoặc hơi kiềm. Trong môi trường acid nhẹ, hoạt động của tinh trùng sẽ giảm.
Trong môi trường acid mạnh, tinh trùng sẽ bị tiêu diệt [16],[23].
- Stress
Căng thẳng tinh thần kéo dài làm giảm khả năng sinh sản tinh
trùng, khiếm khuyết về chức năng tinh trùng, ảnh hưởng đến sự toàn vẹn
ADN trong nhân tinh trùng [32].
- Chế độ ăn uống
Chế độ ăn thiếu vitamin A, vitamin E, vitamin C, vitamin B gây

tổn thương hoặc thoái hóa tinh trùng. Một số acid béo, acid amin và kẽm có
thể ảnh hưởng trực tiếp lên tinh hoàn gây giảm sinh tinh. Gần đây nhiều quan
điểm cho rằng thức ăn ngày nay thường chứa nhiều các gốc hóa học có tính
estrogen yếu, nếu tích tụ lâu ngày, có thể ức chế sinh tinh [33].
1.1.2. Chẩn đoán suy giảm tinh trùng
Suy giảm tinh trùng là một thuật ngữ chỉ sự giảm sút về số lượng và/
hoặc chất lượng của tinh dịch và tinh trùng trong tinh dịch. Theo tiêu chuẩn
phân tích tinh dịch người của Tổ chức y tế thế giới năm 2010 [3],[34]:
 Giảm số lượng:
- Thể tích tinh dịch ít <1,5 ml.
- Thể tích tinh dịch rất ít <0,5ml


15

- Mật độ tinh trùng ít <15 x 10 6/ml và/ hoặc tổng số tinh trùng 1 lần
xuất tinh <39 x 106 (1).
 Giảm chất lượng tinh trùng:
- Tinh trùng yếu: tỷ lệ PR <32% và/ hoặc PR + NP <40% (2).
- Tinh trùng dị dạng: tỷ lệ tinh trùng bình thường <04% (3).
- Tinh trùng sống ít : tỷ lệ tinh trùng sống < 58%
 Giảm cả số lượng và chất lượng tinh trùng:
- Tinh trùng ít và yếu: khi phối hợp (1) và (2).
- Tinh trùng ít và dị dạng: khi phối hợp (1) và (3).
- Tinh trùng yếu và dị dạng: khi phối hợp (2) và (3).
- Tinh trùng ít, yếu và dị dạng: khi phối hợp (1), (2) và (3).
1.1.3. Điều trị suy giảm tinh trùng theo y học hiện đại
1.1.3.1. Điều trị nội khoa
* Hormon điều trị suy giảm tinh trùng:
- FSH và LH: Iacono F. và cs đã sử dụng FSH liều cao (150UI) để điều

trị các bệnh nhân SGTT thấy kết quả số lượng tinh trùng và tỷ lệ tinh trùng
khỏe tăng lên rõ rệt so với nhóm điều trị thấp (p < 0,001). Strehler E. và cs
cũng sử dụng FSH với liều 150 UI/ ngày trong 12 tuần để điều trị cho 46 bệnh
nhân vô sinh nam có tinh dịch đồ ít và yếu thấy tăng số lượng tinh trùng có
hình thái bình thường [5].
- HMG (Human menopausal gonadotropin) hay hCG (human chorionic
gonadotropin) . Demoulin A điều trị 87 trường hợp SGTT (11 – 20 x 10 6 /ml)
bằng HMG đơn thuần hoặc HCG thấy 44 trường hợp số lượng tinh trùng tăng
hơn 30 x 106 /ml và 17 trường hợp sinh con; còn trong 98 trường hợp SGTT
nặng (< 10x 106 /ml) có 30 người có số lượng tinh trùng tăng tới 20 – 30 x 10 6
/ml và 7 trường hợp sinh con. Schill W.B. dùng hMG và hCG điều trị 48 bệnh


16

nhân SGTT (< 20x106 /ml) tự phát trong 3 tháng thấy 10 bệnh nhân sinh con
trong vòng một năm, 16 bệnh nhân số lượng tinh trùng cao hơn 25 x 106 /ml [5].
- Các thuốc kháng estrogen tại receptor: Clomiphen citrate hoặc
Tamoxifen. Clomiphen tranh chấp với estrogen nội sinh tại các receptor ở
vùng dưới đồi và tuyến yên, Tamoxifen ngăn cản phức hợp estrogem –
receptor gắn vào vị trí tác dụng trên ADN của tế bào đích. Vì vậy chúng
kháng lại estrogen và gây kích thích hoạt động của tinh hoàn bằng cách gây
tăng tiết FSH và LH nội sinh. LH tăng kích thích tế bào Leydig làm tăng sản
xuất testosteron nên làm tăng sinh tinh trùng. Clominphen làm tăng nồng độ
kẽm và magie trong tinh dịch nên làm tăng di động tinh trùng [6].
- Các androgen: một số tác giả đã sử dụng testosteron với liều 100 –
200 mg/ tuần trong 3 – 4 tháng để làm giảm số lượng tinh trùng. Sau khi ngừng
thuốc một thời gian sẽ có hiệu ứng bật và làm tăng số lượng tinh trùng [6],[38].
Các dạng thuốc dùng hiện nay là Androil testocaps, Mesterolone,
testosterone undecanoate.

* Nhóm ức chế prolactin: trường hợp SGTT do prolactin huyết tương
cao, dùng bromocryptine 5 – 10mg/ ngày hoặc Indometacin để ức chế
prolactin. Barkey J. Thấy kết quả điều trị vô sinh nam bằng Indometacin với
liều 50mg và 75mg/ ngày trong 60 ngày chưa rõ ràng [6].
* Nhóm methylxanthin: Pentoxyfyllin (Torental). Theo Shen M.R. và cs.
sau 3 tháng điều trị bằng Pentoxyfyllin, tỷ lệ tinh trùng khỏe tăng lên nhưng mật
độ tinh trùng không tăng. Merino G. và cs dùng Pentoxyfyllin với liều
1200mg/ngày trong 6 tháng thấy nồng độ hormon hướng sinh dục, thể tích tinh
dịch, số lượng tinh trùng, khả năng sống và hình thái tinh trùng không thay đổi
trước và sau điều trị. Nhưng tỷ lệ tinh trùng khỏe tăng lên một cách rõ rệt sau 3 –
6 tháng điều trị ( từ 25,5% tăng lên 35,5 – 42,0% với p<0,001).


17

* Các thuốc chống oxy hóa:
Trong cơ thể phản ứng oxy hóa tạo ra các gốc tự do, những gốc này gây
lão hóa tế bào và gây ra những tổn thương cho tế bào đặc biệt là phân tử
ADN. Người ta cũng cho rằng có sự liên quan giữa tổn thương do quá trình
oxy hóa ADN ở tinh trùng và hiện tượng vô sinh nam [32].
+ Glutathion: Lenzi A. và cs đã dùng Glutathion 600mg/ ngày tiêm tĩnh
mạch 2 tháng để điều trị 11 bệnh nhân SGTT, thấy sau 30 – 60 ngày điều trị
số tinh trùng khỏe tăng lên rõ rệt.
+ L – arginin: theo Scibona M. và cs L – arginin HCl có thể cải thiện
khả năng chuyển động của tinh trùng mà không hề có tác dụng phụ nào [35].
+Coenzym Q10: theo Lewin A. và nhiều tác giả khác cho rằng
coenzym Q10 cũng có tác dụng làm tăng khả năng di động của tinh trùng.
Ngoài ra, nếu bệnh nhân SGTT do các nguyên nhân đặc hiệu thì cần có
các biện pháp chuyên biệt như sử dụng tinh chất tuyến giáp trong suy giáp, sử
dụng glucocorticoid trong trường hợp vô sinh do miễn dịch, dùng kháng sinh

nếu viêm nhiễm đường niệu – sinh dục [5].
1.1.3.2. Điều trị bằng phẫu thuật
Áp dụng cho những trường hợp: giãn tĩnh mạch thừng tinh, tinh hoàn
lạc chỗ, nước màng tinh hoàn, thoát vị bẹn, vô tinh trùng do tắc nghẽn (phẫu
thuật nối ống dẫn tinh hoặc nối ống dẫn tinh – mào tinh) [4].
1.2. Y HỌC CỔ TRUYỀN
1.2.1. Quan niệm của YHCT về tinh.
1.2.1.1. Khái niệm về tinh
Tinh là vật chất cơ bản để cấu thành nên cơ thể và duy trì các hoạt động
sinh mạng của cơ thể [11]. Tinh có hai nghĩa:
+ Tinh nghĩa rộng: chỉ tất cả các vật chất tinh vi trong cơ thể, bao
gồm cả tinh trong thủy cốc, tinh trong ngũ tạng lục phủ và tinh bẩm thụ từ cha
mẹ tàng chứa ở thận [11].


18

+ Tinh nghĩa hẹp: là tinh tàng chứa trong thận gọi là thận tinh.
Thận tinh lại phân thành tinh tiên thiên và tinh hậu thiên:
+ Tinh tiên thiên: còn gọi là tinh sinh dục, chỉ vật chất tinh vi có
chức năng sinh dục nằm ở trong thận, bẩm thụ từ cha mẹ, có từ khi sinh ra, có
sức sống và có thể hình thành bào thai, phát triển bào thai và hình thành cơ
thể [11].
+ Tinh hậu thiên: là chỉ những tinh hoa dinh dưỡng thu được từ ăn
uống và những vật chất tinh vi được sinh ra từ những chất chuyển hóa của
tạng phủ. Tinh tiên thiên không ngừng được bổ sung bởi tinh hậu thiên, từ đó
cơ thể mới không ngừng phát triển và duy trì hoạt động sinh mạng bình
thường [11].
1.2.1.2. Tác dụng của tinh
- Tác dụng sinh dục: chức năng sinh dục hoàn thiện hay không phụ thuộc

vào tình trạng phát dục của cơ quan sinh dục và có quan hệ mật thiết với thận
tinh. Tinh sinh dục có nguồn gốc từ thận, là vật chất khởi nguồn sự sống, sau
đó cơ thể phát triển dần dần, thận tinh đầy đủ hình thành “thiên quý”, lúc đó
cơ quan sinh dục đã phát triển thành thục và có khả năng sinh sản [11].
- Thúc đẩy cơ thể sinh trưởng và phát dục: tinh là vật chất cơ bản hình
thành bào thai và thúc đẩy thai nhi phát triển [11].
- Sinh tủy hóa huyết: thận tàng tinh, tinh có thể hóa sinh tủy, tủy là vật
chất trong tủy xương bao gồm có cốt tủy, tủy sống và não tủy. Tủy sinh thành
bởi tinh tiên thiên và không ngừng được bổ sung bởi tinh hậu thiên. Tinh hình
thành huyết dịch, một mặt tinh thủy cốc thông qua tác dụng khí hóa của tâm
phế mà hóa sinh thành huyết dịch, mặt khác thận tinh thông qua can và sự hóa
sinh cốt tủy mà hình thành huyết dịch. Tinh và huyết hỗ trợ sinh thành và
chuyển hóa lẫn nhau [11].
- Tác dụng tư dưỡng: chủ yếu là tác dụng của tinh thủy cốc [11].


19

1.2.1.3. Vai trò của tạng thận đối với tinh và chức năng sinh dục
Thận tàng tinh, chủ về sinh dục và phát dục của cơ thể [11]. Tinh tiên
thiên và tinh hậu thiên đều tàng ở thận, cùng dựa vào nhau để tồn tại và phát
triển, tinh hậu thiên không ngừng cung dưỡng và bổ sung cho tinh tiên thiên.
Từ khi bắt đầu sinh ra, tinh khí của thận dần dần được bổ sung đầy đủ,
bắt đầu có răng sữa và tóc dài ra, đến thời kỳ phát dục tinh khí của thận đầy
đủ, xuất hiện thiên quý, nam giới xuất hiện tinh tử, nữ giới xuất hiện kinh
nguyệt và rụng trứng. Đến khi già, thận tinh bắt đầu suy giảm, thiên quý kiệt,
khả năng sinh dục dần dần suy giảm và mất đi.
Nội kinh viết: con trai 8 tuổi thận khí sung túc, lông tóc dài ra, răng
thay; đến 16 tuổi, thận khí thịnh vượng, thiên quý thành thục, tinh khí tràn
đầy và có thể tiết ra được, lúc này nếu giao hợp với nữ thì có thể sinh con; 24

tuổi thận khí đầy đủ, gân xương rắn chắc, răng khôn mọc, sinh trưởng phát
dục đến cực độ; 32 tuổi, gân xương to lớn, da thịt béo tốt, cơ bắp càng đầy
đặn và rất khỏe; đến 40 tuổi thận khí bắt đầu suy còn một nửa; đến 48 tuổi
dương khí ở phần trên suy kiệt, sắc mặt khô ráo tiều tụy, tóc điểm bạc, đến 56
tuổi can khí suy kém, cân mạch hoạt động kém, thiên quý khô kiệt, tinh khí
suy thiếu, thân thể mệt mỏi; đến 64 tuổi răng rụng dần; tóc cũng rụng thưa
[9],[11],[36].
Nếu thận tàng tinh bình thường, thận tinh đầy đủ thì cơ thể mới khỏe
mạnh, quá trình phát dục và sinh trưởng bình thường, mới có thể duy trì được
khả năng sinh dục và duy trì nòi giống. Nếu thận bị bệnh, thận tàng tinh bị
thất thường khiến cho quá trình phát dục và sinh trưởng bị ảnh hưởng làm cho
trẻ em phát dục chậm, xương cốt mềm yếu, lớn lên khó có con.
Thận tinh thuộc âm còn gọi là thận âm, nguyên âm. Thận âm là gốc của
âm dịch trong cơ thể, có chức năng nhu nhuận và tư dưỡng tạng phủ tổ chức.
Tinh có thể hóa khí do đó thận tinh có thể hóa khí. Thận khí thuộc dương gọi
là thận dương, nguyên dương. Thận dương là gốc dương khí của cơ thể, có
chức năng ôn ấm và hoạt động công năng cho tạng phủ tổ chức. Thận âm và


20

thận dương chế ước lẫn nhau, cùng nhau tồn tại và phát triển, duy trì hoạt
động sinh lý của cơ thể. Nếu thận âm hư tổn sẽ xuất hiện gò má đỏ, ngũ tâm
phiền nhiệt, triều nhiệt tự hãn, nam di tinh, nữ rối loạn kinh nguyệt, tóc bạc,
răng lung lay, hay quên. Ngược lại nếu thận dương hư xuất hiện chân tay
lạnh, lưng gối lạnh đau, tinh thần ủy mị, tiểu tiện không lợi, tiểu nhiều lần,
nam thì liệt dương, xuất tinh sớm, nữ tử cung hàn không thể mang thai.
1.2.1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình hình thành và phát triển của
tinh theo lý luận YHCT
* Thận tinh suy tổn

Do tiên thiên bất túc hoặc buông thả tình dục làm cạn kiệt tinh khí.
Linh khu viết: “phòng dục quá độ thì hại thận”. Hoặc tổn thương do thất tình,
sợ hãi làm hại thận khiến tinh khí hao tổn [9],[36].
*Thận dương hư
Nguyên dương bất túc, thiên quý suy ở người già, ốm lâu ngày, và tất cả
các nguyên nhân gây thận tinh suy tổn làm thận dương hư. Thận dương mất chức
năng khí hóa, không có tác dụng sưởi ấm, làm tinh khí hư lạnh [9].
Tỳ hư tinh tổn
Do suy nghĩ quá độ, lao động quá sức dẫn đến mệt mỏi làm tổn thương
tâm tỳ, ăn uống thiếu thốn, hoặc bệnh lâu cơ thể suy nhược mệt mỏi quá làm
tổn thương tỳ, hoặc do thận dương không đủ ôn ấm được tỳ dương làm không
vận hóa được thủy cốc, hậu thiên mất điều hóa, tinh chất thức ăn không thể
hóa sinh khí huyết làm thận tinh suy yếu, gây ra số lượng tinh trùng giảm, sức
hoạt động tinh trùng kém [9].
Can khí uất kết, khí trệ huyết ứ
Do tình chí không thư sướng, uất giận làm mất đi sự sơ tiết dẫn đến khí
uất trệ, can mộc không điều đạt mà gây bệnh.[9].


21

Thấp nhiệt hạ tiêu
Do hạ tiêu nhiễm phải tà khí thấp nhiệt uế trọc, thấp nhiệt nung nấu,
câu kết ở bàng quang hoặc thận chuyển nhiệt xuống bàng quang làm chảy mủ
dương vật, đái đục, đái rắt, đái buốt. Kinh can thấp nhiệt khiến vùng sinh dục
tức nặng, tinh hoàn sưng đau [9].
Do chế độ ăn uống sinh hoạt
Do ăn uống không điều độ hoặc uống rượu nhiều. Bình thường huyết
trong mình chỗ nào về chỗ nấy thì tinh mới ngưng đọng được, rượu làm động
huyết (uống rượu mặt đỏ, tay chân đỏ là động huyết), sẽ làm cho tinh không

ngưng đọng được. Người mà khí huyết suy, thận tinh đã không đầy đủ lại
uống rượu thì càng làm tinh hao tổn [33].
1.2.2. Các thể lâm sàng và điều trị SGTT theo YHCT
Suy giảm tinh trùng thuộc phạm vi chứng “thiểu tinh” hoặc “tinh lãnh”
[10], [37].
Theo Nam khoa học, Chẩn trị Trung – Tây y kết hợp trong điều trị vô
sinh và Chứng bệnh vô sinh do nam giới chia SGTT thành các thể lâm sàng:
* Thận âm hư
- Triệu chứng: sắc mặt không tươi, chóng mặt, ù tai, lưng gối mỏi yếu,
râu tóc bạc sớm, tinh thần mệt mỏi hay quên, trí nhớ giảm sút, chân tay mềm
yếu, động tác chậm chạp, dương nuy, lượng tinh dịch ít, số lượng tinh trùng ít
nên không có con. Mạch xích trầm tế vô lực. Nếu âm hư hỏa vượng sẽ có ngũ
tâm phiền nhiệt, chất lưỡi đỏ, ít rêu, mạch tế [10],[38].
- Biện chứng luận trị: Thận tàng tinh, tinh sinh huyết, thận tinh bất túc
nên huyết không đủ, sắc mặt không tươi, mạch tế nhược. Thận chủ não tủy,
thận hư thì tủy hải rỗng gây chóng mặt, ù tai, trí nhớ giảm. Thận tàng tinh chủ
về sinh dục, thận tinh hư suy gây liệt dương, tinh dịch ít, số lượng tinh trùng
ít, khó có con. Thận chủ về mạnh mẽ kĩ xảo, thận hư thì tay chân mềm yếu,
động tác chậm chạp. Lưng là phủ của thận, thận chủ cốt tủy nên thận hư gây
đau lưng mỏi gối [10].


22

- Pháp điều trị: Bổ ích tinh tủy, tư bổ thận âm.
- Phương dược: “Ngũ tử diễn tông hoàn” hợp với “Giác lộc nhị tiên giao”
gia giảm, “Tri bá địa hoàng thang” gia giảm hoặc “Ích tinh xung tễ” [10].
* Thận dương hư
- Triệu chứng: tinh thần mệt mỏi không phấn chấn, sắc mặt nhợt, tiếng nói
nhỏ, sợ lạnh, tay chân lạnh, lưng gối mỏi, tiểu nhiều lần hoặc tiểu són, nước tiểu

trong dài, đại tiện nát, số lượng tinh trùng ít, sức hoạt động tinh trùng yếu, liệt
dương, chất lưỡi nhợt, rêu trắng, mạch trầm nhược [10],[38].
- Biện chứng luận trị: do dương khí không vận hành làm đàm trọc ứ trệ
nên xuất hiện các chứng trạng do trọc âm nghịch lên như sắc mặt ám tối, tinh
thần chậm chạp. Dương hư không sưởi ấm được thân thể nên sợ lạnh, tay
chân lạnh. Lưng là phủ của thận, thận dương hư thì lưng gối mỏi và lạnh.
Thận chủ chứa tinh, nguyên dương bất túc, tinh khí không bền nên có chứng
dương nuy, số lượng tinh trùng ít, sức hoạt động của tinh trùng yếu. Xích mạch
thuộc thận nên mạch xích trầm tế hoặc trì. Thận dương bất túc, hỏa không sinh
thổ, vào lúc âm hàn cực thịnh làm cho đi ngoài phân nát. Do không có dương, âm
không hóa được, bàng quang mất chức năng khí hóa nên đi tiểu són. Hoặc thận hư
không thu liễm được thủy, tiểu tiện nhiều lần [10],[38].
- Pháp điều trị: ôn thận tráng dương, cố tinh ích khí.
- Phương dược: “Kim quỹ thận khí hoàn” gia giảm, “Nhị liên thập tử
thang”, “Hữu quy hoàn gia giảm” hoặc “Tán dục đơn”[10],[12].
* Tỳ hư tinh tổn
- Triệu chứng: mệt mỏi, sắc mặt vàng úa, mất sức, đầu váng, mắt hoa,
đêm ngủ không yên, hay quên ăn kém, luôn có cảm giác đầy trướng bụng, đại
tiện phân nát, số lượng tinh trùng ít, sức sống tinh trùng yếu, liệt dương, chất
lưỡi bệu nhớt, có vết hằn răng, rêu lưỡi trắng, mạch vô lực [10],[38].
- Biện chứng luận trị: thần nhờ khí huyết mà tươi sáng, khí huyết hư
làm sắc mặt không tươi, tâm thần mất sự nuôi dưỡng nên mất ngủ, mệt mỏi. Tỳ
chủ ý và nghĩ, tỳ hư thì chỗ ở của ý không trong sạch, tâm thần không yên khiến


23

người ta hay quên. Tỳ chủ vận hóa, tỳ bị bệnh làm trở ngại việc chuyển hóa, hấp
thu nuôi dưỡng nên ăn kém, chậm tiêu, đại tiện lỏng chất lưỡi nhạt bệu. Do tinh
hậu thiên không đủ để nuôi dưỡng tinh tiên thiên nên thận tinh hư yếu, sinh tinh

giảm, số lượng tinh trùng giảm, sức hoạt động của tinh trùng kém [10].
- Pháp điều trị: ích khí kiện tỳ, dưỡng huyết sinh tinh.
- Phương dược: “Quy tỳ thang” gia giảm hoặc “Bát trân sinh tinh
thang” gia giảm hoặc “Sinh tinh thang” [10],[13].
* Can khí uất kết
- Triệu chứng: tinh trùng yếu, chết nhiều, số lượng tinh trùng ít, hay nhói
đau tinh hoàn, giãn tĩnh mạch tinh, bất lực, ngực sườn đầy chướng, hay cáu gắt,
chất lưỡi tối có chấm ứ huyết, mạch huyền sáp hoặc huyền khẩn [10],[38].
- Biện chứng luận trị: do khí cơ của tạng can bị uất mà không được
thoải mái và phát tiết nên kết tụ và ứ trệ trong cơ thể, biểu hiện lâm sàng chủ
yếu là uất ức, hay thở dài, ngực sườn đầy tức hoặc đau, mạch huyền. Bình
thường can mộc khắc tỳ thổ, tức là sự vận hóa của tỳ phải nhờ vào công năng
sơ tiết điều đạt của can. Khi can khí uất kết mất khả năng sơ tiết điều đạt bình
thường, không hỗ trợ cho công năng của tỳ thổ, làm đầy bụng, chậm tiêu,
biếng ăn. Vì vậy tinh hoa của ngũ cốc không chuyển thành tinh hậu thiên để
nuôi dưỡng tinh tiên thiên, thận tinh hư tổn, số lượng tinh trùng ít, tinh trùng
dị dạng nhiều, sức sống tinh trùng thấp [10].
- Pháp điều trị: Sơ can giải uất, kiện tỳ hòa doanh, hoạt huyết hóa ứ
thông tinh.
- Phương dược: “Hắc tiêu dao tán” hợp “Huyết phủ trục ứ thang” gia
giảm [10].
* Thấp nhiệt hạ tiêu
- Triệu chứng: sau khi kết hôn không có con, đau mỏi lưng, hai chân
mỏi, người mệt mỏi vô lực, miệng đắng, biếng ăn, đầu váng, miệng khô đắng
mà không muốn uống nước, ngứa hoặc tức nặng bộ phận sinh dục, đau


24

chướng ở hội âm hoặc tinh hoàn, tinh dịch đặc mùi hôi, trong tinh dịch có

nhiều hồng cầu, bạch cầu, số lượng tinh trùng ít, tỷ lệ tinh trùng chết nhiều,
tiểu tiện đục và nhỏ giọt, cảm giác nóng rát niệu đạo khi tiểu hoặc phóng tinh,
lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng nhớt, mạch hoạt sác hoặc nhu sác [10],[38].
- Biện chứng luận trị: Do thấp nhiệt nung nấu câu kết ở bàng quang
hoặc thận chuyển nhiệt xuống bàng quang làm bàng quang mất chức năng khí
hóa gây tiểu tiện nóng và rát, nước tiểu vàng đỏ hoặc đục như nước vo gạo,
bụng dưới đầy chướng, miệng đắng, rêu lưỡi dính nhớt. Thấp nhiệt xâm phạm
can kinh làm khí cơ ngưng trệ, sự sơ tiết của can thất thường gây đau mạng
sườn, đắng miệng, kém ăn, đường kinh can vòng qua bộ phận sinh dục, thấp
nhiệt theo đường kinh dồn xuống hạ tiêu và bộ phận sinh dục gây nên tức
nặng bộ phận sinh dục, tinh hoàn sưng đau, dương vật tự chảy mủ, tiểu đục.
Thấp là âm tà hay làm tổn thương dương khí của tỳ vị nên ảnh hưởng tới việc
vận hóa thủy cốc gây đầy bụng, đắng miệng, biếng ăn [10].
- Pháp điều trị: Thanh nhiệt, lợi thấp, giải độc.
- Phương dược: “Tỳ giải phân thanh ẩm” gia giảm hoặc “Long đởm tả
can thang” gia giảm [10].
Ngoài việc uống thuốc còn kết hợp châm cứu, khí công dưỡng sinh, giữ
cho tinh thần thoải mái và chế độ ăn uống hợp lý mới đạt được hiệu quả cao
trong điều trị [39].
1.2.3. Tổng quan về bài thuốc “Tán dục đơn”
● Bài thuốc “Tán dục đơn” xuất xứ từ Cảnh Nhạc toàn thư gồm:
Thục địa
24g
Bạch truật
24g
Câu kỷ tử
18g
Đương quy
18g
Tiên mao

12g
● Các vị thuốc:

Sơn thù
Dâm dương hoắc
Ba kích
Nhục dung
Cửu tử

12g
12g
12g
12g
12g

Đỗ trọng
Xà sàng tử
Phụ tử chế
Nhục quế

12g
06g
06g
06g


25

* Thục địa, tên khoa học là Radix Rhemanniae praeparatus, là sản
phẩm được chế biến từ Sinh địa (Radix Rhemanniae). Sinh địa được chế biến

từ rễ cây Can địa hoàng, họ hoa mõm sói. Ở Việt Nam, chế biến thục bằng
cách nấu với rượu, gừng, sa nhân, rồi phơi khô, xong lại nấu, khoảng 5-7 lần
đến khi thục địa có màu đen nhánh. Thành phần hóa học: manit, glucozit,
caroten, axit amin, D – glucozamin, axit phosphoric, cacbonhydrat. Vị ngọt,
tính ôn, quy kinh tâm, can, thận. Có tác dụng dưỡng âm, bổ thận, đen râu tóc
[40].
* Dâm dương hoắc, tên khoa học là Herba Epimedii, là toàn cây phơi
hay sấy khô của nhiều loài cây thuộc chi Epimedium . Thành phần hóa học:
tinh dầu, flavonozit, ancola xerylic, heptriacontan, phytosterla. Vị cay, tính
ôn, quy kinh can thận. Có tác dụng bổ can thận, mạnh gân cốt, trợ dương ích
tinh. Thường dùng làm thuốc bổ thận, giúp sự giao cấu, chữa liệt dương, ít
tinh dịch với liều 4 đến 12 gam dưới dạng thuốc sắc hay ngâm rượu [40].
* Nhục dung, tên khoa học là Herba Cistanches, là toàn cây có mang
lá vẩy Caulis Cistanchis. Có thể chế biến bằng ngâm muối 1 -3 năm, khi nào
làm thuốc thì rửa sạch muối mới dùng. Hoặc đun cách thủy với rượu đế đến
khi cạn rượu mới dùng. Vị ngọt, chua, tính hơi ôn. Có tác dụng tư âm, bổ
thận, ích tinh huyết, tráng dương, hoạt trường [40].
* Tiên mao ( sâm cau, ngải cau), tên khoa học là Curculigo orchioides
Gaertn, là rễ cây sâm cau được phơi hoặc sấy khô. Có tác dụng chữa liệt
dương, phong thấp, lưng lạnh đau, thần kinh suy nhược [40].
* Cửu tử (hạt hẹ), tên khoa học là Semen Allii tuberosis, là hạt sấy hoặc
phơi khô của cây hẹ, dùng để chữa di mộng tinh, tiểu tiện ra huyết, đau mỏi
đầu gối, đau lưng, khí hư. Liều dùng 6 – 12g/ ngày [40].
* Xà sàng tử, tên khoa học là Fructus Cnidii, là quả phơi hoặc sấy khô
của cây xà sàng. Vị cay đắng, tính bình, quy kinh thận và tam tiêu. Tác dụng
cường dương, ích thận, chữa liệt dương. Liều dùng 4 – 12 g/ ngày [40].


×