Tải bản đầy đủ (.docx) (88 trang)

KẾT QUẢ điều TRỊ PHẪU THUẬT vẹo KHUỶU vào TRONG SAU gãy TRÊN lồi cầu XƯƠNG CÁNH TAY TRẺ EM tại BỆNH VIỆN VIỆT đức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.29 MB, 88 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Vẹo khuỷu vào trong là một biến dạng của chi trên, làm trục của chi biến
đổi dần dần so với trục của thân mình. Nhiều tác giả trên thế giới còn gọi là di
lệch kiểu báng súng ngắn (Gunstock). Vẹo khuỷu vào trong là một biến dạng
thường gặp sau điều trị gãy trên lồi cầu xương cánh tay ở trẻ em.
Theo thống kê của các tác giả trên thế giới và ở Việt Nam tỷ lệ bị vẹo
khuỷu thay đổi từ (19% - 60%). Theo Sandegard-E (1943) là 30% [1]. Nguyễn
Trung Sinh năm (1971) là 41,8% [2]. Nguyễn Đức Phúc năm (1994) là 40% [3]
năm 1997 là 50% [4]. Nguyễn Ngọc Hưng năm 1999 là 18,9% [5].
Nguyên nhân thường gặp của gãy TLC là do ngã cao và khuỷu ở tư thế
duỗi thẳng. Nguyên nhân chính gây nên di chứng vẹo khuỷu được cho rằng là
do gãy xương dẫn tới sự thiếu nuôi dưỡng của sụn tăng trưởng làm cho trục
của chi bị thay đổi. Nhiều tác giả cho rằng đây là kết quả của việc nắn chỉnh
không hoàn hảo khi điều trị bảo tồn mà chủ yếu là do sự di lệch vào trong
nhiều của đầu gãy xa. Biến dạng xấu này không phải là nguyên nhân làm cho
vận động khớp khuỷu bị hạn chế mà chủ yếu là ảnh hưởng đến thẩm mỹ nhiều
hơn. Ngày nay do điều kiện sống ngày càng được nâng cao vì vậy nhu cầu
phục hồi thẩm mỹ của di chứng này cũng đặt ra nhiều hơn. Rất nhiều tài liệu
đã đề cập và quan tâm đến việc làm thế nào để điều trị tốt nhất đối với gãy
TLC ở trẻ em. Nhưng rất ít tài liệu đề cập đến việc điều trị vẹo khuỷu vào
trong sau gãy TLC ở trẻ nhỏ.
Nhằm đạt được kết quả tốt nhất trong việc điều trị chỉnh hình tật vẹo
khuỷu vào trong, các nhà phẫu thuật chấn thương chỉnh hình trên thế giới
cũng như ở Việt Nam đã nghiên cứu các phương pháp chỉnh trục xương cánh
tay, áp dụng các vật liệu trong kết hợp xương nhằm lựa chọn một phương
pháp hoàn thiện để điều trị loại hình bệnh tật này.


2



Đục bỏ một miếng xương hình chêm trên lồi cầu (mở hoặc khép góc) là
một phương pháp để chỉnh trục khớp khuỷu. Sau đục xương được các tác giả
cố định bằng các kỹ thuật khác nhau như: cố định bằng đinh kirschner, nẹp
vis, hai vis buộc chỉ thép rồi bất động bằng bó bột, cố định ngoài… Ngày nay,
với sự phát triển mạnh mẽ của y học nói chung trong đó đó có chuyên ngành
phẫu thuật chấn thương chỉnh hình nói riêng. Phẫu thuật chỉnh trục điều trị
vẹo khuỷu vào trong ngày càng được áp dụng rộng rãi và có thể triển khai ở
cả các tuyến cơ sở do trình độ chuyên môn cán bộ y tế ngày một nâng cao. Do
đó, việc đánh giá hiệu quả của phương pháp là cần thiết.
Từ thực tế trên chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Kết quả điều trị
phẫu thuật vẹo khuỷu vào trong sau gãy trên lồi cầu xương cánh tay trẻ
em tại Bệnh viện Việt Đức” với hai mục tiêu:
1. Mô tả đặc điểm lâm sàng và hình ảnh X quang của bệnh nhân vẹo
khuỷu vào trong sau gẫy trên lồi cầu xương cánh tay trẻ em.
2. Đánh giá kết quả phẫu thuật điều trị vẹo khuỷu vào trong sau gẫy
trên lồi cầu xương cánh tay trẻ em.


3

Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. ĐẶC ĐIỂM GIẢI PHẪU VÀ CHỨC NĂNG VÙNG KHUỶU
1.1.1. Đầu dưới xương cánh tay
Đầu dưới xương cánh tay dẹt, bè sang hai bên được cấu tạo một khối bởi
các mặt khớp, các hố và mỏm đi kèm.
1.1.1.1 Các mặt khớp
Đầu dưới xương cánh tay tiếp khớp với đầu trên của hai xương cẳng tay
nên mặt khớp có hai phần:

* Chỏm nhỏ xương cánh tay: ở phía ngoài hình tròn hơi hướng ra trước
được gọi là lồi cầu ngoài tiếp khớp với đầu chỏm xương quay.
* Ròng rọc xương cánh tay: ở phía trong được gọi là lồi cầu trong tiếp
khớp với khuyết ròng rọc của đầu trên xương trụ.
* Giữa lồi cầu trong và mỏm khuỷu có rãnh cho thần kinh trụ đi qua gọi
là rãnh thần kinh trụ.
1.1.1.2. Các hố trên khớp
Có 3 hố gồm: 2 hố ở mặt trước và 1 hố ở mặt sau.
* Hố quay: nằm ở TLC, khi gấp cẳng tay chỏm quay sẽ nằm trong hố này.
* Hố vẹt: nằm trên ròng rọc ở mặt trước để nhận mỏm vẹt của xương trụ
khi làm động tác gấp khuỷu.
* Hố khuỷu: nằm ở trên ròng rọc ở mặt sau, khi khuỷu duỗi mỏm khuỷu
nằm trong hố này.


4

Hình 1.1: Giải phẫu các xương của khớp khuỷu [6]
1.1.1.3. Các mỏm trên lồi cầu
* Mỏm TLC ngoài: nằm ở ngoài khớp khuỷu có các cơ bám vào gồm:
Cơ duỗi cổ tay quay dài, cơ duỗi cổ tay quay ngắn, cơ duỗi cổ tay trụ, cơ duỗi
các ngón gọi là khối cơ trên lồi cầu ngoài.
* Mỏm trên ròng rọc: hay còn gọi là mỏm trên lồi cầu trong có các cơ bám
vào gồm: Cơ gấp cổ tay quay, cơ gan tay dài, cơ gấp cổ tay trụ, cơ gấp các ngón
nông, cơ gấp các ngón sâu, cơ sấp tròn gọi là khối cơ trên lồi cầu trong.


5

Hình 1.2: Giải phẫu đầu dưới xương cánh tay và khớp khuỷu [6]

1.1.1.4. Sự cốt hóa đầu dưới xương cánh tay
Đầu dưới xương cánh tay có 4 tâm cốt hóa phụ [7] gồm:
* Điểm lồi cầu ngoài (2 tuổi)
* Điểm mỏm trên ròng rọc (6 tuổi)
* Điểm ròng rọc (8 tuổi)
* Điểm mỏm TLC ngoài (10 tuổi)

Hình 1.3: Các tâm cốt hóa phụ đầu dưới xương cánh tay [7]
1 - Điểm lồi cầu ngoài
2 - Điềm mỏm TLC ngoài
3 - Điểm mỏm trên ròng rọc
4 - Điểm ròng rọc


6

1.1.1.5. Sụn tiếp hợp
Được tách ra từ đầu xương nhờ bản xương, chia thành 4 khu vực [8].
* Khu vực thứ nhất: gồm các tế bào mầm nằm sát với bản xương. Đây là
các tế bào không biệt hóa, được nuôi dưỡng bởi động mạch đầu xương.
* Khu vực thứ hai: nằm sát các tế bào mầm của khu vực một. Khu vực
này gồm các tế báo sụn phát triển nhanh được nuôi dưỡng bởi động mạch đầu
xương. Khu vực này đáp ứng cho xương phát triển chiều dài.
* Khu vực ba: bao gồm các tế bào nở to đó là các tế bào sụn trong quá
trình chín trước khi bị canxi hóa. Khu vực này được nuôi bằng động mạch từ
hành xương, ở đây không có hoạt động phát triển. Haas và Harris nhận thấy
rằng đây là vùng yếu nhất của sụn tiếp hợp.Các thương tổn của sụn thường
nằm ở khu vực này.
* Khu vực bốn: bao gồm các tế bào cốt hóa tạm thời, chúng được cấp
máu từ động mạch nuôi của hành xương.


Hình 1.4: Bốn khu vực của sụn tiếp hợp [8]


7

1.1.2. Giải phẫu và chức năng khớp khuỷu
1.1.2.1. Bao khớp
Ở phía dưới, bên xương trụ bao khớp bám vào mép sụn khớp, bên xương
quay bao khớp bám thấp hơn vào cổ xương quay, do đó chỏm xương quay
xoay tự do trong bao khớp.
Ở phía trên bao khớp bám vào đầu dưới xương cánh tay cách xa chu vi
các mặt khớp.
1.1.2.2. Dây chằng:
- Dây chằng khớp cánh tay- trụ - quay.
- Dây chằng bên quay: bao gồm ba bó từ mỏm TLC ngoài tỏa xuống
bám vào cổ, bờ sau khuyết xương quay và mỏm khuỷu.
- Dây chằng bên trụ: gồm ba bó đi từ mỏm TLC trong xương cánh tay
tỏa xuống bám vào đầu trên xương trụ.
- Dây chằng vòng quay: vòng quanh cổ xương quay bám vào bờ trước và
bờ sau khuyết quay.
- Dây chằng vuông: bám vào bờ dưới khuyết quay và cổ xương quay.
- Dây chằng trước và dây chằng sau: đi từ xương cánh tay xuống xương
trụ và xương quay.
- Dây chằng khớp quay trụ trên.
* Đặc điểm: dây chằng vững hơn sụn tiếp hợp.


8


Hình 1.5. Bao khớp và dây chằng của khuỷu [6]

1.1.2.3. Các cơ vận động chính của khuỷu.
Khớp khủy với chức năng chính là gấp duỗi của cẳng tay với cánh tay.
Có 3 cơ chính tham gia vào quá trình vận động chính của khớp khuỷu gồm:
Cơ tam đầu, cơ cánh tay trước và cơ nhị đầu cánh tay.


9

Hình 1.6. Các cơ của cánh tay [6]
1.1.2.4. Thần kinh và mạch máu
- Thần kinh quay đi từ khu cánh tay sau xuyên qua vách gian cơ ngoài
theo cơ cánh tay quay vào rãnh nhị đầu ngoài. Tới ngang mức chỏm quay thì
chia thành hai ngành cùng.


10

Hình 1.7. Thần kinh quay ở cẳng tay [6]
- Thần kinh trụ, ở trên được áp vào vách gian cơ trong và bị che phủ bởi
phía sau bởi cơ tam đầu, xuống dưới nằm trong rãnh thần kinh trụ được che
phủ bởi mạc căng từ đầu trong cơ tam đầu tới đầu trên cơ gấp cổ tay trụ, rồi
chui qua cung xơ của cơ này theo cơ xuống vùng cẳng tay trước.


11

Hình 1.8. Thần kinh trụ [6]



12

- Động mạch cánh tay và thần kinh giữa nằm ở rãnh nhị đầu trong.

Hình 1.9. Động mạch cánh tay và vòng nối quah khuỷu [6]
1.1.2.5. Khớp ròng rọc trụ.
Trong KK xương trụ xoay với xương cánh tay quanh một trục ngang.
Phần hình trụ của KK bao gồm: hõm hình bán nguyệt của đầu trên xương trụ
khớp với ròng rọc của đầu dưới xương cánh tay và là trục trung tâm của khớp
này.Trục của ròng rọc tạo với trục của thân xương cánh tay một góc vẹo ra
ngoài [9]. Tư thế vẹo ngoài sinh lý của khuỷu được xem là góc mang của
khuỷu. Góc mang được xác định ở tư thế khuỷu duỗi hoàn toàn, cẳng tay sấp


13

45o, gan bàn tay đối diện với đùi. Beals R.K năm 1976 [10] đã tìm ra góc
mang bình thường là 150 - 17,50.

Hình 1.10: Sơ đồ biểu thị góc mang của đầu dưới xương cánh tay [10]
Để đánh giá kết quả nắn chỉnh gãy TLC xương cánh tay, Baumann và
SandegardE đã tìm ra góc để đánh giá trục của khuỷu trên fim X quang trước
sau. Đó là góc tạo bởi đường trục của thân xương cánh tay và đường thẳng tiếp
tuyến với bờ xương thẳng của phần ngoài hành xương đầu dưới xương cánh tay
(góc này được gọi là góc Baumann). Bình thường góc này là 70o [11].
Dail đã tiến hành đo góc Baumann ở 98 trẻ từ 2-3 tuổi ở Trung Quốc và
thấy góc này là 64o-80o ở trẻ trai và 65o-81o ở trẻ gái. Với kết quả thu được
ông thấy không có sự khác nhau đáng kể của góc Baumann với tuổi, nhưng
ông lại thấy có sự liên quan chặt chẽ giữa góc Baumann và góc mang. Đo góc



14

Baumann trong PT dùng để tiên lượng xa góc mang sau PT. Do vậy, việc điều
chỉnh góc Baumann trong PT là điều quan trọng để ngăn chặn VKVT một
cách hiệu quả [12].

Hình 1.11: Sơ đồ biểu thị góc Baumann của đầu dưới xương cánh tay [11]
Oppenheim W.L và cộng sự [13] đã sử dụng góc cánh tay – trụ để đánh
giá góc mang. Góc này được tạo bởi trục xương cánh tay và trục xương cẳng
tay trong tư thế khuỷu duỗi hoàn toàn. Góc này mở ra ngoài khoảng từ 10 o15o ở người bình thường.


15

Hình 1.12. Sơ đồ biểu thị góc cánh tay-trụ [13]
1.1.2.6. Khớp lồi cầu quay.
Là khớp được tạo bởi mặt lõm của của chỏm xương quay và lồi cầu ngoài
xương cánh tay, cho phép vận động gấp - duỗi, sấp - ngửa nhờ xương quay.
1.1.2.7. Khớp quay trụ trên.
Là khớp giữa chỏm xương quay và khuyết quay xương trụ. Khớp này có
cùng chức năng với khớp lồi cầu quay.
1.1.2.8. Tầm vận động khớp khuỷu.
- Gấp: KK gấp 135o – 145o
- Duỗi: KK duỗi được đến 0o (Duỗi quá mức từ 5o – 10o có thể gặp ở một
số người).
- Sấp: cẳng tay sấp 80o – 90o
- Ngửa: cẳng tay ngửa 80o – 90o



16

1.2. ĐẶC ĐIỂM GIẢI PHẪU BỆNH CỦA BIẾN DẠNG VẸO KHUỶU
VÀO TRONG
Có ba loại di lệch của đầu dưới xương cánh tay trong biến dạng VKVT
đó là:
- Di lệch nghiêng trong tạo góc mở vào trong.
- Di lệch nghiêng ra sau làm cho khớp khuỷu ưỡn quá mức.
- Di lệch xoay trong của đầu ngoại vi.
Biến dạng xoay trong của đầu dưới xương cánh tay là biến dạng khó phát
hiện nhất trên lâm sàng và X quang. Trên lâm sàng biến dạng này được bù trừ
bởi khớp vai. Do vậy một số tác giả như NaitoA và cộng sự (1990) [14] đã đề
xuất dùng C.T với không gian ba chiều để xác định góc xoay trong trước và
sau PT. Năm 1995 Itow và cộng sự [15] đề xuất đo góc xoay trong bằng chụp
siêu âm. Năm 1994 MahaisavasiyaB [16] nghiên cứu góc xoay trong ở 29
bệnh nhân bị biến dạng VKVT bằng cách sử dụng mẫu xương cắt trong PT
cắt xương hình chêm để đánh giá biến dạng xoay. Kết quả cho thấy góc xoay
trong của nhóm này trung bình là 27o.
1.3. NGUYÊN NHÂN BỆNH SINH CỦA BIẾN DẠNG VẸO KHUỶU
VÀO TRONG
Đây là biến dạng của đầu dưới xương cánh tay do hậu quả của gẫy TLC
và chấn thương vùng sụn tiếp hợp.
Theo thống kê của các tác giả cho thấy VKVT là do sự can lệch của gãy
đầu dưới xương cánh tay. Tỷ lệ biến dạng thay đổi từ 19% - 60% sau gãy trên
lồi cầu tùy theo tuổi của bệnh nhân khi bị gẫy [17],[18],[19],[7],[20], [21],
[22],[23],[24],[25]. French P.R [7] cho rằng biến dạng VKVT là do sự di lệch
vào trong và sự xoay trong của đầu ngoại vi, mà sự di lệch này là do sự co
kéo của các cơ gấp và sấp của cẳng tay.



17

Năm 1991 Khare và cộng sự [26] đã nghiên cứu thực nghiệm trên tử thi
và lâm sàng ở trẻ em bị gẫy TLC xương cánh tay đã đi đến kết luận: cơ tam
đầu cánh tay là yếu tố chính gây nên sự nghiêng vào bên trong của đoạn ngoại
vi trong tư thế cẳng tay ngửa. Do vậy tác giả cũng đưa ra lời khuyên, cố định
cẳng tay trong tư thế sấp sau nắn chỉnh gãy TLC xương cánh tay sẽ ngăn chặn
được biến dạng VKVT.
Ribault L [27] lại cho rằng biến dạng VKVT sau gẫy TLC xương cánh
tay của trẻ em là do sự phát triển hỗn độn ở đầu dưới xương cánh tay sau chấn
thương. Đặc biệt là sự phát triển quá mức của lồi cầu ngoài. Còn Oh C.W năm
2000 [4] lại thấy rằng ở bệnh nhân bị biến dạng VKVT có sự kém phát triển
của lồi cầu trong do sự thiếu nuôi dưỡng của mạch máu.
Các tác giả DeBoek [28] và SandegardE [1] đều thống nhất. Để khắc
phục sự nghiêng và xoay trong của đầu ngoại vi, ngoài việc nắn chỉnh và cố
định tốt một số tác giả còn đề nghị giảm sự co kéo của các cơ sấp và gấp của
cẳng tay vào đầu ngoại vi bằng bất động cẳng tay ở tư thế khuỷu gấp 90 o,
cẳng tay sấp 45o sau nắn chỉnh hoặc sau PT.
Cho đến nay nguyên nhân gây nên biến dạng VKVT sau gẫy TLC xương
cánh tay ở trẻ em được nhiều tác giả công nhận đó là:
- Sự di lệch của đầu ngoại vi do nắn chỉnh, cố định chưa tốt gây ra
can lệch.
- Do thương tổn sụn tiếp hợp, sự phát triển của đầu dưới xương cánh tay
mất cân đối hay gặp sự phát triển quá mức của lồi cầu ngoài và kém phát triển
ở lồi cầu trong làm lệch trục của KK.


18


1.4. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU DI CHỨNG BIẾN DẠNG VẸO
KHUỶU VÀO TRONG TRÊN THẾ GIỚI.
Nghiên cứu phương pháp phẫu thuật điều trị biến dạng VKVT
để điều trị biến dạng VKVT là đục xương phía trên lồi cầu xương cánh tay để
chỉnh trục KK. Cho đến nay chỉ định PT còn là vấn đề tranh cãi. Có tác giả
cho rằng điều trị PT chủ yếu là nhằm phục hồi thẩm mỹ, nên việc PT dựa vào
yêu cầu của bố mẹ và của bệnh nhân [7]. Siwth năm1960 [29] chủ trương PT
sau tuổi dậy thì để tránh vẹo khuỷu tái phát. Theo IppolitoE 1990 [30] lại cho
rằng dù có tái phát vẫn nên chỉ định PT cho các bệnh nhân bị biến dạng nặng
nhằm phục hồi và cải thiện một phần chức năng vận động của KK.
Các tác giả đã đưa ra 2 phương pháp đục xương để chỉnh trục đối với
vẹo khuỷu vào trong đó là:
- Đục xương hình chêm phía TLC ngoài.
- Đục xương mở phía TLC trong.
Trong 2 phương pháp cắt xương trên, hiện nay cắt xương hình chêm phía
TLC ngoài được áp dụng phổ biến nhất.
Tiếp theo bước cắt xương là cố định đầu dưới xương cánh tay. Có nhiều kỹ
thuật cố định khác nhau. Những mỗi kỹ thuật có những ưu nhược điểm riêng.
1.4.1. Phương pháp đục xương hình chêm phía trên lồi cầu ngoài xương
cánh tay. Cố định 2 vis và buộc chỉ thép.
Kỹ thuật này được French P.R đề xuất năm 1959 [7].


19

Bộc lộ đầu dưới xương cánh tay bằng đường mở dọc phía sau. Tách nửa
ngoài cơ tam đầu cánh tay từ chỗ bám tận kéo về phía trung tâm. Rạch cốt
mạc và bộc lộ đầu dưới xương cánh tay.
Đặt hai mũi khoan làm điểm dẫn đường cho việc cắt xương. Đặt một vis
ở đầu trung tâm phía sau, một vis ở đầu ngoại vi phía trước. Dùng cưa lắc cắt

xương hình chêm giữa hai lỗ khoan để lại thành xương bên trong tạo thành
một bản lề. Sau đó áp sát hai mặt cắt vào nhau, đục sửa mặt cắt để chỉnh biến
dạng xoay nếu có. Khi các biến dạng đã được chỉnh. Cố định bằng dây thép
buộc hình số 1.13 qua đầu của 2 vis. Sau mổ đặt nẹp 3 – 4 tuần.
+ Ưu điểm:
- Kỹ thuật dễ làm
- Ít gây tổn thương mạch máu thần kinh
- Có thể chỉnh đồng thời cả ba biến dạng (ngửa sau, xoay trong, vẹo
trong) của đầu dưới xương cánh tay.

Hình 1.13: Sơ đồ minh họa kỹ thuật cắt xương hình chêm của French P.R [7]


20

Dựa trên kỹ thuật cơ bản do French P.R đề xuất một số tác giả đã cải
biên kỹ thuật cắt xương phía TLC ngoài cũng như các phương tiện cố định
khác như:
* Kỹ thuật cố định ngoài theo phương pháp của Graifensteiner. Nội dung
phương pháp như hình 1.14.

Hình 1.14: Sơ đồ minh họa kỹ thuật cố định ngoài của Greifensteinner
Kỹ thuật này có ưu điểm cố định vững, bệnh nhân được vận động sớm.
* Kỹ thuật đục xương hình chêm rồi cố định bằng đinh chữ U của
Darielsson L.R và cộng sự [31]. Nội dung kỹ thuật như hình 1.15.

Hình 1.15: Sơ đồ minh họa kỹ thuật cố định bằng đinh chữ U của DarielssonL [31]


21


Nhược điểm: cố định không vững, dễ tuột đinh nên phải cố định thêm bột.
* Kỹ thuật đục xương hình chêm cố định bằng một vis của DerosaG.P
và Grazino G.P [32] : nội dung kỹ thuật được minh họa như hình 1.16.

Hình 1.16. Sơ đồ minh họa phương pháp cắt xương hình chêm và cố định
bằng một vis của Derosa G.P và Grazino G.P [32].

- Ưu điểm: cố định chắc không gây di lệch thứ phát.
- Nhược điểm: khó cắt chêm xương, dễ gây tổn thương thần kinh.
Các tác giả đã thông báo kết quả tốt 10/11 trường hợp bệnh nhân bị biến
dạng VKVT được áp dụng kỹ thuật này.
* Kỹ thuật cố định bằng đinh kirschner của BeslikasJ.C [33]. Nội dung
kỹ thuật như hình 1.17.


22

Hình 1.17: Sơ đồ minh họa kỹ thuật cố định bằng đinh kirschner
của Beslikas J.A [33]
- Ưu điểm: đinh kirschner không xuyên qua sụn tiếp hợp
- Nhược điểm: cố định không vững phải cố định thêm bột
* Kỹ thuật dùng đinh kirschner để cố định của RibaultL và LatouchJ.C
[27]. Nội dung kỹ thuật như hình 1.18.

Hình 1.18: Sơ đồ minh họa kỹ thuật cố định bằng đinh kirschner của
RibaultL và LatouchJ.C [27]
- Ưu điểm: cố định đơn giản dễ thực hiện
- Nhược điểm: không vững phải cố định thêm bột



23

1.4.2. Phương pháp đục xương mở bên trong, TLC trong và ghép xương.
Phương pháp này do KingD và SecorC [34] mô tả đầu tiên năm 1951.
Đường đục xương là một đường ngang phía TLC trong và để lại vỏ xương
phía ngoài (tạo thành bản lề). Sau đó bẻ đầu dưới xương cánh tay ra ngoài để
chỉnh biến dạng vẹo vào trong và ghép xương tự thân vào vết cắt sau khi đã
chỉnh trục.
* Ưu điểm:
- Dễ làm
- Kỹ thuật đơn giản
* Nhược điểm:
- Cố định không vững
- Tăng chiều dài của xương cánh tay
- Tăng sang chấn do phải lấy xương nơi khác để ghép.

Hình 1.19: Sơ đồ minh họa kỹ thuật cắt xương mở bên trong
của King D và Secor C [34].


24

1.4.3. Kết quả của điều trị phẫu thuật vẹo khuỷu vào trong.
Cho đến nay các tác giả đã đưa ra nhiều phương pháp cắt xương cũng
như kỹ thuật kết hợp xương khác nhau và đã đạt được những kết nhất định.
Kết quả gần thu được là tương đối tốt, theo các tác giả [13] [32] [35] [36] [24]
…. chúng tôi thấy kết quả tốt và khá chiếm tỷ lệ khá cao (80%- 90%), tuy
nhiên thời gian theo dõi ngắn (sau phẫu thuật đến khi tháo bỏ dụng cụ).
Theo đánh giá kết quả xa của một số tác giả chúng tôi thấy rằng kết quả

tốt, khá giảm dần theo thời gian theo dõi. Trong nghiên cứu của Ippolito E,
với thời gian theo dõi trung bình là 23 năm, ông thấy kết quả tôt, khá là 13/24
bệnh nhân chiếm 54,2%. Năm 1994 Hermander M.A đã đưa ra kết quả đánh
giá trên 20 bệnh nhân được phẫu thuật chỉnh trục với thời gian theo dõi trung
bình sau phẫu thuật là 10 năm 3 tháng có tỉ lệ kết quả tốt, khá là 13/23 bệnh
nhân chiếm 56,5%. Năm 1999 Beslikas J.A đã đánh giá kết quả phẫu thuật ở
11 bệnh nhân với thời gian theo dõi trung bình sau phẫu thuật là 5 năm 7
tháng có kết quả tốt, khá là 9/11 bệnh nhân chiếm 81,8%.
1.5. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU DI CHỨNG BIẾN DẠNG VẸO
KHUỶU VÀO TRONG Ở VIỆT NAM.
Trên cơ sở một số phương pháp của các tác giả trên thế giới. Ở nước ta
một số tác giả đã cải biên trong kỹ thuật cố định sau đục xương sửa trục.
* Nghiên cứu của Lê Văn Hội [37].
Năm 1997 Lê Văn Hội đã tiến hành nghiên cứu “ đánh giá kết quả phẫu
thuật điều trị biến dạng VKVT”. Tác giả đã kiểm tra 20 bệnh nhân đã được
phẫu thuật đục xương hình chêm phía trên lồi cầu ngoài và cố định bằng các
phương pháp khác nhau như:


25

- Cố định bột
- Cố định bằng nẹp vis
- Cố định ngoài bằng phương pháp Greifensteiner
- Cố định ngoài bằng cọc ép răng ngược chiều
Kết quả khá và tốt là 13/20 chiếm 65%
* Nghiên cứu của Lê Thanh Sơn [38].
Năm 2001 Lê Thanh Sơn đã tiến hành nghiên cứu “ đánh giá kết quả lâu
dài điều trị phẫu thuật VKVT” trên 31 bệnh nhân từ 3-15 tuổi. Tất cả bệnh
nhân đều có di chứng VKVT, thời gian theo dõi trung bình là 4 năm 6 tháng

với kết quả khá và tốt là 17/31 bệnh nhân chiếm 54,9%.
Tất cả các bệnh nhân được đánh giá cùng với một kỹ thuật dùng đinh
Kirschner để cố định của Ribault L và Latouch J.C.
* Nghiên cứu của Nguyễn Như Tuấn [39].
Năm 2010 Nguyễn Như Tuấn đã tiến hành nghiên cứu “ đánh giá kết quả
điều trị phẫu thuật VKVT sau gãy TLC xương cánh tay ở trẻ em” trên 38 bệnh
nhân từ 6 - 11 tuổi [39]. Tất cả bệnh nhân đều có di chứng VKVT, có 24 bệnh
nhân được đánh giá kết quả xa với thời gian theo dõi trung bình là 2 năm 4
tháng. Kết quả khá và tốt là 16/24 bệnh nhân chiếm 66,7%.


×