Tải bản đầy đủ (.doc) (102 trang)

ĐÁNH GIÁ kết QUẢ lâu dài của PHẪU THUẬT đặt THỂ THỦY TINH NHÂN tạo THÌ HAI ở TRẺ EM tại BỆNH VIỆN mắt TRUNG ƯƠNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.83 MB, 102 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Đục thể thủy tinh ở trẻ em là một bệnh lý phức tạp và gặp khá phổ biến
trong các bệnh lý về mắt ở trẻ em. Bệnh là một trong những nguyên nhân
hàng đầu gây mù lòa hoặc làm giảm thị lực đáng kể ở trẻ em, làm ảnh hưởng
rất lớn đến sự phát triển thể chất và trí tuệ của trẻ. Tại Hội thảo về Thị giác
2020 – Quyền được nhìn thấy, tỉ lệ trẻ em mù do đục thể thuỷ tinh ở các
trường mù tại Châu Á (2006) chiếm 12% và ước tính có khoảng 30 trẻ em
mù/triệu dân . Theo Kumar (2016), tại Mỹ tỷ lệ đục thể thủy tinh bẩm sinh ở
trẻ em là 3-4 trẻ/10.000 trẻ sinh ra còn sống .
Điều trị đục thể thủy tinh ở trẻ em không chỉ đơn thuần là phẫu thuật,
vấn đề chỉnh quang và tập luyện để phục hồi chức năng thị giác sau phẫu
thuật cũng đóng vai trò rất quan trọng góp phần vào kết quả của điều trị. Có
nhiều phương pháp phẫu thuật đục thể thủy tinh đã được áp dụng ở trẻ em,
nhưng tập trung lại là phẫu thuật lấy thể thủy tinh đục để lại bao sau và phẫu
thuật lấy thể thủy tinh đục kết hợp với cắt bao sau và cắt dịch kính trước ,,,.
Sau phẫu thuật lấy thể thủy tinh đục, các phương pháp chỉnh quang có
thể được áp dụng là đặt TTTNT, dùng kính tiếp xúc, đeo kính gọng và đắp bồi
giác mạc, trong đó phương pháp đặt TTTNT là phù hợp với tự nhiên nhất, tạo
điều kiện tốt cho việc phục hồi thị lực và chức năng thị giác hai mắt cho trẻ .
Đặt TTTNT có thể thực hiện ngay ở lần phẫu thuật thể thủy tinh đầu
tiên nếu trẻ lớn, mắt không có các tổn thương phối hợp. Còn trong trường hợp
trẻ quá nhỏ, mắt có nhiều tổn thương và bệnh lý kết hợp với đục thể thủy tinh,
mắt bị chấn thương rách bao sau, tình trạng viêm nhiễm chưa ổn định thì phải
đặt TTTNT ở thì hai. Mặt khác khi trẻ lớn thì sẽ dễ dàng hơn cho việc gây mê
hồi sức và lựa chọn công suất của TTTNT , , .
Phương pháp đặt TTTNT thì hai ở trẻ em phụ thuộc vào phẫu thuật đục
thể thủy tinh ở thì một: nếu phẫu thuật thì một còn để lại bao sau nguyên vẹn
hoặc còn vành bao sau thì có thể đặt TTTNT vào trong túi bao hoặc vào rãnh



2

thể mi; nếu bao sau không còn hoặc bao sau bị rách quá rộng thì TTTNT sẽ
được treo cố định vào củng mạc, đặt tiền phòng hoặc đính vào mống mắt.
Hiện nay trên thế giới cũng như ở Việt Nam, các phương pháp đặt TTTNT ở
trẻ em hay được các tác giả áp dụng là đặt trong túi bao, đặt rãnh thể mi và
treo cố định vào củng mạc. Các phương pháp đặt TTTNT ở tiền phòng do có
nhiều biến chứng nên hiện nay ít được áp dụng , , .
Trong những năm gần đây, phương pháp đặt TTTNT thì hai ở trẻ em đã
đạt được nhiều tiến bộ góp phần cải thiện thị lực ngày càng tốt hơn cho những
trẻ không may bị đục thể thủy tinh. Ở trong nước cũng đã có một số tác giả
nghiên cứu về vấn đề này như Trần An , Tôn Thị Kim Thanh , Bùi Đức Nam ,
Phạm Thị Thanh Thủy . Tuy vậy, việc đặt TTTNT cho trẻ em trong khi nhãn
cầu của trẻ còn đang trong giai đoạn phát triển mạnh là một vấn đề cần tiếp
tục được nghiên cứu. Vì vậy để góp phần đánh giá kết quả lâu dài của phương
pháp phẫu thuật này chúng tôi đã tiền hành thực hiện đề tài nghiên cứu “Đánh
giá kết quả lâu dài của phẫu thuật đặt thể thủy tinh nhân tạo thì hai ở trẻ
em’’ với hai mục tiêu sau đây:
1. Đánh giá kết quả lâu dài của phẫu thuật đặt thể thủy tinh nhân tạo
thì hai ở trẻ em.
2. Nhận xét một số yếu tố liên quan đến kết quả của phẫu thuật đặt
thể thủy tinh nhân tạo thì hai ở trẻ em.


3

Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. ĐẶC ĐIỂM VỀ GIẢI PHẪU VÀ SINH LÝ NHÃN CẦU

1.1.1. Thể thủy tinh
Thể thủy tinh là một thấu kính hội tụ, trong suốt, hai mặt lồi, không có
mạch máu và thần kinh, được dinh dưỡng bằng thẩm thấu qua màng lọc. Khi
quá trình chuyển hoá ở đây bị rối loạn sẽ gây ra đục thể thủy tinh , , , .

Hình 1.1: Thể thủy tinh .
Thể thủy tinh nằm ngay sau mống mắt, áp sát vào mặt biểu mô của
mống mắt và được cố định nhờ áp lực của thuỷ dịch, dịch kính và hệ thống
dây chằng Zinn đi từ thể mi đến xích đạo của thể thủy tinh. Trẻ sơ sinh kích
thước thể thủy tinh chỉ bằng 1/3 ở người lớn, đường kính xích đạo là 6,4mm,
dầy 3,5mm, nặng khoảng 90mg, thể tích là 63,7mm 3 và công suất trung bình
khoảng + 34,4D .
Bao thể thủy tinh là một màng đáy trong suốt, đàn hồi, cấu tạo bởi
colagen do những tế bào biểu mô sinh ra. Bao chứa đựng chất thể thủy tinh và
có thể làm biến đổi hình dạng của nó trong quá trình điều tiết. Bao thể thủy
tinh là nơi để cho các sợi dây chằng Zinn bám vào ở lớp ngoài, bao dày nhất ở


4

vùng trước xích đạo của bao trước và mỏng nhất ở vùng trung tâm bao sau.
Trước 25 tuổi, bao sau thể thủy tinh dính chắc với màng Hyaloid của dịch
kính, cho nên ở trẻ em nếu mổ lấy thể thủy tinh trong bao sẽ gây thoát dịch
kính , .
Các tế bào biểu mô xuất phát từ vùng xích đạo liên tục tăng sinh, hình
thành màng, màng này có thể tiến đến tận diện rộng đồng tử làm che lấp trục
thị giác, quá trình này phát triển rất mạnh ở trẻ em, đó là nguyên nhân sau mổ
thể thủy tinh ở trẻ em đục bao sau thứ phát thường xảy ra , .
1.1.2. Vùng rìa


Hình 1.2: Thiết đồ cắt ngang góc tiền phòng và thể mi
Vùng rìa giác củng mạc là vùng phẫu thuật của phần trước nhãn cầu, là
nơi chuyển tiếp giữa giác mạc và củng mạc bao gồm các cấu trúc liên quan
đến sự lưu thông thủy dịch. Giới hạn trước của vùng rìa là một mặt phẳng đi
ngang qua mốc tận cùng của màng Bowman và màng Descemet, giới hạn sau
là một mặt phẳng thẳng góc với bề mặt của nhãn cầu xuyên qua cựa củng
mạc. Hai mặt phẳng này có khoảng cách trên bề mặt nhãn cầu khoảng 1,5mm,
đây là mốc quan trọng nhất ở vùng rìa và thường dễ nhận thấy sau khi bóc


5

tách kết mạc là một đường màu xanh. Củng mạc của trẻ em mỏng khoảng
0,45mm và rất đàn hồi , .
1.1.3. Góc tiền phòng

Hình 1.3: Góc tiền phòng
Góc tiền phòng ở vùng rìa của tiền phòng, giới hạn bởi giác củng mạc ở
phía trước và mống mắt, thể mi ở phía sau nên còn gọi là góc mống mắt giác
mạc. Góc tiền phòng là một vùng có vai trò quan trọng về sinh lý cũng như về
phẫu thuật vì phần lớn thủy dịch được hấp thụ thoát ra khỏi tiền phòng và
phần lớn các phẫu thuật nội nhãn đều phải đi qua vùng này. Góc tiền phòng
bao gồm những thành phần như vòng Schwalbe, dải bè Trabeculum, ống
Schlemm, dải thể mi và cựa củng mạc.
Cựa củng mạc là một đường trắng, mỏng tương ứng với phần tiếp nối
củng mạc vào tiền phòng. Cựa củng mạc nằm giữa lưới bè và ống Schlemm ở
phía trước, thể mi ở phía sau và củng mạc ở phía ngoài , , .
1.1.4. Hậu phòng, rãnh thể mi



6

Hậu phòng có giới hạn trước là mặt sau mống mắt và giới hạn sau là
mặt trước của màng dịch kính (màng hyaloid). Hậu phòng thông với tiền
phòng qua lỗ đồng tử, trong hậu phòng cũng chứa đầy thủy dịch như tiền
phòng , .
Rãnh thể mi là vùng có giới hạn trước là mặt sau mống mắt và ống
Schlemm, giới hạn sau là cơ mi và nếp thể mi, giới hạn ngoài là cơ thể mi và
củng mạc, giới hạn trong là thủy dịch ở hậu phòng. Trong phẫu thuật đây là
vùng khó tiếp cận vì ở xa và sâu, lại bị che khuất do đó rất khó thực hiện các
thao tác một cách hoàn hảo và chính xác ở vùng này .
Duffey (1989), đã đưa ra sự tương quan của rãnh thể mi với vùng rìa là
0,83mm ở kinh tuyến dọc và 0,46mm ở kinh tuyến ngang. Kinh tuyến chéo
không có mạch máu và thần kinh đi qua nên thường được chọn là vị trí xuyên
kim trong phẫu thuật đặt TTTNT cố định vào củng mạc .
1.1.5. Các thay đổi giải phẫu và sinh lý sau phẫu thuật
thể thủy tinh ở trẻ em
Trục nhãn cầu: sự thay đổi trục nhãn cầu sinh lý tiếp tục tăng sau phẫu
thuật, rõ rệt nhất ở nhóm dưới 6 tháng tuổi, trên 24 tháng tăng không đáng
kể, do vậy quản lý và điều trị khúc xạ tồn dư sau phẫu thuật là rất cần thiết.
Khi không đặt TTTNT thì 100% số mắt viễn thị do công suất thể thủy bị
lấy đi. Khi đặt TTTNT mặc dù đã tính toán công suất nhưng vẫn còn khúc
xạ tồn dư do sự tính toán sai lệch và do sự tiếp tục phát triển của trục nhãn
cầu trước sau .
Thể thủy tinh: có công suất khúc xạ rất lớn, nó có vai trò rất quan trọng
trong quá trình điều tiết, những mắt đã được phẫu thuật lấy thể thủy tinh dù có
đặt TTTNT hay không hoặc đeo kính thì vẫn không còn khả năng điều tiết.


7


Giác mạc: là một môi trường trong suốt, khi thay đổi độ cong và khi
phẫu thuật tác động lên bề mặt giác mạc đều là nguyên nhân gây ra tật khúc
xạ, nhất là loạn thị.
Độ sâu tiền phòng: có ảnh hưởng đến tình trạng khúc xạ của mắt
mặc dù không nhiều và tham gia một phần vào sự ổn định công suất khúc
xạ của nhãn cầu ,.
1.1.6. Khúc xạ tồn dư sau phẫu thuật
Mặc dù đã có sự tính toán, lựa chọn công suất TTTNT để đặt cho trẻ,
tuy nhiên sau khi phẫu thuật lấy thể thủy tinh trên mắt trẻ em đang trong giai
đoạn phát triển thì khúc xạ tồn dư sau phẫu thuật là điều khó tránh khỏi. Theo
nghiên cứu của Lê Thị Kim Xuân (2001, có 54,4% số mắt có khúc xạ tồn dư
và Phạm Thị Thanh Thủy (2010) là 81% số mắt có khúc xạ tồn dư.
1.2. BỆNH ĐỤC THỂ THỦY TINH Ở TRẺ EM
Đục thể thủy tinh ở trẻ em là một hiện tượng bất thường do hậu quả của
sự rối loạn trao đổi chất, hoặc do tác động của chấn thương. Đục thể thủy tinh
ở trẻ em gây cản trở lớn cho sự phát triển chức năng thị giác của trẻ, cho nên
thường dẫn đến nhược thị, RGNC và lác , . Bệnh có thể xẩy ra ở một mắt
hoặc hai mắt, có thể phối hợp với các hội chứng và các bệnh toàn thân mang
tính chất bẩm sinh di truyền hoặc mắc phải do nhiễm trùng trong thời kỳ
mang thai như bị nhiễm Rubella . Trên lâm sàng đục thể thủy tinh ở trẻ em
được chia làm 3 loại bẩm sinh, bệnh lý và chấn thương , , .
1.2.1. Đục thể thủy tinh bẩm sinh
Đục thể thủy tinh bẩm sinh là tình trạng đục thể thủy tinh ngay từ khi
trẻ mới được sinh ra, nhiều trường hợp đục thể thủy tinh có từ khi nào bố mẹ
cũng không rõ, chỉ khi quan sát thấy cháu bé nhìn quá kém hoặc thấy đám


8


trắng ở giữa đồng tử hoặc mắt bị lác mới đưa trẻ đi khám. Đục thể thủy tinh
bẩm sinh có nhiều hình thái và các mức độ khác nhau , .

Hình 1.4. Đục bao sau thể thủy tinh

Hình 1.5. Đục lớp thể thủy tinh

Hình 1.6. Đục trung tâm thể
Hình 1.7. Đục thể thủy tinh
thủy tinh
toàn bộ
Thái độ xử trí phải tùy thuộc vào đục một mắt hay hai mắt, đục toàn bộ
hay chưa toàn bộ, mức độ thị lực hiện có, tuổi của bệnh nhân và khả năng
điều chỉnh quang học sau mổ , , .
1.2.2. Đục thể thủy tinh bệnh lý
Đục thể thủy tinh bệnh lý xảy ra do hậu quả của các bệnh tại mắt như:
viêm màng bồ đào, glocom, bong võng mạc,…hoặc do các bệnh lý toàn thân
như: bệnh đái tháo đường, bệnh galactoza huyết, bệnh giảm glucoza huyết,
bệnh viêm da dị ứng,.. , , .
Đặc điểm của bệnh là thường kèm theo các tổn thương phối hợp như
thoái hóa giác mạc hình dải băng, tủa sau giác mạc, thoái hóa mống mắt, dính


9

bờ đồng tử, đục dịch kính, bong võng mạc và có thể kèm theo tăng nhãn áp do
dính bít bờ đồng tử, do thể thủy tinh quá chín căng phồng,…, , .
Thái độ xử trí tùy thuộc vào tình trạng các bệnh lý kết hợp tại mắt hoặc
toàn thân, nếu ổn định có thể phẫu thuật thể thủy tinh. Nếu đục thể thủy tinh
bệnh lý ở một mắt thì nên phẫu thuật sớm khi điều kiện cho phép để phòng

tránh nhược thị gây ra lác , , .
1.2.3. Đục thể thủy tinh do chấn thương
Đục thể thủy tinh chấn thương, nguyên nhân có thể do vết thường
xuyên, chấn thương đụng dập hoặc do các yếu tố vật lý, hóa học, tia xạ gây
nên. Đục thể thủy tinh thường ở một mắt và kèm theo các tổn thương khác
nhiều khi rất nặng nề như rách giác mạc, tổn thương mống mắt, biến dạng
đồng tử, tổn thương bao thể thủy tinh, lệch thể thủy tinh, thoát dịch kính ra
tiền phòng,…
Phẫu thuật đục thể thủy tinh có thể ở thì một nếu thể thủy tinh vỡ, chất
nhân ra tiền phòng, nhưng thường phẫu thuật thể thủy tinh ở thì hai, sau khi
đã xử trí cấp cứu khâu giác mạc, khâu củng mạc,v.v. Phẫu thuật thể thủy tinh
thường khó khăn do các tổn thương đi kèm, có thể phải mổ cắt dịch kính và
treo TTTNT ở thì hai.
Kết quả thị lực sau mổ rất khác nhau tùy từng trường hợp, thị lực có thể
đạt cao nếu các tổn thương phối hợp khác không nặng nề, chấn thương được
xử lý sớm, đúng chỉ định trước khi mắt bị nhược thị, RGNC và lác. Tuy nhiên
nhiều trường hợp do tổn thương nặng thì thị lực sau mổ rất kém, hậu quả của
mắt bị chấn thương thường là nhược thị và có thể có lác , , , .

1.3. ĐIỀU TRỊ ĐỤC THỂ THỦY TINH Ở TRẺ EM


10

Đục thể thủy tinh không có chỉ định điều trị nội khoa, kết quả điều trị
phụ thuộc vào việc chọn thời điểm, phương pháp phẫu thuật, phương pháp
chỉnh quang và kết quả tập luyện phục hồi chức năng thị giác sau phẫu
thuật , , , .
1.3.1. Các phương pháp phẫu thuật
1.3.1.1. Phẫu thuật lấy thể thủy tinh có giữ lại bao sau:

Có hai phương pháp hay được áp dụng là:
* Phẫu thuật lấy thể thủy tinh ngoài bao: phương pháp này do Owens
và Hughes thực hiện lần đầu tiên vào năm 1948. Về kỹ thuật, có thể rạch giác
mạc trực tiếp hoặc vùng rìa, bao trước của thể thủy tinh được mở bằng cách
xé bao hình vòng, hình tem thư hoặc hình thang nhờ một kim phá bao. Chất
nhân ở thể thủy tinh được lấy ra theo phương pháp ngoài bao nếu nhân cứng.
* Phẫu thuật rửa hút thể thủy tinh: áp dụng trong trường hợp nhân
mềm, phương pháp này được Scheie áp dụng từ năm 1960. Phương pháp này
có ưu điểm là không gây thoát dịch kính ra tiền phòng vì ở trẻ em bao sau thể
thủy tinh dính liền với màng Hyaloid của dịch kính trước.
Hai phương pháp này có ưu điểm là không gây thoát dịch kính ra tiền
phòng, vì ở trẻ em bao sau thể thủy tinh dính liền với màng Hyaloid của dịch
kính trước, nhưng có nhược điểm là tỉ lệ đục bao sau cao, đặc biệt là ở trẻ nhỏ
dưới 3 tuổi, do tăng sinh các tế bào biểu mô xuất phát từ vùng xích đạo của
thể thủy tinh, làm thành màng che lấp diện đồng tử gây ảnh hưởng đến thị lực,
thậm chí co kéo gây lệch TTTNT, dẫn đến phải phẫu thuật cắt bao sau hoặc
laser mở bao sau ở thì hai , .

1.3.1.2. Phẫu thuật lấy thể thủy tinh không giữ lại bao sau


11

Năm 1975, Machemer đã sáng chế ra máy cắt dịch kính và từ đó được
áp dụng để điều trị đục thể thủy tinh ở trẻ em. Thể thủy tinh được phẫu thuật
bằng máy cắt dịch kính. Kỹ thuật cắt thể thủy tinh có thể đi theo 2 đường:
* Cắt thể thủy tinh qua đường giác mạc: Rạch giác mạc dài 2mm,
trước rìa 1mm, mở bao trước thể thủy tinh rộng hình nắp hộp, cắt thể thủy
tinh bằng máy cắt dịch kính, sau đó cắt bao sau cùng với cắt dịch kính trước.
* Cắt thể thủy tinh qua pars plana: Rạch củng mạc cách rìa 3mm, dài

khoảng 2mm, qua đó cho đầu cắt dịch kính vào cắt thể thủy tinh qua phần
phẳng của thể mi, trước tiên cắt bao sau, rồi tiếp theo cắt chất nhân của thể
thủy tinh, còn bao trước thì cắt sau cùng .
Ưu điểm, của phương pháp cắt bao sau là hạn chế được biến chứng đục
bao sau, nhưng có nhược điểm là tăng tỉ lệ thoái hóa hoàng điểm dạng nang
gây giảm thị lực.
1.3.2. Các phương pháp chỉnh quang sau phẫu thuật thể
thủy tinh ở trẻ em
1.3.2.1. Điều chỉnh bằng kính gọng
Là phương pháp đeo kính hội tụ có công suất khoảng +9 đến +12D để
nhìn xa và thêm khoảng +3D để nhìn gần.
Ưu điểm của đeo kính gọng là đơn giản, an toàn, dễ sử dụng, kính đeo
có thể sử dụng được ngay sau phẫu thuật, sử dụng tốt cho bệnh nhân phẫu
thuật 2 mắt, có thể dễ dàng thay đổi số kính để phù hợp theo tuổi và có thể
dùng kính 2 tròng để nhìn xa và nhìn gần.
Tuy vậy, nhược điểm của phương pháp này là ở những trẻ quá nhỏ thì
không đeo được kính, không phù hợp với trẻ bị đục thể thủy tinh một mắt,
kính gây phóng đại hình ảnh trên 30%, thị trường bị thu hẹp, thị lực giảm đột
ngột khi không đeo kính, có hiện tượng quang sai và cầu sai , , .


12

1.3.2.2. Điều chỉnh bằng kính tiếp xúc
Là phương pháp dùng một thấu kính hội tụ đặt trực tiếp lên giác mạc,
phương pháp này có ưu điểm là phóng đại hình ảnh thấp hơn (10%), nên có
thể sử dụng trong đục thể thủy tinh một mắt, nhìn thẩm mỹ hơn đeo kính gọng
và thị trường được mở rộng hơn.
Bên cạnh ưu điểm thì nhược điểm của kính tiếp xúc là giá thành đắt,
phải tháo lắp thường xuyên nên dễ gây tổn hại giác mạc, dễ rơi mất kính, dễ

bị viêm nhiễm do khí hậu nóng ẩm, không thích hợp với bệnh nhân nhỏ tuổi,
vì vậy phương pháp này không được áp dụng rộng rãi , .
1.3.2.3. Điều chỉnh bằng phẫu thuật đắp giác mạc
Là phương pháp ghép lên giác mạc một thấu kính bằng giác mạc thật
hoặc bằng lipophilise, đây là một phương pháp có thể chỉ định ở những
trường hợp không thể đặt TTTNT. Mục đích của phẫu thuật này là làm thay
đổi độ cong của mặt trước giác mạc để điều chỉnh được khúc xạ. Phương
pháp này hiện nay trên thế giới cũng rất ít sử dụng, nhất là ở trẻ em, vì kết quả
kém , .
1.3.2.4. Điều chỉnh bằng thể thủy tinh nhân tạo
Đặt TTTNT là phương pháp phẫu thuật đặt TTTNT vào vị trí tự nhiên
của thể thủy tinh, về phương diện lý thuyết, đây là phương pháp điều chỉnh
quang học tốt nhất, tạo điều kiện để nâng cao thị lực và phục hồi thị giác hai
mắt. Kích thước hình ảnh tạo ra ở võng mạc hầu như không tăng, tỷ lệ phóng
đại chỉ vào khoảng 3-4%, điều đó cho phép sử dụng TTTNT cho những bệnh
nhân đục thể thủy tinh một mắt. Thị trường và thị lực ở vùng ngoại biên gần
như bình thường , .
Đặt TTTNT cho trẻ em có thể thực hiện ngay ở lần phẫu thuật đầu tiên
hoặc ở lần hai tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể. Những bệnh nhân tuổi
nhỏ quá (< 3 tuổi), mắt đục thể thủy tinh do chấn thương, do bệnh lý, hoặc vì


13

một lý do nào khác không đặt được TTTNT ngay ở thì đầu thì sẽ tiến hành đặt
TTTNT ở thì hai khi đủ các điều kiện cần thiết.
1.4. PHẪU THUẬT ĐẶT THỂ THUY NHÂN TẠO THÌ HAI
1.4.1. Các phương pháp phẫu thuật đặt thể thủy tinh nhân tạo
1.4.1.1. Đặt thể thủy tinh nhân tạo hậu phòng:
* Đặt thể thủy tinh nhân tạo vào trong túi bao:

Chỉ định: Phương pháp này được thực hiện ở những mắt đã phẫu thuật
thể thủy tinh đục còn giữ lại bao sau nguyên vẹn và khi phẫu thuật thì hai có
thể làm tách dính được vành bao trước ra khỏi bao sau.
Kỹ thuật: Cố định mi và nhãn cầu; Cắt kết mạc sát rìa trên, từ 11 giờ
đến 1 giờ, đốt cầm máu, có thể rạch trực tiếp rìa giác mạc, đường rạch 2/3 bề
dày giác mạc với chiều dài tương đương đường kính phần quang học của
TTTNT; Mở giác mạc vào tiền phòng, bơm chất nhầy để duy trì tiền phòng;
Tách dính mống mắt và bao sau của thể thủy tinh, rửa hút sạch chất nhân
còn sót, bơm nhầy tách hai lá bao của thể thủy tinh; Đặt TTTNT vào trong
túi bao, sau đó xoay chỉnh cho TTTNT nằm vào đúng vị trí giải phẫu của
thể thủy tinh; Trong trường hợp có đục bao sau thì có thể tiến hành cắt bao
sau và cắt dịch kính trước sau khi đặt TTTNT; Rửa sạch chất nhầy trong
tiền phòng; Khâu vết mổ 1- 3 mũi chỉ 10/0 hoặc chỉ cần tiêm phù mép vết
mổ mà không cần khâu khi đặt TTTNT mềm; Tiêm cạnh nhãn cầu và tra
mắt thuốc kháng sinh và cocticoid, băng che mắt, kết thúc phẫu thuật , , , .
* Đặt thể thủy tinh nhân tạo vào rãnh thể mi:
Chỉ định: Phẫu thuật này được áp dụng trong trường hợp không tách
dính được hai lớp của bao hoặc chỉ còn lại vành bao sau đủ để tựa càng của
TTTNT vào rãnh thể mi [13], , .


14

Kỹ thuật: Các bước của phẫu thuật gần như đặt TTTNT trong túi bao,
chỉ khác là không đặt TTTNT vào trong túi bao, càng của nó sẽ tựa vào rãnh
thể mi, còn phần quang học của TTTNT thì tựa vào vành bao, sau khi đặt
TTTNT thì tiến hành cắt bao sau và cắt dịch kính trước nếu bao sau đục.
* Cố định thể thủy tinh nhân tạo vào củng mạc
Nguyên lý của phương pháp này là càng của TTTNT được đặt vào rãnh
thể mi và khâu cố định càng vào củng mạc , , [13], , , .

Chỉ định: Phẫu thuật này được thực hiện ở những mắt đã phẫu thuật lấy
thể thủy tinh không còn bao sau hoặc bao sau rách rộng.
Kỹ thuật: Cắt kết mạc sát rìa, tạo vạt kết mạc, nếu mổ mắt trái vạt kết
mạc ở kinh tuyến 10 giờ và 4 giờ, mắt phải thì ở kinh tuyến 2 giờ và 8 giờ,
đánh dấu vị trí xuyên kim. Rạch một rãnh sâu ½ chiều dầy củng mạc dài 2
mm ở kinh tuyến trên cách rìa 1,5 mm để vùi chỉ treo.
Chuẩn bị kim, dùng kim phá bao số 26, luồn một sợi chỉ 8/0 hoặc 10/0
xuyên qua nòng kim. Vị trí điểm vào và ra của kim cách rìa từ 1,5 - 2mm tùy
theo tuổi của trẻ.
Rút kim ngược lại với đường đưa kim vào nhãn cầu, lúc này trong nhãn
cầu còn lại một sợi chỉ. Dùng móc hoặc dụng cụ xoay TTTNT móc vào sợi
chỉ để kéo nó ra khỏi nhãn cầu. Cắt đôi sợi chỉ, mỗi đầu buộc chặt vào một
càng của TTTNT rồi rút chỉ, để đặt TTTNT tạo hậu phòng, càng của TTTNT
sẽ tựa vào khe thể mi, tiếp theo khâu chỉ cố định TTTNT vào củng mạc.
Bước tiếp theo là cắt dịch kính nếu cần, rửa sạch tiền phòng, khâu lại
giác mạc bằng chỉ 10/10. Vùi chỉ treo vào củng mạc, khâu phục hồi kết mạc.
Tiêm cạnh nhãn cầu và tra thuốc kháng sinh kết hợp cocticoid, băng che mắt,
kết thúc phẫu thuật , , , [13], .


15

1.4.1.2. Đặt thể thủy tinh nhân tạo tiền phòng:
Nếu sau phẫu thuật lấy thể thủy tinh đục ở thì một không còn bao sau
hoặc bao sau rách quá rộng không đỡ được TTTNT, thì trong phẫu thuật đặt
TTTNT thì hai có thể áp dụng một trong các phương pháp sau:
* Phẫu thuật đặt thể thủy tinh nhân tạo tiền phòng:
Được Baron thực hiện lần đầu tiên vào năm 1952, TTTNT đặt vào tiền
phòng do Strampelli chế tạo bằng plastic có quai khép kín với kích thước lớn.
TTTNT được đặt ở trước mống mắt nên thường gây ra nhiều biến chứng ở

giác mạc. Phương pháp này hiện nay ít được áp dụng , , , .
* Phẫu thuật đặt TTTNT đính vào mống mắt.
Phương pháp này đã được Flynn H.W thực hiện trong những năm từ
1987-1990 và được Colin J. cùng cộng sự áp dụng từ năm 1992. Các tác giả
đã mổ sa thể thủy tinh vào buồng dịch kính, sau đó đặt TTTNT bằng phương
pháp khâu cố định TTTNT vào mống mắt. Nguyên lý của kỹ thuật này là
TTTNT được giữ tại chỗ bằng cách khâu cố định vào mống mắt. Các tác giả
đã đưa ra phương pháp này để tránh biến chứng do càng của TTTNT tựa vào
góc tiền phòng , , .
Tuy vậy, các phương pháp đặt TTTNT tiền phòng thường gây nhiều
biến chứng sau phẫu thuật thuật như thoái hóa mống mắt, đặc biệt ở chỗ thắt
chỉ, lệch TTTNT, viêm mống mắt, thể mi âm ỉ, kéo dài, cho nên hiện nay các
phương pháp này ít được sử dụng , .
1.4.2. Lựa chọn thể thủy tinh nhân tạo
Do những đặc điểm giải phẫu của nhãn cầu ở trẻ nhỏ đang phát triển, cho
nên có những yêu cầu đặc biệt về lựa chọn phương pháp phẫu thuật và TTTNT
thích hợp về chất liệu, hình dáng, kích thước và công suất , , , .
* Về chất liệu thể thủy tinh nhân tạo, có các loại sau:


16

- Loại TTTNT cứng được làm từ chất liệu Polymethylmethacrylate,
(PMMA) có chỉ số khúc xạ 1,41, loại này có thể dùng cho trẻ em, vì qua khảo
nghiệm người ta thấy PMMA có khả năng tương hợp sinh học cao, có độ ổn
định lớn theo thời gian, ít lắng đọng trên bề mặt các tế bào viêm do được phủ
các hóa chất như heparin và ít gây lệch hơn các loại TTTNT mềm , , , .

Hình 1.8. Thể thủy tinh nhân tạo cứng (PMMA)
- Loại TTTNT mềm: loại này có thể gấp lại được để đưa vào mắt qua

một đường rạch nhỏ, tùy thuộc vào chất liệu sản xuất, trên thị trường có các
loại như Silicon, Acrylic và Hydrogel.

Hình 1.9. Thể thủy tinh nhân tạo Acrylic
+ Silicon: có chỉ số khúc xạ 1.41 (thế hệ 1) và 1.47 (thế hệ 2), có đặc
điểm là: độ dẫn truyền ánh sáng cao, có thể gập lại được, kỵ nước, không bị
biến đổi do nhiệt, nhưng có thể có bọt khí hoặc đốm canxi mặt sau TTTNT
sau laze YAG.


17

+ Acrylic: có độ khúc xạ 1.55, bờ mỏng, dễ gấp, mở chậm, dễ cầm cả
khi ướt, nhưng có thể tạo chấm hoặc bọt nước.
+ Hydrogel: có độ khúc xạ 1.47, cần ngâm trong nước, gấp mở nhanh
hơn Acrylic, chịu được laze YAG, hạn chế lắng đọng tế bào viêm trên bề mặt,
tương hợp sinh học tốt, tránh dính và xơ trên bề mặt.
- Loại TTTNT chuyên dùng có lỗ trên càng của TTTNT, loại này nhằm
mục đích nâng cao hiệu quả cho phẫu thuật đặt TTTNT cố định vào củng
mạc, có đặc điểm chung là kích thước phần quang học từ 6,5mm - 7mm,
hình dáng có hai mặt lồi, càng có hình dáng chữ J hoặc chữ C .

Hình 1.10. Loại thể thủy tinh nhân tạo dùng để cố định củng mạc
* Về kích cỡ TTTNT ở trẻ em
Vấn đề kích cỡ của TTTNT sử dụng ở trẻ em cũng được nhiều tác giả
quan tâm nghiên cứu ,. Trung bình đường kính của túi bao TTTNT ở trẻ em
như sau: sơ sinh là 7mm, 2 tuổi là 9mm, 5 tuổi là 10mm, 16 tuổi là 10,5 mm.
Do vậy trẻ dưới 2 tuổi chỉ nên đặt TTTNT có đường kính của phần quai là
10mm và phần quang học có đường kính từ 5,5 - 7 mm. Sau 2 tuổi có thể sử
dụng loại có đường kính của phần quai từ 12 - 12,5mm, giống như của người

lớn ,.
* Về công suất TTTNT ở trẻ em


18

Việc lựa chọn công suất TTTNT ở trẻ em phù hợp là rất khó khăn, vì
mắt đang phát triển, ở trẻ dưới 2 tuổi kích thước trục nhãn cầu tăng lên rất
nhanh: ở trẻ sơ sinh là 15mm, 1 tuổi là 19mm, 2 tuổi là 20,5mm, 3 tuổi là 21,5
mm, 4 tuổi là 22mm và 5 tuổi là 22,5mm. Mặt khác bán kính độ cong của giác
mạc cũng thay đổi nên càng gây khó khăn cho việc tính toán công suất của
TTTNT , , .
Công suất của TTTNT dùng cho trẻ em được tính bằng công thức hồi
quy thông dụng nhất do Sanders, Retzlaff và Kraff (SRK) đề ra :
P = A - 2.5L - 0.9K
Trong đó: P là công suất TTTNT cần đặt (D); L là độ dài trục nhãn
cầu, tính bằng (mm) đo được bằng siêu âm; K là khúc xạ trung bình của giác
mạc (D), đo bằng máy javal và A là hằng số riêng cho từng loại TTTNT.
Công suất TTTNT phụ thuộc vào nhiều yếu tố như độ dài trục nhãn
cầu, khúc xạ giác mạc, độ sâu tiền phòng,...Hiện nay, đã có thêm các công
thức tính công suất TTTNT thế hệ mới như SRK thế hệ II, III và thể hệ IV,
dựa vào độ dài trục nhãn cầu để lựa chọn công thức như sau:
- Trục nhãn cầu: từ 22 – 24.5 mm có thể dùng bất kỳ công thức nào,
nhưng hay dùng là:

P = A – (2,5 L – 0.9 K).

- Trục nhãn cầu từ 24.5 – 28 mm: dùng công thức SKR – T
- Trục nhãn cầu > 28mm: dùng công thức Haigis, Holladay 2
- Trục nhãn cầu từ 20 - 22 mm: dùng công thức Hoffer Q

- Trục nhãn cầu < 20mm: dùng công thức Haigis, Holladay 2
Có 3 quan điểm về công suất TTTNT ở trẻ em:
- Đặt đúng số, sau đó chỉnh kính khi trẻ lớn lên.
- Thay lại TTTNT khi trẻ lớn lên, với số nhỏ hơn. Quan điểm này gặp
khó khăn, vì thay lại TTTNT ở trẻ em là điều rất khó thực hiện.


19

- Đặt số như ở người lớn và công suất TTTNT tính trung bình là + 19D
đến + 20D.
Có 3 cách lựa chọn để giảm công suất TTTNT ở trẻ em
- Giảm công suất TTTNT theo tuổi phẫu thuật của trẻ theo tác giả
Vasavada R.A và Dahan Elie .
Bảng 1.1. Giảm công suất thể TTTNT theo tuổi phẫu thuật của trẻ theo tác
giả Vasavada R.A và Dahan Elie.
Trước lúc mổ
<6 tháng
6 đến 12 tháng
12 đến 18 tháng
18 đến 24 tháng
24 đến 36 tháng
36 tháng đến 4 tuổi
4 đến 5 tuổi

Tác giả/số % thiểu chỉnh so với công suất đo được
Vasavada R.A
Dahan Elie
30%
20%

25%
20%
20%
20%
15%
20%
10%
10%
5%
10%
0
10%

- Tính công suất TTTNT theo chiều dài trục nhãn cầu lúc mổ ở trẻ <2
tuổi và không đo được công suất giác mạc của tác giả Dahan Elie (Yanof) :
Bảng 1.2. Tính công suất TTTNT theo chiều dài trục nhãn cầu
của Dahan Elie
Chiều dài trục nhãn cầu
17mm
18mm
19mm
20mm
21mm

Công suất TTTNT
28D
27D
26D
24D
22D


- Chọn công suất TTTNT với độ viễn thị tồn dư theo Buckley, Awner,
Enyedi và Flitecroft :
Bảng 1.3. Chọn công suất TTTNT với độ viễn thị tồn dư theo Buckley
và Awner, Enyedi và Flitecroft:
Tuổi

Tác giả/số diopter thiểu chỉnh


20

Buckley và Awner
Enyedi
Flitecroft
<1 tuổi
+4
+6
1 – 2 tuổi
+4
+6 đến +5
+3
3 – 4 tuổi
+4 đến +3
+4 đến +3
+3
5 – 6 tuổi
+3 đến +2
+2 đến +1
+1

7 – 8 tuổi
+1
plano
+1
Như vậy, trong cách chọn theo tác giả Bucley và Awner thì:
- Trẻ nhỏ <2 tuổi thiểu chỉnh sao cho sau mổ độ khúc xạ còn lại là +4
- Trẻ từ 2 - 4 tuổi: độ khúc xạ còn lại là +3.
- Trẻ từ 4 - 6 tuổi: độ khúc xạ còn lại là +2.
- Trẻ từ 6 - 8 tuổi: độ khúc xạ còn lại là +1.
- Trẻ > 8 tuổi: đặt đủ số.
Theo tác giả Enyedi thì trẻ <1 tuổi không đặt TTTNT và các tác giả có
số thiểu chính theo số tuổi có chênh lệch nhau ít nhiều. Với việc thiểu chỉnh
này, sau mổ trẻ sẽ bị viễn thị nhẹ, vì thế trẻ sẽ được theo dõi để chỉnh thêm
kính gọng và phối hợp với điều trị nhược thị .
1.4.3. Kết quả phẫu thuật đặt thể thủy tinh nhân tạo
thì hai ở trẻ em
* Kết quả thị lực:
Kết quả thị lực sau phẫu thuật đặt TTTNT thì hai ở trẻ em thường không
cao, do nhiều nguyên nhân như: mắt có nhiều tổn thương phối hợp ( lác, RGNC,
sẹo giác mạc,..) mắt nhược thị sau mổ, khúc xạ tồn dư sau mổ,…Kết quả thị lực
trong nghiên cứu của các tác giả rất khác nhau tùy thuộc vào đối tượng bệnh
nhân nghiên cứu, nhưng tất cả đều cho thấy kết quả thị lực ở nhóm bệnh nhân
đục thể thủy tinh hai mắt tốt hơn nhóm đục một mắt.
* Kết quả giải phẫu:
Kết quả giải phẫu sau phẫu thuật đặt TTTNT tùy thuộc vào tổn thương có
sẵn trước phẫu thuật và phương pháp phẫu thuật thì hai. Nghiên cứu của các tác
giả đều cho thấy mổ đặt TTTNT trong túi bao ít gây tổn thương nhất, còn đặt


21


TTTNT cố định củng mạc thường gây nhiều tổn thương hơn nên kết quả giải
phẫu sau mổ thường kém hơn.
1.4.4. Biến chứng sau phẫu thuật đặt thể thủy tinh thì
hai ở trẻ em
1.4.3.1. Các biến chứng sớm sau phẫu thuật
- Hở mép mổ, có thể phòi kẹt mống mắt.
- Tổn thương giác mạc: phù giác mạc, viêm khía nội mô.
- Phản ứng màng bồ đào: thường xuất hiện sau mổ, có thể có xuất tiết
bịt kín diện đồng tử và làm biến dạng đồng tử.
- Lệch TTTNT, sắc tố bám vào mặt trước và mặt sau TTTNT , .
1.4.3.2. Các biến chứng muộn sau phẫu thuật
- Tổn hại giác mạc: thoái hóa, loạn dưỡng, sẹo giác mạc.
- Thoái hóa mống mắt: xảy ra ở những chỗ nhu mô của mống mắt bị
tổn thương trong quá trình phẫu thuật đặt TTTNT, hoặc ở vùng thấu kính
chờm lên mống mắt.
- Dính bờ đồng tử, lệch đồng tử.
- Đục bao sau tái phát:
- Lệch TTTNT: trung tâm quang học của TTTNT lệch đi, qua diện
đồng tử có thể nhìn thấy xích đạo của TTTNT.
- Sắc tố bám trên mặt TTTNT: đây là hậu quả của các quá trình viêm.
- Glôcôm: xuất hiện dưới dạng glôcôm góc đóng, nguyên nhân do dính
sau và dính góc thứ phát.
- Bong võng mạc và viêm nội nhãn: các biến chứng này hiếm gặp
hơn , .
1.4.5. Một số yếu tố liên quan đến kết quả của phẫu
thuật đặt thể thủy tinh nhân tạo thì hai ở trẻ em


22


Kết quả sau phẫu thuật đặt TTTNT thì hai ở trẻ em phụ thuộc rất nhiều
yếu tố như:
Tuổi mắc bệnh, nếu trẻ mắc bệnh sớm, nhất là đục thể thủy tinh bẩm
sinh hai mắt, nếu không được phẫu thuật sớm sẽ gây nhược thị dẫn đến lác và
RGNC. Tuy vậy nếu phẫu thuật sớm thì cũng rất khó khăn do mắt nhỏ, tiền
phòng nông, có thể có tổn thương phối hợp; Sau mổ trẻ thường không đeo
kính nên mắt nhược thị, nếu đặt TTTNT sớm thì việc tính toán công suất
TTTNT cũng khó khăn do mắt trẻ đang trong giai đoạn phát triển mạnh.
Tuổi phẫu thuật và khoảng thời gian giữa hai thì phẫu thuật, nếu trẻ đã
mắc bệnh mà phẫu thuật muộn sẽ gây nhược thị và sau mổ kết quả sẽ rất kém.
Sau phẫu thuật thì một, khi tình trạng của mắt đã ổn định thì nên sớm đặt
TTTNT thì hai vì nếu để kéo dài mà mắt không đeo kính thì sẽ dẫn đến nhược
thị, nhất là các trường hợp đục thể thủy tinh một mắt.
Nguyên nhân đục thể thủy tinh, có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả phẫu
thuật, vì đục thể thủy tinh bẩm sinh 2 mắt thường đạt kết quả thị lực tốt hơn
đục thể thủy tinh bẩm sinh 1 mắt do mắt nhược thị, lác, RGNC và không đeo
kính. Đục thể thủy tinh bệnh lý cũng thường cho kết quả kém do các tổn
thương khác phối hợp. Riêng đục thể thủy tinh do chấn thương, kết quả tùy
thuộc vào loại chấn thường và các tổn thương do chấn thương gây ra, nhiều
trường hợp sau mổ đạt thị lức rất tốt, ngược lại nếu tổn thương nặng như rách
giác mạc trung tâm, bong võng mạc,…thì kết quả rất kém.
Phương pháp đặt TTTNT, việc lựa chọn phương pháp phẫu thuật đặt
TTTNT tùy thuộc vào tình trạng bao sau còn hay không còn, bao sau trong
hay đục. Nếu bao sau còn trong và nguyên vẹn và TTTNT được đặt vào trong
túi bao sẽ cho kết quả tốt nhất. Mặt khác nếu bao sau không còn hoặc rách
quá rộng thì phải treo cố định TTTNT vào củng mạc, kết quả của phương
pháp này sẽ hạn chế hơn đặt trong túi bao.



23

1.5. TÌNH HÌNH PHẪU THUẬT ĐẶT THỂ THỦY TINH NHÂN TẠO
THÌ HAI Ở TRẺ EM.
1.5.1. Trên thế giới:
Từ năm 1998, Awad A.H. và cs đã nghiên cứu phẫu thuật đặt TTTNT thì
hai hậu phòng vào rãnh thể mi trên 61 mắt ở 57 trẻ em, thời gian theo dõi từ 6 48 tháng, kết quả thị lực có 42% số mắt đạt thị lực ≥20/40, 78% số mắt đạt thị
lực >20/80, các biến chứng sau phẫu thuật là: đục bao sau có 10 mắt, trong đó
8 mắt được điều trị bằng Laser YAG. Đặc biệt là qua siêu âm không phát hiện
có biến đổi gì ở rãnh thể mi cũng như tổn thương củng mạc so với mắt lành .
Năm 1999, Wislon M.E.và cs đã nghiên cứu kết quả đặt TTTNT thì hai
vào túi bao trên 8 bệnh nhân đã mổ lấy thể thủy tinh kết hợp với cắt bao sau
và cắt dịch kính trước, ở độ tuổi từ 11 tháng - 14 tuổi, kết quả có 7/8 bệnh
nhân đạt kết quả thị lực cao hơn trước phẫu thuật .
Năm 2001, K. Davit Epley và cs, đã công bố kết quả phẫu thuật đặt
TTTNT thì hai của 150 mắt, trong đó có 28 mắt không còn bao sau, 18 mắt
phẫu thuật cố định TTTNT vào củng mạc, 10 mắt được đặt TTTNT tiền
phòng. So sánh kết quả lâu dài của hai nhóm bệnh nhân trên cho thấy: nhóm
bệnh nhân được cố định TTTNT vào củng mạc có hiệu quả an toàn hơn so với
nhóm đặt TTTNT tiền phòng. Ở nhóm đặt TTTNT tiền phòng có tới 10% biến
chứng nặng gây lệch đồng tử, di lệch TTTNT, có nhiều sắc tố mặt trước và
phải lấy TTTNT ra .
Năm 2003, Dadeya, Kamlesh và Kumari Sodhi, đã nghiên cứu kết quả
đặt TTTNT thì hai giữa 2 phương pháp đặt rãnh thể mi và treo cố định vào
củng mạc. Nghiên cứu được thực hiện trên 60 bệnh nhân, chia thành 2 nhóm,
mỗi nhóm 30 bệnh nhân (30 mắt), thời gian theo dõi tối đa là 3 năm. Kết quả
thị lực được chỉnh kính tốt nhất ở mức ≥6/18 (20/60): nhóm đặt rãnh thể mi


24


có 11/30 mắt đạt 36,6%, nhóm treo cố định củng mạc có 9/30 mắt đạt 30,0%.
Viêm màng bồ đào là biến chứng hay gặp trong cả 2 nhóm .
Shenoy và cộng sự (2015), đã nghiên cứu 174 mắt (104 trẻ) mổ đặt
TTTNT thì hai, trong đó 70 bệnh nhân mổ hai mắt, 34 bệnh nhân mổ một mắt.
Thời gian nghiên cứu tối thiểu 3 tháng, trong nghiên cứu đã loại trừ các yếu tố
bệnh lý khác và chấn thương. Tuổi trung bình khi đặt TTTNT là 6,08 ± 3,75
năm. Thời gian theo dõi trung bình là 25,7 ± 24,9 tháng. Kết quả thị lực nhóm
hai mắt có 51 mắt (35%) đạt thị lực ≥ 20/40 nhóm một mắt không có mắt nào
đạt thị lực ≥20/40. Biến chứng đục bao sau ở 17 mắt (9,77%), lệch TTTNT ở
9 mắt (5,17%) và tăng nhãn áp ở 11 mắt (6,3%) .
Cũng trong năm 2015, Umar và cộng sự đã công bố kết quả nghiên cứu
hồi cứu phẫu thuật đục thể thủy tinh ở trẻ em tại Nigeria. Nghiên cứu được
thực hiện từ tháng 1/2008 - 5/2009, kết quả có 181 mắt ở 102 bệnh nhân được
phẫu thuật, bao gồm: 95 mắt phải (52,5%), 86 mắt trái (47,5), về giới nam có
64 (62,7%), nữ 38 (37,3%); Tuổi trung bình là 6,88 ± 7,97 năm; Có 54 mắt
(51,3%) ở bệnh nhân dưới 3 tuổi; Nguyên nhân đục thể thủy tinh bẩm sinh
chiếm 62%; Các bệnh đi kèm là: RGNC 36,5%, lác 35,4%. Số bệnh nhân đã
được phẫu thuật trong vòng 6 tháng là 84,3%. Tất cả các bệnh nhân được
phẫu thuật đục thể thủy tinh ở thì một theo phương pháp đường mổ nhỏ
(SICS). Có 83,4% số mắt đặt TTTNT thì hai. Biến chứng sau phẫu thuật phổ
biến nhất là đục bao sau ở 65 mắt (35,9%) .
Năm 2016, Wood K.S. và cộng sự cũng đã công bố công trình nghiên
cứu kết quả phẫu thuật đặt TTTNT thì hai ở trẻ em từ 2010 - 2014. Kết quả có
49 mắt được phẫu thuật ở thì một trước 7 tháng, trong đó thời gian theo dõi 1
năm là 37 mắt. Tuổi trung bình tại thời điểm đặt TTTNT là 55,2 ± 21,6 tháng;


25


Thời gian theo dõi trung bình là 57,6 ± 33,6 tháng. Về phương pháp đặt
TTTNT: đặt trong túi bao (69,4%), rãnh thể mi (28,6%) và cố định củng mạc
(2,0%). Kết quả thị lực tốt ≥20/40 chỉ đạt 5,4%. Biến chứng tăng nhãn áp là
16,2% và lệch TTTNT là 2,7% .
1.5.2. Tại Việt Nam:
Trước năm 1990, điều trị đục thể thủy tinh ở trẻ em chủ yếu là phẫu
thuật rửa hút thể thủy tinh, phương pháp này chỉ áp dụng được đối với hình
thái thể thủy tinh đục mềm. Với đục thể thủy tinh một mắt, phẫu thuật chỉ
nhằm giải quyết vấn đề thẩm mỹ, vì không đeo kính được. Còn đục hai mắt thì
sau mổ thị lực cũng không cao vì sau mổ đeo kính không thường xuyên hoặc
phẫu thuật muộn mắt đã bị nhược thị.
Năm 2001, Lê Thị Đông Phương, đã nghiên cứu đặt TTTNT trên mắt
đục thể thủy tinh do chấn thương, trong đó có 72 mắt được đặt TTTNT thì
hai. Kết quả thị lực sau phẫu thuật 6 tháng đạt từ 0.2 trở lên là 88,9 .
Cũng trong năm 2001, với nghiên cứu kết quả phẫu thuật đặt TTTNT ở
trẻ em của Lê Thị Kim Xuân thì kết quả thị lực tốt sau theo dõi trên 6 tháng là
30,4% .
Bùi Đức Nam (2005) đã nghiên cứu 57 mắt phẫu thuật đặt TTTNT thì
hai ở trẻ em tại Bệnh viện Mắt Trung ương, tuổi trung bình là 6,95 ± 3,42(3
-15 tuổi), trong đó 38 mắt đặt TTTNT hậu phòng và 19 mắt treo cố định vào
củng mạc. Kết quả thị lực sau 3 tháng từ 0,5 trở lên đạt 23,5%, sau 6 tháng đạt
24,4%, kết quả thị lực giữa hai nhóm đặt TTTNT hậu phòng và treo cố định
vào củng mạc không có sự khác biệt do số lượng bệnh nhân nghiên cứu còn ít
và thời gian theo sau phẫu thuật ngắn .


×