Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Pháp luật về quản lý thuế và thực tiễn thi hành trong hoạt động khai thác khoáng sản ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 94 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

NGUYN TRNG H GIANG

PHáP LUậT Về QUảN Lý THUế Và THựC TIễN THI HàNH
TRONG HOạT ĐộNG KHAI THáC KHOáNG SảN ở VIệT NAM

LUN VN THC S LUT HC

H N I - 2018


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

NGUYN TRNG H GIANG

PHáP LUậT Về QUảN Lý THUế Và THựC TIễN THI HàNH
TRONG HOạT ĐộNG KHAI THáC KHOáNG SảN ở VIệT NAM

Chuyờn ngnh: Lut Kinh t
Mó s: 8380101.05

LUN VN THC S LUT HC

Cỏn b hng dn khoa hc: TS. NGUYN VN TUYN

H N I - 2018



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài: “Pháp luật về Quản lý thuế và thực tiễn thi hành
trong hoạt động khai thác khoáng sản ở Việt Nam” là công trình nghiên cứu của cá
nhân tôi và được sự hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Văn Tuyến. Các nội dung,
kết quả trong đề tài này là trung thực và chưa được công bộ dưới bất kỳ hình thức nào
trước đây. Những số liệu phục vụ cho việc phân tích, nhận xét, đánh giá được chính tác
giả thu thập từ các nguồn khác nhau có ghi rõ trong phần Tài liệu tham khảo. Ngoài ra,
trong luận văn còn s dụng một số nhận xét, đánh giá cũng như số liệu của các tác giả,
cơ quan, tổ chức đều có trích dẫn và chú thích nguồn gốc.
Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 28 tháng 3 năm 2018
Học viên

Nguyễn Trƣơng Hà Giang


M CL C

Trang
Trang phụ bìa
L i cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết t t
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ THUẾ VÀ
PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ THUẾ ............................................... 8
Những vấn đề lý luận về quản lý thuế và hoạt động khai
thác khoáng sản ................................................................................. 8
1.1.1. Khái quát về hoạt động khai thác khoáng sản..................................... 8
1.1.2. Các loại thuế phải thu trong lĩnh vực khai thác khoáng sản ............. 12

1.1.3. Khái niệm và vai trò của quản lý thuế .............................................. 13
1.2.
Những vấn đề lý luận về pháp luật về quản lý thuế..................... 17
1.2.1. Khái niệm của pháp luật về quản lý thuế .......................................... 17
1.2.2. Đặc trưng của pháp luật về quản lý thuế áp dụng trong hoạt
động khai thác khoáng sản ................................................................ 19
1.2.3. Cấu trúc của pháp luật về quản lý thuế áp dụng trong hoạt động
khai thác khoáng sản ......................................................................... 20
Kết luận chƣơng 1 ......................................................................................... 21
1.1.

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ THUẾ VÀ
THỰC TIỄN THI HÀNH TRONG HOẠT Đ NG KHAI
THÁC KHOÁNG SẢN Ở VIỆT NAM ......................................... 22
2.1.
2.1.1.

Thực trạng pháp luật về quản lý thuế trong hoạt động khai
thác khoáng sản ở Việt Nam .......................................................... 22
Thực trạng quy định về chủ thể tham gia quan hệ quản lý thuế
và quyền, nghĩa vụ của các chủ thể trong quản lý thuế đối với
hoạt động khai thác khoáng sản ........................................................ 22


2.1.2.
2.1.3.

Thực trạng quy định về trình tự, thủ tục quản lý thuế trong hoạt
động khai thác khoáng sản ................................................................ 29
Thực trạng quy định về thanh tra, kiểm tra, giám sát và x lý vi

phạm pháp luật quản lý thuế trong hoạt động khai thác khoáng sản.... 44

Thực tiễn thực hiện pháp luật về quản lý thuế trong hoạt
động khai thác khoáng sản ở Việt Nam ........................................ 54
2.2.1. Những kết quả đã đạt được ............................................................... 54
2.2.2. Những tồn tại, vướng m c trong thực tiễn thi hành pháp luật về
quản lý thuế trong hoạt động khai thác khoáng sản .......................... 58
2.2.3. Nguyên nhân của những tồn tại, vướng m c .................................... 61
Kết luận chƣơng 2 ......................................................................................... 67
2.2.

Chƣơng 3: CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ THUẾ TRONG
HOẠT Đ NG KHAI THÁC KHOÁNG SẢN Ở VIỆT NAM.... 68
3.1.
3.1.1.
3.1.2.
3.1.3.

Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản lý thuế trong
hoạt động khai thác khoáng sản ở Việt Nam................................ 68
Giải pháp liên quan đến chủ thể tham gia vào quản lý thuế trong
hoạt động khai thác khoáng sản ........................................................ 68
Các giải pháp liên quan đến trình tự, thủ tục quản lý thuế ............... 70
Các giải pháp liên quan đến thanh tra, kiểm tra và x lý vi phạm
pháp luật về quản lý thuế trong hoạt động khai thác khoáng sản ..... 73

Các giải pháp tổ chức thực thi pháp luật về quản lý thuế
trong hoạt động khai thác khoáng sản ở Việt Nam ..................... 75
3.2.1. Các giải pháp đối với các cơ quan quản lý nhà nước ....................... 75

3.2.2. Các giải pháp đối với ngư i nộp thuế ............................................... 79
3.2.3. Thực hiện công tác tuyên truyền các chính sách thuế ...................... 80
Kết luận chƣơng 3 ......................................................................................... 82
3.2.

KẾT LUẬN .................................................................................................... 83
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 85


DANH M C CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BVMT:

Bảo vệ môi trư ng

DN:

Doanh nghiệp

GTGT:

Giá trị gia tăng

KTKS:

Khai thác khoáng sản

NNT:

Ngư i nộp thuế


NSNN:

Ngân sách nhà nước

QLT:

Quản lý thuế

TN&MT:

Tài nguyên và Môi trư ng

UBND:

Ủy ban nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Thuế có vai trò rất quan trọng đối với ngân sách quốc gia, là nguồn tài
chính chủ yếu để duy trì hoạt động của Nhà nước và qua đó góp phần thúc
đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, hệ
thống chính sách, pháp luật về thuế nói chung và pháp luật về quản lý thuế
(viết t t là QLT) nói riêng luôn được các Nhà nước chú trọng phát triển, vì
chính sách thuế luôn được coi là một bộ phận cấu thành quan trọng của hệ
thống chính sách công ở các quốc gia trên thế giới.
Trong số các khoản thu quan trọng của ngân sách nhà nước, có khoản
thu thuế từ hoạt động khai thác khoáng sản (viết t t là KTKS). Thực tế cho
thấy các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực khoáng sản phải nộp nhiều
loại thuế khác nhau (ví dụ: thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng,

thuế tài nguyên, thuế bảo vệ môi trư ng…). Điều này cho thấy việc QLT đối
với các chủ thể tham gia hoạt động KTKS là rất phức tạp, cần được nghiên
cứu, tìm hiểu để có những giải pháp hiệu quả trong việc quản lý thuế đối với
hoạt động khai thác khoáng sản.
Trước sự tăng trưởng nhanh chóng của ngành công nghiệp khai
khoáng, Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật để điều
chỉnh hoạt động này như Pháp lệnh Thuế tài nguyên năm 1990, Luật Quản lý
thuế số 78/2006/QH11 ngày 29/11/2006 (sau đây gọi là Luật QLT năm 2006),
Luật Thuế Tài nguyên số 45/2009/QH12 (sau đây gọi là Luật Thuế Tài
nguyên năm 2009), Luật s a đổi một số điều của Luật QLT số 21/2012/QH13
(sau đây gọi là Luật QLT năm 2012), Luật s a đổi, bổ sung một số điều của
các luật về thuế năm 2014 và năm 2016… Ngoài ra, còn có luật liên quan như
Luật Thuế Giá trị gia tăng, Luật Thuế Thu nhập doanh nghiệp, Luật thuế bảo
vệ môi trư ng… và hàng loạt văn bản hướng dẫn thi hành. Đây được xem là

1


khung pháp lý điều chỉnh đối với hoạt động KTKS nói chung và QLT trong
lĩnh vực KTKS nói riêng.
Hiện nay, Việt Nam đang tiến hành hành khai thác nhiều loại khoáng
sản với quy mô lớn, dẫn đến tình trạng nhiều loại khoáng sản đang đối mặt
với nguy cơ bị cạn kiệt trong tương lai gần. Tuy nhiên, việc đóng góp cho
ngân sách lại không hề tương xứng. Chẳng hạn, trong việc thu thuế tài
nguyên, theo tính toán từ số liệu thống kê của Bộ Tài chính, số thu thuế tài
nguyên (ngoài dầu khí) chỉ đạt 0,9% - 1,1% tổng thu ngân sách nhà nước
trong giai đoạn 2011-2013. Tại nhiều địa phương, số thu thuế tài nguyên thậm
chí không đủ cho chi phí quản lý nhà nước đối với hoạt động KTKS, như ở
Yên Bái, Tuyên Quang, Quảng Nam,…
Như vậy, có thể nhận thấy rằng tuy Luật QLT năm 2006 cùng hàng loạt

các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan ra đ i đã giải quyết được
phần nào những khó khăn trong việc QLT đối với hoạt động KTKS nhưng
trải qua th i gian áp dụng, hệ thống pháp luật về QLT cũng b t đầu bộc lộ
những thiếu sót. Tình trạng trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế vẫn còn diễn ra,
đồng th i sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền chưa đồng
nhất. Tình trạng này không chỉ ảnh hưởng tới nguồn thu ngân sách nhà nước,
hoạt động của doanh nghiệp mà còn tiềm ẩn nguy cơ dẫn đến cạn kiệt nguồn
tài nguyên. Chính vì vậy, việc nghiên cứu các quy định của pháp luật về QLT
và đưa ra các giải pháp để hoàn thiên là nhu cầu cấp thiết. Xuất phát từ những
lý do nêu trên, tác giả quyết định lựa chọn đề tài “Pháp luật về quản lý thuế
và thực tiễn thi hành trong hoạt động khai thác khoáng sản ở Việt Nam” để
làm luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong th i gian qua, vấn đề pháp lý về QLT trong hoạt động KTKS đã
được nhiều học viên, chuyên gia quan tâm nghiên cứu. Nhiều công trình đã

2


được công bố, nhiều văn bản pháp luật của Nhà nước đã đề cập đến. Ở nhiều
góc độ khác nhau, các công trình khoa học này đã có những đóng góp nhất
định cho việc hoàn thiện pháp luật thuế nói chung và pháp luật về QLT trong
lĩnh vực KTKS nói riêng. Về các tác phẩm liên quan đến đề tài được thực
hiện trong th i gian qua, có thể nêu một số công trình cụ thể như sau:
- Luận án tiến sĩ luật học của tác giả Trần Trung Nhân với đề tài
“Những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật thuế
ở Việt Nam” (2006).
- Luận án tiến sĩ của tác giả Vũ Văn Cương với đề tài “Pháp luật về
quản lý thuế trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay - những vấn đề
lý luận và thực tiễn” (2012).

- Luận văn thạc sĩ Luật học của tác giả Hà Phúc Huấn với đề tài “Tăng
cường quản lý thuế tài nguyên trong hoạt động KTKS tại Cục thuế tỉnh Tuyên
Quang” (2014).
- Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Đặng Văn Cương với đề
tài “Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác, chế biến
khoáng sản ở Việt Nam” (2014).
- Luận văn thạc sĩ Luật học của tác giả Trần Bá Khang với đề tài “Tăng
cường chống thất thu thuế tài nguyên và phí bảo vệ môi trường đối với hoạt
động khai thác tài nguyên khoáng sản trên địa bàn tỉnh Bắc Giang” (2015).
Bên cạnh đó cũng có một số tác phẩm đã công bố ở nước ngoài đáng
chú ý như:
- “Quản lý hành chính thuế tại Pháp” – M.Bouvier, trong tập sách
“Quesais-Je” (1988);
- “Transfer pricing guidelines for multinational enterprise and tax
administration” của OECD (2001).
- “Tax administration in Korea”, Jim Kwon Huyn (2002);

3


Ngoài ra, cũng có các bài nghiên cứu chuyên sâu của nhiều nhà khoa
học, chuyên gia đăng trên các báo và tạp chí chuyên ngành cũng như các hội
thảo khoa học như:
- “Những định hướng cơ bản để hoàn thiện pháp luật thuế ở nước ta”
(Bài viết của TS Võ Đình Toàn – Tạp chí Luật học số 5, 1995);
- “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về xây dựng và hoàn thiện pháp
luật thuế của Việt Nam trong tiến trình Hội nhập Kinh tế Quốc tế”, Đề tài
khoa học – Trư ng ĐH Luật Hà Nội (2007), Chủ nhiệm đề tài: TS Nguyễn
Thị Ánh Vân.
- Liên minh Khoáng sản VCCI với báo cáo “Thực thi EITI để cải cách

ngành công nghiệp khai thác khoáng sản ở Việt Nam” (2015).
- PGS.TS Lê Xuân Trư ng với bài viết “Đánh giá tổng quan về tình
hình thực hiện Luật thuế tài nguyên: Những bất cập và tác động tới thu ngân
sách nhà nước” (2016);
- PGS.TS Nguyễn Cảnh Nam: “Những bất cập của Luật Thuế tài
nguyên, các văn bản hướng dẫn đối với khoáng sản và đề xuất kiến nghị sửa
đổi” (2016);
Các công trình này đã góp phần xây dựng cơ sở lý luận và đặt ra các vấn
đề thực tiễn về quản lý nhà nước trong việc thu thuế đối với hoạt động KTKS.
Tuy vậy, những năm gần đây chưa có luận văn nào đi sâu nghiên cứu chi tiết,
cụ thể toàn diện pháp luật về QLT trong hoạt động KTKS, một vấn đề đang
gây tranh cãi giữa cơ quan quản lý nhà nước và doanh nghiệp. Hơn nữa, trong
điều kiện nền kinh tế xã hội đang có những thay đổi, phát triển không ngừng
thì những kết quả nghiên cứu đã đạt được vẫn cần phải tiếp tục bổ sung và
hoàn thiện. Do vậy, việc đi sâu nghiên cứu đề tài: “Pháp luật về quản lý thuế
và thực tiễn thi hành trong hoạt động khai thác khoáng sản ở Việt Nam” có
ý nghĩa lý luận và mang tính th i sự sâu s c. Luận văn phân tích, đánh giá các

4


quy định pháp luật trong và ngoài nước về QLT, đồng th i nhận diện những
tồn tại, bất cập của pháp luật về vấn đề này qua quá trình đánh giá thực trạng
thi hành trong lĩnh vực KTKS. Trên cơ sở khoa học và thực tiễn, luận văn đưa
ra định hướng và một số kiến nghị về hoàn thiện pháp luật trong vấn đề quản
lý thuế trong hoạt động KTKS.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu, phân tích, đánh giá các
quy định của pháp luật về QLT trong hoạt động KTKS; nêu lên những tồn tại,
bất cập của pháp luật; đồng th i đánh giá thực trạng áp dụng các quy định của

pháp luật về QLT trên địa bàn một số tỉnh để chỉ ra những kết quả đã đạt được
cũng như những hạn chế, bất cập và những nguyên nhân của hạn chế, bất cập
đó. Trên cơ sở đó, đề xuất, kiến nghị một số giải pháp nhằm hoàn thiện hệ
thống pháp luật về QLT trong hoạt động KTKS ở Việt Nam hiện nay.
Để đáp ứng được mục tiêu nghiên cứu nêu trên, luận văn có các nhiệm
vụ nghiên cứu cụ thể sau:
- Nêu, phân tích, đánh giá những quy định hiện hành của pháp luật về
QLT trong hoạt động KTKS trên cơ sở so sánh, đánh giá các quy định của
pháp luật Việt Nam.
- Phân tích, nhận xét, đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về QLT
trong hoạt động KTKS của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và tại một số
địa phương và chỉ ra những tồn tại, bất cập của pháp luật về QLT trong hoạt
động KTKS ở Việt Nam;
- Đề xuất định hướng và một số giải cụ thể nhằm góp phần hoàn
thiện pháp luật Việt Nam về QLT trong hoạt động KTKS.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các vấn đề lý luận về quản lý
thuế và lý luận pháp luật về QLT; các văn bản pháp luật thực định của Việt

5


Nam; thực tiễn xây dựng, áp dụng pháp luật về QLT trong lĩnh vực khai thác
tài nguyên khoáng sản của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn được xác định như sau:
- Về không gian: Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật về
QLT trong hoạt động KTKS trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam cũng như
những vướng m c của pháp luật còn được thể hiện rõ trong thực tiễn áp dụng
tại các địa phương, và doanh nghiệp, đặc biệt là các tỉnh có lượng khoáng sản
tập trung nhiều như Yên Bái, Lào Cai, Quảng Nam…

- Về th i gian: Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật về
QLT trong hoạt động KTKS trong giai đoạn từ khi Luật Khoáng sản số
60/2010/QH12 (sau đây gọi là Luật Khoáng sản năm 2010) có hiệu lực pháp
luật (từ ngày 1 tháng 7 năm 2011) đến nay.
- Về nội dung nghiên cứu: Trong phạm vi luận văn, tác giả tập trung
nghiên cứu các mô hình quản lý thuế trong hoạt động KTKS hiện nay và các
quy định của pháp luật về quản lý thuế trong khai thác khoáng sản, từ đó phát
hiện các bất cập trong quy định của pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng, đề
xuất các giải pháp để hoàn thiện hệ thống pháp luật. Tác giả không đi sâu vào
nghiên cứu cách tính từng loại thuế đối với doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh
vực khoáng sản. Tuy nhiên, khoáng sản là một thuật ngữ có phạm vi rất rộng,
do đó, trong nội dung luận văn, tác giả chỉ giới hạn nghiên cứu đối với các
loại khoáng sản được quy định tại Luật Khoáng sản 2010.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài
Để triển khai thực hiện đề tài, luận văn s

dụng các phương pháp

nghiên cứu chủ yếu sau đây:
- Các phương pháp phân tích, tổng hợp, diễn dịch, quy nạp: Được s
dụng để nghiên cứu các vấn đề lý luận cũng như thực tiễn liên quan đến pháp
luật về quản lý thuế trong lĩnh vực KTKS.

6


- Phương pháp so sánh: Được s dụng để so sánh, đối chiếu các quy
định trong các văn bản pháp luật khác nhau của pháp luật Việt Nam về quản
lý thuế đối với hoạt động KTKS.
- Phương pháp nghiên cứu tình huống: Được s dụng để nghiên cứu,

phân tích các tình huống thực tế trong quá trình áp dụng các quy định về QLT
trong hoạt động KTKS của cơ quan chức năng và các cá nhân, tổ chức liên
quan trong hoạt động KTKS.
6. Những đóng góp mới về mặt lý luận và thực tiễn của đề tài
Về mặt lý luận, luận văn có những đóng góp mới như: Làm phong phú
thêm hệ thống lý luận về quản lý thuế và pháp luật về quản lý thuế; củng cố
cơ sở lý luận cho việc hoàn thiện pháp luật về QLT nói chung và QLT trong
hoạt động khai khoáng nói riêng.
Về mặt thực tiễn, luận văn có những đóng góp mới như: Chỉ ra những
bất cập, hạn chế của pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về QLT trong
lĩnh vực KTKS, để từ đó đề xuất các giải pháp nhằm kh c phục, s a chữa các
khiếm khuyết của pháp luật về quản lý thuế trong lĩnh vực khai thác khoáng
sản ở Việt Nam hiện nay.
7. Bố cục của đề tài luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn gồm có ba chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về quản lý thuế và pháp luật về quản
lý thuế.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về quản lý thuế và thực tiễn thi hành
trong hoạt động khai thác khoáng sản ở Việt Nam.
Chương 3: Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp
luật về quản lý thuế trong hoạt động khai thác khoáng sản ở Việt Nam.

7


Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ THUẾ VÀ PHÁP LUẬT
VỀ QUẢN LÝ THUẾ
1.1. Những vấn đề lý luận về quản lý thuế và hoạt động khai thác

khoáng sản
1.1.1. Khái quát về hoạt động khai thác khoáng sản
Theo Từ điển tiếng Việt, “khai thác” có thể được hiểu theo ba nghĩa: (i)
là tiến hành hoạt động để thu lấy những nguồn lợi sẵn có trong thiên nhiên;
(ii) là phát hiện và s dụng những cái có ích còn ẩn giấu hoặc chưa được tận
dụng; (iii) là tra xét, dò hỏi để biết được bí mật của đối phương.
Khoáng sản là từ Hán – Việt, bính âm là Kuàng chăn. Trong đó, theo
Hán Việt Thiều Ch u thì quáng/khoáng là quặng mỏ và phàm vật gì lấy ra ở
mỏ đều gọi là quáng, ngư i Việt quen đọc là khoáng. Còn sản là nơi sinh ra.
Khoáng sản có nghĩa là nơi sinh ra mỏ quặng [39].
Trong địa chất học, khoáng sản là các đá hoặc thành tạo khoáng vật
phát sinh từ những quá trình địa chất nhất định có thể đem s dụng trực tiếp
hay từ đó lấy ra những kim loại, hợp chất hay khoáng sản dùng trong nền kinh
tế quốc dân.
Theo khoản 1 Điều 2 Luật Khoáng sản năm 2010 thì khoáng sản là
khoáng vật, khoáng chất có ích được tích tụ tự nhiên ở thể r n, thể lỏng, thể
khí tồn tại trong lòng đất, trên mặt đất, bao gồm cả khoáng vật, khoáng chất ở
bãi thải của mỏ. Tuy nhiên, khoáng sản là dầu khí, nước thiên nhiên không
phải là nước khoáng, nước nóng thiên nhiên không thuộc phạm vi điều chỉnh
của Luật này cũng như không thuộc phạm vi nghiên cứu của Luận văn.
Như vậy, từ việc phân tích khái niệm “khai thác” và “khoáng sản”, có
thể hiểu “khai thác khoáng sản” là việc tiến hành các hoạt động để thu lấy
những khoáng vật, khoáng chất có ích được tích tụ tự nhiên tồn tại trong lòng
đất, trên mặt đất.

8


KTKS là một hoạt động mang tính chuyên ngành, do đó, các văn bản
pháp luật cũng đưa ra các khái niệm và các quy định để điều chỉnh. Trước

đây, Luật khoáng sản năm 1996 tách hoạt động KTKS và hoạt động chế biến
khoáng sản thành hai hoạt động riêng biệt, trong đó hoạt động KTKS được
hiểu là hoạt động xây dựng cơ bản mỏ, khai đào, sản xuất và các hoạt động có
liên quan trực tiếp nhằm thu khoáng sản còn chế biến khoáng sản là hoạt động
phân loại, làm giàu khoáng sản, hoạt động khác nhằm làm tăng giá trị khoáng
sản đã khai thác. Tuy nhiên, đến khi ban hành Luật Khoáng sản năm 2010, hai
khái niệm trên đã được gộp lại với nhau và được s a đổi cho phù hợp với
thực tế, theo đó: KTKS là hoạt động nhằm thu hồi khoáng sản, bao gồm xây
dựng cơ bản mỏ, khai đào, phân loại, làm giàu và các hoạt động khác có liên
quan. Khác với cách hiểu thông thư ng, theo Luật Khoáng sản năm 2010,
KTKS không chỉ bó hẹp trong việc thu lấy khoáng sản mà còn phải tiến hành
phân loại, làm giàu nhằm làm tăng giá trị của khoáng sản. Làm giàu khoáng
sản là khâu công nghệ quan trọng, là bước đầu tiên trong việc gia công các
nguyên liệu khoáng sản nhằm loại bỏ hoàn toàn hoặc một phần nhất định các
thành phần không có ích ra khỏi các thành phần có ích để phục vụ cho quá
trình tiếp theo.
Như đã nói ở trên, hoạt động KTKS là một hoạt động mang tính
chuyên ngành nên có những đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, về chủ thể tiến hành hoạt động khai thác.
Hiện nay, phần lớn các hoạt động KTKS diễn ra tại nước ta chủ yếu
nhằm phục vụ cho mục đích kinh doanh, chỉ một vài hoạt động khai thác phục
vụ cho mục đích an ninh, quốc phòng hoặc các mục đích khác không phải
kinh doanh như KTKS là các chất phóng xạ (Urani, Thori,…) hay tận thu các
sản phẩm từ hoạt động khai thác để làm vật liệu san lấp… Chính vì lý do đó,
theo Điều 51 Luật Khoáng sản năm 2010, tổ chức, cá nhân KTKS bao gồm:

9


Doanh nghiệp được thành lập theo Luật Doanh nghiệp; hợp tác xã, liên hiệp

hợp tác xã được thành lập theo Luật Hợp tác xã; hộ kinh doanh. Theo đó,
doanh nghiệp hoặc hợp tác xã muốn được tiến hành KTKS phải đáp ứng đủ
các điều kiện cụ thể như: (i) Phải được thành lập theo đúng quy định của pháp
luật, nếu là doanh nghiệp là Luật Doanh nghiệp, nếu là Hợp tác xã, Liên hiệp
hợp tác xã là Luật Hợp tác xã; (ii) Phải đăng ký kinh doanh ngành nghề
KTKS; (iii) Phải được sự cho phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Riêng đối với hộ kinh doanh đăng ký kinh doanh ngành nghề KTKS chỉ được
KTKS nhằm mục đích s dụng làm vật liệu xây dựng thông thư ng hoặc khai
thác để tận thu khoáng sản. Trong đó khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông
thư ng là các loại khoáng sản đáp ứng được các điều kiện quy định tại khoản
1 Điều 64 Luật Khoáng sản năm 2010; còn hoạt động khai thác tận thu
khoáng sản chính là việc khai thác các khoáng sản còn lại ở bãi thải của mỏ
đã có quyết định đóng của mỏ [31, Điều 67].
Thứ hai, về bản chất, hoạt động KTKS là hoạt động thu hồi khoáng sản
có ích sau khi loại bỏ tương đối những thành phần không có ích.
Hoạt động KTKS là hoạt động thu hồi những khoáng sản sau khi đã trải
qua việc sơ chế ban đầu là làm giàu. Làm giàu khoáng sản là một bước vô
cùng quan trọng. Thông qua đó, ngư i ta loại được các thành phần không có
ích ra khỏi các thành phần có ích để phục vụ cho quá trình tiếp theo. Tuy
nhiên, làm giàu chỉ là bước sơ chế ban đầu, do đó, tùy vào mức độ đơn giản
hay phức tạp của các thành phần trong khoáng sản mà có thể loại bỏ hoàn
toàn hay chỉ một phần các thành phần không có ích, làm tăng giá trị của
khoáng sản. Như vậy, có thể nói, KTKS là hoạt động thu hồi khoáng sản sau
khi loại bỏ được tương đối những thành phần không có ích, tận dụng tối đa
các thành phần có ích, phục vụ cho quá trình tiếp theo như bán trực tiếp, đưa
vào dây chuyền sản xuất,...

10



Thứ ba, hoạt động KTKS phải được sự đồng ý của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền.
Theo quy định tại Điều 197 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì khoáng sản là
tài sản thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước là đại diện chủ sở hữu và thống
nhất quản lý. Việc quản lý sẽ được giao cho hệ thống các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền. Tài nguyên khoáng sản đóng một vai trò quan trọng không chỉ
đối với nền kinh tế mà còn ảnh hưởng đến cả quốc phòng an ninh, do đó hoạt
động khoáng sản nói chung và hoạt động KTKS nói riêng luôn được quản lý
một cách nghiêm ngặt và được sự đồng ý của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền. Hiện nay, theo quy định của pháp luật, các cơ quan nhà nước trực tiếp
tham gia vào quản lý hoạt động KTKS bao gồm Chính phủ, Bộ Tài nguyên và
Môi trư ng và Ủy ban nhân dân (UBND) các cấp. Ngoài ra, còn có sự phối
hợp của các cơ quan khác như Bộ Xây dựng, Bộ Quốc phòng, Bộ Kế hoạch
và Đầu tư… Tổ chức, cá nhân muốn KTKS phải tuân thủ theo trình tự, thủ tục
luật định và tùy vào quy mô, tính chất của khu vực khai thác mà nộp hồ sơ tại
Sở Tài nguyên và Môi trư ng các cấp hoặc Tổng cục địa chất và Khoáng sản
Việt Nam. Sau giai đoạn thẩm định hồ sơ, điều tra hiện trạng, nếu tổ chức, cá
nhân tuân thủ đúng quy định của pháp luật thì sẽ được Bộ Tài nguyên và Môi
trư ng hoặc UBND cấp tỉnh cấp Giấy phép KTKS.
Thứ tư, hoạt động KTKS được điều chỉnh bởi pháp luật chuyên ngành.
Hoạt động KTKS đóng một vai trò rất quan trọng, do đó được điều
chỉnh bởi một hệ thống pháp luật chuyên ngành từ Luật xuống đến Nghị định,
Thông tư… Trước năm 1989, hoạt động khoáng sản diễn ra mạnh mẽ, tuy
nhiên vẫn chưa có văn bản pháp luật điều chỉnh. Ngày 07/8/1989 Hội đồng
Nhà nước ban hành Pháp lệnh về Tài nguyên khoáng sản số 22/LCT/HĐNN8.
Pháp lệnh ra đ i đã phần nào tạo ra một hành lang pháp lý đưa các hoạt động
khoáng sản vào khuôn khổ của pháp luật. Qua th i gian, khi mà nền kinh tế

11



phát triển nhanh chóng, nhu cầu KTKS gia tăng thì pháp luật về khoáng sản
ngày càng hoàn thiện. Luật Khoáng sản năm 1996 và sau này được thay thế
bởi Luật Khoáng sản năm 2010, cùng với hàng loạt các văn bản hướng dẫn thi
hành như Nghị định số 22/2012/NĐ-CP ngày 26/03/2012, Thông tư số
16/2012/TT-BTNMT ngày 29/11/2012, Nghị định số 203/2013/NĐ-CP ngày
28/11/2013, Thông tư số 38/2015/TT-BTNTMT ngày 30/6/2015, Nghị định
số 158/2016/NĐ-CP ngày 29/11/2016, … Hiện nay, tất cả các hoạt động
KTKS phải tuân thủ theo các quy định của pháp luật khoáng sản.
1.1.2. Các loại thuế phải thu trong lĩnh vực khai thác khoáng sản
Khoáng sản ở nước ta được khai thác chủ yếu phục vụ cho hoạt động
sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Các khoáng sản đang được khai thác
với quy mô rộng kh p cả nước. Trước tình hình đó, các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền đã đưa ra nhiều biện pháp để quản lý, trong đó, việc ban hành các
s c thuế được xem là một công cụ quan trọng và hiệu quả hàng đầu.
Ngoài thuế thu nhập doanh nghiệp là loại thuế cơ bản áp dụng cho các
doanh nghiệp thì các chủ thể KTKS còn phải nộp các loại thuế sau đây:
- Thuế giá trị gia tăng (thuế GTGT): Thuế GTGT là một loại thuế tiêu
dùng, tính trên phần trăm giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ, phát sinh ở
từng khâu trong quá trình sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng. Thuế GTGT
được áp dụng ở nước ta từ 01/01/1999 thay cho thuế doanh thu trước đây.
Thuế GTGT là loại thuế gián thu, trong đó, các doanh nghiệp KTKS kê khai
thuế và nộp thay cho ngư i mua hàng.
- Thuế tài nguyên: Thuế tài nguyên là một trong những công cụ tài
chính, thể hiện vai trò đại diện chủ sở hữu của nhà nước đối với tài nguyên
quốc gia và thực hiện chức năng quản lý nhà nước đói với hoạt động khai
thác, s dụng tài nguyên của các tổ chức, cá nhân. Thuế tài nguyên là khoản
thu ngân sách nhà nước (NSNN) b t buộc đối với mọi tổ chức, cá nhân khai

12



thác tài nguyên thiên nhiên hợp pháp trên lãnh thổ, lãnh hải, vùng đặc quyền
kinh tế của Việt Nam. Thuế tài nguyên là loại thuế gián thu, đánh vào sản
phẩm chịu thuế là các tài nguyên thiên nhiên được khai thác, trong đó có các
loại khoáng sản.
1.1.3. Khái niệm và vai trò của quản lý thuế
a) Khái niệm quản lý thuế
Để làm rõ khái niệm “quản lý thuế”, trước hết cần làm rõ khái niệm
“quản lý”. Khái niệm quản lý xuất hiện từ khi có hoạt động chung của con
ngư i. Theo Từ điển Tiếng Việt, quản lý là tổ chức và điều khiển các hoạt
động theo những yêu cầu nhất định. Theo một cách hiểu khác, quản lý là một
phạm trù để chỉ những mối quan hệ và giữa các chủ thể quản lý và đối tượng
bị quản lý nhằm đạt được những mục tiêu đề ra trong điều kiện có sự biến đổi
của môi trư ng [17, tr.6].
Thuật ngữ quản lý còn được ghi nhận ở một số tài liệu khác như:
“Quản lý là sự tác động có ý thức để chỉ huy, điều hành, hướng dẫn các quá
trình xã hội và hành vi hoạt động của con ngư i để hướng đến mục đích đúng
ý chí và phù hợp với quy luật khách quan” [14, tr.61]. Hay “Quản lý là thuật
ngữ chỉ hoạt động của con ngư i nhằm s p xếp, tổ chức, chỉ huy, điều hành,
hướng dẫn, kiểm tra... các quá trình xã hội và hoạt động của con ngư i để
hướng chúng phát triển phù hợp với quy luật xã hội, đạt được mục tiêu xác
định theo ý chí của nhà quản lý với chi phí thấp nhất” [15, tr.136].
Nhìn chung, các khái niệm trên đều đưa ra một quan điểm thống nhất
rằng: Quản lý là hoạt động có ý thức của con ngư i nhằm thực hiện những
mục tiêu đã định thông qua việc tổ chức, chỉ đạo, điều hành, hướng các hoạt
động của con ngư i theo ý chí của chủ thể quản lý và phù hợp với quy luật
khách quan. QLT là một dạng quản lý xã hội kể từ khi có Nhà nước và g n
liền với quyền lực Nhà nước. Khái niệm QLT đã được nghiên cứu và tiếp cận


13


theo nhiều hướng, mỗi quan điểm đều nhìn nhận QLT ở một góc độ khác
nhau và trong những điều kiện kinh tế, xã hội khác nhau.
Tổng cục Thuế Latvia cho rằng:
QLT là một hệ thống những quá trình có quan hệ chặt chẽ với
nhau nhằm mục tiêu đảm bảo thu thuế đúng, đủ và công bằng trên
cơ sở quy định của pháp luật thuế, bao gồm các hoạt động thu nhận
hồ sơ khai thuế, tính toán số thuế phải nộp, đôn đốc thu nộp thuế và
cung cấp dịch vụ tư vấn cho NNT [23, tr.7].
Theo Luật QLT Trung Quốc:
QLT là một chuỗi các hoạt động bảo đảm mục tiêu thu
NSNN bao gồm: quản lý đăng ký thuế, quản lý sổ sách chứng từ,
quản lý khai báo nộp thuế, truy thu tiền thuế, kiểm tra thuế và đảm
bảo trách nhiệm pháp luật về thuế [23, tr.7].
Theo Giáo trình quản lý tài chính nhà nước của Trư ng đại học Tài
chính (2000) thì QLT được xem như là quản lý thu thuế bằng các biện pháp
hành chính của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Còn trong cuốn “Tài
chính công” của Khoa Tài chính Nhà nước trư ng Đại học Kinh tế Thành phố
Hồ Chí Minh (2005) thì “QLT là những biện pháp nghiệp vụ do cơ quan có
chức năng thu NSNN thực hiện”… “Đó là những hoạt động thư ng xuyên
của cơ quan thu hướng về phía đối tượng nộp nhằm đảm bảo thu thuế đầy đủ,
kịp th i và đúng luật định” [43].
Như vậy, dù với cách tiếp cận nào thì QLT cũng là một lĩnh vực quản
lý chuyên ngành, được thực hiện bởi các chủ thể mang quyền lực nhà nước,
được nhà nước trao quyền hạn để thực hiện các hoạt động quản lý nhằm đạt
được các mục tiêu kinh tế và mục tiêu xã hội đã đề ra.
Trong Luật Quản lý thuế năm 2006 của Việt Nam, nhà làm luật đã
không đưa ra khái niệm cụ thể về QLT mà chỉ nêu ra các nội dung trong QLT


14


tại Điều 3 của đạo luật này, theo đó, nội dung QLT bao gồm: đăng ký thuế,
khai thuế, nộp thuế, ấn định thuế; thủ tục hoàn thuế, miễn thuế, giảm thuế;
xoá nợ tiền thuế, tiền phạt; quản lý thông tin về NNT; kiểm tra thuế, thanh tra
thuế; cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế; x lý vi phạm pháp luật
về thuế; giải quyết khiếu nại, tố cáo về thuế.
Về phương diện lý thuyết, hoạt động quản lý thuế có những đặc trưng
cơ bản như: 1. QLT là một bộ phận của quản lý tài chính công. Vì vậy, QLT
phải tuân thủ các nguyên t c quản lý tài chính công nói chung và quản lý
nguồn thu của NSNN nói riêng; 2. Chủ thể tham gia QLT bao gồm các chủ
thể là cơ quan nhà nước có chức năng quản lý thuế như Chính phủ, Bộ Tài
chính, cơ quan Thuế và cơ quan Hải quan, Kho bạc nhà nước, Ủy ban nhân
dân các cấp... Ngoài ra, chủ thể tham gia quản lý thuế còn bao gồm các tổ
chức, các nhân trong xã hội, do việc quản lý thuế có liên quan đến quyền và
lợi ích của các chủ thể này; 3. Mục tiêu của QLT là nhằm huy động một cách
tập trung, đầy đủ nguồn thu từ thuế cho NSNS, đảm bảo công bằng xã hội
cũng như phát huy tốt nhất vai trò của công cụ thuế trong nền kinh tế, bảo
đảm lợi ích của nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho NNT.
Từ kết quả phân tích trên đây, trong hoạt động KTKS có thể đưa ra
định nghĩa về quản lý thuế như sau:
Quản lý thuế trong hoạt động khai thác khoáng sản là hoạt động có
chủ đích của các chủ thể có thẩm quyền trên cơ sở áp dụng các biện pháp,
cách thức theo quy trình, thủ tục do pháp luật quy định nhằm đảm bảo việc
thu đúng, thu đủ tiền thuế và quản lý hiệu quả việc thu thuế đối với lĩnh vực
khai thác khoáng sản.
b) Vai trò của hoạt động quản lý thuế trong khai thác khoáng sản
Việt Nam là quốc gia có nguồn tài nguyên khoáng sản đa dạng và

phong phú, với hơn 60 loại khoáng sản phân bố rộng kh p cả nước. Một số

15


loại khoáng sản có quy mô trữ lượng lớn ở tầm thế giới, như bauxit, titan, đất
hiếm… Hiện nay, hoạt động KTKS đã đóng góp một phần to lớn cho nguồn
thu vào NSNN, do đó vấn đề quản lý hoạt động khai thác luôn phải được chú
trọng, trong đó QLT được xem là một trong những công cụ quản lý rất hiệu
quả. Xét về phương diện lý thuyết, QLT trong hoạt động khai thác khoáng sản
có những vai trò cơ bản như sau:
Thứ nhất, quản lý thuế trong hoạt động khai thác khoáng sản góp phần
quản lý khai thác, s dụng có hiệu quả tài nguyên khoáng sản.
Khoáng sản, nhất là các loại khoáng sản quý, hiếm thư ng đem lại một
nguồn thu lớn cho các doanh nghiệp. Do đó, có một giai đoạn, KTKS diễn ra
rầm rộ, các doanh nghiệp “đua” nhau xin cấp giấy phép khai thác dẫn đến tài
nguyên khoáng sản cạn kiệt một cách nhanh chóng. Đồng th i lượng khoáng
sản đã khai thác trở nên dư thừa. Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã tiến
hành nhiều giải pháp để khác phục tình trạng trên. Bên cạnh việc th t chặt cấp
phép thì hoạt động QLT góp phần kiểm soát việc khai thác nguồn tài nguyên
một cách tiết kiệm và hợp lý, hạn chế nạn KTKS tràn lan. QLT cũng hạn chế
tình trạng khai thác sai trữ lượng so với giấy phép đã cấp. Trong quá trình
QLT, cơ quan quản lý sẽ so sánh, đối chiếu trữ lượng khoáng sản nộp thuế
với trữ lượng xin cấp phép. Nếu phát hiện có sự sai phạm, cơ quan QLT sẽ
báo ngay cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền x lý.
Thứ hai, quản lý thuế trong hoạt động khai thác khoáng sản góp phần
đảm bảo nguồn thu cho NSNN.
Thuế thu được từ các hoạt động KTKS chiếm một vị trí quan trọng
trong NSNN. Tuy nhiên, vì chạy theo lợi nhuận, phần lớn các doanh nghiệp
đều cố tình sai phạm trong việc kê khai nộp thuế gây thất thoát một khoản lớn

cho NSNN. Hiện ngành khai khoáng vẫn đang tồn tại một nghịch lý là sản
lượng KTKS lớn, nhưng khoản thuế đóng góp cho ngân sách nhà nước rất

16


thấp, chỉ chiếm từ 0,9 đến 1,1% tổng thu ngân sách [1]. Điều này đặt ra yêu
cầu đối với hoạt động QLT phải làm sao để kh c phục tình trạng trên. Các cơ
quan QLT đã dần dần kh c phục những thiếu sót trong quản lý, ngày càng
phát hiện ra nhiều sai phạm, truy thu hàng nghìn tỷ đồng cho NSNN.
Thứ ba, quản lý thuế trong hoạt động khai thác khoáng sản góp phần
bảo vệ môi trư ng quốc gia.
Hoạt động KTKS ở nước ta đã và đang gây nhiều tác động xấu đến môi
trư ng xung quanh. Biểu hiện rõ nét nhất là việc s dụng thiếu hiệu quả các
nguồn khoáng sản tự nhiên; tác động đến cảnh quan và hình thái môi trư ng;
tích tụ hoặc phát tán chất thải; làm ảnh hưởng đến s dụng nước, ô nhiễm
nước, tiềm ẩn nguy cơ về dòng thải axit mỏ... Các DN KTKS càng nhiều thì
càng hủy hoại môi trư ng. Chính vì vậy, hoạt động QLT bên cạnh việc bảo
đảm khai thác, s dụng có hiệu quả tài nguyên khoáng sản thì cũng góp phần
trong việc bảo vệ môi trư ng. Nhất là việc thu thuế tài nguyên tạo nên một
khoản thu để cải tạo lại môi trư ng đã bị ảnh hưởng bởi khai khoáng.
1.2. Những vấn đề lý luận về pháp luật về quản lý thuế
1.2.1. Khái niệm của pháp luật về quản lý thuế
Trên thế giới hiện nay có hai xu hướng khác nhau trong việc thiết kế và
ban hành các quy định pháp luật về thuế. Xu hướng thứ nhất lựa chọn giải
pháp xây dựng một bộ luật chung về thuế, trong đó bao gồm tất cả các s c
thuế sẽ được áp dụng trong lãnh thổ quốc gia. Trong bộ luật này, các nhà làm
luật vừa quy định về nội dung cụ thể của các loại thuế, vừa quy định về trình
tự, thủ tục quản lý thu cũng như x lý vi phạm và giải quyết các tranh chấp về
thuế. Xu hướng thứ hai lại lựa chọn giải pháp xây dựng nhiều đạo luật khác

nhau trong đó mỗi loại thuế được ban hành bằng một đạo luật riêng, độc lập
với nhau nhưng vẫn bảo đảm tính tương thích và đồng th i tách bạch các quy
định về QLT bằng một đạo luật riêng biệt.

17


Ở Việt Nam, các nhà làm luật lựa chọn xu hướng thứ hai, theo đó ban
hành từng đạo luật riêng cho mỗi loại thuế và đồng th i ban hành đạo luật
riêng về quản lý thuế (gọi là Luật QLT) để quy định về trình tự, thủ tục thực
hiện công tác QLT. Đạo luật này có nội dung cơ bản bao gồm: quy định về
thủ tục đăng ký thuế, cấp mã số thuế, thủ tục về mua hóa đơn, chứng từ; thủ
tục về kê khai thuế, thủ tục hoàn thuế, thủ tục miễn giảm thuế; quy định về
những hành vi vi phạm và mức vi phạm về thuế; quy định về khiếu nại, tố cáo
và giải quyết khiếu nại, tố cáo; thanh tra thuế…
Về phương diện lý thuyết, các quan điểm khác nhau cho thấy rằng pháp
luật về quản lý thuế nói chung và pháp luật về quản lý thuế áp dụng đối với
hoạt động khai thác khoáng sản nói riêng là một phạm trù rất rộng và tương đối
khó xác định nội hàm của nó. Chẳng hạn, có quan điểm cho rằng đối tượng
điều chỉnh của pháp luật về QLT chỉ là quan hệ giữa cơ quan quản lý thuế với
ngư i nộp thuế, nhưng quan điểm khác lại cho rằng ngoài quan hệ giữa cơ
quan QLT với ngư i nộp thuế thì đối tượng điều chỉnh của pháp luật QLT còn
bao gồm cả quan hệ phát sinh giữa cơ quan lập pháp (ví dụ, quốc hội) với các
cơ quan chính quyền nhà nước nói chung và cơ quan QLT nói riêng, nhằm thực
hiện chức năng giám sát việc tuân thủ pháp luật của các cơ quan này trong quá
trình thực hiện pháp luật thuế và thực hiện chức năng quản lý thuế.
Ở mức độ khái quát, có thể đưa ra khái niệm về pháp luật QLT áp dụng
trong hoạt động KTKS như sau:
Pháp luật về quản lý thuế áp dụng trong hoạt động khai thác khoáng
sản – với tư cách là một bộ phận cấu thành của pháp luật quản lý thuế, là

tổng hợp các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các
quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình quản lý thuế đối với hoạt động khai
thác khoáng sản, thông qua việc quy định trình tự, thủ tục hành thu thuế đối
với hoạt động khai thác khoáng sản trong phạm vi lãnh thổ quốc gia.

18


1.2.2. Đặc trưng của pháp luật về quản lý thuế áp dụng trong hoạt
động khai thác khoáng sản
Khái niệm trên đây cho thấy rằng pháp luật quản lý thuế áp dụng trong
hoạt động khai thác khoáng sản có một số đặc trưng cơ bản sau đây:
Thứ nhất, pháp luật quản lý thuế áp dụng trong hoạt động khai thác
khoáng sản mang bản chất và đặc trưng của pháp luật hình thức, bao gồm các
quy định về trình tự, thủ tục tiến hành thu thuế từ khâu đăng ký thuế đến kê
khai thuế, tính thuế (hoặc ấn định thuế); nộp thuế; quyết toán thuế; truy thu,
hoàn thuế; xét miễn giảm thuế; cưỡng chế thi hành quyết định hành chính
thuế; thanh tra, kiểm tra và x lý vi phạm pháp luật thuế; khiếu nại, khởi kiện
về thuế và giải quyết khiếu nại, giải quyết đơn khởi kiện về thuế. Đặc trưng
này giúp phân biệt pháp luật quản lý thuế với pháp luật về thuế giá trị gia
tăng, pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp... với tư cách là các quy định
pháp luật về nội dung của các s c thuế. Về lý thuyết, pháp luật quản lý thuế
luôn có sự phù hợp và tác động một cách biện chứng với pháp luật về nội
dung của các s c thuế - giống như mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và
hình thức vậy.
Thứ hai, pháp luật QLT áp dụng trong hoạt động KTKS luôn g n liền
với hai mục tiêu cơ bản là: (i) đảm bảo thu đúng, thu đủ số tiền thuế phát sinh
từ hoạt động khai thác khoáng sản của các tổ chức, cá nhân trong phạm vi
lãnh thổ quốc gia để góp phần ổn định nguồn thu cho ngân sách nhà nước; (ii)
đảm bảo quản lý hiệu quả việc khai thác, s dụng nguồn tài nguyên khoáng

sản của đất nước và thúc đẩy việc bảo vệ môi trư ng trong bối cảnh nguồn
lực này đang ngày càng trở nên khan hiếm.
Thứ ba, pháp luật QLT áp dụng trong hoạt động KTKS có đối tượng
điều chỉnh chủ yếu là quan hệ QLT giữa cơ quan QLT với các chủ thể khác
và s dụng phương pháp điều chỉnh chủ yếu là phương pháp mệnh lệnh – với
tư cách là phương pháp điều chỉnh đặc thù của lĩnh vực pháp luật hành chính.

19


×