Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Pháp luật về đấu giá hàng hóa và thực tiễn thi hành tại tỉnh lạng sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 87 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐINH ĐỨC CHÍNH

PHÁP LUẬT VỀ ĐẤU GIÁ HÀNG HÓA
VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI TỈNH LẠNG SƠN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐINH ĐỨC CHÍNH

PHÁP LUẬT VỀ ĐẤU GIÁ HÀNG HÓA
VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI TỈNH LẠNG SƠN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số

: 8 38 01 07



Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Yến

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng,
được trích dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của luận văn này.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Đinh Đức Chính


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: TỔNG QUAN VỀ ĐẤU GIÁ HÀNG HÓA VÀ PHÁP LUẬT
VỀ ĐẤU GIÁ HÀNG HÓA

7

1.1.


Tổng quan về đấu giá hàng hóa

7

1.2.

Khái quát pháp luật về đấu giá hàng hóa

20

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐẤU GIÁ HÀNG HÓA VÀ
THỰC TIỄN THI HÀNH TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LẠNG SƠN

26

2.1.

Thực trạng pháp luật về đấu giá hàng hóa

26

2.2.

Thực tiễn thi hành về đấu giá hàng hóa tại tỉnh Lạng Sơn

49

Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT,
NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ ĐẤU

GIÁ HÀNG HÓA Ở VIỆT NAM VÀ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
LẠNG SƠN

3.1.

Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả thực thi pháp luật về đấu giá hàng hóa ở Việt Nam

3.2.

66
66

Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả thực thi pháp luật về đấu giá hàng hóa trên địa bàn tỉnh
Lạng Sơn

69

KẾT LUẬN

72

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHÀO


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLDS


: Bộ luật Dân sự

ĐGTS

: Đấu giá tài sản

LTM

: Luật Thương mại

UBND

: Ủy ban nhân dân


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết, lý do chọn đề tài
Đấu giá là một dịch vụ ngày càng có vị trí, vai trò quan trọng trong đời sống
kinh tế - xã hội. Đấu giá là một trong những cách thức linh hoạt để chuyển quyền sở
hữu hàng hóa, tài sản từ chủ thể này sang chủ thể khác góp phần thúc đẩy hoạt động
kinh tế nói chung, hoạt động mua bán trao đổi hàng hóa nói riêng phát triển một
cách đa dạng.
Trên thế giới, đấu giá có lịch sử lâu đời (hình thành từ thời kỳ văn minh Hy
Lạp cổ đại - khoảng 500 năm trước công nguyên) và trong nền kinh tế thị trường,
bên cạnh các phương thức mua bán thông thường, mua bán tài sản thông qua đấu
giá ngày càng phổ biến. Có nhiều mục đích được đặt ra khi các bên lựa chọn
phương thức mua bán này, nhưng mục đích thường được hướng tới là nhằm đưa tài
sản tiếp cận với đại chúng người mua, qua đó phát huy cao nhất giá trị hàng hóa của
tài sản hoặc đáp ứng cao nhất mục đích khác mà người bán tài sản đấu giá mong

muốn đạt được.
Ở Việt Nam, mua bán hàng hóa thông qua đấu giá là phương thức mua bán
không mới, nhưng chưa thực sự phổ biến như là một giao dịch thường xuyên trên
thị trường. Trong những năm gần đây, cùng với quá trình xây dựng nền kinh tế thị
trường, đấu giá đã có những bước phát triển mạnh mẽ cả về đối tượng, chủ thể, loại
hình và phương thức thực hiện. Các thiết chế về đấu giá cũng từng bước được củng cố
và phát triển. Bên cạnh các Trung tâm dịch vụ bán đấu giá của Nhà nước, đã có nhiều
doanh nghiệp bán đấu giá được thành lập theo chủ trương xã hội hóa về hoạt động đấu
giá và các hội đồng bán đấu giá tài sản (ĐGTS), tổ chức phát triển quỹ đất, tổ chức tín
dụng có thể tự tổ chức bán ĐGTS theo chức năng… Bán đấu giá với tư cách là một
chế định pháp lý đã ra đời rất sớm và ngày càng khẳng định vai trò của nó trong đời
sống xã hội. Đồng thời để đáp ứng yêu cầu phát triển của thị trường và hội nhập
kinh tế quốc tế, pháp luật về đấu giá của Việt Nam từng bước được xây dựng và dần
hoàn thiện. Đấu giá đã được quy định trong nhiều văn bản luật và dưới luật.


2
Song trong thực tiễn từ đổi mới đến nay, pháp luật cũng như thực tế hoạt
động bán đấu giá vẫn còn một số bất cập, pháp luật về đấu giá vẫn còn ít nhiều
mang dấu ấn của nền kinh tế tập trung chưa thực sự phù hợp với thể chế kinh tế thị
trường, đặc biệt trong việc hướng tới mục tiêu xây dựng và phát triển hoạt động đấu
giá như là phương thức mua bán hàng hóa thông thường trong giao lưu dân sự; bán
đấu giá vẫn chủ yếu hướng tới tài sản của Nhà nước hoặc tài sản bị đấu giá bắt buộc
(không phụ thuộc vào ý chí của chủ sở hữu) mà chưa thực sự hướng tới đối tượng
của đấu giá là những hàng hóa thông thường của giao lưu dân sự. Pháp luật về đấu
giá cần được sửa đổi và hoàn thiện cho phù hợp với thực tiễn.
Do đó, để đánh giá việc thi hành pháp luật về bán đấu giá trong thực tiễn
cần phải tiến hành nghiên cứu qua quá trình thực tế áp dụng, trên cơ sở đó có kiến
nghị để rà soát, điều chỉnh, bổ sung, ban hành các văn bản mới nhằm hoàn thiện, tạo
khuôn khổ pháp lý đồng bộ, thống nhất toàn diện bảo đảm cho hoạt động bán đấu

giá thông thoáng đem lại những giá trị lợi ích cao nhất, văn minh nhất cho cá nhân,
tổ chức có hàng hóa, tài sản bán đấu giá và lợi ích cho Nhà nước, cho xã hội, đặc
biệt là trong điều kiện thực hiện chủ trương cải cách hành chính và xã hội hóa mạnh
mẽ hoạt động bán đấu giá.
Với những lý do trên, tác giả đã lựa chọn đề tài "Pháp luật về đấu giá
hàng hóa và thực tiễn thi hành tại tỉnh Lạng Sơn" làm luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài luận văn
Trước yêu cầu đổi mới đất nước, yêu cầu cải cách hành chính, cải cách tư
pháp, trong những năm qua, việc hoàn thiện pháp luật về đấu giá đã có sự quan tâm
của nhiều tác giả, cá nhân, tổ chức; lĩnh vực pháp luật về ĐGTS được đề cập đến ở
nhiều góc độ khác nhau. Trong khoảng những năm 2005 trở về trước, pháp luật về
đấu giá hàng hóa ở Việt Nam chưa được nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện
mà chỉ được đề cập, nghiên cứu, được nêu trong các bài viết, công trình nghiên cứu
cá nhân, trong các luận văn, tạp chí, báo…
Bộ Tư pháp với chức năng, nhiệm vụ giúp Chính phủ thực hiện quản lý nhà
nước về ĐGTS đã tổ chức nhiều cuộc hội thảo ở một số tỉnh, thành phố (Nghệ An,


3
An Giang…); thực hiện nghiên cứu đề tài cấp Bộ "Hoàn thiện pháp luật về bán đấu
giá tài sản nhằm thúc đẩy thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam", tác giả Võ Đình Toàn, Bộ Tư pháp năm 2011 và biên soạn các tài liệu
hướng dẫn, tập huấn về lĩnh vực này.
Bên cạnh đó, cũng đã có một số công trình nghiên cứu, bài viết về pháp luật
bán ĐGTS ở Việt Nam như: luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Đặng Thanh Hoa
năm 2002 về "Một số vấn đề về hoạt động bán đấu giá tài sản để thi hành án dân
sự"; luận văn văn thạc sĩ luật học của tác giả Nguyễn Văn Úy năm 2003 về "Pháp
luật về bán đấu giá tài sản ở Việt Nam".
Một số bài viết khác được đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật của Bộ
Tư pháp như: bài viết "Hoạt động bán đấu giá tài sản - thực tiễn và triển vọng" của

tác giả Đỗ Khắc Trung, số chuyên đề tháng 10/2006; bài viết "Một số bất cập của
pháp luật về bán đấu giá tài sản" của tác giả Nguyễn Văn Mạnh, số chuyên đề
tháng 10/2006; bài viết "Những vướng mắc cần tháo gỡ trong công tác bán đấu giá
tài sản" của tác giả Phạm Văn Chung, số chuyên đề tháng 10/2006; bài viết "Những
vướng mắc trong việc áp dụng hình thức đấu giá bằng bỏ phiếu" của tác giả Minh
Đức, số chuyên đề tháng 11/2007; bài viết "Có hay không sự khác nhau giữa bán
đấu giá quyền sử dụng đất và đấu giá quyền sử dụng đất" của tác giả Nguyễn Vĩnh
Diện, số tháng 6/2007; bài viết "Những bất cập trong các quy định về bán đấu giá
tài sản" của tác giả Nguyễn Văn Phương, số tháng 3/2008... Có thể nói chưa có công
trình, đề tài, bài viết nào tương đối hệ thống và toàn diện về pháp luật bán đấu giá.
Trong những năm gần đây, pháp luật về bán đấu giá ngày càng được các cá
nhân, tổ chức, giới luật học quan tâm hơn, tuy nhiên các bài viết, công trình nghiên
cứu chủ yếu đề cập đến ĐGTS theo pháp luật về dân sự, nhất là sau khi Luật ĐGTS
được ban hành; ít có bài viết, công trình nghiên cứu đề cập đến đấu giá hàng hóa theo
Luật Thương mại (LTM). Ví dụ: luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Mạnh Cường
năm 2007 về "Đấu giá hàng hóa theo pháp luật thương mại" chưa nghiên cứu sâu về
cơ sở lý luận; một số công trình nghiên khác chưa có sự so sánh, đánh giá giữa ĐGTS
theo pháp luật về dân sự và đấu giá hàng hóa theo LTM và chưa có công trình nào


4
nghiên cứu gắn với một địa phương cụ thể. Vì thế, có thể khẳng định, đây là luận văn
đầu tiên nghiên cứu nhằm làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn của pháp luật về
đấu giá hàng hóa ở Việt Nam trên cơ sở so sánh, đánh giá với pháp luật về ĐGTS;
và nghiên cứu, đánh giá trên một địa bàn cụ thể, đó là địa bàn tỉnh Lạng Sơn.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, nghiên cứu, đánh giá thực tiễn thi hành pháp
luật về đấu giá hàng hóa, ĐGTS ở Việt Nam và trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn; từ đó, làm
rõ kết quả, bất cập, hạn chế, nguyên nhân của bất cập, hạn chế trong lĩnh vực đấu giá

hàng hóa, ĐGTS; đề xuất những giải pháp hoàn thiện pháp luật về đấu giá ở Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Từ mục đích trên, luận văn tập trung vào những nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu, phân tích một cách tổng quát nhất những vấn đề lý luận về
đấu giá hàng hóa, pháp luật về đấu giá hàng hóa.
- Phân tích, đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về đấu giá hàng hóa,
ĐGTS tại Việt Nam và thực tiễn thi hành trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn; từ đó làm rõ
những bất cập, hạn chế của pháp luật về đấu giá và bất cập trong thực tiễn thi hành
trong những năm qua. Đây chính là cơ sở thực tiễn của luận văn trong việc đề xuất
các giải pháp hoàn thiện pháp luật về đấu giá cũng như nâng cao hiệu quả thực thi
pháp luật về đấu giá tại Việt Nam.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về đấu giá và nâng cao
hiệu quả thực thi pháp luật về đấu giá hàng hóa ở Việt Nam và tại tỉnh Lạng Sơn.
4. Đối tượng, phạm vi, nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn: là các quy định hiện hành về đấu giá
hàng hóa, ĐGTS; thực tiễn áp dụng pháp luật về đấu giá hàng hóa, ĐGTS ở Việt
Nam và trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn: trong khuân khổ của luận văn, người viết
chủ yếu tập trung nghiên cứu các quy định của LTM 2005 về đấu giá hàng hóa và
một số luật khác có liên quan như Bộ luật dân sự (BLDS) 2015, Luật ĐGTS 2016...


5
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lê Nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về duy vật biện chứng, duy vật lịch sử; về nhà nước và pháp luật. Luận
văn còn được viết trên cơ sở vận dựng những quan điểm, cơ sở lý luận của Đảng
cộng sản Việt Nam và Nhà nước về đổi mới về cải cách tư pháp, về xây dựng và
phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo kinh tế thị trường

định hướng xã hội chủ nghĩa.
5.2. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của triết học duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử như phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn,
phương pháp phân tích tổng hợp, so sánh, thống kê, hệ thống hóa, logic và lịch sử.
Luận văn cũng sử dụng một số phương pháp nghiên cứu định tính và định lượng
như nghiên cứu và rà soát tài liệu.
Phương pháp so sánh luật học được sử dụng để tham khảo kinh nghiệm về
pháp luật điều chỉnh quan hệ đấu giá thương mại ở trong và ngoài nước. Phương
pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, hệ thống hóa, logic và lịch sử để làm rõ
các quy định của pháp luật từ trước tới nay về quy trình tổ chức đấu giá hàng hóa,
ĐGTS, chỉ ra những bất cập của pháp luật và đề xuất hướng giải pháp khắc phục.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Thứ nhất, luận văn nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận
cơ bản về pháp luật đấu giá hàng hóa trong thương mại, qua đó làm rõ khái niệm,
đặc điểm, nguyên tắc, nội dung và vai trò của pháp luật về đấu giá hàng hóa trong
thương mại.
Thứ hai, luận văn đã tham khảo, nghiên cứu quá trình hình thành và phát
triển pháp luật đấu giá ở Việt Nam, kinh nghiệm điều chỉnh pháp luật về đấu giá của
các nước để rút ra những kinh nghiệm cho việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật
đấu giá ở Việt Nam.
Thứ ba, luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu, phân tích, đánh giá
khách quan, toàn diện thực trạng pháp luật đấu giá ở Việt Nam và trên địa bàn tỉnh


6
Lạng Sơn, bao gồm thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng trên địa bàn, từ đó
làm rõ những bất cập chủ yếu đang đặt ra của pháp luật về đấu giá ở Việt Nam.
Thứ tư, luận văn đã làm rõ những yêu cầu đề ra, phương hướng và các giải
pháp mang tính vĩ mô để hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả pháp luật điều

chỉnh quan hệ đấu giá hàng hóa trong thương mại ở Việt Nam.
Thứ năm, luận văn có sự đánh giá, so sánh đấu giá hàng hóa theo LTM và
ĐGTS theo Luật ĐGTS, từ đó đề xuất hướng hoàn thiện pháp luật về đấu giá.
7. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 03 chương:
Chương 1: Tổng quan về đấu giá hàng hóa và pháp luật về đấu giá hàng hóa.
Chương 2: Thực trạng thi hành pháp luật về đấu giá hàng hóa tại Việt Nam
và thực tiễn thi hành tại tỉnh Lạng Sơn
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả
thực thi pháp luật về đấu giá hàng hóa ở Việt Nam và trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn.


7
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ ĐẤU GIÁ HÀNG HÓA
VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐẤU GIÁ HÀNG HÓA
1.1. Tổng quan về đấu giá hàng hóa
1.1.1. Khái niệm đấu giá và đấu giá hàng hóa
Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia: "Đấu giá là một quá trình mua và
bán bằng cách đưa ra món hàng cần đấu giá, ra giá và sau đó bán món hàng cho
người ra giá cao nhất".
Theo Từ điển Kinh tế học hiện đại: "Đấu giá là một thị trường trong đó
người mua tiềm tàng đặt giá cho hàng hóa chứ không phải đơn thuần trả giá theo
giá công bố của người bán". Thị trường đấu giá là: "Một thị trường có tổ chức tại
đó giá cả được điều chỉnh liên tục theo biến đổi của cung và cầu"1.
Theo Đại Từ điển Bách Khoa Việt Nam: "Đấu giá là hình thức bán những
hàng hóa hoặc tài sản thường thuộc loại đắt tiền, hàng quí hiếm. Người bán đặt
mức giá chuẩn, những người mua trả giá từ thấp đến cao, hàng hóa được bán cho
người mua trả cao nhất"2.

Theo Đại Từ điển Tiếng Việt:"Đấu giá là bán theo phương thức để cho
những người mua trả giá công khai, ai trả giá cao nhất thì bán" 3.
Từ điển Luật học có nêu: Bán đấu giá tài sản là hình thức bán công khai
một tài sản, một khối tài sản; theo đó có nhiều người muốn mua tham gia trả giá,
người trả giá cao nhất nhưng không thấp hơn giá khởi điểm là người mua được tài
sản4. ĐGTS có thể là bắt buộc (theo quyết định của tòa án hoặc cơ quan nhà nước
có thẩm quyền) hoặc tự nguyện (theo nhu cầu của chủ sở hữu tài sản). Người bán tài
sản có thể tự tổ chức đấu giá hoặc thông qua người bán đấu giá chuyên nghiệp, kinh
doanh đấu giá.
1. Từ điển Kinh tế học hiện đại, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội, 1999, tr. 102.
2. Đại Từ điển Bách Khoa Việt Nam, NXB Trung tâm biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam, 1995, tr. 136.
3. Đại Từ điển Tiếng Việt, NXB Văn hoá Thông tin, 1999, tr. 95.
4. Từ điển Luật học, Viện khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp xuất bản năm 2006.


8
Điều 5 Luật ĐGTS quy định: "Đấu giá tài sản là hình thức bán tài sản có
từ hai người trở lên tham gia đấu giá theo nguyên tắc, trình tự và thủ tục được quy
định tại Luật này, trừ trường hợp quy định tại Điều 49 của Luật này".
Đấu giá hàng hóa là một hình thức của ĐGTS, được áp dụng trong hoạt
động thương mại. Đấu giá hàng hóa là một trong những hình thức mua bán hàng
hóa phổ biến trong nền kinh tế thị trường. Trong lý thuyết kinh tế, đấu giá hàng hóa
là phương pháp xác định giá trị của một hàng hóa có mức giá không thể xác định
hoặc biến đổi quá nhiều. Thông qua đấu giá, người mua và người bán có thể mua và
bán được hàng hóa với giá gần đúng với giá trị của hàng hóa đó. Theo quan niệm
truyền thống, đấu giá hàng hóa là việc mua bán hàng hóa, tài sản công khai mà
những người mua sẽ trả giá từ giá thấp cho tới khi trả giá cao nhất và người bán đấu
giá đồng ý bán bằng cách gõ búa.
Trong hoạt động thương mại, đấu giá hàng hóa được hiểu là một phương
thức chào bán hàng đặc biệt, được tổ chức công khai tại một nơi nhất định. Tại đó, khi

xem xét trước hàng hóa, người mua tự do cạnh tranh trả giá và cuối cùng hàng hóa sẽ
được bán cho ai trả giá cao nhất. Về phương diện kinh tế, đấu giá là một trong những
cách để xác định giá trị của món hàng chưa biết giá hoặc giá trị thường thay đổi.
Dưới góc độ pháp lý, LTM năm 2005 coi đấu giá hàng hóa là một trong số
hoạt động thương mại cụ thể, theo đó người bán hàng tự mình hoặc thuê người tổ
chức bán đấu giá thực hiện việc bán hàng hóa công khai để chọn người mua trả giá
cao nhất (khoản 1 Điều 185). Tương tự, điều 3 Luật bán ĐGTS nước Cộng hòa
nhân dân Trung Hoa năm 1996 quy định: "Bán đấu giá là hình thức bán và mua tài
sản công khai, theo đó các tài sản và quyền tài sản được bán cho người trả giá cao
nhất"; đạo luật của Floriada năm 2003 đưa ra khái niệm "bán đấu giá tuyệt đối" - là
cuộc bán đấu giá không yêu cầu giá khởi điểm tối thiểu mà hàng hóa sẽ được bán
cho người trả giá cao nhất.
Như vậy, có nhiều quan điểm, khái niệm khác nhau về đấu giá hàng hóa,
ĐGTS; nhưng tất cả các quan điểm, khái niệm đó đều xác định bản chất của đấu giá
là: phương thức mua bán công khai, có nhiều người tham gia trả giá.


9
Từ kết quả nghiên cứu, tác giả cho rằng: Đấu giá, bao gồm đấu giá hàng
hóa và đấu giá tài sản, là một hình thức mua bán đặc biệt, theo đó người mua trả giá
dựa trên cơ sở giá khởi điểm mà người có hàng hóa, tài sản đưa ra; người trả giá
cao nhất là người trúng đấu giá, được quyền mua hàng hóa, tài sản đấu giá; đấu
giá được thực hiện công khai theo nguyên tắc, hình thức, trình tự, thủ tục nhất định.
1.1.2. Bản chất của đấu giá hàng hóa
* Bản chất kinh tế
Đấu giá hàng hóa là phương thức để bán hàng, xác định bên mua hàng hóa.
Khi cầu lớn hơn cung về hàng hóa thì thị trường thuộc về người bán và người bán
được quyền lựa chọn người mua. Hay nói cách khác, đấu giá hàng hóa là phương
pháp xác định giá trị hàng hóa khi chưa biết giá trị hoặc giá thị trường thay đổi.
Thông thường người có hàng hóa đưa ra một mức giá gọi là giá sàn; nếu ra giá thấp

hơn mức này, hàng hóa sẽ không được bán.
* Bản chất pháp lý
Đấu giá hàng hóa là một hành vi pháp lý; do sự khác nhau về chủ thể, mục
đích mà đấu giá hàng hóa có thể là một hành vi dân sự thông thường hoặc là một
hoạt động thương mại độc lập của thương nhân.
Quan hệ đấu giá hàng hóa được xác lập dưới những hình thức pháp lý nhất
định; thực hiện theo nguyên tắc, hình thức, trình tự quy định.
1.1.3. Đặc điểm của đấu giá hàng hóa
1.1.3.1. Đấu giá hàng hóa là hoạt động bán hàng đặc thù.
Hoạt động đấu giá hàng hóa ngoài những đặc điểm chung của mua bán
hàng hóa thông thường là sự thỏa thuận giữa các bên về việc chuyển giao quyền sở
hữu hàng hóa còn có những đặc thù riêng:
Một là, đấu giá hàng hóa mang tính cạnh tranh, công khai, lành mạnh
Trong mua bán thông thường, người bán hàng thường có hai phương thức
chủ yếu để xử lý về giá: (i) Người bán niêm yết giá và bán hàng theo giá niêm yết;
(ii) Người bán hàng chào giá trực tiếp nghĩa là người bán chào giá cao hơn giá mà
họ dự kiến sẽ bán, hay còn gọi là "nói thách", người mua sẽ xem xét và trả giá từ


10
thấp đến cao. Nhìn chung, theo cả hai phương thức chào giá thông thường, giá bán
hàng thực tế thường không cao hơn giá chào mà chỉ bằng hoặc thấp hơn giá chào.
Mua bán thông qua đấu giá thường được thông báo công khai để thu hút
đông đảo người tham gia trả giá. Số người tham gia trả giá thường lớn hơn số người
cần mua. Chính bởi vậy, mức độ cạnh tranh trong trả giá rất cao. Tất cả những
người tham gia đấu giá đều muốn mua được hàng hóa, bởi vậy họ sẽ nâng giá của
hàng hóa lên mức cao nhất có thể.
Hai là, đấu giá hàng hóa là hoạt động bán hàng thông qua trung gian
Trong quan hệ đấu giá hàng hóa, trừ trường hợp người có hàng hóa tự mình
tổ chức đấu giá, các trường hợp khác, ngoài bên bán, bên mua còn có sự tham gia

của trung gian là người làm dịch vụ đấu giá. Do vậy, quan hệ bán đấu giá có thể
diễn ra giữa các chủ thể sau:
(i) Người có hàng hóa với người mua hàng hóa là mối quan hệ cơ bản nhất
trong mua bán đấu giá hàng hóa. Trên cơ sở giao kết hợp đồng đấu giá và có hiệu
lực sẽ làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ đấu giá theo nội
dung của hợp đồng.
(ii) Mối quan hệ giữa người có hàng hóa và người bán đấu giá là mối quan
hệ đại diện được xác lập thông qua hợp đồng dịch vụ đấu giá; theo đó, bên bán đấu
giá sẽ nhân danh người bán hàng hóa trong phạm vi hợp đồng. Khi người bán đấu
giá giao kết hợp đồng với người mua hàng hóa trong phạm vi hợp đồng sẽ làm phát
sinh quyền và nghĩa vụ của người có hàng hóa với người mua hàng hóa.
(iii) Mối quan hệ giữa người bán đấu giá và người mua hàng hóa là quan hệ
giữa người được ủy quyền tổ chức bán đấu giá với người mua hàng hóa. Người bán
đấu giá là người đại diện cho người có hàng hóa trong việc xác lập giao dịch với
người mua hàng hóa. Giao dịch này được xác lập sẽ làm phát sinh quyền và nghĩa
vụ của người có hàng hóa và người mua hàng hóa.
Hình thức pháp lý của quan hệ đấu giá được thiết lập dưới dạng hợp đồng
dịch vụ đấu giá bằng văn bản. Hợp đồng được xác lập giữa người có hàng hóa và
người tổ chức đấu giá, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ


11
đấu giá hàng hóa. Còn văn bản bán đấu giá thực chất là hợp đồng mua bán hàng hóa
được xác lập giữa các bên liên quan (người có hàng hóa, người mua hàng hóa và
người tổ chức bán đấu giá); là cơ sở pháp lý để xác lập quyền và nghĩa vụ của các
bên trong quan hệ mua bán hàng hóa, đồng thời là căn cứ để xác lập quyền sở hữu
của người mua đối với hàng hóa bán đấu giá.
Ba là, đối tượng của đấu giá hàng hóa là những loại hàng hóa có đặc thù
về giá trị hoặc giá trị sử dụng
Đối tượng của đấu giá hàng hóa có thể là những hàng hóa thương mại thông

thường, tuy nhiên, do tính chất đặc thù của việc bán hàng hóa theo phương thức này
mà không phải hàng hóa nào cũng được các chủ sở hữu quyết định bán bằng
phương pháp đấu giá. Chính vì vậy, chỉ những hàng hóa có đặc thù về giá trị cũng
như giá trị sử dụng mới thường được người có hàng hóa cân nhắc để lựa chọn bán
theo phương thức đấu giá. Như đấu giá theo phương thức trả giá lên được bắt nguồn
từ nước Anh được áp dụng để bán đấu giá đối với tất cả các loại hàng hóa, từ những
thứ có thể định giá chính xác đến những thứ không thể định giá chính xác như các
tác phẩm nghệ thuật, quyền sáng chế, đồ cổ, tác phẩm nghệ thuật… Phương pháp
này được áp dụng phổ biến nhất trong các cuộc đấu giá vì nó có lợi cho bên mua và
bên bán, bởi thể hiện tính tự nguyện cao của bên mua. Còn bên bán thường được lợi
vì giá bán thường cao hơn giá khởi điểm mà mình đưa ra. Hay đấu giá theo phương
thức đặt giá xuống được sử dụng để bán các loại hàng hóa có thời hạn sử dụng
ngắn, bắt nguồn từ Hà Lan, vào đầu thế kỷ XV. Các hàng hóa nhanh hỏng như bán
đấu giá hoa Tuylip ở Hà Lan, bán cá ở Anh. Đấu giá theo phương thức đặt giá
xuống được áp dụng trong trường hợp một hàng hóa không được chấp nhận khi đưa
ra một mức giá cao hoặc một hàng hóa muốn được bán đi thật nhanh. Phương thức
đấu giá này được áp dụng đối với các loại hàng hóa được bán thường là các hàng
hóa giống nhau, có số lượng lớn hoặc hàng hóa mau hỏng. Hàng hóa thông thường
là đối tượng chính của các sàn đấu giá chuyên nghiệp, người mua chủ yếu là thương
nhân, mua nhằm mục đích bán lại kiếm lời. Nhiều khi mức giá mà bên mua trả vượt
cao hơn sức tưởng tượng của bên bán. Do đó, các cuộc đấu giá luôn luôn sôi động
bởi sự trả giá liên tục, rượt đuổi giá của những người tham gia đấu giá.


12
1.1.3.2. Đấu giá hàng hóa là một phương thức kinh doanh
Trong nền kinh tế thị trường, mỗi bên tham gia quan hệ mua bán hàng hóa
đều vì mục tiêu lợi nhuận. Người tổ chức đấu giá để thu phí dịch vụ; người bán
hàng muốn bán hàng hóa của mình thông qua đấu giá với giá cao nhất; người mua
muốn mua được hàng hóa rẻ, chất lượng và có thể sinh lời. Khác với mua bán tài

sản thông thường, chủ thể trong hoạt động mua bán hàng hóa là các thương nhân,
tham gia quan hệ với mục tiêu thu lợi nhuận. Mục đích mua bán hàng hóa của họ
không phải để sử dụng mà là mua đi bán lại sinh lời. Do vậy, hành vi mua bán hàng
hóa chính là một hoạt động đầu tư, kinh doanh của các chủ thể trong quan hệ kinh
tế, thương mại.
1.1.4. Phương thức và hình thức đấu giá hàng hóa
* Phương thức đấu giá hàng hóa
Tùy thuộc vào từng trường hợp mà đấu giá có thể được thực hiện theo
nhiều cách thức khác nhau, cụ thể:
Một là, đấu giá theo phương thức trả giá lên: được bắt nguồn từ nước Anh.
Đây là hình thức đấu giá phổ biến nhất được áp dụng nhiều tại các nước trên thế
giới. Tại các cuộc đấu giá, nhân viên điều hành nêu giá khởi điểm của lô hàng hay
tài sản bán đấu giá, những người tham gia sẽ trả giá nâng dần lên theo từng mức
nhất định. Người điều hành đấu giá thông báo công khai về giá đã trả của những
người tham gia đấu giá hàng hóa bằng cách nhắc lại ba lần một cách rõ ràng, chính
xác bằng lời nói giá đã trả cao nhất, mỗi lần cách nhau ba mươi giây. Người điều
hành đấu giá chỉ được công bố người mua được hàng hóa đấu giá nếu sau ba lần
nhắc lại giá người đó đã trả mà không có người nào trả giá cao hơn. Trường hợp giá
trả cao nhất được công bố thấp hơn so với giá khởi điểm thì cuộc đấu giá hàng hóa
coi như không thành.
Hình thức này được áp dụng phổ biến nhất trong các cuộc đấu giá vì nó có
lợi cho bên mua và bên bán. Bên mua được chủ động đề xướng giá đặt mua; bên
bán thường được lợi vì giá bán thường cao hơn giá khởi điểm mà mình đưa ra. Tuy
nhiên người tham gia đấu giá luôn biết rõ đối thủ của mình trả giá nên làm chủ về


13
mặt thời gian và mức giá đưa ra. Họ chỉ trả giá nhích từng chút một và nhiều khi
cuộc đấu giá kết thúc với giá bán được không bỏ xa giá khởi điểm nhiều.
Ở nước ta hiện nay, phương thức trả giá lên được áp dụng phổ biến và

thông dụng nhất. Hầu hết các văn bản đấu giá đều quy định phương thức này cho
các cuộc đấu giá là tài sản và hàng hóa.
Hai là, đấu giá theo phương thức đặt giá xuống: bắt nguồn từ Hà Lan vào
đầu thế kỷ XV. Đấu giá theo phương thức đặt giá xuống được áp dụng trong trường
hợp một hàng hóa không được chấp nhận khi đưa ra một mức giá cao hoặc một
hàng hóa muốn được bán đi thật nhanh.
Ưu điểm của phương thức đấu giá này là hàng hóa được bán thường là các
hàng hóa giống nhau, có số lượng lớn hoặc hàng hóa mau hỏng. Trong các cuộc đấu
giá này, một món hàng được chào bán với một mức giá rất cao. Giá ban đầu được
đưa ra cao hơn nhiều so với giá trị món hàng và không có người bán nào hi vọng
bán được món hàng với giá cao như vậy. Do đó, giá được giảm xuống từ từ cho đến
khi một người trả giá nào đó quyết định mua thì người đó là người chiến thắng.
Đối với phương thức đấu giá này, thời gian diễn ra cuộc đấu giá rất ngắn,
mọi người tham gia cuộc đấu giá thường im lặng để chờ đến mức giá mà họ có thể
quyết định mua. Điều này hoàn toàn ngược lại với không khí cạnh tranh sôi nổi của
đấu giá theo phương thức đấu giá lên.
Quy trình của đấu giá theo phương thức này có thể khiến chúng ta nghĩ rằng
người có hàng hóa có thể bị lỗ tiền, nhưng sự thực người có hàng hóa thường được
nhiều tiền hơn kiểu đấu giá theo phương thức đấu giá lên truyền thống. Đối với một
cuộc đấu giá theo phương thức đấu giá lên, người tham gia đấu giá tăng giá nhưng
hiếm khi họ đạt đến mức giá trị thực của hàng hóa. Họ không có lý do để hành động
thật nhanh vì họ biết chính xác khi nào thì cuộc đấu giá kết thúc và họ thường đợi
đến phút cuối và chỉ tăng giá một chút. Tuy nhiên, theo phương thức đặt giá xuống,
người tham gia đấu giá sẽ hành động thật nhanh vì họ không biết khi nào thì cuộc
đấu giá kết thúc. Vì vậy, dù giá đang giảm mạnh thay vì tăng giá, người tham gia trả
giá sẽ kết thúc việc trả giá với giá thậm chí cao hơn giá trị món hàng.


14
Tính cạnh tranh trong phương thức đấu giá này là cạnh tranh ngầm giữa

những người tham gia đấu giá muốn sở hữu hàng hóa. Mức giá càng giảm thì người
tham gia đấu giá càng muốn mua và tính cạnh tranh ngày càng tăng.
Nhược điểm: phương thức đấu giá này cũng bộc lộ những điểm hạn chế
sau: Một là, với tính chất đặc biệt của phương thức đấu giá này nên các cuộc đấu
giá rất khó tổ chức. Người điều hành tổ chức đấu giá phải là những người có kinh
nghiệm và chuyên nghiệp thì mới điều hành được phiên đấu giá. Hai là, số lượng
người tham gia đấu giá tham gia cuộc đấu giá thường bị hạn chế vì hàng hóa đem
bán đấu giá rất khó xác định giá trị thực của hàng hóa.
Hiện nay, LTM 2005 và Luật ĐGTS 2016 đều quy định cả hai phương thức
đấu giá hàng hóa là trả giá lên và đặt giá xuống để người có hàng hóa, tài sản lựa
chọn phương thức đấu giá. Quy định cả hai phương thức sẽ giúp tổ chức đấu giá và
người có hàng hóa, tài sản thỏa thuận lựa chọn phương thức phù hợp với mục đích
và với từng loại hàng hóa bán đấu giá. Trong thực tiễn, có những loại hàng hóa
được đưa ra bán đấu giá với mục tiêu trước tiên là phải bán được hàng hóa, sau đó
mới đến mục tiêu bán hàng hóa với giá tốt nhất. Trong trường hợp này, đấu giá theo
phương thức đặt giá xuống sẽ đáp ứng được yêu cầu đặt ra.
Ngoài hai phương thức đấu giá cơ bản như trên, hiện nay còn tồn tại một số
phương thức đấu giá khác, đó là: Phương thức đấu giá ngược được áp dụng đối với
các cuộc đấu giá trực tuyến (Internet); Phương thức đấu giá nhượng quyền là hình
thức đấu giá dài vô hạn định, dành cho những sản phẩm có thể được tái bản (như
bản thu âm, phần mềm, sáng tác, công thức làm thuốc, nước hoa, rượu…), những
người thắng cuộc là những người đặt giá bằng hoặc cao hơn giá được chọn và sẽ
nhận được phiên bản của sản phẩm...
* Hình thức đấu giá hàng hóa
Hình thức đấu giá hàng hóa có thể trực tiếp bằng lời nói, bằng bỏ phiếu trực
tiếp tại cuộc đấu; bỏ phiếu gián tiếp; thông qua mạng Internet hoặc các hình thức
khác. Trong thực tế, khi tổ chức đấu giá hàng hóa sẽ nảy sinh rất nhiều vấn đề mà
mỗi hình thức đấu giá có những ưu, nhược điểm khác nhau:



15
Một là, đấu giá dùng lời nói: là hình thức mà trong phiên đấu giá, nhân viên
điều hành đấu giá dùng lời nói của mình để đưa ra giá khởi điểm. Người mua sẽ đặt
giá cũng bằng lời nói hoặc bằng việc làm dấu hiệu để người điều hành đấu giá biết.
Tuy nhiên, những cuộc đấu giá áp dụng hình thức này nếu có nhiều người tham gia
thì rất khó điều hành. Bởi vì, sau khi người đầu tiên trả giá thì có thể có hàng loạt
người trả giá cùng một lúc. Điều này dẫn đến người điều hành đấu giá không xác
định được ai sẽ là người được trả giá kế tiếp gây ra tình trạng mất trật tự trong cuộc
đấu giá. Mặt khác, áp dụng hình thức đấu giá này có thể phát sinh tiêu cực khi mà
người tổ chức đấu giá sắp xếp thứ tự người tham gia đấu giá có lợi cho người mua
trong trường hợp người mua móc ngoặc với người tổ chức đấu giá.
Hai là, đấu giá bằng bỏ phiếu: là hình thức đấu giá mà việc trả giá của
người mua không được thể hiện bằng lời nói hoặc làm dấu hiệu mà người tham gia
đấu giá phải trả giá bằng hình thức viết vào phiếu do người tổ chức đấu giá cung
cấp. Nhân viên điều hành sẽ thông báo mức giá khởi điểm của hàng hóa và những
người tham gia trả giá trên cơ sở mức giá khởi điểm đó. Sau khi những người tham
gia đã trả giá bằng cách bỏ vào hòm phiếu đã được quy định thì nhân viên điều hành
cuộc bán đấu giá tổ chức mở hòm phiếu kiểm tra và thông báo người trúng giá là
người trả giá cao nhất. Hình thức này áp dụng phù hợp với những cuộc đấu giá có
số lượng người đăng ký tham gia đấu giá nhiều như đấu giá quyền sử dụng đất để
giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất và đấu giá cổ phần…
Ba là, đấu giá thông qua mạng Internet: là hình thức đấu giá hàng hóa hiện
đại. Về ưu điểm, đấu giá thông qua mạng Internet không ràng buộc thời gian, việc
đặt giá ở bất kỳ lúc nào; không ràng buộc về địa lý. Điều này làm cho các cuộc đấu
giá thêm gần gũi và giảm chi phí tham dự một cuộc đấu giá; đồng thời cũng làm
tăng số lượng các sản phẩm hàng hóa và số lượng người tham gia đấu giá. Hàng hóa
không cần phải đưa đến sàn đấu giá, giảm được chi phí, giảm được mức giá khởi
điểm được chấp nhận của người bán hàng hóa đưa ra.
Về nhược điểm: hình thức này không có gì ràng buộc người tham gia đấu
giá. Do vậy, nhiều người tham gia đấu giá trả giá rất cao, rồi không mua hàng hóa.



16
Ngoài ra, một số người tham gia đấu giá dùng những tên ảo tham gia để phá cuộc
đấu giá giúp họ mua được hàng hóa chất lượng nhưng giá rẻ.
Bốn là, đấu giá bằng bỏ phiếu gián tiếp. Luật ĐGTS quy định hình thức
đấu giá bằng bỏ phiếu gián tiếp, theo đó điều 43 quy định: Khi đăng ký tham gia
đấu giá, người tham gia đấu giá được nhận phiếu trả giá, hướng dẫn về cách ghi
phiếu, thời hạn nộp phiếu trả giá và buổi công bố giá; được tổ chức ĐGTS giới
thiệu từng tài sản đấu giá, nhắc lại giá khởi điểm trong trường hợp công khai giá
khởi điểm, trả lời câu hỏi của người tham gia đấu giá và các nội dung khác theo
Quy chế cuộc đấu giá.
Về ưu điểm, hình thức này có thể khắc phục được tình trạng "thông đồng",
"dìm giá" "đầu gấu", "đe dọa" đang diễn ra phổ biến hiện nay.
Về nhược điểm, hiện chưa có hướng dẫn cụ thể về chất liệu bảo mật của
phiếu tham gia đấu giá; một số tỉnh còn lúng túng khi triển khai hình thức này.
Ngoài các hình thức đấu giá nêu trên, pháp luật hiện hành còn cho phép
người có hàng hóa bán đấu giá và người tổ chức đấu giá thỏa thuận các hình thức
đấu giá khác. Tuy nhiên, thực tiễn hoạt động đấu giá hiện nay, các tổ chức đấu giá
không có sự lựa chọn linh hoạt các hình thức đấu giá cho phù hợp với từng loại
hàng hóa để bán đấu giá thu được hiệu quả cao và để đảm bảo sự an toàn, tránh rủi
ro khi tổ chức đấu giá. Đối với đấu giá hàng hóa chủ yếu chỉ chọn hình thức đấu giá
trực tiếp bằng lời nói; đối với ĐGTS chủ yếu là hình thức bỏ phiếu trực tiếp và cùng
phương thức trả giá lên.
1.1.5. Các nguyên tắc của đấu giá hàng hóa trong thương mại
1.1.5.1. Nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết trong đấu giá hàng hóa
Đây là nguyên tắc tối cao trong quan hệ hợp đồng nói chung và quan hệ
đấu giá nói riêng. Nguyên tắc này được thể hiện trong suốt quá trình đấu giá. Nếu
việc mua bán đấu giá vi phạm nguyên tắc này thì sẽ bị xem xét hủy bỏ theo quy
định của pháp luật. Các chủ thể tham gia quan hệ được tự do thể hiện ý chí trong

việc lựa chọn chủ thể, đối tượng, mức giá, địa điểm, hình thức và phương thức thực
hiện hợp đồng. Quyền tự do cam kết, thỏa thuận của các bên làm xác lập quyền,


17
nghĩa vụ trong quan hệ đấu giá hàng hóa được pháp luật bảo đảm, nếu cam kết, thỏa
thuận đó không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Cam
kết, thỏa thuận hợp pháp có hiệu lực bắt buộc thực hiện đối với các bên và phải
được cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác tôn trọng.
1.1.5.2. Nguyên tắc công khai, liên tục trong đấu giá hàng hóa
Đấu giá là hình thức công khai lựa chọn người mua hàng hóa nên mọi vấn
đề liên quan đến cuộc đấu giá và những thông tin về hàng hóa bán đấu giá phải
được công khai cho tất cả những người mua biết bằng các hình thức như: niêm yết,
thông báo, trưng bày, giới thiệu về hàng hóa; công khai về thời gian, địa điểm tổ
chức đấu giá; tên loại, số lượng, chất lượng, giá khởi điểm của hàng hóa… Tại
phiên đấu giá, người điều hành đấu giá phải công khai các mức giá được trả và họ
tên người mua trả giá cao nhất của mỗi lần trả giá.
1.1.5.3. Nguyên tắc trung thực, khách quan trong đấu giá hàng hóa
Người bán hàng hóa, người tổ chức bán đấu giá, người điều hành đấu giá
cần phải thông tin đầy đủ về cuộc đấu giá, về hàng hóa, các giấy tờ có liên quan đến
hàng hóa bán đấu giá, những đặc điểm, khuyết tật không nhìn thấy của hàng hóa,
các giấy tờ xác định tư cách của người tham giá đấu giá phải rõ ràng, chính xác và
đầy đủ để không tạo ra sự nhầm lẫn hay lừa dối đối với các bên mà sự nhầm lẫn hay
lừa dối đó sẽ làm cho cuộc đấu giá bị vô hiệu. Yêu cầu về tính trung thực còn thể
hiện ở việc pháp luật quy định những người có thân phận pháp lý hay hoàn cảnh đặc
biệt mà sự tham dự của họ có ảnh hưởng đến sự trung thực, khách quan của cuộc
đấu giá thì không được tham gia trả giá.
1.1.5.4. Nguyên tắc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham
gia đấu giá hàng hóa
Trong quan hệ đấu giá hàng hóa, quyền và lợi ích hợp pháp của tất cả các

bên phải được coi trọng và đảm bảo. Người bán hàng có quyền xác định giá khởi
điểm của hàng hóa, có quyền yêu cầu tổ chức đấu giá thanh toán đầy đủ tiền bán
hàng hóa ngay sau khi cuộc đấu giá kết thúc, được bồi thường thiệt hại nếu tổ chức
đấu giá hoặc bên mua có hành vi xâm hại đến lợi ích của mình. Người mua hàng


18
hóa có quyền xem hàng hóa, yêu cầu cung cấp đầy đủ thông tin về hàng hóa, được
tự đặt giá, được xác lập quyền sở hữu đối với hàng hóa sau khi hoàn thành văn bản
đấu giá và thực hiện xong nghĩa vụ thanh toán. Người mua có quyền trả lại hàng
hóa cho tổ chức đấu giá và yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại nếu chất lượng hàng hóa
không đúng như thông báo. Tổ chức đấu giá được thu của người bán hàng hóa thù
lao và các khoản chi phí khác cho việc tổ chức đấu giá theo quy định của pháp luật.
Trường hợp người bán hàng hóa không thông tin đầy đủ về giá trị, chất lượng hàng
hóa thì người tổ chức đấu giá không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho
người mua hàng hóa.
1.1.6. Phân biệt đấu giá hàng hóa với đấu thầu hàng hóa, dịch vụ
Việc phân biệt giữa đấu giá hàng hóa và đấu thầu là cần thiết bởi lẽ đây là
hai hoạt động thương mại, kinh tế khác nhau có nhiều điểm tương đồng dễ bị nhầm
lẫn khi lựa chọn luật áp dụng. Trong quan hệ mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ,
hoạt động đấu giá hàng hóa và đấu thầu ngoài những điểm giống nhau là cùng có
mục đích nhằm công khai, minh bạch, cạnh tranh về giá cả, để đảm bảo quyền và
lợi ích của chủ sở hữu, của Nhà nước, của công dân và các tổ chức thì còn có những
điểm khác biệt cơ bản như sau:
Một là, về bản chất: Đấu giá hàng hóa là một hợp đồng mua bán hàng hóa
công khai có nhiều người cùng tham gia trả giá và người trả giá cao nhất là người mua
được hàng hóa. Đấu thầu là một tiến trình mua bán hàng hóa, dịch vụ theo một quy
chế riêng biệt nhằm chọn được nhà cung cấp đáp ứng được yêu cầu của bên mua để ký
kết và thực hiện hợp đồng. Nếu đấu thầu hàng hóa là một hình thức công khai để lựa
chọn người bán, thì đấu giá hàng hóa là hình thức công khai để lựa chọn người mua.

Hai là, về chủ thể: Trong đấu giá hàng hóa chủ thể tham gia thông thường
bao gồm 3 bên là người bán hàng hóa, người tổ chức đấu giá và người mua; còn các
chủ thể trong đấu thầu chỉ bao gồm có hai bên là bên mời thầu và bên tham gia đấu
thầu. Ngoài ra, nếu bên đấu giá hàng hóa là chủ sở hữu hàng hóa hoặc người có
quyền bán hàng hóa và bên mua hàng hóa là người tham gia đấu giá thì trong đấu
thầu bên có hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ lại là người tham gia đấu thầu.


19
Ba là, về đối tượng: Nếu đối tượng của đấu giá hàng hóa chỉ là hàng hóa
được phép lưu thông trong giao dịch dân sự, thương mại thì đấu thầu được tiến hành
với cả hàng hóa hoặc dịch vụ ví dụ như đấu thầu xây dựng, đấu thầu tư vấn dự án,
đấu thầu lắp đặt trang thiết bị… Chính vì vậy, nếu trong đấu giá bên bán hàng hóa
chỉ quan tâm đến giá cả và người nào trả giá cao nhất sẽ trúng đấu giá thì đối với
đấu thầu bên mời thầu ngoài giá cả thì còn quan tâm, xem xét nhiều hơn đến trình
độ kỹ thuật, khả năng, uy tín, công nghệ, bản quyền, tài chính… của bên dự thầu.
Bốn là, về phương thức: Trong đấu giá hàng hóa có hai phương thức đấu
giá chính là phương thức trả giá lên nghĩa là người trả giá cao nhất so với giá khởi
điểm là người có quyền mua hàng; và phương thức đặt giá xuống nghĩa là người
đầu tiên chấp nhận ngay mức giá khởi điểm hoặc mức giá được hạ thấp hơn mức
giá khởi điểm là người có quyền mua hàng. Còn đấu thầu có hai phương thức là đấu
thầu rộng rãi nghĩa là không hạn chế số lượng các bên dự thầu và thông báo công
khai các điều kiện dự thầu trên các phương tiện thông tin đại chúng; và đấu thầu hạn
chế nghĩa là bên mời thầu chỉ mời một số bên có điều kiện tốt nhất tham gia dự
thầu. Trong đấu thầu không có quy định về trả giá lên hay đặt giá xuống.
Năm là, về thông tin: Nội dung thông báo và niêm yết đấu giá hàng hóa
được thực hiện công khai, từ việc xác định thời gian, địa điểm; tên, địa chỉ của
người tổ chức đấu giá, người bán hàng; giá khởi điểm; các thông tin cần thiết liên
quan đến danh mục, số lượng, chất lượng hàng hóa; giá khởi điểm; địa điểm, thời
gian đăng ký mua hàng hóa... Trong đấu thầu, bên mời thầu tổ chức tiếp nhận hồ sơ

thầu, vào sổ, niêm phong, quản lý và bảo đảm giữ bí mật hồ sơ dự thầu; các tổ chức,
cá nhân có liên quan đến việc tổ chức đấu thầu và xét chọn thầu phải giữ bí mật
thông tin liên quan trong suốt quá trình đấu thầu.
Sáu là, về điều kiện bảo đảm: Trong một số trường hợp, người tổ chức đấu
giá có thể yêu cầu người tham gia đấu giá nộp một khoản tiền đặt trước. Ngược lại,
trong đấu thầu, bên mời thầu có thể yêu cầu bên dự thầu nộp tiền đặt cọc, ký quỹ
hoặc bảo lãnh dự thầu khi nộp hồ sơ dự thầu.
Bảy là, về trình tự, thủ tục: Trong đấu giá thì người trả giá cao nhất là
người trúng đấu giá. Kết thúc phiên đấu giá thì hợp đồng mua bán được giao kết.


20
Còn đấu thầu, bên mời thầu tiến hành xét thầu theo trình tự như: nghiên cứu, đánh
giá chi tiết và xếp hạng các hồ sơ dự thầu đã được mở, căn cứ theo yêu cầu của hồ
sơ và tiêu chuẩn đánh giá để lựa chọn thương nhân đáp ứng tốt nhất các yêu cầu do
bên mời thầu đặt ra để ký kết và thực hiện hợp đồng.
1.2. Khái quát pháp luật về đấu giá hàng hóa
1.2.1. Khái niệm về pháp luật đấu giá hàng hóa trong thương mại
Ở Việt Nam, các cơ quan có thẩm quyền đã ban hành một số văn bản liên
quan đến đấu giá và đấu giá hàng hóa như: Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1989,
BLDS 1995, LTM 1997, trong đó quy định về đấu giá hàng hóa. Cụ thể hóa BLDS
1995 và LTM 1997, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 86/CP kèm theo Quy chế
bán ĐGTS, theo đó, nội dung Quy chế quy định việc thành lập các tổ chức đấu giá
hàng hóa ở các tỉnh, thành phố và quy định một số nội dung liên quan đến đấu giá
hàng hóa. Từ năm 2002 đến 2004, Chính phủ đã ban hành một số Nghị định liên
quan đến đấu giá hàng hóa trên từng lĩnh vực cụ thể; bên cạnh đó các Bộ, ngành
cũng ban hành nhiều Thông tư hướng dẫn thực hiện Luật, Nghị định có liên quan
đến đấu giá hàng hóa.
Ngày 18/01/2005 Chính phủ ban hành Nghị định số 05/2005/NĐ-CP và
ngày 04/5/2005 Bộ Tư pháp ban hành Thông tư số 03/2005/TT-BTP về hướng dẫn

một số quy định của Nghị định số 05/2005/NĐ-CP. Năm 2005, Quốc hội đã ban
hành BLDS 2005 thay thế BLDS 1995, vấn đề bán đấu giá được quy định trong Bộ
luật (từ điều 456 đến điều 462) và ban hành LTM 2005 thay thế LTM 1997, LTM
2005 đã quy định cụ thể, rõ ràng hơn về đấu giá hàng hóa với 29 điều (từ điều 185
đến điều 213) về phương thức, trình tự, thủ tục đấu giá hàng hóa. Để hoàn thiện hơn
quy trình đấu giá hàng hóa, cũng như quản lý nhà nước về đấu giá hàng hóa trong
thời kỳ hội nhập kinh tế, quốc tế. Ngày 04/3/2010 Chính phủ đã ban hành Nghị định
số 17/2010/NĐ-CP thay thế Nghị định số 05/2005/NĐ-CP và Bộ Tư pháp đã ban
hành Thông tư số 23/2010/TT-BTP ngày 06/12/2010 quy định chi tiết và hướng dẫn
thực hiện Nghị định số 17/2010/NĐ-CP. Những văn bản này lần đầu tiên quy định
khá rõ phạm vi điều chỉnh pháp luật về đấu giá hàng hóa, quy định nguyên tắc,


×