Tải bản đầy đủ (.docx) (49 trang)

Hoàn thiện pháp luật về đấu thầu xây lắp và thực tiễn áp dụng tại Công ty cổ phần Sông đà 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (305.13 KB, 49 trang )

LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn tới thầy hướng dẫn luận văn của tôi, Thạc sĩ
Nguyễn Thái Trường đã tạo mọi điều kiện, động viên và giúp đỡ tôi hoàn thành tốt khóa
luận này. Sự hiểu biết sâu sắc về chuyên môn cũng như kinh nghiệm của thầy chính là
tiền đề giúp tôi đạt được những thành tựu và kinh nghiệm quý báu.
Xin cám ơn Khoa Kinh Tế - Luật, Trường đại học Thương Mại đã tạo điều kiện
thuận lợi cho tôi làm việc trên khoa để tiến hành tốt luận văn.
Tôi cũng xin cảm ơn bạn bè và gia đình đã luôn bên tôi, cổ vũ và động viên tôi
những lúc khó khăn để có thể vượt qua và hoàn thành tốt khóa luận này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
1
MỤC LỤC
2
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
LĐT (2005) : Luật Đấu thầu năm 2005
LĐT (2013) : Luật Đấu thầu năm 2013
3
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết nghiên cứu của đề tài
Đấu thầu là một phương thức vừa có tính khoa học vừa có tính pháp quy, khách
quan mang lại hiệu quả cao, tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh và hợp pháp trên thị trường
xây dựng. Đó là một điều kiện thiết yếu để đảm bảo sự thành công cho chủ đầu tư thông
qua tính tích cực, hiệu quả mang lại là hạ giá thành công trình, tiết kiệm kinh phí đầu tư,
sản phẩm xây dựng được đảm bảo về chất lượng và thời hạn xây dựng. Đấu thầu đã thúc
đẩy lực lượng sản xuất phát triển, đẩy mạnh phát triển khoa học kỹ thuật trong xây dựng,
đổi mới công nghệ thi công từ đó góp phần tích cực thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá
hiện đại hoá nền kinh tế nhà nước. Đấu thầu xây ở Việt Nam đã và đang chiếm một vị thế
ngày càng quan trọng trong hoạt động đấu thầu nói chung ở nước ta. Đặc thù giá trị gói
thầu lớn và hoạt động đấu thầu xây lắp chiếm tổng số vốn đầu tư cao của nhà nước càng
làm cho hoạt động đấu thầu xây lắp được đặc biệt chú trọng. Tuy nhiên, trên thực tế, công
tác đấu thầu ở nhiều nơi đã không phát huy được hiệu quả và đúng mục tiêu như nêu trên,


bởi những bất cập trong quá trình mời thầu, tổ chức đấu thầu, trong xử lý vi phạm và giải
quyết tranh chấp của chính những người trong cuộc là chủ đầu tư, nhà thầu và cơ quan
quản lý nhà nước về công tác đấu thầu. Họ tìm cách lách luật vì lợi ích cục bộ, nhưng lại
gây ra những hậu quả lớn hơn cho lợi ích của các bên liên quan, thậm chí gây tổn hại đến
lợi ích của nền kinh tế, của Nhà nước. Chính vì vậy, pháp luật quy định về công tác đấu
thầu cần phải có sự điều chỉnh, bổ sung và bắt kịp với thời đại để luôn đem lại được hiệu
quả cao trong quá trình thực thi.
Việc ban hành Luật đấu thầu năm 2005 đã khắc phục các tồn tại của thực tiễn thực
hiện đấu thầu như tình trạng lạm dụng hình thức đấu thầu hạn chế, chỉ định thầu; thông
đồng móc ngoặc trong đấu thầu; vấn đề khép kín trong đấu thầu;… đảm bảo các mục tiêu
của công tác đấu thầu như cạnh tranh, công khai, minh bạch, hiệu quả kinh tế. Đó cũng
chính là một minh chứng thể hiện sự quyết tâm của Việt Nam trong việc nâng cao địa vị
pháp lý, tăng cường tính công khai, minh bạch của công tác đấu thầu tại Việt Nam. Tuy
nhiên sau nhiều năm thực hiện, Luật Đấu thầu (LĐT) (2005) còn bộc lộ nhiều hạn chế,
đem lại khó khăn trong công tác đấu thầu cho các doanh nghiệp nói riêng và sự quản lí
của nhà nước nói chung. Đứng trước những khó khăn này, đòi hỏi phải có những quy định
khắc phục được các bất cập của LĐT (2005) để tạo cơ sở pháp lý áp dụng đồng bộ nhằm
góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác đấu thầu. Ngay sau khi Luật Đấu thầu năm
2013 có hiệu lực thi hành (1/7/2014), đã cơ bản giải quyết được những bất cập của hệ
4
thống pháp luật về đấu thầu trước đó, tiệm cận với những thông lệ quốc tế, đưa công tác
tổ chức đấu thầu đạt hiệu quả cao, hạn chế những rủi ro có khả năng xảy ra trong các dự
án quy mô lớn và tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư trong nước và quốc tế tham gia.
Quan trọng hơn là trong quy trình lựa chọn nhà thầu, Luật Đấu thầu 2013 đã quy định rất
rõ về việc thương thảo hợp đồng, giúp cho bước thương thảo hợp đồng thực sự có ý
nghĩa.
Để quá trình vận dụng pháp luật về đấu thầu nói chung và pháp luật quy định về đấu
thầu xây lắp nói riêng được thuận lợi, dễ dàng thì cần nghiên cứu kỹ lưỡng các quy định
pháp luật về đấu thầu của các nhà thầu trong đấu thầu xây lắp. Những hiểu biết càng sâu
sắc bao nhiêu về các quy định pháp luật trong lĩnh vực này sẽ nhằm nâng cao năng lực

cạnh tranh của các nhà thầu trong nước, góp phần xây dựng hệ thống pháp luật quốc gia
Việt Nam trong hoạt động đấu thầu nói chung và đấu thầu xây lắp nói riêng. Do đó sự
quan tâm, nghiên cứu thấu đáo về mặt lý luận cũng như thực tiễn theo quy định tại
LĐT(2013) rất quan trọng và có tính cấp thiết cao. Thêm vào đó, việc ban hành LĐT
(2013) đưa vào thực thi còn gây nhiều bỡ ngỡ cho các bên tham gia mời thầu, gây ra việc
khó khăn trong công tác đấu thầu nói chung và đặc biệt là công tác đấu thầu xây lắp nói
riêng. Xuất phát từ thực tiễn cũng như tính thời sự cao của vấn đề này, tác giả đã lựa
chọn vấn đề “Hoàn thiện pháp luật về đấu thầu xây lắp và thực tiễn áp dụng tại Công
ty cổ phần Sông đà 4” làm đề tài khóa luận của mình.
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu
Luật đấu thầu là một trong những vấn đề cơ bản của hệ thống luật nên cũng đã được
đề cập đến trong nhiều công trình nghiên cứu. Các công trình chủ yếu xoay quanh việc
nghiên cứu và phân tích các quy định trong hệ thống pháp luật đấu thầu, chỉ ra những tồn
tại yếu kém mà LĐT (2005) còn đang mắc phải. Có thể kể đến một số công trình nghiên
cứu như Luận văn Thạc sỹ Luật học “Đấu thầu trong các hoạt động xây dựng bằng nguồn
vốn ngân sách nhà nước và ODA theo pháp luật Việt Nam hiện hành” của tác giả Trần
Thắng Lợi - Đại học Luật Hà Nội năm 2003; luận văn tập trung phân tích các quy định
của pháp luật Đấu thầu Việt Nam hiện hành đặc biệt là các quy định về đấu thầu trong
hoạt động xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước. Về việc phân tích các quy định
về công tác đấu thầu cũng có nhiều công trinh đã từng nghiên cứu kĩ lưỡng, ví dụ như
“Pháp luật về đấu thầu trong lĩnh vực xây dựng cơ bản” của tác giả Hà Thị Minh Châu –
Đại học Luật Hà Nội năm 2010. Không chỉ kể đến các khóa luận, luận văn của các tác
giả, còn có nhiều công trình được viết dưới dang tạp chí đề cập đến các vấn đề xung
5
quanh công tác đấu thầu, đơn cử như bài viết “Quản lí nhà nước về đấu thầu trong xu thế
toàn cầu hóa” của tác giả Đỗ Kiến Vọng được đăng trên ấn phẩm của Học viện hành
chính quốc gia số 11/2014; bài viết “ Vấn đề chọn nhà thầu trong hoạt động xây dựng”
của tác giả Nguyễn Chí Dũng được đăng trên ấn phẩm của trường Đại học Luật Hà Nội số
10/2006…Về mặt tổng quát các công trình đều chỉ dừng lại ở nghiên cứu một cách khái
quát các quy định của Luật Đấu thầu đề từ đó đưa ra các kiến nghị để hoàn thiện luật

Về góc độ nghiên cứu riêng đấu thầu xây lắp thì có rất ít công trình tập trung đi sâu ,
có thể kể đến như khóa luận “ Pháp luật điều chỉnh hành vi hạn chế cạnh tranh trong đấu
thầu xây lắp các công trình sử dụng vốn nhà nước” của tác giả Bùi Thị Thanh Hằng - Đại
học Luật Hà Nội năm 2009. Tuy nhiên công trình này cũng chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu
một hành vi nhỏ trong cả công tác đấu thầu xây lắp mà chưa có cái nhìn tổng quát để làm
rõ được về các quy định về công tác đấu thầu xây lắp đang rất có tính thời sự hiện nay.
Xem xét một cách khái quát, hầu như đã có rất nhiều công trình tập trung nghiên
cứu về lí luận cũng như thực tiễn các quy định trong LĐT nhưng lại chưa có một công
trình nào làm rõ được những mặt cụ thể của công tác đấu thầu, đơn cử như đấu thầu xây
lắp. Thêm vào đó, khi LĐT (2013) có hiệu lực thi hành thì các công trình nghiên cứu về
các vấn đề liên quan đến pháp luật về đấu thầu đều thiếu tính thời sự, không phân tích
được những điểm mới theo pháp luật hiện hành. Do đó, với sự kế thừa nghiên cứu và
phân tích đánh giá, lấy “điểm mới” là phân tích theo LĐT (2013) mới đưa vào thực thi,
tác giả hy vọng sẽ là một công trình nghiên cứu đáp ứng được tính cấp thiết hiện nay.
3. Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu
Đề tài được thực hiện nhằm giải quyết những vấn đề cụ thể như sau:
Thứ nhất, chỉ ra thực trạng các quy phạm pháp luật về đấu thầu xây lắp tại Việt
Nam, phân tích bình luận những quy định của pháp luật về đấu thầu và đấu thầu xây lắp
và đánh giá tác động, ảnh hưởng của chúng trong thực tiễn áp dụng tại công ty cổ phần
sông đà 4
Thứ hai, trên cơ sở phân tích thực trạng, đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện các
quy định của pháp luật về đấu thầu xây lắp nói riêng và lĩnh vực đấu thầu nói chung.
4. Đối tượng, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Khóa luận chủ yếu hướng đến đối tượng là các vấn đề pháp lý về Luật đấu xây lắp,
đặc biệt là áp dụng thực tiễn tại các công ty cổ phần.
4.2. Mục tiêu:
6
Với đề tài đã chọn, tác giả muốn làm rõ các quy định của pháp luật về đấu thầu xây
lắp bằng cách phân tích thực trạng pháp luật và thực trạng thi hành trong công tác đấu

thầu xây lắp, trên cơ sở những ưu điểm và tồn tại để đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện
các quy định về pháp luật đấu thầu xây lắp nói riêng và lĩnh vực đấu thầu nói chung.
Do vậy mục tiêu mà khóa luận nhắm tới chính nhất là hoàn thiện hệ thống pháp Luật
Đấu thầu, cụ thể hơn là liên quan đến đấu thầu xây lắp để giúp cho các doanh nghiệp trên
thương trường có thể cạnh tranh lành mạnh và có thể phát triển một cách công bằng dẫn
tới sự phát triển của đất nước nói chung và của các doanh nghiệp nói riêng.
4.3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Về nội dung, khóa luận tập trung nghiên cứu những quy định của pháp luật về đấu
thầu xây lắp trong công tác đấu thầu trên cơ sở phân tích những hạn chế của Luật Đấu
thầu hiện nay đối với công tác chuẩn bị đấu thầu và lựa chọn nhà thầu, từ đó thấy được
những bất cập hiện có để đưa ra những kiến nghị giúp hoàn thiện Luật Đâu thầu nói
chung và pháp luật về đấu thầu xây lắp nói riêng.
Về không gian, khóa luận nghiên cứu dựa trên phạm vi các quy định của Luật Đấu
thầu và hướng đến đối tượng chính là đấu thầu xây lắp, chủ yếu là các quy định của LĐT
(2013), ngoài ra khóa luận còn có sự đối chiếu với các quy định của LĐT (2005) và tham
chiếu tới một số Luật Đấu thầu của một số nước trên thế giới.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để làm rõ vấn đề nghiên cứu, khóa luận trên dùng nhiều phương pháp nghiên cứu
khoa học như: Ở chương 1 của khóa luận tác giả sử dụng phương pháp phân tích các vấn
đề chung về đấu thầu, các loại hình thức đấu thầu, các nguyên tắc trong đấu thầu. Đến
chương 2, tác giả sử dụng phương pháp phân tích nhằm làm rõ những quy định của pháp
luật về đấu thầu xây lắp trong công đoạn đấu thầu, qua đấy thấy được những bất cập khó
khăn của pháp luật hiện hành. Chính vì vậy ở chương 3 bằng phương pháp đối chiếu,
phương pháp thống kê – phân tích tác giả đã đưa ra kiến nghị góp phần hoàn thiện các
quy định của pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả công tác đấu thầu.
6. Kết cấu khóa luận tốt nghiệp:
Ngoài phần lời mở đầu và kết luận, nội dung của khóa luận bao gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lí luận cơ bản về pháp luật điều chỉnh lĩnh vực đấu thầu và
đấu thầu xây lắp
Chương 2: Thực trạng các quy định của pháp luật Việt Nam trong lĩnh vực đấu thầu

xây lắp. Thực tiễn áp dụng tại Công ty cổ phần Sông đà 4
7
Chương 3: Một số kiến nghị góp phần hoàn thiện pháp luật điều chỉnh về lĩnh vực
đấu thầu xây lắp
8
Chương 1: Những vấn đề lí luận cơ bản về pháp luật điều chỉnh lĩnh vực đấu thầu và
đấu thầu xây lắp
1.1. Một số khái niệm cơ bản liên quan đến đấu thầu và đấu thầu xây lắp
1.1.1. Khái niệm đấu thầu
9
Có rất nhiều những quan điểm khác nhau vế đấu thầu, theo từ điển tiếng việt thì đấu
thầu được hiểu là việc tổ chức cuộc so đọ công khai ai nhận làm, nhận bán với điều kiện
tốt nhất thì được chấp nhận. Theo đó, thì đấu thầu là cuộc đọ sức công khai giữa các tổ
chức kinh tế và tài chính.
Theo quan điểm của nhà thầu thì, khái niệm đấu thầu được hiểu là một phương thức
kinh doanh mà thông qua đó nhà thầu với điều kiện và khả năng về năng lực tài chính, kỹ
thuật, tiến độ đáp ứng được cơ bản các yêu cầu của Bên mời thầu, có cơ hội dành được
hợp đồng, thực hiện các công việc của gói thầu.
Theo quan điểm của Bên mời thầu đấu thầu là hính thức lựa chọn nhà thầu tốt nhất
đáp ứng được các yêu cầu về kinh tế, về kỹ thuật, chất lượng, tiến độ thi công và chi phí
xây dựng công trình. Quan điểm này cũng như theo điều 4 của Luật đấu thầu năm 2013
quy định Đấu thầu là quá trình lựa chọn nhà thầu đáp ứng các yêu cầu của bên mời thầu
để thực hiện gói thầu thuộc các dự án quy định tại Điều 1 của Luật đấu thầu trên cơ sở
bảo đảm tính cạnh tranh, công bằng, minh bạch và hiệu quả kinh tế.
Quan niệm theo quan hệ hợp đồng hoạt động đấu thầu là quan hệ hợp đồng giữa bên
mua ( Bên mời thầu) và bên bán ( các nhà thầu). Tuy nhiên nó đặc biệt hơn vì đây là quan
hệ trong đó chỉ có một người mua nhưng rất nhiều người bán
Xét về bản chất đấu thầu là phương thức lựa chọn đối tác. Sau khi đấu thầu , bên mời
thầu xếp hạng được một danh sách ưu tiên giao kết hợp đồng. Người trúng thầu là người
đứng đầu danh sách ưu tiên giao kết hợp đồng Nguời trúng thầu là người đứng đầu danh

sách được ưu tiên thương thảo, ký kết đầu tiên, nếu không thành sẽ đến người tiếp theo.
Pháp luật về hợp đồng không điều chỉnh việc lựa chọn đối tác, mà đó là quyền tự do của
các chủ thể giao kết hợp đồng. Hình thức củ hợp đồng giao kết thông qua đấu thầu phải
bằng văn bản. Hợp đồng chỉ có hiệu lực khi được người có thẩm quyền phê duyệt
Tóm lại các quan điểm trên được nghiên cứu từ nhiều phương diện khác nhau, nhưng
có thể rút lại chung khái niệm đấu thầu, đó là quá trình lựa chọn nhà thầu đáp ứng cơ bản
các yêu cầu của bên mời thầu nhằm bảo đảm tính cạnh tranh, công bằng, minh bạch, và
hiệu quả kinh tế cho gói thầu.
1.1.2. Phân loại các hình thức đấu thầu:
- Đấu thầu rộng rãi
10
Đấu thầu rộng rãi là hình thức đấu thầu không hạn chế số lượng nhà thầu tham gia.
Bên mời thầu phải thông báo công khai về các điều kiện thời gian dự thầu trên các
phương tiện thông tin đại chúng giới thiệu trước 10 ngày trước khi phát hành hồ sơ mời
thầu. Đấu thầu rộng rãi là hình thức chủ yếu được áp dụng trong đấu thầu.
- Đấu thầu hạn chế
Đấu thầu hạn chế là hình thức đấu thầu mà bên mời thầu mời một số nhà thầu ( tối
thiểu là 5 nhà thầu ) có đủ năng lực tham dự. Danh sách nhà thầu tham dự phải được
người thẩm quyền hoặc cấp có thẩm quyền chấp thuận khi : Chỉ có một số nhà thầu có
khả năng đáp ứng được các yêu cầu của gói thầu. Các nguồn vốn sử dụng yêu cầu phải
tiến hành đấu thầu hạn chế. Mặt khác do tình hình cụ thể của gói thầu mà việc đấu thầu
hạn chế lợi thế.
- Chỉ định thầu
Chỉ định thầu là hình thức chọn trực tiếp nhà thầu đáp ứng yêu cầu của gói thầu để
thương thảo hợp đồng.
Hình thức này được áp dụng trong các trường hợp đặc biệt sau :
+ Trường hợp bất khả kháng do thiên tai dịch hoạ, được phép chỉ định ngay đơn vị
củ đủ năng lực để thực hiện công việc kịp thời. Sau đó phải báo cáo Thủ tướng chính phủ
về nội dung chỉ định thầu để xem xét phê duyệt.
+ Gói thầu có tính chất nghiên cứu thử nghiệm, bí mật quốc gia, bí mật an ninh, bí

mật quốc phòng do Thủ tướng chính phủ quyết định.
+ Gói thầu có giá trị dưới 1 tỷ đồng đối với việc mua sắm hàng hoá xây lắp, dưới
500 triệu đồng đối với tư vấn.
Khi chỉ định thầu các gói thầu, người có thẩm quyền quyết định chỉ định chịu trách
nhiệm trước pháp luật vể quyết định của mình.
Trường hợp thấy không cần thiết chỉ dịnh thầu thì tổ chức đấu thầu theo quy định.
Nghiêm cấm việc tuỳ tiện chia dự án thành nhiêu gói thầu nhỏ để chỉ định thầu.
Bộ Tài chính quy định cụ thể về chỉ định thầu mua sắm đồ dùng, vật tư trang thiết
bị, phương tiện làm việc thường xuyên của cơ quan nhà nước, đoàn thể, Doanh nghiệp
nhà nước, đồ dùng vật tư, trang thiết bị, phương tiện làm việc thông thường của lực lượng
vũ trang.
+ Gói thầu có tính chất đặc biệt khai thác do yêu cầu của cơ quan tài trợ vốn do
tính phức tạp về kỹ thuật và công nghệ hoặc do yêu cầu đột xuất của dự án, do người có
thẩm quyền quyết định đầu tư, quyết định chỉ định thầu trên cơ sở báo cáo thẩm định của
11
Bộ kế hoạch và Đầu tư, ý kiến bằng văn bản của cơ quan tài trợ vốn là các cơ quan cơ liên
quan khác.
+ Phần vốn ngân sách dành cho dự án của các cơ quan sự nghiệp để thực hiện
nhiệm vụ nghiên cứu về quy hoạch phát triển kinh tế, quy hoạch phát triển nghành quy
hoạch chung xây dựng đô thị và nông thôn, đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
giao nhiệm vụ thực hiện thì không phải đấu thầu nhưng phải có hợp đồng cụ thể giao nộp
sản phẩm theo đúng quy định.
+ Gói thầu tư vấn lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, khả thi của dự án đầu tư thì
không phải đấu thầu nhưng chủ đầu tư phả chọn nhà tư vấn phù hợp với yêu cầu của dự
án.
Nội dung của báo cáo đề nghị chỉ định thầu gồm :
- Lý do chỉ định thầu
Kinh nghiệm và năng lực về mặt kỹ thuật, tài chính của nhà thầu được đề nghị
chỉ định thầu.
- Giá trị và khối lượng đã được người (cấp) có thẩm quyền phê duyệt làm căn cứ

cho chỉ định thầu( riêng gói thầu xây lắp phải có thiết kế và dự toán được duyệt theo quy
định).
Trong trường hợp cần phải khắc phục ngay hiệu qủa thiên tai dịch hoạ. Sự cố thì
chủ dự án cần xác định khối lượng và giá trị tạm tính, sau đó phải lập đày đủ hồ sơ, phải
dự toán được trình duyệt theo quy định để nắm cơ sở cho việc quyết toán.
- Chào hàng cạnh tranh
Hình thức này áp dụng cho các gói thầu mua sắm hàng hoá có giá trị dưới 2 tỷ
đồng. Mỗi gói thầu có phải ít nhất 3 cháo hàng của 3 nhà thầu khác nhau trên cơ sở yêu
cầu chào hàng của bên mời thầu. Việc chào hàng có thể được thực hiện bằng gửi trực tiếp,
bằng Fax, bằng bưu điện hoặc bằng các phương tiện khác.
- Mua sắm trực tiếp
Hình thức này áp dụng khi đang thực hiện dở hợp đồng hoặc bổ xung hợp đồng cũ
đã thực xong dưới 1 năm với một nhà thầu mà bên mua lại có nhu cầu mua thêm nhưng
với điều kiện không được vượt quá mức giá hay đơn giá trong hợp đồng đã kí trước đó.
Trước khi có hợp đồng nàh thầu phải chứng minh có đủ năng lực về kĩ thuật và tài
chính để thực hiện gói thầu.
- Tự thực hiện.
12
Hình thức nay áp dụng đối với các gói thầu mà chủ đầu tư có đủ khả năng thực
hiện.
Hình thức này áp dụng đối với các nghành hết sức đặc biệt, ví dụ như máy bay,mà
nếu không có những quy định riêng thì không thể đấu thầu được.
Cơ quan quản lý nghành phải xây dựng quy trình thực hiện đảm bảo các mục tiêu
của quy chế đấu thầu và có ý kiến thoả thuận của Bộ kế hoạch và Đầu tư để trình Thủ
tướng chính phủ quyết định.
1.1.3. Khái quát về các loại hình đấu thầu
Đối với đấu thầu tuỳ theo tính chất của từng giai đoạn đầu tư thực hiện dự án mà hình
thành các loại đấu thầu. Mỗi cách phân loại phụ thuộc vào góc độ nhìn nhận và xem xét
về đấu thầu.
Đấu thầu được phân làm 4 loại:

1. Đấu thầu theo nội dung cơ bản của quá trình tuyển chọn
2. Đấu thầu theo phạm vi lãnh thổ
3. Đấu thầu theo phương thức đấu thầu
4. Đấu thầu theo lĩnh vực hoạt động
1.1.3.1. Đấu thầu theo nội dung của quá trình tuyển chọn.
Loại hình đấu thầu này gồm : đấu thầu tuyển chọn tư vấn, đấu thầu mua sắm hàng
hoá, đấu thầu xây lắp, đấu thầu đối với gói thầu quy mô nhỏ, đấu thầu lựa chọn đối tác để
thực hiện dự án.
Đấu thầu tuyển chọn tư vấn: Đây là quá trình lựa chọn ra nhà tư vấn hay tổ chức tư
vấn có đủ trình độ và kinh nghiệm đáp ứng được yêu cầu tư vấn cho bên mời thầu trong
quá trình chuẩn bị dự án và thực hiện các dự án đầu tư. Như vậy có thể tư vấn về lập báo
cáo nghiên cứu tiền khả thi, lập thiết kế, lập hồ sơ mời thầu, đánh giá xét thầu và giám sát
thực hiện thầu. Nhà tư vấn không tham gia đánh giá kết quả công việc do mình thực hiện
và không được tham gia đấu thầu thực hiện các gói thầu mua sắm hàng hoá và xây lắp do
mình là nhà tư vấn ( trừ các gói thầu thực hiện theo loại hợp đồng chìa khoá trao tay).
Đấu thầu mua sắm hàng hoá: Là quá trình lựa chọn nhà thầu cung ứng hàng hoá đáp
ứng được nhu cầu của bên mời thầu và các điều kiện hành chính, pháp lý, kỹ thuật,
thương mại, tài chính hàng hoá. Trên cơ sở hồ sơ dự thầu, bên mời thầu sẽ đánh giá và
cho điểm đối với chỉ tiêu về năng lực và kinh nghiệm của nhà thầu, về kỹ thuật, khả năng
tài chính, giá cả và thời gian thực hiện dự án phù hợp với hồ sơ mời thầu.
Đấu thầu xây lắp: Là quá trình lựa chọn nhà thầu xây dựng, có khả năng đáp ứng
được yêu cầu của bên mời thầu đối với gói thầu có quy mô nhỏ. Gói thầu quy mô nhỏ là
13
gói thầu có giá trị dưới 2 tỷ đồng với mua sắm hàng hoá hoặc xây lắp. Trên cơ sở hồ sơ
dự thầu, bên mời thầu sẽ đánh giá ( đạt được hay không đạt ) về mặt kỹ thuật, tiến độ thực
hiện đối với gói thầu mua sắm hàng hoá phù hợp với hồ sơ mời thầu.
Đấu thầu lựa chọn đối tác để thực hiện dự án: Là một loại đấu thầu đặc biệt, được áp
dụng nếu dự án có từ hai đối tác trở nên quan tâm thực hiện thì phải tiến hành đấu thầu để
người có thẩm quyền có cơ sở xem xét, lựa chọn đối tác để thực hiện dự án.Trong trường
hợp có bảy đối tác trở lên quan tâm thực hiện dự án thì phải tiến hành sơ tuyển.

1.1.3.2. Đấu thầu theo phạm vi lãnh thổ
Bao gồm: Đấu thầu trong nước và đấu thầu quốc tế
Đấu thầu trong nước: Là hình thức tuyển chọn nhà thầu mà chỉ có các nhà thầu trong
nước tham gia dự thầu.
Đấu thầu quốc tế: Là đấu thầu trong đó có sự tham gia của một hay nhiều nhà thầu ở
nhiều nước khác nhau. Hình thức này được thực hiện khi gói thầu không có hoặc chỉ có
một nhà thầu trong nước đáp ứng được nhu cầu của gói thầu. Và trường hợp gói thầu có
sử dụng nguồn vốn của các cơ quan tổ chức quốc tế có quy định là phải tiến hành tổ chức
đấu thầu quốc tế.
1.1.3.3 . Theo phương thức đấu thầu.
Đấu thầu một túi hồ sơ: Là phương thức mà nhà thầu nộp hồ sơ dự thầu trong một túi
hồ sơ. phương thức này áp dụng với đấu thầu mua sắm hàng hoá và xây lắp.
Đấu thầu hai túi hồ sơ: Là phương thức mà nhà thầu nộp đề xuất về kĩ thuật và đề
xuất về giá trong từng túi hồ sơ riêng vào cùng một thời điểm. Túi hồ sơ đề xuất kĩ thuật
sẽ được xem xét trước để đánh giá. Các nhà thầu đạt được số điểm kĩ thuật từ 70% trở lên
sẽ được mở tiếp túi hồ sơ đề xuất giá để đánh giá. Phương thức này chỉ được áp dụng đối
với đấu thầu tuyển chọn tư vấn.
Đấu thầu hai giai đoạn: Phương thức này áp dụng cho những trường hợp sau:
- Các gói thầu mua sắm hàng hoá và xây lắp có giá trị từ 500 tỷ đồng trở lên.
- Các gói thầu mua sắm hàng hoá có tính chất lựa chọn công nghệ thiết bị toàn bộ, phực
tạp về công nghệ hoặc kĩ thuật hay gói thầu xây lắp đặc biệt phức tạp.
- Dự án thực hiện theo hợp đồng chìa khoá trao tay
1.1.3.4. Đấu thầu theo lĩnh vực hoạt động.
Có ba loại đấu thầu đó là: đấu thầu xây dựng, đấu thầu hàng hoá và đấu thầu mua
sắm thiết bị công cộng.
14
Đấu thầu xây dựng: Được quy định trong Nghị định số 88/CP ngày 01/09/1999 bao
gồm đấu thầu tuyển chọn tư vấn, đấu thầu mua sắm hàng hoá, đấu thầu xây lắp, đấu thầu
đối với gói thầu quy định nhỏ, đấu thầu lựa chọn đối tác để thực hiện dự án.
Đấu thầu hàng hoá.: Loại hình đấu thầu này được Luật thương mại ngày 10/05/1997

điều chỉnh. Đối tượng của đấu thầu hàng hoá chính là những hàng hoá được các nhà cung
ứng cạnh tranh với nhau để bán được. Những hàng hoá này là những hàng hoá mang tính
thương mại, có ý nghĩa là được thông qua đấu thầu để thu lời. Đấu thầu hàng hoá là việc
hàng hoá thông qua mời thầu nhằm lựa chọn thương nhân dự thầu đáp ứng được các yêu
cầu về giá cả, điều kiện kinh tế kĩ thuật do bên mời thầu đặt ra.
Đấu thầu mua sắm thiết bị công cộng: Là quá trình lựa chọn nhà thầu có khả năng
cung ứng hàng hoá, máy móc thiết bị cho bên mời thầu. Nguồn vốn để mua sắm công
cộng là vốn ngân sách nhà nước cung cấp. Vì vậy vốn này thuộc sở hữu nhà nước.Trong
quan hệ đấu thầu mua sắm công cộng, chủ đầu tư của nhà nước, người mời thầu là tổ
chức được nhà nước uỷ quyền hay giao vốnvà cho các nhà thầu là những người có hàng
hoá thiết bị máy móc và mong muốn được bán cho bên mời thầu.
1.1.4. Khái niệm về đấu thầu xây lắp:
Đấu thầu xây lắp được hiểu là hình thức đấu thầu lựa chọn nhà thầu để thực hiện
những công việc xây dựng và lắp đặt các công trình, hạng mục công trình, cải tạo, sửa
chữa lớn. Thực chất của đấu thầu xây lắp là việc áp dụng phương pháp xét hiệu quả thực
tế trong việc lựa chọn đơn vị thi công xây dựng. Phương pháp này đòi hỏi sự so sánh giữa
các đơn vị tham gia đấu thầu trên cùng một phương diện (như kỹ thuật, uy tín của đơn vị
tham dự đấu thầu, tài chính…) để chọn lấy một nhà thầu có đủ khả năng để thực hiện gói
thầu. Về bản chất đấu thầu xây lắp cũng giống như hoạt động mua bán, tuy nhiên nó khác
những hợp đồng mua bán khác là hàng hóa ở đây là công việc, và chỉ có một người bán
nhưng lại có nhiều người mua. Người bán là chủ đầu tư, người mua là các nhà thầu, người
bán lựa chọn người mua theo nhiều tiêu chí khác nhau như năng lực thực hiện. Trước đây
việc lựa chọn nhà thầu phụ thuộc nhiều vào giá mà người mua đưa ra tuy nhiên cho đến
nay mức giá không ảnh hưởng đến việc lựa chọn nhà thầu, mà chủ yếu là xét đến yếu tố
kỹ thuật, năng lực của nhà thầu, còn mức giá có thể thương lượng sau đó. Trên thực tế
thấy rằng việc lựa chọn nhà thầu trong hoạt động xây dựng là một công việc quan trọng
bởi có lựa chọn được nhà thầu tốt, có đầy đủ năng lực thì mới hoàn thành tốt, chất lượng
công trình mới được đảm bảo. Trong mỗi một dự án có những phần việc khác nhau như
thiết kế, xây dựng, lắp đặt thiết bị …, việc tổ chức đấu thầu có thể chia làm nhiều gói thầu
15

khác nhau và tổ chức lựa chọn nhà thầu thích hợp để thực hiện những gói thầu đó. Mặt
khác, việc lựa chọn nhà thầu còn nhằm tìm được nhà thầu có đủ điều kiện, năng lực để
phù hợp với từng công trình, tuy nhiên nhà thầu chính có thể giao một phần công việc của
hợp đồng đấu thầu cho các nhà thầu phụ, nhà thầu phụ này cũng phải có đầy đủ năng lực
trong xây lắp, có thể thực hiện tốt phần việc mà nhà thầu chính giao cho, việc này cần
phải có sự chấp nhận của chủ đầu tư, nhà thầu phụ không được giao toàn bộ hoặc phần
việc chính trong hợp đồng đấu thầu cho nhà thầu phụ khác.
1.2. Cơ sở ban hành và nội dung pháp luật về đấu thầu và đấu thầu xây lắp
1.2.1. Cơ sở ban hành pháp luật về đấu thầu và đấu thầu xây lắp
Việt nam đang trong giai đoạn phát triển bước đầu, do vậy công việc về xây dựng cơ
sở hạ tầng là một vấn đề quan trọng, không thể thiếu để đáp ứng được với những yêu cầu
phát triển kinh tế. Việc Nhà nước ban hành Luật đấu thầu nói chung và Đấu thầu xây lắp
nói riêng là một hệ quả tất yếu, nhằm góp phần tăng cường công tác quản lý dự án, khắc
phục các tồn tại hiện có để mang lại hiệu quả cao hơn trong việc sử dụng các nguồn tiền
còn hạn hẹp của đất nước, đồng thời cũng xuất phát từ các lý do sau đây:
Một là, chủ trương ban hành văn bản pháp luật có tính pháp lý cao về đấu thầu đã
được Quốc hội thông qua từ nhiều năm trước đây. Dự án Pháp lệnh đấu thầu (PLĐT) đã
được Quốc hội khóa X đưa vào Chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh năm 1999 và tiếp
đó luôn được đưa vào chương trình xây dựng pháp luật hàng năm. Đến tháng 6/2005, Dự
án PLĐT đã qua 10 lần dự thảo, trong đó Dự thảo lần 10 đã được Chính phủ thông qua và
trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội (UBTVQH). Tuy nhiên, do tầm quan trọng của công tác
đấu thầu, phù hợp với xu hướng tăng cường ban hành luật của Quốc hội và yêu cầu hội
nhập quốc tế, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã yêu cầu Chính phủ nâng Pháp lệnh đấu thầu
thành Luật đấu thầu.
Hai là, việc ban hành Luật đấu thầu sẽ tạo ra sự thống nhất trong quy định đối với
việc chi tiêu sử dụng vốn nhà nước, từ đó khắc phục được những khó khăn phát sinh
trong quá trình thực hiện do có các quy định khác nhau về đấu thầu tại nhiều văn bản
pháp lý. Vấn đề chi tiêu sử dụng nguồn vốn nhà nước luôn phức tạp, tiềm ẩn các hành vi
gây thất thoát, tiêu cực nên mỗi nước đều ban hành các văn bản pháp lý cao nhất để quản
lý với tên gọi như Luật Mua sắm công,…

Ba là, để phù hợp với tiến trình hội nhập quốc tế và tình hình kinh tế - xã hội của đất
nước, việc ban hành Luật đấu thầu sẽ tăng cường tính pháp lý cao nhất của các quy định
về đấu thầu, phù hợp với xu hướng luật hóa của nước ta và các nước trên thế giới.
16
Bốn là, Luật đấu thầu được ban hành sẽ làm cơ sở pháp lý chủ yếu, là Luật gốc về
đấu thầu đối với các hoạt động chi tiêu sử dụng vốn nhà nước, đồng thời là khung pháp lý
cho các đối tượng khác áp dụng khi xét thấy phù hợp. Hiện tại, khá nhiều văn bản Luật
chuyên ngành khi đề cập về đấu thầu thường quy định là phải thực hiện theo các quy định
của pháp luật về đấu thầu (được hiểu là Luật đấu thầu). Theo đó, Luật đấu thầu được ban
hành sẽ làm căn cứ dẫn chiếu cho các luật khác, tạo sự thống nhất trong quá trình triển
khai thực hiện.
Năm là, việc ban hành Luật đấu thầu chắc chắn sẽ là sự kiện có tính thuyết phục cao
trong quá trình đàm phán gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) vì đây sẽ là một
minh chứng thể hiện sự quyết tâm của Việt Nam trong việc nâng cao địa vị pháp lý, tăng
cường tính công khai, minh bạch của công tác đấu thầu tại Việt Nam. Đồng thời, Quy chế
Đấu thầu hiện hành cũng như Dự thảo Luật đấu thầu được soạn thảo về cơ bản phù hợp
với thông lệ đấu thầu mua sắm công trên thế giới, trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc các quy
định mua sắm công của các nước và của các tổ chức quốc tế, như quy định của các nhà tài
trợ WB, ADB, JBIC…, Luật mẫu của UNCITRAL về đấu thầu (do Uỷ ban Luật Thương
mại Quốc tế của Liên hợp quốc ban hành), Luật Mua sắm công của một số nước trên thế
giới….
1.2.2. Nội dung pháp luật về đấu thầu và đấu thầu xây lắp
Pháp luật về đấu thầu xây lắp bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh
các quan hệ xã hội phát sinh giữa các chủ thể trong quá trình tổ chức đấu thầu, thực hiện
hợp đồng đấu thầu và quá trình cơ quan Nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước
về đấu thầu. Pháp luật về đấu thầu xây lắp bao gồm những nhóm quy định cơ bản sau:
- Điều kiện áp dụng đấu thầu xây lắp
- Quyền, nghĩa vụ của các chủ thể tham gia đấu thầu xây lắp –
- Quy trình đấu thầu xây lắp
Việc đấu thầu xây lắp tuân theo pháp luật xây dựng, những vấn đề không được quy

định trong pháp luật xây dựng thì sẽ áp dụng pháp luật đấu thầu, đối với dự án sử dụng
vốn hỗ trợ phát triển chính thức (gọi tắt là ODA), việc đấu thầu được thực hiện trên cơ sở
nội dung điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên
hoặc thỏa thuận quốc tế mà cơ quan, tổ chức có thẩm quyền của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam đã ký kết. Những vấn đề không được quy định trong các loại văn bản
pháp luật trên thì áp dụng các văn bản pháp luật quy định các vấn đề chung như: Luật dân
sự … Xuất phát từ yêu cầu quản lý nhà nước trong lĩnh vực đầu tư xây dựng, Nhà nước
ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về đấu thầu trong xây lắp đi liền với quá trình
17
hình thành và phát triển của hệ thống pháp luật về đấu thầu. Tại Việt Nam, đấu thầu và
pháp luật đấu thầu nói chung, đấu thầu xây lắp nói riêng thực sự hình thành từ khi nền
kinh tế chuyển đổi sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên trước
đó cũng có những yêu cầu làm tiền đề cho việc ban hành pháp luật đấu thầu sau này
Ở nước ta pháp luật về đấu thầu nói chung và pháp luật về đấu thầu xây lắp nói riêng,
là đang trong quá trình hoàn thiện, nên những quy định đang còn thiếu tính chặt chẽ và
chưa đồng bộ.
1.3. Các nguyên tắc pháp luật điều chỉnh lĩnh vực đấu thầu xây lắp
Để tiến hành hoạt động đấu thầu đạt hiệu quả cao cũng như theo ý chí điều chỉnh của
nhà nước, đảm bảo lợi ích của các chủ thể trong kinh tế đấu thầu phải tuân thủ các nguyên
tắc sau :
1.3.1. Nguyên tắc cạnh tranh công bằng bình đẳng.
Nguyên tắc cạnh tranh trong đấu thầu là rất cần thiết, nó giúp cho bên mời thầu có thể
xem xét, lựa chọn nhà thầu nào đạt được các yêu cầu mà mình đặt ra một cách tối ưu nhất
: Cạnh tranh trong đấu thầu còn giúp cho các nhà thầu tích luỹ được kinh nghiệm, chuyên
môn cũng như khả năng cạnh tranh. Mọi biện pháp cạnh tranh không trái pháp luật để
thắng thầu của chủ thể tham gia được coi là minh bạch và công bằng trên thị trường đều
có quyền áp dụng.
1.3.2. Nguyên tắc dữ liệu đầy đủ
Bất kỳ một nhà thầu nào, bên mời thầu cũng phải chuẩn bị dữ liệu để phục vụ cho
việc lập hồ sơ mời thầu và xúc tiến việc đấu thầu còn đối với các nhà thầu họ cần phải

nhận được đầy đủ hồ sơ tài liệu do bên mời thầu cung cấp với các thông tin, dữ liệu chính
sác, chi tiết , rõ ràng , cụ thể về mọi mặt : Kỹ thuật tài chính, pháp luật, năng lực uy tín và
các điều kiện khác. Khi nhận được đầy đủ các thông tin đó nhà thầu mới biết được yêu
cầu do bên mời thầu định ra và tự đánh giá được khả năng đáp ứng của mình để quyết
định cớ dự thầu hay không.
Nguyên tắc này rất quan trọng đỗi với cả hai bên, vì thế cả hai bên phải có trách
nhiệm cung cấp và đảm bảo dữ liệu đầy đủ chính xác, có như vậy mới đảm bảo thực hiện
tốt công việc. Nếu không nó sẽ làm phát sinh nhiều rắc rối trong suốt quá trình đấu thầu,
dẫn đến thiệt hại cho bên mời thầu, nhà thầu và cho toàn xã hội.
1.3.3. Nguyên tắc bảo đảm bí mật
Quá trình thực hiện thầu phải đảm bảo bí mật về những thông tin cần thiết. Đó là sự
bảo đảm về sự cạnh tranh lành mạnh giữa các nhà thầu bởi một nhà thầu sẽ có một hồ sơ
18
dự thầu với những thông tin dữ liệu quan trọng quyết định việc thành công hay thất bại
của việc dự thầu. Do vậy, không được tiết lộ các thông tin liên quan đến quá trình xét thầu
như nội dung các hồ sơ dự thầu, các biên bản cuộc họp về xét thầu, các đánh giá của
chuyên gia hoặc tư vấn đối với từng nhà thầu và các tài liệu có liên quan. Hồ sơ cuả các
nhà thầu được niêm phong giữ kín truớc khi mở thầu. Bên mời thầu có trách nhiệm bảo
mật hồ sơ dự thầu đã nộp. Đối với hồ sơ dự thầu chào hàng cạnh tranh được gửi qua fax
cũng được bảo mật như đối với các hồ sơ dự thầu khác.
1.3.4. Nguyên tắc đánh giá công bằng
Thực hiện đấu thầu phải đảm bảo việc đánh giá công bằng tất cả nhà thầu tham dự
đấu thầu. Các nhà thầu có hồ sơ dự thầu gửi đến bên mời thầu đúng thời gian quy định
đều được tiếp nhận và được quản lý cẩn thận, đánh giá công bằng, ngang nhau về các chỉ
tiêu, tiêu chuẩn không thiên vị hay coi trọng một túi hồ sơ nào. Đánh giá của bên mời
thầu phải theo các tiêu chuẩn đã được đặt ra từ trước như : về kỹ thuật tài chính, pháp
luật, kinh nghiệm, năng lực … Đây cũng là một nguyên tắc quan trọng nếu thiếu thì các
nhà thấu sẽ không yên tâm vì không tin tưởng vào kết quả xét thầu làm mất đi tính cạnh
tranh lành mạnh trong quá trình, xét thầu, do đó nhiều khi dấu kín các tiêu cực trong quá
trình đấu thầu.

1.3.5. Nguyên tắc trách nhiệm phân minh
Trong quan hệ pháp luật về đấu thầu khi các bên tham gia vào quá trình đấu thầu thì
mỗi bên đều phải thực hiện những nghĩa vụ và có những quyền lợi nhất định. Tất cả
những quyền lợi và nghĩa vụ này đều được đề cập và quy định cụ thể trong tất cả các công
đoạn của quá trình đấu thầu. Khi tham gia đấu thầu mỗi bên đểu phải biết trách nhiệm và
quyền hạn của mình thì đều phải gánh chịu hậu quả. Vì vậy mỗi bên phải nỗ lực tối đa
trong việc kiểm soát mọi bất trắc xảy ra.
1.3.6. Nguyên tắc bảo lãnh thích đáng
Để thực hiện quá trình đấu thầu một cách thành công đòi hỏi phải có sự nỗ lực của
tất cả các bên : bên mời thầu và nhà thầu. Bên cạnh đó do điều kiện kinh tế xã hội luôn
luôn vận động và biến động cũng như các lý do khác mà nhà thầu thường gặp cản trở cho
công việc đấu thầu, thực hiện thầu như đòi rút lại hồ sơ, cung cấp thông tin không chuẩn
xác hay trúng thầu mà không thực hiện thầu … nên đòi hỏi nhà thầu phải có bảo lãnh dự
thầu. Đây là một chế định giúp cho bên mời thầu tránh được các rủi ro do cách ứng xử
không đúng của các nhà thầu. Khi tham gia vào quá trình đấu thầu các nhà thầu phải nộp
một khoản bảo lãnh dự thầu kèm với hồ sơ dự thầu, nếu nhà dự thầu nào không có bảo
19
lãnh dự thầu thì hồ sơ đó không hợp lệ và không được chấp nhận. Khoản bảo lãnh này
không phải nộp cho bên mời thầu mà chỉ là một biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
của bên dự thầu và nõ sẽ được hoàn trả lại các nhà thầu nếu họ không trúng thầu hoặc sau
khi trúng thầu nhà thầu nộp bảo lãnh thực hiện hợp đồng. Bảo lãnh thực hiện hợp đồng
cũng là một biện pháp nhằm bảo đảm thực hiện đầy đủ cam kết của nhà thầu trong quá
trình thực hiện các công đoạn tiếp theo.
Trên đây là một số nguyên tắc cơ bản sử dụng trong quá trình đấu thầu những
nguyên tắc này xuyên suốt trong toàn bộ quá trình đấu thầu và đây cũng là những nguyên
tắc được áp dụng rộng rãi trên thế giới hiện nay.
Kết thúc chương 1, chúng ta đã thấy được rằng, đấu thầu nói chung và đấu thầu xây
lắp nói riêng chính là quá trình lựa chọn nhà thầu đáp ứng được các yêu cầu của bên mời
thầu trên cơ sở đảm bảo tính cạnh tranh, công bằng, minh bạch và hiệu quả kinh tế của
gói thầu. Chủ thể tham gia đấu thầu gồm có chủ đầu tư, bên mời thầu (có thể là chủ đầu

tư), người có thẩm quyền, tổ chuyên gia, tư vấn, nhà thầu. Việc lựa chọn nhà thầu theo
yêu cầu của bên mời thầu nhưng nó phải tuân theo một trình tự nhất định do pháp luật quy
định. Chính vì thế để rõ hơn những lí luận cơ bản pháp luật về đấu thầu xây lắp thì tới
chương 2 tác giả sẽ làm sáng tỏ một cách có hệ thống, đưa ra những phân tích cụ thể hơn
để đánh giá thực trạng các quy định pháp luật về đấu thầu xây lắp, đưa ra một cái nhìn
tổng quát cho người đọc về pháp luật hiện hành.
20
Chương 2: Thực trạng các quy định của pháp luật Việt Nam trong lĩnh vực đấu thầu
xây lắp. Thực tiễn áp dụng tại Công ty cổ phần Sông đà 4
2.1.Tổng quan tình hình và các nhân tố ảnh hưởng đến pháp luật về đấu thầu xây
lắp
2.1.1. Tổng quan tình hình pháp luật về đấu thầu xây lắp
2.1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật Việt Nam trong việc điều
chỉnh quan hệ đấu thầu nói chung và đấu thầu xây lắp nói riêng
- Giai đoạn trước khi có Quy chế đấu thầu ban hành kèm theo Nghị định 43/ CP của
Chính Phủ ban hành ngày 16/7/1996. Giai đoạn từ năm 1986 – 1996 là giai đoạn đầu tiên
tại Việt Nam áp dụng đấu thầu, do đó các văn bản quy phạm pháp luật Nhà nước ban hành
chưa thực sự sát với thực tế, tuy nhiên đó cũng là một khởi đầu để Nhà nước tiến tới hoàn
thiện hơn pháp luật đấu thầu nói chung và đấu thầu xây lắp nói riêng.
- Giai đoạn áp dụng Quy chế đấu thầu ban hành kèm theo Nghị đinh số 43/ CP và Nghị
định số 93/1997/NĐ-CP ngày 23/08/1997. Năm 1996, Chính phủ ban hành Nghị định số
43/1996/NĐ-CP của Chính phủ ngày 16/7/1996 về quy chế đấu thầu. “Văn bản này mang
tính pháp lý cao hơn và phạm vi điều chỉnh rộng hơn so với các Quy chế đấu thầu trước
đây, theo đó “gói thầu” lần đầu tiên đã trở thành đối tượng quản lý trong công tác đấu
thầu”.[2]
- Giai đoạn áp dụng Quy chế đấu thầu ban hành kèm theo Nghị định số 88/1999/ NĐ-
CP của Chính phủ ngày 1/9/1999; Nghị định số 14/2000/NĐ-CP của Chính phủ ngày
5/5/2000; Nghị định số 66/2003/NĐ-CP của Chính phủ ngày 12.6.2003. Trong giai đoạn
này pháp luật đấu thầu nói chung và pháp luật đấu thầu xây lắp nói riêng đã có sự phát
triển về chất lượng, hoàn thiện hơn so với giai đoạn trước, điều đó cũng thể hiện ở thực

tiễn áp dụng gặp ít bất cập hơn.
- Giai đoạn áp dụng Luật đấu thầu ngày 29/11/2005 và Nghị định số 58/2008/NĐ-CP
của Chính phủ ngày 05/5/2008.
- Giai đoạn áp dụng Luật sửa đổi bổ sung một số điều liên quan đến đầu tư xây dựng
cơ bản của luật xây dựng số 38/2009/QH12, ngày 29/06/2009 của Quốc hội nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Nghị định 85/2009/NĐ-CP (Nghị định 85/CP) hướng
dẫn thi hành Luật Đấu thầu và lựa chọn nhà thầu xây dựng theo Luật Xây dựng được ban
hành ngày 15/10/2009 và có hiệu lực từ ngày 01/12/2009. Văn bản pháp lý này đã thể
hiện được những những nỗ lực của các cơ quan Nhà nước trong việc ban hành các văn
bản quy phạm pháp luật điều chỉnh lĩnh vực đấu thầu nói chung và đấu thầu xây lắp nói
21
riêng, nó thể hiện sự hoàn thiện hơn hẳn so với thời kỳ mới áp dụng đấu thầu, tuy nhiên
một điều không thể tránh khỏi cùng với tiến trình phát triển kinh tế thì việc áp dụng các
văn bản pháp luật đấu thầu nói chung và đấu thầu xây lắp nói riêng vẫn còn một số bất
cập, đó là lý do để các cơ quan có chức năng cần nghiên cứu thực tiễn áp dụng để ban
hành những văn bản mới, tạo điều kiện tốt để phát huy hiệu quả đấu thầu.
- Thông qua Luật đấu thầu số 43/2013/QH13 (Sau đây gọi là Luật đấu thầu). Luật này
đã được Chủ tịch nước ký Lệnh công bố số 20/2013/L-CTN ngày 09/12/2013 và có hiệu
lực thi hành từ ngày 01/7/2014 ( Giai đoạn hiện hành). Trong giai đoạn này Luật Đấu thầu
đã và đang phát huy được ưu điểm và tránh được những bất cập do luật cũ điều chỉnh đem
lại hiệu quả cao
2.1.1.2. Tổng quan tình hình thực hiện pháp luật về đấu thầu nói chung
Những năm trước đây, các công trình đầu tư xây dựng cơ bản có giá quyết toán công
trình thường vượt quá tổng dự toán và tổng mức đầu tư được duyệt. Đây là một thực trạng
gây thất thoát nguồn lực trong nước đồng thời phát sinh nhiều tiêu cực trong công tác
quản lý và thực hiện dự án. Đấu thầu ra đời đã giúp cho khối lượng công việc, giá thành
được tính toán chính xác, tiến độ thi công được lên kế hoạch cụ thể nên đã tiết kiệm được
rất nhiều chi phí, tránh thất thoát nguồn lực cho các chủ đầu tư. Nhà thầu muốn trúng thầu
phải tận dụng những ưu thế của mình để hạ giá thành của công trình nhưng vẫn đảm bảo
chất lượng công trình. Thông thường giá trúng thầu thường thấp hơn giá dự toán. Đối với

gói thầu xây lắp, mức tiết kiệm vốn bình quân đạt tỷ lệ là 14%, cao hơn so với các gói
thầu mua sắm hàng hoá.
Hệ thống các quy định pháp luật về đấu thầu xây lắp được xây dựng, Bộ kế hoạch và
Đầu tư ban hành hơn 9 thông tư quy định liên quan đến hoạt động xây lắp. Luật đấu thầu
2013 sửa đổi một số Điều LĐT 2005 và Luật xây dựng năm 2003, Nghị định 85 thay thế
Nghị định 58 hướng dẫn thi hành Luật đấu thầu là một việc đáng mừng cho hoạt động đấu
thầu chứng tỏ việc nhìn nhận tầm quan trọng của Nhà nước ta dành cho hoạt động đấu
thầu. Hoạt động thanh kiểm tra và việc triển khai áp dụng đấu thầu thí điểm đấu thầu qua
mạng cũng là một chính sách tiến bộ của Việt Nam.
2.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến đấu thầu xây lắp:
2.1.2.1 Cơ chế quản lý của nhà nước:
Để tăng cường quản lý các hoạt động xây dựng, chính phủ đã ban hành quy chế đấu
thầu và quy chế quản lý đầu tư và xây dựng. Những quy chế này giúp cho doanh nghiệp
hoạt động một cách dễ dàng hơn, nhưng nó cũng hạn chế thị trường hoạt động của doanh
22
nghiệp. Ta thấy đây là nhân tố ảnh hưởng bao chùm nhất của các doanh nghiệp xây dựng,
nó ảnh hưởng tới mọi mặt của đấu thầu như: hình thức, phương thức đấu thầu cá nhân, tổ
chức có đủ tư cách tham gia đấu thầu, người có thẩm quyền quyết định đầu tư Sự ảnh
hưởng lớn của pháp luật nhà nước thể hiện ở 2 khía cạnh:
+ Đối với việc tổ chức đấu thầu của chủ đầu tư: pháp luật và quy chế quy định các dự
án nào phải tổ chức đấu thầu những hình thức lựa chọn nhà thầu, nhận hồ sơ như thế nào,
xét mở thầu ra sao
+ Đối với việc dự thầu của các nhà thầu, pháp luật và quy chế quy định những doanh
nghiệp xây dựng nào được phép tham gia dự thầu, điều kiện và nguyên tắc tham gia dự
thầu, nghĩa vụ và quyền lợi
2.1.2.2. Hình thức lựa chọn nhà thầu của chủ đầu tư
Theo nghị định số 30/2015/NĐ-CP về quy chế đấu thầu có 3 hình thức lựa chọn nhà
thầu:
- Là đấu thầu rộng rãi.
- Đấu thầu hạn chế.

- Chỉ định thầu.
Với mỗi hình thức nó sẽ ảnh hưởng rất lớn tới việc tổ chức đấu thầu của chủ đầu tư
cũng như việc dự thầu của các nhà thầu.
Việc chủ đầu tư lựa chọn hình thức nào để tổ chức lựa chọn nhà thầu có ảnh hưởng rất
lớn đến các công việc, công đoạn trong đấu thầu.
2.1.2.3. Các phương thức đấu thầu
Theo Luật Đấu thầu 2013 ( điều 28 đến điều 31)
thì ở nước ta hiện nay áp dụng các phương thức đấu thầu:
- Đấu thầu 1 túi hồ sơ - đấu thầu 2 túi hồ sơ
- Đấu thầu 2 giai đoạn.
Với mỗi phương thức có một cách tiến hành và với trách nhiệm quyền hạn của các bên
tham gia khác nhau. Vì vậy chủ đầu tư áp dụng phương thức đấu thầu nào sẽ ảnh hưởng
rất lớn tới tiến trình và kết quả đấu thầu.
2.1.2.4. Đối tượng đầu tư:
Việc xác định đầu tư trên lĩnh vực nào là hết sức quan trọng và là việc làm hết sức cần
thiết để từ đó ta xác định được nội dung công việc cầm thực hiện. Việc đầu tư trên các
lĩnh vực khác nhau đòi hỏi hình thức đấu thầu và lựa chọn nhà thầu cho phù hợp. Vì vậy
nó sẽ ảnh hưởng rất lớn đến công tác đấu thầu sau này.
23
2.1.2.5. Đối thủ cạnh tranh:
Đối thủ cạnh tranh cùng doanh nghiệp là những người tham gia dự thầu, tạo ra sự cạnh
tranh với nhau. Số lượng đối thủ và năng lực của các đối thủ trên thị trường quyết định
mức độ cạnh tranh làm ảnh hưởng đến khả năng thắng thầu của doanh nghiệp. Điều đó
đòi hỏi sự hết sức cẩn trọng khi tham gia đấu thầu của doanh nghiệp, muốn giành được
thắng lợi thì phải biết mình, biết đối thủ để có phương cách thích hợp.
2.1.2.6. Nhân tố bên trong doanh nghiệp:
Các nhân tố bên trong doanh nghiệp có ảnh hưởng rất lớn mang tính quyết định đến
khả năng thắng thầu của doanh nghiệp. Các nhân tố đó bao gồm:
- Kinh nghiệm trong việc tìm kiếm thông tin, lập hồ sơ Những kinh nghiệm này giúp
cho doanh nghiệp có nhiều thông tin về các dự án mà chủ đầu tư đang và sẽ mời thầu để

tự do có định hướng phù hợp. Và điều quan trọng là kinh nghiệm trong tổ chức thi công là
một trong những điều kiện giúp doanh nghiệp có đủ khả năng tham dự đấu thầu và đạt
điểm kinh nghiệm trong phần chấm điểm kỹ thuật. Điều đó giúp doanh nghiệp có lợi thế
cao khi tham gia đấu thầu.
- Khả năng tài chính: đây là đòi hỏi quan trọng mà chủ đầu tư đòi hỏi nhà thầu cần phải
có năng lực cần thiết khi tham gia dự thầu. Với năng lực tài chính mạnh sẽ giúp doanh
nghiệp tạo lợi thế trong cạnh tranh và giành thắng lợi.
-“ Khả năng về máy móc thiết bị: nếu doanh nghiệp tự chủ về máy móc, thiết bị, cung
cấp đầy đủ yêu cầu của chủ công trình đấu thầu thì sẽ tạo lợi thế rất lớn trước chủ đầu tư
theo tiêu chuẩn chấm thầu thì khả năng thiết bị của đơn vị tham gia dự thầu có thể đạt tối
đa 15 điểm/100. Hơn nữa khi đó doanh nghiệp có thể cung cấp máy móc thiết bị theo yêu
cầu do mình đặt ra nhằm giảm thời gian thi công. Và có thể có thêm 3 điểm/100 điểm khi
đánh giá tiêu chuẩn kỹ thuật. Ngoài ra, doanh nghiệp tự chủ về máy móc thiết bị có thể
tính khoản khấu hao hợp lý giúp hạ giá thành sản phẩm”.[3]. Do đó, khả năng về máy
móc thiết bị có ảnh hưởng lớn đến khả năng thắng thầu của doanh nghiệp.
- Đội ngũ cán bộ công nhân viên chức phục vụ công trình: Trình độ của đội ngũ cán bộ
công nhân viên chức của doanh nghiệp có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng thắng thầu của
doanh nghiệp. “Đội ngũ cán bộ công nhân viên có trình độ cao, tay nghề vững tạo ra hiệu
quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp giúp doanh nghiệp tăng uy tín
trên thương trường, tạo ra lợi thế cạnh tranh”.[3]
24
- Các mối quan hệ liên danh, liên kết: liên danh khi doanh nghiệp chưa đủ năng lực
tham gia dự thầu và thi công hoàn thành công trình thì đây là một trong những giải pháp
hay nhằm tăng năng lực nhà thầu.
- Một số nhân tố khác: ngoài các yếu tố trên còn rất nhiều yếu tố khác cũng ảnh hưởng
rất lớn đến đấu thầu như vị trí địa lý của doanh nghiệp, uy tín, thời cơ
Tất cả các yếu tố trên đều được chủ đầu tư xem xét và cho điểm theo tỷ lệ nhất định.
Nếu doanh nghiệp đạt số điểm cao thì khả năng trúng thầu rất lớn. Mỗi cuộc đấu thầu
doanh nghiệp phải tập trung vào chỉ tiêu trọng tâm để tạo lợi thế trong đấu thầu.
Tóm lại, các nhân tố bên trong và bên ngoài đều ảnh hưởng rất lớn đến công tác đấu

thầu và khả năng thắng thầu của doanh nghiệp. Vì vậy một doanh nghiệp trên cơ sở của
nhân tố nội bộ, và dựa vào nhân tố khách quan bên ngoài tìm ra cho doanh nghiệp một
chiến lược phù hợp để tăng lợi thế trong đấu thầu, giúp doanh nghiệp giành thắng lợi.
2.2. Thực trạng các quy phạm pháp luật về đấu thầu xây lắp:
2.2.1. Các quy định cơ bản của pháp luật đấu thầu về đấu thầu xây lắp
2.2.1.1. Phạm vi áp dụng đấu thầu xây lắp
Đối với đấu thầu nói chung, Nhà nước ta chỉ quy định một số dự án bắt buộc phải tiến
hành đấu thầu, còn các dự án khác Nhà nước khuyến khích áp dụng. Trong đấu thầu xây
lắp thì các dự án sau bắt buộc phải tổ chức đấu thầu tuyển chọn nhà thầu:
- Các dự án đầu tư thực hiện theo Quy chế Quản lý đầu tư và xây dựng có quy định
phải thực hiện Quy chế đấu thầu
- Các dự án sử dụng vốn Nhà nước từ 30% trở lên cho mục tiêu đầu tư phát triển bao
gồm các dự án đầu tư xây dựng mới, nâng cấp mở rộng các dự án đã đầu tư xây dựng
2.2.1.2 Đối tượng áp dụng đầu thầu xây lắp
Đấu thầu xây lắp áp dụng đối với các chủ thể sau:
- Tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước tham gia hoạt động đấu thầu các
gói thầu thuộc các dự án quy định tại Điều 1 Luật Đấu thầu 2013
+ Đối với nhà thầu là tổ chức trong nước thì cần thỏa mãn những điều kiện sau: (1)
Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, Giấy chứng nhận đầu tư được cấp theo quy định
của pháp luật hoặc có quyết định th ành lập đối với các tổ chức không có đăng ký kinh
doanh; (2) Hạch toán kinh tế độc lập; (3) Không bị cơ quan có thẩm quyền kết luận về
tình hình tài chính không lành m ạnh, đang lâm vào tình trạng phá sản hoặc nợ đọng
không có khả năng chi trả; đang trong quá trình giải thể.
25

×