Tải bản đầy đủ (.doc) (88 trang)

Pháp luật về đấu thầu xây lắp và thực tiễn áp dụng tại Tổng Công ty Đầu tư phát triển hạ tầng đô thị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (632.23 KB, 88 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Khi nền kinh tế phát triển thì các đô thị lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh
rơi vào tình trạng.quá tải! Công tác quy hoạch đô thị ngày càng trở nên khó khăn hơn,
trong đó giải phóng mặt bằng là cả một vấn đề. Hơn nữa, để phát triển một đô thị văn
minh, hiện đại trong tương lai càng không phải là chuyện dễ. Hiện nay, tỷ lệ đô thị
hóa ở nước ta đang diễn ra rất nhanh, cụ thể chỉ từ 19,5% của năm 1990 đã tăng lên
gần 27% vào năm 2005. Đô thị phát triển nhanh, kéo theo thị trường bất động sản
biến động lớn. Bên cạnh những khó khăn đặt ra trong quá trình đổi mới trên nhiều
lĩnh vực, thì đô thị ở Việt Nam cũng đang phải đối diện với nhiều thách thức không
nhỏ. Đó là tỷ lệ người dân ở nông thôn nhập cư vào đô thị ngày càng lớn, tạo ra áp
lực về nhà ở và hạ tầng. Theo Tiến sĩ Phạm Sỹ Liêm, Viện trưởng Viện Nghiên cứu
đô thị và phát triển hạ tầng thì hiện đô thị cả nước có khoảng 25% nhà ở thuộc diện
chưa đạt tiêu chuẩn. Trong đó, Thành phố Hồ Chí Minh có khoảng 300.000 người
sống trong các khu nhà ổ chuột, còn ở Hà Nội có khoảng 30% số dân có diện tích ở
không quá 3m2/người. Tính bình quân trên cả nước, mật độ dân cư ở đô thị tới gần
240 người/ha, tức bình quân mỗi người chỉ có khoảng 42m2, trong khi mức tối thiểu
đạt chuẩn phải là 100m2. Về nước sạch, chỉ có 50% dân cư đô thị có nước máy đạt
chuẩn; chưa có đô thị nào có hệ thống xử lý nước thải, rác thải chất đống trong kênh
rạch, ao hồ ngày càng gây ô nhiễm nặng. Cùng với những bất cập trên là tình trạng
kẹt xe, ô nhiễm không khí do hạ tầng bị quá tải trầm trọng…
Với mục đích tạo ra một hệ thống cơ sở hạ tầng hoàn thiện, Nhà nước đã thực sự
quan tâm đến hoạt động đầu tư xây dựng thông qua việc ban hành hàng loạt các văn
bản nhằm thống nhất quản lý hoạt động đầu tư xây dựng.
Để sử dụng hiệu quả mọi nguồn vốn đầu tư của xã hội, đáp ứng những đòi hỏi về
tiến độ thi công, cũng như nâng cao ý thức pháp luật, tinh thần trách nhiệm của các
bên trong một môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, phát huy tối đa vai trò tự
chủ, tính năng động trong sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp xây dựng, trong
lĩnh vực xây dựng cơ bản đã xuất hiện phương thức mới là đấu thầu.
Phương thức đấu thầu đã được áp dụng rộng rãi ở các nước trên thế giới. Tại Việt
Nam phương thức này chỉ mới xuất hiện nhưng nó đã thể hiện là một phương thức
đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Ở nước ta, pháp luật về đấu thầu


1
nói chung và đấu thầu xây lắp nói riêng mới đang trong giai đoạn hoàn thiện nên các
quy định còn có nhiều bất cập.
Giai đoạn từ năm 1954 cho tới 1975 đất nước ta bị chia cắt, pháp luật ở hai miền
đất nước hoàn toàn khác biệt. Ở miền bắc việc xây dựng xã hội chủ nghĩa theo mô
hình kinh tế tập trung không tạo được môi trường cho sự cạnh tranh kinh tế. Do đó
vấn đề đấu thầu không được đặt ra.
Ở miền Nam trước năm 1975, đấu thầu xây dựng được Chính phủ Việt Nam cộng
hoà áp dụng rộng rãi và bắt buộc đối với các công trình do Chính phủ và các tổ chức
đoàn thể, cơ quan của chính quyền ngụy đầu tư. Các văn bản về đấu thầu đều do
Chính phủ ban hành và áp dụng bắt buộc đối với tất cả các bên tham gia đấu thầu
công trình Chính phủ.
Trong giai đoạn từ sau khi đất nước thống nhất tới những năm đầu tiên của quá
trình đổi mới Việt Nam cũng đã có một số ít văn bản liên quan đến công tác đấu thầu
nhưng Quy chế đấu thầu trong xây dựng đầu tiên được ban hành là Quy chế đấu thầu
ban hành kèm theo Quyết định số 24/BXD-VKT ngày 12 tháng 2 năm 1990 và sau
này được thay thế bằng Quyết định số 60/BXD/VKT ngày 30 tháng 3 năm 1994. Đây
là một bước tiến rõ rệt của việc điều chỉnh công tác đấu thầu trong giai đoạn này.
Năm 1996 Nghị định số 43/1996/NĐ-CP ra đời đã được đánh giá là một bước tiến
lớn với nhiều điểm tiến bộ hơn hẳn so với các văn bản trước đó quy định về đấu thầu
trong xây dựng. Tuy nhiên, chỉ sau một thờ gian ngắn Nghị định số 43/CP được thay
thế bằng Nghị định 88/1999/NĐ-CP ngày 1 tháng 9 năm 1999. Nghị định này đựơc
sửa đổi bổ sung bằng Nghị định 14/CP ngày 5 tháng 5 năm 2000.
Đến nay công tác đấu thầu được điều chỉnh chủ yếu bằng Nghị định 58/2008/NĐ-
CP ngày 05 tháng 5 năm 2008 và Luật đấu thầu 2005. Tuy nhiên một số quy định của
pháp luật về đấu thầu nói chung và đấu thầu xây lắp nói riêng còn nhiều bất cập và
hạn chế, chưa rõ ràng và cụ thể dẫn tới việc hiểu và áp dụng không đúng, chưa đảm
bảo đúng mục đích của đấu thầu là nhằm thực hiện tính cạnh tranh, công bằng, minh
bạch để lựa chọn nhà thầu phù hợp, đảm bảo hiệu quả kinh tế của dự án nói chung
cũng như các công trình xây dựng nói riêng.

Tổng Công ty Đầu tư phát triển hạ tầng đô thị (UDIC) là Tổng công ty kinh doanh
đa dạng hoá ngành nghề, mở rộng quy mô và địa bàn sản xuất kinh doanh với cơ cấu
ngành nghề chính là đầu tư, xây lắp, sản xuất vật liệu xây dựng và công nghiệp…
2
Ngoài những ngành nghề đã có và đang đầu tư xây dựng như khu đô thị, khu công
nghiệp, đường giao thông, các khu công nghiệp, dân dụng, nhà ở…sẽ tham gia đầu tư
xây dựng các công trình hạ tầng kỹ thuật lớn như cầu_hầm_đường bộ quốc gia, công
trình cáp điện trung cao thế…UDIC bao gồm 27 công ty kể cả bộ máy sản xuất của
Tổng Công ty Đầu tư phát triển hạ tầng đô thị.Trong đó có 5 công ty thành viên trong
nước và 5 Công ty liên doanh với nước ngoài đã tổng hợp được sức mạnh về vốn,
kinh nghiệm quản lí, thi công cùng đội ngũ cán bộ quản lí, kỹ sư, cử nhân và công
nhân nhiệt huyết, kinh nghiệm, có trình độ tay nghề cao với hoạt động sản xuất kinh
doanh cùng hệ thống chất lượng ISO đã tạo nên những sản phẩm tốt cả lượng và chất
có uy tín trên thị trường đóng góp vào sự phát triển nhanh, mạnh, bền vững của thủ
đô Hà Nội nói riêng và cả nước nói chung.
Qua quá trình thực tập tại Tổng Công ty Đầu tư phát triển hạ tầng đô thị, nhận
thức rõ vấn đề quan trọng của Pháp luật về đấu thầu xây lắp trong lĩnh vực xây dựng
nói riêng và trong nền kinh tế của đất nước nói chung, tôi đã chọn đề tài “Pháp luật
về đấu thầu xây lắp và thực tiễn áp dụng tại Tổng Công ty Đầu tư phát triển hạ
tầng đô thị”.
Chuyên đề gồm 3 chương:
Chương 1: Lí luận chung về đấu thầu và đấu thầu xây lắp.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật về đấu thầu xây lắp tại Tổng Công ty Đầu
tư phát triển hạ tầng đô thị .
Chương 3: Kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về đấu thầu xây lắp và nâng cao
hiệu quả áp dụng pháp luật về đấu thầu xây lắp tại Tổng Công ty Đầu tư phát triển hạ
tầng đô thị.
Chương 1
3
LÍ LUẬN CHUNG VỀ ĐẤU THẦU

VÀ ĐẤU THẦU XÂY LẮP
I. KHÁI QUÁT VỀ ĐẤU THẦU
1.Khái niệm, đặc điểm của đấu thầu
1.1.Khái niệm
Đấu thầu theo Từ điển Tiếng Việt là đọ công khai, ai nhận làm, nhận bán với điều
kiện tốt nhất thì được giao làm hoặc bán hàng (phương thức giao làm công trình
hoặc mua hàng)
1
.
Đấu thầu còn được hiểu là Đấu giá để thầu
2
Từ điển kinh doanh của Anh (Longman Dictionary of Business) không nêu rõ đấu
thầu là gì mà chỉ giải thích đấu thầu mua sắm là việc sử dụng các phương pháp hoặc
nỗ lực đặc biệt để nhận được hay mua được.
Theo quy định tại Điều 2 Luật đấu thầu 2005; Đấu thầu là quá trình lựa chọn nhà
thầu đáp ứng các yêu cầu của bên mời thâu để thực hiện gói thầu trên cơ sở bảo
đảm tính cạnh tranh, công bằng, minh bạch và hiệu quả kinh tế.
Do đó ta có thể hiểu khái quát đấu thầu chính là quá trình lựa chọn nhà thầu đáp
ứng được các yêu cầu của bên mời thầu hoặc yêu cầu của chủ dự án trên cơ sở cạnh
tranh bình đẳng giữa các nhà thầu.
1.2. Đặc điểm
Đấu thầu là một quá trình chủ đầu tư lựa chọn được một nhà thầu đáp ứng các yêu
cầu của mình. Đấu thầu có thể được coi là một giai đoạn tiền hợp đồng, được sử
dụng với mục đích lựa chọn đối tác, nhà thầu phù hợp, đảm bảo hiệu quả kinh tế của
dự án. Sau khi việc đấu thầu hoàn tất thì việc kí kết hợp đồng sẽ là bước tiếp theo.
Căn cứ để ký kết hợp đồng là kết quả đấu thầu, việc ký kết hợp đồng xây dựng phải
phù hợp với kết quả đấu thầu cũng như đáp ứng được cơ bản các tiêu chí đã được bên
mời thầu đưa ra.
Pháp luật coi đấu thầu hàng hoá, dịch vụ là hoạt động thương mại là vì nó cũng có
những dấu hiệu cơ bản của một hoạt động thương mại:

- Các nhà thầu có tư cách thương nhân khi thực hiện hoạt động dự thầu;
1
Từ điển Tiếng Việt phổ thông. Viện ngôn ngữ học NXB Hồ Chí Minh 2002, tr 270
2
Từ điển Tiếng Việt, Vĩnh Tịnh, NXB Lao Động 2006, tr 318
4
- Hoạt động đấu thầu được thực hiện nhằm mục tiêu lợi nhuận hoặc nhằm thực
hiện các chính sách kinh tế_xã hội;
- Đối tuợng của đấu thầu hàng hoá, dịch vụ là các loại hàng hoá thương mại được
phép lưu thông và các dịch vụ thương mại được phép thực hiện theo quy định của
pháp luật;
- Quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ đấu thầu được xác lập thông qua
những hình thức pháp lí nhất định do pháp luật quy định.
Tuy nhiên, đấu thầu có những đặc điểm đặc thù so với các hoạt động thương mại
khác:
- Thứ nhất, đấu thầu là một quá trình có sự tham gia của nhiều chủ thể
Trong quan hệ đấu thầu các chủ thể tham gia đấu thầu có thể bao gồm: chủ đầu tư,
bên mời thầu, nhà thầu, tổ chuyên gia, tổ chức tư vấn. Trong đó:
Chủ đầu tư là người sở hữu vốn hoặc được giao trách nhiệm thay mặt chủ sở hữu,
người vay vốn trực tiếp quản lý và thực hiện dự án đấu thầu.
Bên mời thầu là bên có khả năng cung cấp hàng hoá, dịch vụ nhưng không phải
bất kì chủ thể nào cũng trở thành bên dự thầu. Bên mời thầu là chủ đầu tư hoặc tổ
chức chuyên môn có đủ năng lực và kinh nghiệm được chủ đầu tư sử dụng để tổ chức
đấu thầu theo các quy định của pháp luật về đấu thầu.
Nhà thầu là tổ chức, cá nhân có đủ tư cách hợp lệ theo quy định của pháp luật về
đấu thầu. Chỉ những chủ thể có năng lực thực hiện và không ở trong diện bị loại trừ
theo các tiêu chuẩn do bên mời thầu đặt ra mới có quyền trở thành bên tham dự thầu.
Tổ chuyên gia đấu thầu: Tuỳ theo tính chất và mức độ phức tạp của gói thầu,
thành phần tổ chuyên gia đấu thầu bao gồm các chuyên gia về lĩnh vực kỹ thuật, tài
chính, thương mại, hành chính, pháp lý và các lĩnh vực có liên quan. Thành viên tổ

chuyên gia đấu thầu phải có đủ các điều kiện sau:
+ Có chứng chỉ tham gia khoá học về đấu thầu;
+ Có trình độ chuyên môn liên quan đến gói thầu;
+ Am hiểu các nội dung cụ thể tương ứng của gói thầu;
+ Có tối thiểu 3 năm công tác trong lĩnh vực liên quan đến nội dung kinh tế, kỹ
thuật của gói thầu.
Thành viên tổ chuyên gia đấu thầu không nhất thiết phải tham gia bên mời thầu và
ngược lại.
3
3
Điều 9 khoản 2 Luật đấu thầu 2005
5
Tổ chức tư vấn bao gồm các “nhà thầu tư vấn là nhà thầu tham gia đấu thầu cung
cấp các sản phẩm đáp ứng yêu cầu về kiến thức và kinh nghiêm chuyên môn”
4
được quy định theo pháp luật về đấu thầu.
- Thứ hai, đấu thầu là một quy trình gồm nhiều giai đoạn được quy định chặt chẽ
Đấu thầu gồm có nhiều giai đoạn mà trong đó luôn có sự liên hệ mật thiết giữa các
giai đoạn với nhau, giai đoạn trước là tiền đề để thực hiện giai đoạn sau. Khi tham
gia vào từng giai đoạn các chủ thể của quan hệ đấu thầu phải tuân theo các quy tắc
chung được quy định chặt chẽ theo quy định của pháp luật.
- Thứ ba, mục đích của đấu thầu là lựa chọn nhà thầu tốt nhất tham gia thực hiện
dự án
Trong hoạt động đấu thầu luôn tuân theo những yêu cầu, điều kiện rất chặt chẽ,
thống nhất, đảm bảo sự công bằng giữa các nhà thầu. Các nhà thầu được hưởng các
cơ hội như nhau trong quá trình đấu thầu. Điều này làm cơ sở giúp cho bên mời thầu
đánh giá được các nhà thầu một cách công bằng, khách quan. Thông qua các yêu cầu
mà bên mời thầu đưa ra, các nhà thầu dựa trên năng lực tài chính, kỹ thuật, kinh
nghiệm của mình để chào giá. Nhà thầu nào có giá phù hợp cũng như các tiêu chí
khác về kỹ thuật, kinh nghiệm,v.v…sẽ được chọn làm đối tác.

Ngoài ra, khi tham gia đấu thầu nhà thầu phải có bảo lãnh dự thầu
Đây là việc nhà thầu đặt một khoản tiền mặt, séc hoặc bảo lãnh của ngân hàng để
đảm bảo trách nhiệm của nhà thầu trong việc dự thầu. Mục đích của bảo lãnh dự thầu
là nhằm bảo đảm nhà thầu không thay đổi và huỷ bỏ việc tham gia đấu thầu giữa
chừng đồng thời loại bỏ những nhà thầu không nghiêm túc. Số tiền bảo lãnh sẽ được
trả lại cho những nhà thầu không trúng thầu trong một thời hạn nhất định. Việc bảo
lãnh thường do một ngân hàng thực hiện và ngân hàng phải lập giấy cam kết bảo lãnh
kèm theo hồ sơ dự thầu.
2. Phân loại đấu thầu
2.1.Theo hình thức lựa chọn nhà thầu
Đấu thầu được chia làm 7 loại
• Đấu thầu rộng rãi
4
Điều 4 khoản 13 Luật đấu thầu 2005
6
Đấu thầu rộng rãi là hình thức đấu thầu không hạn chế số lượng nhà thầu tham gia.
Bên mời thầu phải thông báo công khai về các điều kiện, thời gian dự thầu trên các
phương tiện thông tin đại chúng trước khi phát hành hồ sơ mời thầu. Hình thức đấu
thầu này có ưu điểm nổi bật là tính cạnh tranh trong đấu thầu cao, hạn chế tiêu cực
trong đấu thầu, kích thích các nhà thầu phải thường xuyên nâng cao năng lực cạnh
tranh, mang lại hiệu quả cao cho dự án.
• Đấu thầu hạn chế
Đấu thầu hạn chế là hình thức đấu thầu mà bên mời thầu mời một số nhà thầu (tối
thiểu là 5) có đủ năng lực tham dự. Danh sách nhà thầu tham dự phải được người có
thẩm quyền hoặc cấp có thẩm quyền chấp thuận. là đấu thầu công khai, phải minh
bạch. Trong trường hợp thực tế chỉ có ít hơn 5, Bên mời thầu phải báo cáo chủ dự án
trình người có thẩm quyền xem xét, quyết định cho phép tiếp tục tổ chức đấu thầu
hạn chế hoặc áp dụng hình thức lựa chọn khác. Chủ dự án quyết định danh sách nhà
thầu tham dự trên cơ sở đánh giá của Bên mời thầu về kinh nghiệm và năng lực các
nhà thầu, song phải đảm bảo khách quan, công bằng và đúng đối tượng. Hình thức

này chỉ được xem xét áp dụng khi có một trong các điều kiện sau:
- Theo yêu cầu của nhà tài trợ nước ngoài đối với nguồn vốn sử dụng cho gói thầu
- Gói thầu có yêu cầu cao về kĩ thuật hoặc kĩ thuật có tính đặc thù; gói thầu có tính
chất nghiên cứu, thử nghiệm mà chỉ có một số người có khả năng đáp ứng yêu cầu
của gói thầu.
• Chỉ định thầu
Chỉ định thầu là hình thức chọn trực tiếp nhà thầu đáp ứng yêu cầu của gói thầu để
thương thảo hợp đồng. Chỉ định thầu được áp dụng cho các trường hợp sau đây:
- Sự cố bất khả kháng do thiên tai, địch hoạ, sự cố cần khắc phục ngay thì chủ
đầu tư hoặc cơ quan chịu trách nhiệm quản lý công trình, tài sản đó được chỉ định
ngay nhà thầu để thực hiện; trong trường hợp này chủ đầu tư hoặc cơ quan chịu trách
nhiệm quản lý công trình, tài sản đó phải cùng với nhà thầu được chỉ định tiến hành
thủ tục chỉ định thầu theo quy định trong thời hạn không quá mười lăm ngày kể từ
ngày chỉ định thầu;
- Gói thầu do yêu cầu của nhà tài trợ nước ngoài;
- Gói thầu thuộc dự án bí mật quốc gia; dự án cấp bách vì lợi ích quốc gia, an
ninh an toàn năng lượng do Thủ tướng chính phủ quyết định khi thấy cần thiết
7
- Gói thầu mua sắm các loại vật tư, thiết bị để phục hồi, duy tu, mở rộng công
suất của thiết bị, dây chuyền công nghệ sản xuất mà trước đó đã được mua từ một
nhà thầu cung cấp và không thể mua từ các nhà thầu cung cấp khác do phải bảo đảm
tính tương thích của thiết bị, công nghệ;
- Gói thầu dịch vụ tư vấn có giá gói thầu dưới năm trăm triệu đồng, gói thầu mua
sắm hàng hoá, xây lắp có giá gói thầu dưới một tỉ đồng thuộc dự án đầu tư phát triển;
gói thầu mua sắm hàng hoá có giá trị gói thầu dưới năm trăm triệu đồng thuộc dự án
hoặc dự toán mua sắm thường xuyên; trường hợp thấy cần thiết thì tổ chức đấu thầu
Khi thực hiện chỉ định thầu, phải lựa chọn một nhà thầu được xác định là có đủ
năng lực và kinh nghiệm đáp ứng các yêu cầu của gói thầu và phải tuân thủ quy trình
thực hiện chỉ định thầu do Chính phủ quy định.
• Chào hàng cạnh tranh

Hình thức này được áp dụng cho những gói thầu mua sắm hàng hóa có giá trị dưới
2 tỷ đồng. Nội dung mua sắm là những hàng hoá thông dụng, sẵn có trên thị trường
với đặc tính kỹ thuật được tiêu chuẩn hoá và tương đương nhau về chất lượng.
Việc gửi chào hàng có thể được thực hiện bằng cách gửi trực tiếp, bằng fax, bằng
đường bưu điện hoặc bằng các phương tiện khác. Đối với mỗi gói thầu phải có tối
tiểu ba báo giá từ ba nhà thầu khác nhau.
• Mua sắm trực tiếp
Được áp dụng khi hợp đồng đôí với gói thầu có nội dung tương tự được kí trước
đó không quá sáu tháng.
Khi thực hiện mua sắm trực tiếp, được mời nhà thầu trước đó đã được lựa chọn
thông qua đấu thầu để thực hiện gói thầu có nội dung tương tự.
Đơn giá đối với các nội dung thuộc gói thầu áp dụng mua sắm trực tiếp không
được vượt đơn giá của các nội dung tương ứng thuộc gói thầu tương tự đã kí hợp
đồng trước đó.
Được áp dụng mua sắm trực tiếp để thực hiện gói thầu tương tự thuộc cùng một
dự án hoặc thuộc dự án khác.
• Tự thực hiện
Hình thức này chỉ được áp dụng đối với các gói thầu mà chủ đầu tư có đủ năng lực
và kinh nghiệm để thực hiện gói thàu thuộc dự án do mình quản lý sử dụng.
• Lựa chọn nhà thầu trong trường hợp đặc biệt
8
Trường hợp gói thầu có đặc thù riêng biệt mà không thể áp dụng các hình thức lựa
chọn nhà thầu khác thì chủ đầu tư phải lập phương án lựa chọn nhà thầu, bảo đảm
mục tiêu cạnh tranh và hiệu quả kinh tế trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết
định.
2.2. Theo phương thức đấu thầu
Đấu thầu được chia làm 3 loại
• Đấu thầu một túi hồ sơ
Là phương thức mà nhà thầu khi dự thầu nộp các đề xuất về kĩ thuật và về đề xuất
tài chính trong một túi hồ sơ để bên mời thầu xem xét và đánh giá chung. Phương

thức này được áp dụng đối với hình thức đấu thầu rộng rãi và đấu thầu hạn chế cho
gói thầu mua sắm hàng hóa, xây lắp, gói thầu EPC. Việc mở thầu được tiến hành một
lần.
• Đấu thầu hai túi hồ sơ
Là phương thức mà nhà thầu nộp đề xuất về kỹ thuật và đề xuất về tài chính trong
từng túi hồ sơ riêng vào cùng một thời điểm. Nhà thầu nộp đề xuất kĩ thuật và đề xuất
tài chính riêng biệt theo yêu cầu của hồ sơ mời thầu. Việc mở thầu được tiến hành hai
lần; trong đó, đề xuất về kỹ thuật sẽ được mở trước để đánh giá, đề xuất về tài chính
của tất cả các nhà thầu có đề xuất kỹ thuật được đánh giá là đáp ứng yêu cầu được
mở sau để đánh giá tổng hợp. Trường hợp gói thầu có yêu cầu kĩ thuật cao thì đề xuất
về tài chính của nhà thầu đạt số điểm kỹ thuật cao nhất sẽ được mở để xem xét,
thương thảo. Phương thức này được áp dụng đối với đấu thầu rộng rãi và đấu thầu
hạn chế trong đấu thầu cung cấp dịch vụ tư vấn.
• Đấu thầu hai giai đoạn
Phương thức này áp dụng cho những trường hợp sau: Đấu thầu rộng rãi, đấu thầu
hạn chế cho các gói thầu mua sắm hàng hóa, xây lắp, gói thầu EPC có kỹ thuật, công
nghệ mới, phức tạp, đa dạng.
Hai giai đoạn đó như sau:
- Giai đoạn sơ tuyển lựa chọn nhà thầu: theo hồ sơ mời thầu giai đoạn môt, các nhà
thầu nộp đề xuất về kỹ thuật, phương án tài chính nhưng chưa có gia dự thầu; trên cơ
sở trao đổi với từng nhà thầu tham gia giai đoạn này này sẽ xác định hồ sơ mời thầu
giai đoạn hai;
9
- Giai đoạn đấu thầu: theo hồ sơ mời thầu giai đoạn hai, các nhà thầu đã tham gia giai
đoạn một được mời nộp hồ sơ dự thầu giai đoạn hai bao gồm: đề xuất kỹ thuật; đề
xuất về tài chính, trong đó có giá dự thầu; biện pháp bảo đảm dự thầu.
2.3. Theo nội dung đấu thầu
Đấu thầu được chia làm 3 loại
• Đấu thầu tuyển chọn tư vấn
Nhà thầu tư vấn là nhà thầu tham gia đấu thầu cung cấp các sản phẩm đáp ứng yêu

cầu về kiến thức và kinh nghiệm chuyên môn.
Đấu thầu tuyển chọn tư vấn là quá trình lựa chọn nhà tư vấn có đủ trình độ và kinh
nghiệm để giúp đỡ, tư vấn cho chủ đầu tư trong quá trình chuẩn bị đầu tư và thực
hiện đầu tư.
Dịch vụ tư vấn bao gồm:
- Dịch vụ tư vấn chuẩn bị dự án gồm có lập, đánh giá báo cáo quy hoạch, tổng sơ
đồ phát triển, kiến trúc, báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, báo cáo nghiên cúu khả thi;
- Dịch vụ tư vấn thực hiện dự án gồm có khảo sát, lập thiết kế, tổng dự toán và dự
toán, lập hồ sơ mời thầu, đánh giá hồ sơ dự thầu, giám sát thi công xây dựng và lắp
đặt thiết bị;
- Dịch vụ tư vấn điều hành quản lý dự án, thu xếp tài chính, đào tạo, chuyển giao
công nghệ và các dịch vụ tư vấn khác.
Nhà tư vấn không tham gia đánh giá kết quả công việc do mình thực hiện và không
được tham gia đấu thầu thực hiện các gói thầu mua sắm hàng hoá và xây lắp do mình làm
tư vấn (trừ các gói thầu thực hiện theo loại hợp đồng chìa khoá trao tay).
• Đấu thầu mua sắm hàng hóa
Đấu thầu mua sắm hàng hoá là quá trình lựa chọn nhà thầu cung ứng hàng hoá đáp
ứng được yêu cầu của Bên mời thầu trên cơ sở có sự cạnh tranh giữa các nhà cung
cấp. Hàng hoá ở đây có thể là máy móc, thiết bị, nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu,
hàng tiêu dùng và các dich vụ không phải là dịch vụ tư vấn
• Đấu thầu xây lắp
Đấu thầu xây lắp là quá trình lựa chọn nhà thầu thực hiện những công việc thuộc
quá trình xây dựng và lắp đặt thiết bị các công trình, hạng mục công trình. Những
quy định pháp luật cụ thể về đấu thầu xây lắp sẽ được trình bày cụ thể ở những phần
sau.
10
2.4. Theo quốc tịch của nhà thầu
Đấu thầu được chia làm 2 loại
• Đấu thầu trong nước: Là quá trình lựa chọn nhà thầu đáp ứng được các yêu
cầu của bên mời thầu với sự tham gia của các nhà thầu trong nước.

• Đấu thầu quốc tế: Là quá trình lựa chọn nhà thầu đáp ứng được các yêu cầu
của bên mời thầu với sự tham gia của các nhà thầu trong nước và nhà thầu nước
ngoài.
Trong đó, “nhà thầu trong nước là nhà thầu được thành lập và hoạt động theo pháp
luật Việt Nam”
5
.
Nhà thầu nước ngoài “là nhà thầu được thành lập và hoạt động theo pháp luật của
nước mà nhà thầu mang quốc tịch”
6
.
II. PHÁP LUẬT VỀ ĐẤU THẦU XÂY LẮP
1. Khái niệm, đặc điểm, quá trình phát triển của pháp luật về đấu thầu xây
lắp
1.1. Khái niệm, đặc điểm của đấu thầu xây lắp
Đấu thầu xây lắp là phương thức mà chủ đầu tư sử dụng để tổ chức cạnh tranh
giữa các nhà thầu xây dựng nhằm lựa chọn một nhà thầu xây lắp có khả năng thực
hiện tốt nhất các yêu cầu của dự án. Các yêu cầu đó thường là những yêu cầu về mặt
kinh tế_tài chính, yêu cầu về mặt kĩ thuật, yêu cầu về mặt tiến độ thi công…
Thực chất của đấu thầu xây lắp là việc ứng dụng phương pháp xét hiệu quả kinh tế
trong việc lựa chọn tổ chức thi công xây dựng. Phương pháp này đòi hỏi sự so sánh
giữa các tổ chức xây dựng trên cùng một phương diện (như kĩ thuật hay tài chính) để
chọn lấy một nhà thầu có đủ khả năng sau đó lại so sánh tiếp. Kết quả cuối cùng sẽ
tìm ra được một tổ chức xây dựng đáp ứng tốt nhất các yêu cầu của chủ đầu tư.
Đấu thầu xây lắp có một số đặc điểm khác so với đấu thầu trong những lĩnh vực
khác. Cụ thể:
- Sản phẩm của sản xuất xây lắp có đặc điểm là mang tính đơn chiếc, công trình
đặt tại một vị trí cố định, phục vụ cho một mục đích cụ thể, một chủ trương quản lí
sử dụng, không phải là hàng hoá thông thường mua bán trên thị trường, khối lượng
5

Điều 4, Khoản 18 Luật đấu thầu 2005
6
Điều 4, Khoản 19 Luật đấu thầu 2005
11
vật chất, tiền vốn tiêu hao, số lao động tham gia vào quá trình sản xuất lớn gấp nhiều
lần các loại sản phẩm thuộc lĩnh vực khác, một công trình có nhiều ngành nghề và tổ
chức cùng tham gia.
- Thời gian hoàn thành công trình lại dài, khi đã thực hiện các bước như chuẩn bị
đầu tư, chuẩn bị xây dựng…thì không thể dễ dàng thay đổi, đình hoãn. Điều đó
chứng tỏ xây dựng cơ bản là một quá trình sản xuất phức tạp, đa dạng có tác dụng
cũng như hậu quả lâu dài về sau. Quy mô của công trình càng lớn thì mối quan hệ với
các ngành, lĩnh vực càng phức tạp và có tác động lớn đến việc phân bố lại lực lượng
sản xuất và dân cư, tác động đến môi sinh, môi trường và cơ sỏ hạ tầng kỹ thuật
khác. Vì thế việc áp dụng đấu thầu trong xây dựng cơ bản không những phải đạt
được tiêu chuẩn một công trình với giá thành rẻ, chất lượng cao mà còn phải đặt
trong tổng thể phát triển của nền kinh tế xã hội.
1.2. Quá trình phát triển của pháp luật về đấu thầu xây lắp
Pháp luật về đấu thầu xây lắp là tổng hợp các Quy phạm pháp luật điều chỉnh
những quan hệ hình thành trong hoạt động đấu thầu xây lắp của tổ chức, cá nhân
trong và ngoài nước tham gia hoạt động đấu thầu xây lắp.
Vào cuối những năm 30 và đầu những năm 40 cùng với sự phát triển của thị
trường kinh tế tư bản trên nhiều lĩnh vực, đòi hỏi chế độ bán đấu giá cũng phải được
áp dụng rộng rãi. Nhưng bán đấu giá chưa có đủ cơ sở để thực hiện trong lĩnh vực
đặc thù riêng như: chuyển giao công nghệ, xây dựng cơ bản…do vậy đấu thầu ra đời.
Việc ra đời của pháp luật về đấu thầu nói chung cũng như đấu thầu xây lắp nói riêng
là một tất yếu khách quan. Có thể khái quát quá trình phát triển của pháp luật về đấu
thầu xây lắp qua các giai đoạn sau:
• Giai đoạn trước khi có Quy chế đấu thầu ban hành kèm Nghị định 43/CP của
Chính phủ ban hành ngày 16/07/1996
Ở Việt nam từ 1988 trở về trước, quá trình đầu tư xây dựng cơ bản được thực hiện

theo Điều lệ Xây dựng cơ bản ban hành theo Nghị định số 232/CP ngày 06/06/1981
các doanh nghiệp xây lắp theo phương thức tự làm và giao nhận thầu xây dựng. Tuy
nhiên hai phương thức này có nhược điểm mang tính chất tự cung tự cấp, có nhiều
thiếu sót trong thủ tục xây dựng cơ bản. Mặt trái của phương thức giao nhận thầu là
hiện tượng mua bán thầu, cho nên có ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng sản phẩm.
12
Kết quả là có nhiều công trình thi công có chất lượng kém, khi đưa vào sử dụng thì
không hiệu quả.
Do đó để khắc phục những tồn tại của phương thức cũ, đáp ứng đòi hỏi của cơ chế
mới. Vào tháng 11/1987 trong Quyết định 217-HĐBT có đưa ra một số điều quy định
về đấu thầu. Tuy nhiên vẫn chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể vì vậy việc áp dụng và
thực hiện vẫn chưa mang lại hiệu quả.
Ngày 09/05/1988, Hội đồng Bộ trưởng ban hành quyết định số 80-HĐBT về các
chính sách đổi mới cơ chế quản lí xây dựng cơ bản. Nhằm đáp ứng yêu cầu quy định
của Hội đồng Bộ trưởng, ngày 10/01/1989 Thông tư hướng dẫn tạm thời số 03/BXD-
VKT đã ra đời.
Tuy nhiên Thông tư hướng dẫn số 03 còn có nhiều khiếm khuyết khi áp dụng vào
thực tế. Vì vậy, đến ngày 12/02/1990 Bộ xây dựng đã ban hành Quy chế đấu thầu
trong xây dựng kèm theo Quyết định số 24/BXD-VKT thay thế cho Thông tư số
03/BXD-VKT. Có thể nói rằng quy chế đấu thầu trong xây dựng ban hành kèm theo
Quyết định 24/BXD-VKT là quy chế đầu tiên về hoạt động đấu thầu xây dựng của
Việt Nam.Trong văn bản này các vấn đề cơ bản về đấu thầu xây dựng (phạm vi, đối
tượng điều chỉnh, quyền và nghĩa vụ của các bên, các hình thức và trình độ tổ chức
đấu thầu …) đã được quy định. Tuy chưa đầy đủ song chúng đã khái quát được một
số nét cần thiết nhất để thực hiện đấu thầu xây dựng. Trong quy chế này mục tiêu của
đấu thầu chưa được đặt ra nhưng có thể thấy rằng việc ban hành quy chế này đã tạo
nên một nền tảng pháp lý để qua đó tạo nên một sân chơi bình đẳng, mang tính cạnh
tranh cho các thành phần kinh tế trong xã hội
• Giai đoạn áp dụng Quy chế đấu thầu ban hành kèm theo Nghị định số 43/CP
và Nghị định số 93/1997/NĐ-CP ngày 23/08/1997

Nói chung Quy chế đấu thầu trong xây dựng kèm theo Quyết định số 24/BXD-
VKT còn mang nặng tính quản lý về mặt hành chính Nhà nước. Bốn năm sau ngày
ban hành Quy chế này, thực hiện cải tiến công tác đơn giá, dự toán nhằm chống lãng
phí, thất thoát và tiêu cực trong đầu tư và xây dựng theo Quyết định số 92-TTg ngày
7/3/1994 của Thủ tướng Chính phủ, Bộ xây dựng đã ban hành Quy chế đấu thầu
trong xây lắp kèm theo Quyết định số 60-BXD/VKT ngày 30/3/1994. Quy chế này
thay thế Quy chế đấu thầu trong xây dựng kèm theo Quyết định số 24/BXD-VKT
ngày 12/2/1990. Đây là một bước tiến rõ rệt của việc điều chỉnh công tác đấu thầu
13
trong xây dựng ở Việt Nam giai đoạn này. Quy chế gồm 32 điều, quy định một cách
rõ ràng, chi tiết đấu thầu trong xây dựng. Các quy định của quy chế mở rộng hơn
hình thức đấu thầu, phạm vi các công trình cần đấu thầu và quy định cụ thể quyền và
nghĩa vụ của các bên trong đấu thầu. Tuy vậy, trình tự đấu thầu chưa được quy định
cụ thể. Việc quản lý hồ sơ được quy định ở mức độ chưa cao, chưa đảm bảo được
nguyên tắc bảo mật của đấu thầu. Quy chế chỉ quy định hai hình thức đấu thầu rộng
rãi và đấu thầu hạn chế mà chưa có chỉ định thầu.
Có thể nói hai quy chế đấu thầu ra đời trong điều kiện nền kinh tế vừa thoát khỏi
cơ chế quản lý cũ nên khó có thể thoát khỏi các dấu ấn của quản lý hành chính. Các
quy định chưa bao quát được hết tình hình thực tế, chưa theo kịp sự phát tiển của nền
kinh tế. Do đó, chỉ hai năm sau Chính phủ đã ban hành Nghị định số 43/1996/NĐ-CP
ngày 17/07/96 về thủ tục đấu thầu, trong đó dành hẳn một chương cho đấu thầu trong
xây dựng.
Nghị định số 43/1996/NĐ-CP ra đời đã đánh dấu một bước tiến lớn với nhiều
điểm tiến bộ hơn hẳn so với các văn bản ra đời trước đây quy định về đấu thầu trong
xây dựng. Nghị định này đã quy định một cách tương đối đầy đủ trình tự, thủ tục, các
bước tiến hành cho một cuộc đấu thầu, hình thức chỉ định thầu được pháp luật quy
định đã có sự tương quan, liên hệ với các nguyên tắc của đấu thầu quốc tế. Tuy
nhiên, Nghị định số 43/CP vẫn chưa quy định đầy đủ quá trình mở thầu trong khi đó
lại có nhiều điều khoản về các đặc quyền của doanh nghiệp nhà nước khi tham gia
đấu thầu. Một năm sau ngày Nghị định ra đời, kết quả khảo sát về ảnh hưởng của

Nghị định này đã chỉ ra rằng có nhiều khó khăn trong việc lựa chọn nhà thầu thắng
thầu để kí hợp đồng. Các nhà thầu Việt Nam rất khó thắng thầu, các dự án có phía
đối tác nnước ngoài tham gia thường không theo kịp đúng thủ tục đấu thầu và nhiều
khi quá trình xét thầu bị chậm trễ.
• Giai đoạn áp dụng Quy chế đấu thầu ban hành kèm theo Nghị định số
88/1999/NĐ-CP của Chính phủ ngày 1.9.1999; Nghị định số 14/2000/NĐ-CP của
Chính phủ ngày 5/5/2000; Nghị định số 66/2003/NĐ-CP của Chính phủ ngày
12.6.2003
Để đáp ứng yêu cầu của thực tế, Chính phủ đã ban hành Nghị định số
93/1997/NĐ-CP ngày 23/08/97 sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế đấu thầu
ban hành kèm theo Nghị định số 43/CP, ngày 16/7/1996. Tuy nhiên chỉ trong một
14
thời gian ngắn, thực tế cho thấy Nghị định số 93/1997/NĐ-CP cũng không theo kịp
sự phát triển của nền kinh tế.
Điều này đã mở đương cho việc xây dựng một văn bản khác về đấu thầu đó là
Nghị định số 88/1999/NĐ-CP ngày 1 tháng 9 năm 1999. Tính đến thời điểm trước
khi Luật xây dựng được ban hành thì Nghị định này vẫn được coi là cơ sở pháp lý
quan trọng nhất của Việt Nam về đấu thầu nói chung và đấu thầu xây lắp nói riêng.
Nghị định này cũng được xây dựng phù hợp với Luật mẫu UDCITRAL về đấu thầu
mua sắm hàng hoá, dịch vụ và xây lắp. Liên quan đến đấu thầu, Nghị định số
88/1999/NĐ-CP quy định ba phương thức đấu thầu là đấu thầu một túi hồ sơ, đấu
thầu hai túi hồ sơ và đấu thầu hai giai đoạn.
Do nền kinh tế biến đổi nhanh, Nghị định số 88/1999/NĐ-CP cũng nhanh chóng
có bất cập về một số vấn đề; đặc biệt là đối với chỉ định thầu. Rất nhiều các cơ quan
và doanh nghiệp trong nước đã lên tiếng cho rằng quy định như trong Nghị định là
quá chặt chẽ khiến cho nhiều trường hợp giá trị nhỏ thì chi phí hành chính cho việc tổ
chức đấu thầu tồn kém nhiều so với lợi ích tiết kiệm được thông qua đấu thầu. Ngoài
ra, có nhiều ý kiến cho rằng chính các quy định chặt chẽ này làm mất quyền tự chủ
của bên mời thầu trong việc chỉ đinh thầu. Điều này làm giảm ý nghĩa kinh tế của đấu
thầu. Để hoàn thiện hơn nữa Quy chế đấu thầu Chính phủ đã ban hành Nghị định số

42/2000/NĐ-CP ngày 5 tháng 5 năm 2000 nhằm sửa đổi, bổ sung 8 điều của Nghị
định số 88/1999/NĐ-CP, trong đó nội dung chính là nhằm quy định rõ các trường
hợp mà bên chủ đầu tư có thể chọn phương thức chỉ định thầu. So với các nghị định
trước đó, Nghị định số 14/2000/NĐ-CP có những điểm mới dành cho đấu thầu xây
lắp đáng lưu ý là phương pháp “gía đánh giá” phù hợp với các quy định về đấu thầu
trên thế giới; quy định mốc tối đa và tối thiểu đối với một số khâu chủ yếu của quá
trình đấu thầu; cho phép tổ chức đấu thầu quốc tế khi không có nhà thầu Việt Nam
nào đáp ứng yêu cầu gói thầu, nhà thầu quốc tế cam kết sử dụng nhà thầu phụ Việt
Nam; điều kiện dự thầu phải có trụ sở chi nhánh ở địa phương tham gia đấu thầu,
hình thức chỉ định thầu được mở rộng hơn.
Mặc dù Nghị định số 14/2000/NĐ-CP đã có nhiều sửa đổi quan trọng nhưng vẫn
chưa theo kịp sự phát triển của nề kinh tế. Vì vậy, ngày 12 tháng 6 năm 2003 Chính
phủ ban hành Nghị định số 66/2003/NĐ-CP trong đó quy chế đấu thầu lại một lần
15
nữa được sửa đổi, bổ sung. Nghị định này đã chi tiết, cụ thể hoá hơn nữa các quy
định của pháp luật về đấu thầu xây lắp.
• Giai đoạn áp dụng Luật đấu thầu ngày 29.11.2005 và Nghị định số
58/2008/NĐ-CP của Chính phủ ngày 05/5/2008. (Giai đoạn hiện hành)
Cùng một lúc, Nghị định 111/2006/NĐ-CP về hướng dẫn thi hành Luật Đấu thầu
và lựa chọn nhà thầu xây dựng theo Luật Xây dựng và Nghị định 112/2006/NĐ-CP
về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 16/2005/NĐ-CP về quản lý dự án đầu
tư xây dựng công trình đã được ban hành, tạo nên một hệ thống các quy phạm pháp
luật thống nhất áp dụng chung cho hoạt động đấu thầu. Điều đáng nói là Nghị định số
111/2006/NĐ-CP đã tạo được bước đột phá đáng kể trong việc hài hoà các quy định
khác nhau trong Luật Đấu thầu và Luật Xây dựng. Hơn thế, với những kế thừa các
nội dung tiên tiến trong Quy chế Đấu thầu trước đây, đồng thời đưa ra được những
cải cách đáng kể, sự thống nhất trong quy định về đấu thầu đang được trông đợi sẽ
đưa các hoạt động đấu thầu vào vận hành một cách nhẹ nhàng, trơn tru và hiệu quả
hơn. Tuy nhiên việc áp dụng Nghị định này cho đến nay vẫn còn nhiều bất cập gây
khó khăn cho các nhà thầu tham gia đấu thầu .

Ngày 05/5/2008, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 58/2008/NĐ-CP hướng dẫn
thi hành Luật Đầu thầu và lựa chọn nhà thầu theo Luật Xây dựng. Đây là Nghị định
quan trọng hướng dẫn Luật đấu thầu và lựa chọn nhà thầu xây dựng theo Luật Xây
dựng, thay thế cho Nghị định số 111/2006/NĐ-CP ngày 29/9/2006 của Chính phủ về
Hướng dẫn Luật Đấu thầu và lựa chọn nhà thầu xây dựng theo Luật Xây dựng. Các
quy định của Nghị định số 58/2008/NĐ-CP mới ban hành với các nội dung hướng
dẫn mới, chi tiết và đầy đủ đã khắc phục các khó khăn, vướng mắc, bất cập trong quá
trình đấu thầu và lựa chọn nhà thầu xây dựng trong thời gian vừa qua, đáp ứng phù
hợp các hoạt động xây dựng trong giai đoạn mới và khắc phục một số điểm không
thống nhất giữa Luật Đấu thầu và Luật Xây dựng
Theo đó, nhà thầu lập báo cáo nghiên cứu khả thi (dự án đầu tư) được tham gia
đấu thầu lập thiết kế kỹ thuật, thiết kế bản vẽ thi công, thiết kế công nghiệp cho đến
trước ngày 01/4/2009. Trong trường hợp này, bên mời thầu phải cung cấp hồ sơ mời
thầu với đầy đủ thông tin, tài liệu liên quan gồm cả báo cáo nghiên cứu khả thi (dự án
đầu tư) và phải bảo đảm đủ thời gian để các nhà thầu có điều kiện như nhau trong
quá trình chuẩn bị hồ sơ dự thầu.
16
Nhà thầu đã lập thiết kế kỹ thuật, thiết kế bản vẽ thi công, thiết kế công nghệ cho
gói thầu không được tham gia đấu thầu xây lắp, cung cấp hàng hóa cho gói thầu đó
kể từ ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành, trừ trường hợp đối với gói thầu EPC
(thiết kế, cung cấp thiết bị, vật tư và xây lắp)
Để bảo đảm cạnh tranh trong đấu thầu, Nghị định nêu rõ các điều kiện về tính độc
lập giữa các nhà thầu, giữa nhà thầu với chủ đầu tư. Cụ thể, chủ đầu tư và nhà thầu
tham gia đấu thầu gói thầu thuộc cùng một dự án được coi là độc lập với nhau về tổ
chức, không cùng một cơ quan quản lý và độc lập với nhau về tài chính khi đáp ứng
điều kiện: không có cổ phần hoặc vốn góp trên 50% của nhau
Chủ đầu tư và nhà thầu tham gia đấu thầu gói thầu thuộc cùng một dự án được coi
là độc lập với nhau về tổ chức, không cùng một cơ quan quản lý và độc lập với nhau
về tài chính khi đáp ứng điều kiện: không có cổ phần hoặc vốn góp trên 50% của
nhau; Hoạt động theo Luật Doanh nghiệp năm 2005 đối với nhà thầu là tổ chức. Quy

định này được thực hiện từ ngày 01/4/2009. Các nhà thầu được coi là độc lập với
nhau nếu đáp ứng 2 điều kiện: không cùng thuộc một cơ quan nhà nước, đơn vị lực
lượng vũ trang nhân dân ra quyết định thành lập, trừ các nhà thầu là doanh nghiệp đã
chuyển đổi và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp năm 2005; Không có cổ phần hoặc
vốn góp trên 30% của nhau. Quy định này cũng được thực hiện từ ngày 01/4/2009.
Việc xử lý vi phạm pháp luật về đấu thầu cũng được quy định chi tiết, theo đó,
mức phạt tiền từ 5-50 triệu đồng. Hành vi đánh giá hồ sơ dự thầu, hồ sơ đề xuất,
thẩm định, phê duyệt kết quả lựa chọn nhà thầu không căn cứ vào các yêu cầu của hồ
sơ mời thầu; các hành vi vi phạm dẫn đến phải tổ chức đấu thầu lại… có mức phạt
tiền từ 5 đến 30 triệu đồng.
Mức phạt từ 20 đến 50 triệu đồng nếu thực hiện các hành vi sau: dàn xếp, thông
đồng giữa tất cả nhà thầu, giữa nhà thầu với chủ đầu tư…; người phê duyệt kết quả
lựa chọn nhà thầu làm sai lệch kết quả lựa chọn nhà thầu dẫn đến phải huỷ đấu thầu
hoặc lựa chọn nhà thầu không đủ năng lực…; Nhà thầu thực hiện hợp đồng xây lắp,
cung cấp hàng hoá thông đồng với nhà thầu tư vấn giám sát, cơ quan, tổ chứ nghiệm
thu để xác nhận sai về chất lượng, khối lượng của công trình, hàng hoá…
2. Các nguyên tắc cơ bản trong đấu thầu xây lắp
Hoạt động đấu thầu cũng đòi hỏi phải có những nguyên tắc nhất định. Nguyên tắc
trong đấu thầu là những tư tưởng chỉ đạo được rút ra từ những quy định của pháp luật
17
về đấu thầu do tổ chức có thẩm quyền ban hành buộc các bên tham gia quan hệ đấu
thầu phải tuân theo. Đấu thầu xây lắp là một lĩnh vực quan trọng trong nề kinh tế thị
trường. Về cơ bản mọi hoạt động đấu thầu xây lắp cũng phải tuân theo những nguyên
tắc sau:
2.1. Nguyên tắc cạnh tranh với điều kiện ngang nhau
Bản chất của đấu thầu xây lắp cũng là một hoạt động mua bán do đó nó cũng có
yếu tố cạnh tranh cao. Tuy nhiên tính cạnh tranh phải tuân theo nguyên tắc nhất định.
Cụ thể: Mỗi gói thầu phải có sự tham dự của một số lượng nhà thầu nhất định có đủ
năng lực, đủ để đảm bảo sự cạnh tranh giữa các nhà thầu. Những điều kiện mà bên
mời thầu đưa ra và những thông tin cung cấp cho các nhà thầu phải ngang nhau,

nhằm tạo sự bình đẳng về cơ hội cho mỗi nhà thầu. Trong hồ sơ mời thầu không
được đưa ra các yêu cầu mang tính định hướng như yêu cầu về nguồn gốc, xuất xứ
hàng hoá hoặc về thương hiệu cụ thêt nhằm ngăn cản sự tham gia của các nhà thầu.
Bên mời thầu không được phân biệt đối xử giữa những người dự thầu hợp lệ trong
việc xem xét đánh giá hồ sơ dự thầu.
2.2. Nguyên tắc thông tin đầy đủ, công khai
Bên mời thầu phải cung cấp đầy đủ các dữ liệu, tài liệu liên quan đến gói thầu với
các thông tin chi tiết, rõ ràng về quy mô, khối lượng, quy cách, yêu cầu chất lượng,
giá cả và điều kiện hợp đồng (kể cả những sửa đổi, bổ sung nếu có) cho các nhà thầu.
Danh mục cụ thể các tài liệu cần có trong hồ sơ dự thầu cũng cần nói rõ để bên dự
thầu chuẩn bị đáp ứng. Thông báo mời thầu phải được đăng tải công khai trên các
phương tiện thông tin đại chúng theo quy định của pháp luật hoặc theo quy chế đấu
thầu do tổ chức có thẩm quyền ban hành. Việc mở thầu cũng phải công khai, các nhà
thầu tham gia đấu thầu phải được mời tới dự mở thầu. Những nội dung cơ bản của
từng hồ sơ dự thầu cũng phải được công bố công khai ngay khi mở thầu và được ghi
vào biên bản mở thầu.
2.3. Nguyên tắc bảo mật thông tin đấu thầu
Do tính chất cạnh tranh gay gắt giữa các bên dự thầu nhằm mục đích trở thành
người cung cấp hàng háo dịch vụ cho bên mời thầu mà việc bảo mật thông tin đấu
thầu phải được coi là một nguyên tắc không thể xâm phạm. Theo nguyên tắc này, bên
mời thầu phải thông bảo mật hồ sơ dự thầu đồng thời, các tổ chức, cá nhân có liên
18
quan đến việc tổ chức đấu thầu và xét chọn thầu phải giữ bí mật thông tin liên quan
đến việc đấu thầu .
2.4. Nguyên tắc đánh giá khách quan, công bằng
Các hồ sơ dự thầu hợp lệ đều phải được xem xét, đánh giá khách quan, công bằng
với cùng một tiêu chuẩn như nhau và bởi một hội đồng xét thầu có đủ năng lực, kinh
nghiệm và tư cách. Các tiêu chí đánh giá hồ sơ, tiêu chuẩn xét thầu phải được công
bố trước trong hồ sơ mời thầu và trong quá trình xét thầu bên mời thầu không được
tự ý thay đổi.

2.5. Nguyên tắc bảo đảm dự thầu
Trong quá trình đấu thầu vì một lí do nào đó mà các nhà thầu có thể gây cản trở
cho quá trình đấu thầu như: Rút lại hồ sơ dự thầu, khi trúng thầu không thực hiện hợp
đồng…Do đó phải có nguyên tắc bảo đảm dự thầu. Bảo đảm dự thầu được thực hiện
dưới hình thức đặt cọc, kí quỹ hoặc bảo lãnh dự thầu. Các bên dự thầu đều phải thực
hiện việc bảo đảm dự thầu theo yêu cầu của bên mời thầu để bảo đảm tư cách, năng
lực của bên dự thầu trong những trường hợp cần thiết.
3. Phạm vi và đối tượng áp dụng đấu thầu xây lắp
3.1. Phạm vi áp dụng
Theo quy định tại Điều 1 Luật đấu thầu 2005 thì đấu thầu xây lắp được áp dụng để
lựa chọn nhà thầu cho các dự án đầu tư tại Việt nam và phải được tổ chức đấu thầu,
thực hiện tại Việt Nam. Đó là các dự án sử dụng vốn nhà nước từ 30% trở lên cho
mục tiêu đầu tư phát triển bao gồm các dự án đầu tư xây dựng mới, nâng cấp mở
rộng các dự án đầu tư xây dựng.
3.2. Đối tượng áp dụng
Theo quy định tại Điều 2 Luật đấu thầu 2005 đấu thầu xây lắp áp dụng với các chủ
thể sau:
1. Tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài tham gia hoạt động đấu thầu các gói
thầu thuộc các dự án quy định tại Điều 1 Luật đấu thầu 2005
2. Tổ chức, cá nhân liên quan đến hoạt động đấu thầu các gói thầu thuộc các dự án
quy định tại Điều 1 Luật đấu thầu 2005
3. Tổ chức, cá nhân có dự án không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật đấu thầu
áp dụng lựa chọn Luật đấu thầu.
4. Phương thức, hình thức, điều kiện thực hiện đấu thầu xây lắp
19
4.1.Phương thức thực hiện đấu thầu xây lắp
Theo quy định tại điều 26_Luật đấu thầu 2005 đấu thầu nói chung sẽ gồm 3
phương thức:
- Đấu thầu một túi hồ sơ;
- Đấu thầu hai túi hồ sơ;

- Đấu thầu hai giai đoạn;
(Nội dung các phương thức đã trình bày tại phần I.2, chương 1)
Trong đó đấu thầu xây lắp chỉ áp dụng hai phương thức là: đấu thầu một túi hồ sơ
và đấu thầu hai giai đoạn.
4.2. Hình thức đấu thầu xây lắp
Cũng theo quy định của Luật đấu thầu 2005 đấu thầu nói chung bao gồm 7 hình
thức :
- Đấu thầu rộng rãi;
- Đấu thầu hạn chế;
- Chỉ định thầu;
- Mua sắm trực tiếp;
- Chào hàng cạnh tranh trong mua sắm hàng hoá;
- Tự thực hiện;
- Lựa chọn nhà thầu trong trường hợp đặc biệt;
(Nội dung các hình thức này đã trình bày cụ thể tại phần I.2, chương 1).
Tuỳ theo quy mô, tính chất, nguồn gốc xây dựng công trình, người quyết định đầu
tư hoặc chủ đầu tư xây dựng công trình lựa chọn nhà thầu theo các hình thức sau:
7
1. Đấu thầu rộng rãi, đấu thầu hạn chế;
2. Chỉ định thầu;
3. Lựa chọn nhà thầu thiết kế kiến trúc công trình xây dựng.
4.3. Điều kiện thực hiện đấu thầu xây lắp
Đối với đấu thầu xây lắp cũng như đấu thầu nói chung để tham gia đấu thầu bên
mời thầu và bên dự thầu phải có những điều kiện sau:
• Đối với Bên mời thầu
Cá nhân tham gia bên mời thầu phải có đủ các điều kiện sau đây
8
:
- Am hiểu pháp luật về đấu thầu;
7

Điều 97 Luật xây dựng 2005
8
Điều 9 khoản 1 Luật đấu thầu 2005
20
- Có kiến thức về quản lý dự án;
- Có trình độ chuyên môn phù hợp với yêu cầu của gói thầu theo các lĩnh vực kỹ
thuật, tài chính, thương mại, hành chính và pháp lý;
- Có trình độ ngoại ngữ đáp ứng yêu cầu đôí với gói thầu được tổ chức đấu thầu
quốc tế, gói thầu thuộc dự án sử dụng vốn ODA.
• Đối với Bên dự thầu
Nhà thầu tham gia đấu thầu đối với một gói thầu phải có đủ các điều kiện:
- Có tư cách hợp lệ:
+ Nhà thầu là tổ chức có tư cách hợp lệ khi có đủ các điều kiện sau
9
:
Giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh, Giấy chứng nhận đầu tư được cấp theo quy
định của pháp luật hoặc có quyết định thành lập đối với các tổ chức không có đăng kí
kinh doanh trong trường hợp là nhà thầu trong nước; có đăng kí hoạt động do cơ
quan có thẩm quyền của nước mà nhà thầu mang quốc tịch cấp trong trường hợp là
nhà thầu nước ngoài;
Hạch toán kinh tế độc lập;
Không bị cơ quan có thẩm quyền kết luận về tình hình tài chính không lành mạnh,
đang lâm vào tình trạng phá sản hoặc nợ đọng không có khả năng chi trả; đang trong
quá trình giải thể.
+ Nhà thầu là cá nhân có tư cách hợp lệ khi có đủ các điều kiện sau đây
10
:
Năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định pháp luật của nước mà cá nhân đó
là công dân;
Đăng kí hoạt động hợp pháp hoặc chứng chỉ chuyên môn phù hợp do cơ quan có

thẩm quyền cấp;
Không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
- Chỉ được tham gia trong một hồ sơ dự thầu đối với một gói thầu với tư cách là
nhà thầu độc lập hoặc là liên danh. Trường hợp liên danh phải có văn bản thoả thuận
giữa các thành viên, trong đó quy định rõ người đứng đầu của liên danh, trách nhiệm
chung và trách nhiệm riêng của từng thành viên với công việc thuộc gói thầu.
- Đáp ứng yêu cầu nêu trong thông báo mời thầu hoặc thư mời thầu của bên mời
thầu;
- Bảo đảm cạnh tranh trong đấu thầu
9
Điều 7 Luật đấu thầu 2005
10
Điều 8 Luật đấu thầu 2005
21
5. Trình tự đấu thầu xây lắp
Việc tổ chức đấu thầu xây lắp được diễn ra theo trình tự sau:
- Bước 1:Chuẩn bị đấu thầu
- Bước 2:Tổ chức đấu thầu
- Bước 3: Đánh giá hồ sơ dự thầu
- Bước 4: Thẩm định và phê duyệt kết quả đấu thầu
- Bước 5: Thông báo kết quả đấu thầu
- Bước 6: Thương thảo hoàn thiện hợp đồng và ký kết hợp đồng
Mỗi giai đoạn được quy định cụ thể như sau:
5.1.Chuẩn bị đấu thầu
11
- Sơ tuyển nhà thầu
Việc sơ tuyển nhà thầu được thực hiện trước khi tổ chức đấu thầu nhằm chọn
được các nhà thầu đủ năng lực và kinh nghiệm theo yêu cầu của gói thầu để mời
tham gia đấu thầu. Đối với gói thầu xây lắp, gói thầu lựa chọn tổng thầu xây dựng, trừ
tổng thầu thiết kế, tiêu chuẩn đánh giá hồ sơ dự sơ tuyển còn phải phù hợp với yêu cầu

về điều kiện năng lực đối với từng loại, cấp công trình xây dựng theo quy định của Luật
Xây dựng
Trình tự thực hiện sơ tuyển bao gồm
+ Lập hồ sơ mời sơ tuyển
+ Thông báo mời sơ tuyển;
+ Tiếp nhận và quản lí hồ sơ dự sơ tuyển;
+ Đánh giá hồ sơ dự sơ tuyển;
+ Trình và phê duyệt kết quả sơ tuyển;
+ Thông báo kết quả sơ tuyển;
Tiêu chuẩn đánh giá hồ sơ dự sơ tuyển phải được nêu trong hồ sơ mời sơ tuyển
theo mẫu hồ sơ mời sơ tuyển do Chính phủ quy định bao gồm tiêu chuẩn về năng lực
kỹ thuật, tiêu chuẩn về năng lực tài chính, tiêu chuẩn về kinh nghiệm.
- Lập hồ sơ mời thầu
Hồ sơ mời thầu là toàn bộ tài liệu do Bên mời thầu lập theo mẫu do Chính phủ quy
định
• Căn cứ lập hồ sơ mời thầu
12
:
11
Điều 32 Luật đấu thầu 2005.
12
Điều 23.2 Nghị định 58/2008/NĐ-CP ngày 05/5/2008
22
+ Quyết định đầu tư và các tài liệu là cơ sở để quyết định đầu tư; Giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh, Giấy chứng nhận đầu tư;
+ Kế hoạch đấu thầu được duyệt;
+ Tài liệu về thiết kế kèm theo tổng dự toán, dự toán được duyệt (đối với gói thầu
xây lắp);
+ Các quy định của pháp luật về đấu thầu và các quy định của pháp luật có liên
quan; Điều ước quốc tế hoặc văn bản thỏa thuận quốc tế (nếu có) đối với các dự án

sử dụng vốn ODA;
+ Các chính sách của Nhà nước về thuế, tiền lương, ưu đãi nhà thầu trong nước
hoặc các quy định khác có liên quan.
• Nội dung hồ sơ mời thầu bao gồm các nội dung sau đây
13
:
- Hồ sơ mời thầu phải bao gồm các nội dung theo quy định tại khoản 2 Điều 32
của Luật Đấu thầu và mẫu hồ sơ mời thầu do Bộ Kế hoạch và Đầu tư ban hành. Đối
với các gói thầu đã thực hiện sơ tuyển, trong hồ sơ mời thầu không cần quy định tiêu
chuẩn đánh giá về kinh nghiệm và năng lực của nhà thầu song cần yêu cầu nhà thầu
khẳng định tại các thông tin về năng lực và kinh nghiệm mà nhà thầu đã kê khai trong
hồ sơ dự sơ tuyển;
- Hồ sơ mời thầu không được nêu yêu cầu về nhãn hiệu, xuất xứ cụ thể của
hàng hoá theo quy định tại khoản 5 Điều 12 của Luật Đấu thầu. Trường hợp đặc biệt
cần thiết phải nêu nhãn hiệu, catalô của một nhà sản xuất nào đó, hoặc hàng hoá từ
một nước nào đó để tham khảo, minh họa cho yêu cầu về mặt kỹ thuật của hàng hóa
thì phải ghi kèm theo cụm từ "hoặc tương đương" sau nhãn hiệu, catalô hoặc xuất xứ
nêu ra và quy định rõ khái niệm tương đương nghĩa là có đặc tính kỹ thuật tương tự,
có tính năng sử dụng là tương đương với các hàng hóa đã nêu. Đối với hàng hoá đặc
thù, phức tạp, cần yêu cầu nhà thầu nộp Giấy phép bán hàng thuộc bản quyền của nhà
sản xuất;
- Hồ sơ mời thầu phải bao gồm các yêu cầu quan trọng (điều kiện tiên quyết) để
loại bỏ hồ sơ dự thầu, cụ thể như sau:
+ Nhà thầu không có tên trong danh sách mua hồ sơ mời thầu hoặc không đáp
ứng quy định tại khoản 2 Điều 28 Nghị định này,
13
Điều 23 Nghị định 58/2008/NĐ-CP ngày 05/5/2008
23
+ Nhà thầu không bảo đảm tư cách hợp lệ theo quy định tại Điều 7, Điều 8 của
Luật Đấu thầu;

+ Không có bảo đảm dự thầu hoặc có bảo đảm dự thầu nhưng không hợp lệ: có
giá trị thấp hơn, không đúng đồng tiền quy định, thời gian hiệu lực ngắn hơn, không
nộp theo địa chỉ và thời gian quy định trong hồ sơ mời thầu, không đúng tên nhà thầu
(trường hợp đối với nhà thầu liên danh theo quy định tại Điều 32 Nghị định
58/2008/NĐ-CP), không phải là bản gốc và không có chữ ký hợp lệ (đối với thư bảo
lãnh của ngân hàng, tổ chức tài chính);
+ Không có bản gốc hồ sơ dự thầu;
+ Đơn dự thầu không hợp lệ;
+ Hiệu lực của hồ sơ dự thầu không bảo đảm yêu cầu theo quy định trong hồ
sơ mời thầu;
+ Hồ sơ dự thầu có tổng giá dự thầu không cố định, chào thầu theo nhiều mức
giá hoặc giá có kèm điều kiện gây bất lợi cho chủ đầu tư;
+ Nhà thầu có tên trong hai hoặc nhiều hồ sơ dự thầu với tư cách là nhà thầu
chính (nhà thầu độc lập hoặc thành viên trong liên danh);
+ Không đáp ứng điều kiện về năng lực theo Điều 7 của Luật Xây dựng;
+ Nhà thầu vi phạm một trong các hành vi bị cấm trong đấu thầu theo quy định
tại Điều 12 của Luật Đấu thầu;
+ Các yêu cầu quan trọng khác có tính đặc thù của gói thầu.
Nhà thầu vi phạm một trong các điều kiện tiên quyết quy định trong hồ sơ mời thầu sẽ
bị loại và hồ sơ dự thầu không được xem xét tiếp
+ Yêu cầu về mặt kĩ thuật:
Đối với gói thầu xây lắp bao gồm yêu cầu theo hồ sơ thiết kế kĩ thuật kèm theo
bảng tiên lượng, chỉ dẫn kĩ thuật và các yêu cầu cần thiết khác;
+ Yêu cầu về mặt tài chính, thương mại, bao gồm các chi phí để thực hiện gói
thầu, giá chào và biểu giá chi tiết, điều kiện giao hàng, phương thức giao hàng và
điều kiện thanh toán, nguồn tài chính, đồng tiền dự thầu và các điều khoản nêu trong
điều kiện chung và điều kiện cụ thể của hợp đồng.
+ Tiêu chuẩn đánh giá, yêu cầu quan trọng, điều kiện ưu đãi (nếu có), thuế, bảo
hiểm và các yêu cầu khác.
24

- Mời thầu
Việc mời thầu được thực hiện theo quy định sau đây:
+ Thông báo mời thầu đối với đấu thầu rộng rãi;
+ Gửi thư mời thầu đối với đấu thầu hạn chế hoặc đối với đấu thầu rộng rãi có sơ
tuyển.
5.2.Tổ chức đấu thầu
14
- Phát hành hồ sơ mời thầu:
Hồ sơ mời thầu được phát hành cho các nhà thầu tham gia đấu thầu rộng rãi, cho
các nhà thầu theo danh sách được mời thầu tham gia đấu thầu hạn chế hoặc cho các
nhà thầu đã vượt qua bước sơ tuyển.
Trường hợp hồ sơ mời thầu cần sửa đổi sau khi phát hành thì phải thông báo đến
các nhà thầu đã nhận hồ sơ mời thầu tối thiểu mười ngày trước thời điểm đóng thầu.
- Tiếp nhận và quản lí hồ sơ dự thầu
Các hồ sơ dự thầu nộp theo yêu cầu của hồ sơ mời thầu phải được bên mời thầu
tiếp nhận và quản lý theo chế độ quản lý hồ sơ “Mật”.
- Mở thầu
Mở thầu là thủ tục mở các hồ sơ dự thầu tại thời điểm được ấn định trước trong hồ
sơ mời thầu để xem xét và đánh giá.
Việc mở thầu phải được tiến hành công khai ngay sau thời điểm đóng thầu đối với
các hồ sơ dự thầu được nộp theo yêu cầu của hồ sơ mời thầu.
Thông tin chính nêu trong hồ sơ dự thầu của từng nhà thầu phải được công bố
trong buổi mở thầu, được ghi lại trong biên bản mở thầu có chữ kí xác nhận của đại
diện bên mời thầu, đại diện nhà thầu và đại diện cơ quan liên quan tham dự.
5.3. Đánh giá hồ sơ dự thầu
15
Sau khi mở thầu, công việc tiếp theo là đánh giá, xếp loại hồ sơ dự thầu để chọn
nhà thầu trúng thầu. Các hồ sơ dự thầu sẽ được xem xét, đánh giá theo hai mức đánh
giá sơ bộ và đánh giá chi tiết.
Ở giai đoạn đánh giá sơ bộ, bên mời thầu kiểm tra tính hợp lệ và xem xét sự đáp

ứng cơ bản các yêu cầu của hồ sơ dự thầu so với hồ sơ mời thầu. Loại bỏ hồ sơ dự
thầu không bảo đảm yêu cầu quan trọng của hồ sơ mời thầu
Ở giai đoạn đánh giá chi tiết hồ sơ dự thầu được thực hiện theo quy định sau đây:
14
Điều 33 Luật đấu thầu 2005
15
Điều 35 Luật đấu thầu 2005
25

×