Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Cung cấp chứng cứ và vấn đề chứng minh trong tố tụng dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.94 MB, 95 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN NHƢ QUỲNH

CUNG CẤP CHỨNG CỨ VÀ VẤN ĐỀ CHỨNG MINH
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
(Định hƣớng ứng dụng)

HÀ NỘI - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN NHƢ QUỲNH

CUNG CẤP CHỨNG CỨ VÀ VẤN ĐỀ CHỨNG MINH
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
Chuyên ngành : Luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số:

8380103



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
(Định hƣớng ứng dụng)

Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Văn Trung

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ
ràng, được trích dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của luận văn
này.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Nhƣ Quỳnh


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLTTDS

: Bộ luật Tố tụng dân sự

HĐXX

: Hội đồng xét xử


TANDTC

: Tòa án nhân dân tối cao

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân

VADS

: Vụ án dân sự


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
NỘI DUNG ....................................................................................................... 7
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CUNG CẤP CHỨNG CỨ
VÀ CHỨNG MINH TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM ................ 7
1.1. Một số vấn đề chung về cung cấp chứng cứ trong tố tụng dân sự ...... 7
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm chứng cứ trong tố tụng dân sự ....................... 7
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm cung cấp chứng cứ trong tố tụng dân sự ..... 13
1.2. Một số vấn đề chung về chứng minh trong tố tụng dân sự ................ 14
1.2.1. Khái niệm chứng minh trong tố tụng dân sự ................................. 14
1.2.2. Quá trình chứng minh ..................................................................... 17
1.2.3. Chủ thể của hoạt động chứng minh ................................................ 18
1.2.4. Đối tượng chứng minh trong tố tụng dân sự .................................. 20
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 .............................................................................. 22
CHƢƠNG 2 : CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ
VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ CUNG CẤP CHỨNG CỨ VÀ CHỨNG

MINH.............................................................................................................. 23
2.1. Những quy định của pháp luật hiện hành về cung cấp chứng cứ trong
tố tụng dân sự ................................................................................................ 23
2.1.1. Chủ thể cung cấp chứng cứ ............................................................. 23
2.1.2. Thời gian, thủ tục cung cấp chứng cứ ............................................ 27
2.2. Những quy định của pháp luật hiện hành về chứng minh trong tố
tụng dân sự ..................................................................................................... 31


2.2.1. Thu thập, cung cấp chứng cứ .......................................................... 31
2.2.2. Nghiên cứu, đánh giá chứng cứ ...................................................... 50
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 .............................................................................. 56
CHƢƠNG 3 : THỰC TIỄN THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT HIỆN HÀNH VỀ CUNG CẤP CHỨNG CỨ VÀ CHỨNG MINH
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VÀ KIẾN NGHỊ ......................................... 58
3.1. Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật hiện hành về cung
cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự ................................... 58
3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về cung cấp chứng cứ và
chứng minh trong tố tụng dân sự ................................................................ 71
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 .............................................................................. 77
PHẦN KẾT LUẬN ........................................................................................ 78


1

MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2015 được Quốc hội nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kì họp thứ 10 thông qua ngày
25/11/2015, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/07/2016, là văn bản có tính

pháp lý cao nhất quy định về trình tự, thủ tục giải quyết vụ việc dân sự tại Tòa
án. Kế thừa Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 và Luật sửa đổi bổ sung một số
điều của Bộ luật tố tụng dân sự số 65/2011/QH12, Bộ luật tố tụng dân sự năm
2015 đã có nhiều sửa đổi, bổ sung quan trọng nhằm thể chế hóa các chủ
trương, đường lối của Đảng về cải cách tư pháp, cụ thể hóa các quy định của
Hiến pháp năm 2013, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất trong hệ thống pháp
luật, đáp ứng yêu cầu cấp bách của thực tiễn giải quyết các vụ việc dân sự
trong giai đoạn hiện nay, trong đó có những sửa đổi, bổ sung khá quan trọng
trong phần quy định về cung cấp chứng cứ và chứng minh.
Chứng cứ và chứng minh là một nội dung quan trọng của Bộ luật Tố
tụng dân sự. Quá trình tố tụng kéo dài từ khi tòa án thụ lý vụ việc dân sự cho
đến khi có phán quyết giải quyết hoặc chấm dứt tranh chấp. Trong đó, hoạt
động cung cấp chứng cứ và chứng minh là những hoạt động cơ bản, trước tiên
và quan trọng nhất mà các chủ thể tiến hành và tham gia hướng tới. Hoạt động
này là cơ sở để đương sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, cũng
như là căn cứ để Tòa án đưa ra các phán quyết của mình. Có thể nói mục đích
của hoạt động tố tụng là chứng minh và bản án, quyết định của tòa án chính là
kết quả cuối cùng của quá trình chứng minh đó.
Pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện nay đang được chuyển từ mô
hình tố tụng xét hỏi sang kết hợp giữa xét hỏi và tranh tụng, ngày càng đề cao
vai trò chứng minh của đương sự. BLTTDS năm 2015 ra đời đã có những quy
định mới, cụ thể hơn, góp phần mở rộng quyền chủ động của đương sự để bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, cũng như quyền chủ động của Thẩm
phán trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự. Tuy nhiên, các quy định này


2

vẫn đang trong quá trình hoàn thiện trên cơ sở kiểm nghiệm thông qua thực
tiễn áp dụng. Do vậy, việc nghiên cứu một cách toàn diện về hoạt động cung

cấp chứng cứ và chứng minh về cả phương diện lý luận, lập pháp và thực tiễn,
từ đó đề xuất những giải pháp cho việc hoàn thiện các quy định pháp luật là
cần thiết.
Xuất phát từ những lý do đó, tôi đã lựa chọn đề tài “Cung cấp chứng
cứ và vấn đề chứng minh trong tố tụng dân sự” làm luận văn cao học luật
của mình.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Cung cấp chứng cứ và chứng minh là một trong những vấn đề cơ bản của
Luật TTDS. Vì vậy, từ trước đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa
học liên quan đến vấn đề này, có thể kể đến một số công trình nghiên cứu sau
đây:
Về đề tài khoa học, có “Thu thập và đánh giá chứng cứ trong quá trình
giải quyết vụ án dân sự thực trạng và giải pháp”, đề tài cấp cơ sở của Viện
khoa học xét xử của Tòa án nhân dân tối cao, năm 2002; “Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn cơ bản về tư pháp dân sự ở Việt Nam hiện nay”, đề tài cấp
Bộ của Viện Nhà nước và pháp luật thực hiện năm 2010; “Những vấn đề lý
luận về chứng minh và chứng cứ trong TTDS”, đề tài cấp cơ sở Trường Đại
học Luật Hà Nội, năm 2012;.... Về luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ, có luận
văn thạc sỹ Hoạt động cung cấp, thu thập chứng cứ trong Tố tụng dân sự Việt
Nam” bảo vệ tại Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2002; luận văn tiến sĩ
“Hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn
Minh Hằng bảo vệ tại Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2007; luận văn thạc
sĩ của Tăng Hoàng My “Nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong
tố tụng dân sự” bảo vệ tại Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2012; luận văn
thạc sĩ của Nguyễn Vĩnh Thành “Các biện pháp thu thập chứng cứ của Tòa
án trong tố tụng dân sự” bảo vệ tại Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2013;
luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Liên “Hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa


3


án từ thực tiễn giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án cấp huyện thành phố
Hải Phòng” bảo vệ tại Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2014; luận văn thạc
sĩ của Quàng Hồng Nết “Cung cấp chứng cứ trong tố tụng dân sư - Thực tiễn
tại Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La” bảo vệ tại Trường Đại học Luật Hà Nội
năm 2015; luận văn thạc sĩ của Nguyễn Kim Lượng “Thu thập, nghiên cứu và
đánh giá chứng cứ trong tố tụng dân sự của Tòa án cấp sơ thẩm” bảo vệ tại
Khoa Luật trực thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2015,... Về các bài viết
trên các tạp chí khoa học pháp lý, có bài “Một số bất cập và vướng mắc của
Bộ luật Tố tụng dân sự chưa được hướng dẫn thi hành” của tác giả Trần Văn
Trung đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân số 04/2011; bài“Thời điểm cung
cấp chứng cứ trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015” của Nguyễn Minh
Hằng, Bùi Xuân Trường đăng trên Tạp chí Nghề luật số 02/2016; bài “Bàn về
nghĩa vụ chứng minh được quy định tại Điều 79 Bộ luật Tố tụng dân sự” của
Trần Phương Thảo đăng trên Tạp chí Luật học số 03/2014,......
Ở những khía cạnh khác nhau, những công trình nghiên cứu nêu trên đã
đề cập đến một số vấn đề về cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng
dân sự. Tuy nhiên, chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách có hệ
thống, toàn diện và chuyên sâu về hoạt động cung cấp chứng cứ và chứng
minh của các chủ thể trong tố tụng dân sự theo BLTTDS năm 2015.
Ngoài ra phần lớn các công trình này đều được thực hiện trước khi
BLTTDS năm 2015 ra đời, một số nội dung chưa được ghi nhận trong pháp
luật thực định, do đó, đề tài nghiên cứu của tôi bên cạnh việc kế thừa những
kết quả nghiên cứu trước đó thì đã có những điểm mới và khác biệt so với các
đề tài trước cùng về nội dung này.
3. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
* Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những quy định của Bộ luật tố
tụng dân sự hiện hành về cung cấp chứng cứ và chứng minh của các chủ thể
tiến hành và tham gia tố tụng.



4

* Phạm vi nghiên cứu:
Đây là một đề tài có phạm vi khá rộng. Trong luận văn của mình, tác
giả sẽ đi sâu tìm hiểu, phân tích chủ yếu các quy định của pháp luật tố tụng
dân sự hiện hành về hoạt động cung cấp chứng cứ và chứng minh, trong đó
tập trung nghiên cứu về hoạt động cung cấp chứng cứ và chứng minh của
đương sự trong vụ án dân sự.
4. MỤC TIÊU VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là làm rõ được những vấn đề lý luận
cũng như nội dung các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện
hành về hoạt động cung cấp chứng cứ và chứng minh, bình luận và đánh giá
các quy định mới của pháp luật, từ đó chỉ ra những điểm còn thiếu sót hoặc
chưa hợp lý trong các quy định hiện hành về hoạt động cung cấp chứng cứ và
chứng minh trong tố tụng dân sự. Ngoài ra việc nghiên cứu cũng nhằm chỉ ra
những vướng mắc, khó khăn trên thực tế khi các chủ thể thực hiện hoạt động
cung cấp chứng cứ và chứng minh. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu tổng hợp,
luận văn sẽ đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật tố
tụng dân sự Việt Nam đối với hoạt động cung cấp chứng cứ và chứng minh
trên thực tế.
Để đạt được mục tiêu trên, việc nghiên cứu đề tài có các nhiệm vụ cơ
bản sau:
- Nghiên cứu một số vấn đề chung về chứng cứ, cung cấp chứng cứ và
chứng minh như khái niệm, đặc điểm của chứng cứ, cách phân loại chứng cứ;
khái niệm, đặc điểm của cung cấp chứng cứ; khái niệm chứng minh, quá trình
chứng minh, đối tượng chứng minh, các chủ thể chứng minh;
- Nghiên cứu các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về
cung cấp chứng cứ và chứng minh trong TTDS;

- Khảo sát thực tiễn việc thực hiện quy định của pháp luật Việt Nam về
cung cấp chứng cứ và chứng minh trong TTDS;


5

- Nhận diện những hạn chế, bất cập trong các quy định của pháp luật
Việt Nam về cung cấp chứng cứ và chứng minh trong TTDS và thực tiễn thực
hiện và đề xuất các giải pháp để khắc phục.
5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để hoàn thành đề tài này, việc nghiên cứu được tiến hành dựa trên cơ
sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin (chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử), tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm
của Đảng và Nhà nước ta về pháp luật và cải cách tư pháp.
Đồng thời, luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:
phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp so sánh, phương pháp thống
kê, phương pháp lịch sử... để làm sáng tỏ những nội dung nghiên cứu của đề
tài.
6. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
Luận văn nghiên cứu một cách có hệ thống về hoạt động cung cấp
chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự Việt Nam. Những đóng góp của
luận văn thể hiện trên một số phương diện sau:
- Làm rõ bản chất và đặc điểm cơ bản của hoạt động cung cấp chứng cứ
và chứng minh trong tố tụng dân sự.
- Đánh giá về các quy định hiện hành về hoạt động cung cấp chứng cứ
và chứng minh và thực tiễn thực hiện trên thực tế. Từ đó, luận văn chỉ ra
những hạn chế của pháp luật và bất cập trong thực tiễn thực hiện các quy định
của BLTTDS về hoạt động cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng
dân sự.
- Trên cơ sở tổng hợp kết quả nghiên cứu, luận văn đề xuất những giải

pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về hoạt động cung cấp chứng cứ và
chứng minh trong tố tụng dân sự, nâng cao hiệu quả hoạt động cung cấp
chứng cứ và chứng minh trên thực tế.


6

7. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về cung cấp chứng cứ và chứng minh
trong tố tụng dân sự Việt Nam.
Chương 2: Các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện
hành về cung cấp chứng cứ và chứng minh.
Chương 3: Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng dân
sự Việt Nam hiện hành về cung cấp chứng cứ và chứng minh và kiến nghị.


7

NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CUNG CẤP CHỨNG CỨ
VÀ CHỨNG MINH TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
1.1. Một số vấn đề chung về cung cấp chứng cứ trong tố tụng dân sự
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm chứng cứ trong tố tụng dân sự
Chứng cứ là vấn đề trung tâm và quan trọng của tố tụng dân sự. Có thể
nói, mọi hoạt động trong quá trình chứng minh chủ yếu xoay quanh vấn đề
chứng cứ, mọi giai đoạn của tố tụng dân sự mở ra, kết thúc và kết quả đều phụ
thuộc phần lớn vào chứng cứ. Dựa vào chứng cứ mà các đương sự có cơ sở
xác đáng chứng minh bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình, các cơ quan tiến

hành tố tụng có đủ hay không đủ điều kiện để xác định tình tiết của vụ việc
dân sự đúng, đủ, chính xác để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho công dân và
bảo vệ pháp luật.
Theo Đại từ điển tiếng Việt, “Chứng cứ là cái được dẫn ra để dựa vào
đó mà xác định một điều là đúng hay sai, thật hay giả”1.
Còn theo Từ điển Luật học, chứng cứ là phương tiện để xác minh sự
thật về vụ án. Pháp luật có một số yêu cầu đối với chứng cứ nhằm đảm bảo
tính xác thực cũng như kiểm tra và đánh giá đúng đắn chứng cứ: chứng cứ
phải chứa đựng những tài liệu thực tế có liên quan đến vụ án cụ thể; chứng cứ
phải được rút ra từ những nguồn do luật quy định... Những tình tiết có liên
quan đến vụ án được ghi trong các tài liệu do cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân
cung cấp có thể được coi là chứng cứ2.
Đặt trong pháp luật tố tụng quốc tế, chứng cứ là một yếu tố quan trọng
nên khái niệm chứng cứ được luật tố tụng dân sự của nhiều nước đề cập đến.

1

Đại từ điển tiếng Việt, Nxb. Văn hóa thông tin, 1999, tr. 415

2

Từ điển Luật học, Nxb. Từ điển bách khoa, 1999, tr. 99


8

Cá biệt còn có một số nước xây dựng luật về chứng cứ để thể hiện sự
quan trọng của vấn đề này.
Luật tố tụng dân sự Nhật Bản định nghĩa:“Chứng cứ là một tư liệu
thông qua đó một tình tiết được Tòa án công nhận và là một tư liệu, cơ sở

thông qua đó Tòa án được thuyết phục là một tình tiết nhất định có tồn tại hay
không”.
Theo quy định tại Điều 401 Luật chứng cứ liên bang Mỹ: “Chứng cứ là
những gì mà hàm chứa trong nó sự tồn tại của bất cứ một sự thực nào mà bản
thân sự hàm chứa đó có ảnh hưởng tới việc xác định được một hành động hơn
hoặc kém hơn”.
Theo Luật chứng cứ của Úc, khái nệm chứng cứ được hiểu là những gì
được dùng để chứng minh sự tồn tại của một tình tiết thực tế nào đó trong các
vụ án dân sự. Các sự kiện, tình tiết được sử dụng làm chứng cứ phải được thu
thập, kiểm tra, đánh giá theo trình tự, thủ tục và những nguyên tắc nhất định
theo quy định của Luật chứng cứ.
Có thể thấy nhìn chung nội hàm của khái niệm một số nước trên tựu
chung khẳng định: Chứng cứ là sự thật khách quan.
Trong khoa học Luật tố tụng dân sự Việt Nam, chứng cứ được định
nghĩa: “Chứng cứ là cái có thật, theo một trình tự do luật định được Tòa án
dùng làm căn cứ để giải quyết vụ việc dân sự”3.
Định nghĩa về chứng cứ cũng được quy định tại Điều 93 BLTTDS 2015:
“Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương sự và các cơ
quan, tổ chức, cá nhân khác giao nộp, xuất trình cho Tòa án trong quá trình
tố tụng hoặc do Tòa án thu thập được theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy
định và được Tòa án sử dụng làm căn cứ để xác định các tình tiết khách quan
của vụ án cũng như xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn
cứ và hợp pháp”. Theo quy định này, thì trước hết chứng cứ là những gì có
3

Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội,
2017.


9


thật, chỉ những thứ có thật mới có thể là chứng cứ. Khía cạnh này đã phản ánh
được yêu cầu về tính khách quan của chứng cứ. Những gì có thật trong thế
giới vật chất rất đa dạng, có thể là những thông tin, dấu vết, sự kiện, tài liệu,...
Mặt khác, cũng theo quy định này thì chứng cứ phải được giao nộp cho Tòa
án hoặc do Tòa án thu thập theo trình tự, thủ tục do BLTTDS quy định. Đây là
một yêu cầu về hình thức buộc phải có đối với “những gì” muốn được sử
dụng với tư cách là chứng cứ. Nếu không thỏa mãn yêu cầu này thì chúng
cũng không được thừa nhận để làm cơ sở xác định các tình tiết, sự kiện của vụ
việc dân sự. Quy định này phản ánh tính hợp pháp của chứng cứ.
Về cơ bản, quy định này đã phản ánh được tương đối bản chất của
chứng cứ. Tuy vậy, có một số điểm trong định nghĩa này vẫn chưa thật hoàn
thiện. Nếu định nghĩa chứng cứ là “những gì có thật” thì khái quát nhưng
không rõ ràng cụ thể và chưa mang tính khẳng định. Mặt khác, nếu định nghĩa
như vậy sẽ dẫn đến việc hiểu lầm chỉ có Tòa án mới tham gia vào hoạt động
nghiên cứu và đánh giá chứng cứ. Trong tố tụng dân sự, không chỉ có các
đương sự mà còn có các chủ thể tố tụng khác như Viện kiểm sát, cơ quan, tổ
chức khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, do vậy
nếu coi chứng cứ chỉ làm căn cứ để xác định yêu cầu hay sự phản đối của
đương sự là có căn cứ và hợp pháp hay không thì cũng chưa đủ. Các thông tin,
sự kiện, tình tiết này không chỉ để xác định yêu cầu hay phản đối yêu cầu của
đương sự mà còn để xác định các yêu cầu của Viện kiểm sát, cơ quan, tổ chức
khởi kiện và những người khác đưa ra trong quá trình giải quyết vụ việc dân
sự để giải quyết đúng vụ việc dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự.
Từ khái niệm chứng cứ nêu trên, có thể thấy chứng cứ có các đặc điểm
sau:
Tính khách quan:
Chứng cứ có tính khách quan bởi chứng cứ là cơ sở để nhận thức vụ
việc dân sự. Theo lý luận về nhận thức thì người ta chỉ nhận thức đúng bản



10

chất của sự vật, sự việc khi nó được phản ánh lại một cách khách quan.
Những cái có được là do sự tưởng tượng, hư cấu không bao giờ nói lên được
bản chất sự vật, sự việc và không thể làm cơ sở của nhận thức.
Tính khách quan của chứng cứ thể hiện ở chỗ chứng cứ phải là cái có
thật, tồn tại ngoài ý muốn của những người tiến hành tố tụng và những người
tham gia tố tụng. Trong quá trình tố tụng, những người tiến hành tố tụng và
những người tham gia tố tụng không thể tạo ra chúng theo ý muốn chủ quan
của họ mà chỉ có thể thu thập, nghiên cứu, đánh giá và sử dụng chúng. Xác
định được tính khách quan của chứng cứ, trong quá trình giải quyết vụ việc
dân sự tòa án loại bỏ được những cái không có thật, không sử dụng để giải
quyết vụ việc dân sự bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự được nhanh
chóng, đúng đắn.
Tính liên quan:
Chứng cứ có tính liên quan bởi chứng cứ được tòa án dựa vào để giải
quyết vụ việc dân sự. Tính liên quan của chứng cứ thể hiện ở chỗ giữa chứng
cứ và vụ việc dân sự có mối quan hệ nhất định. Nhờ chứng cứ mà tòa án có
thể công nhận hay phủ nhận được tình tiết, sự kiện này hay tình tiết, sự kiện
khác của vụ việc dân sự hoặc đưa ra tin tức về nó. Thông thường, chứng cứ
bao gồm những tin tức liên quan trực tiếp đến vụ việc dân sự. Thông qua nó
tòa án có thể khẳng định ngay được có hay không tình tiết, sự kiện của vụ việc
dân sự nhưng trong nhiều trường hợp, chứng cứ còn bao gồm cả những tin tức
liên quan gián tiếp đến vụ việc dân sự.
Tuy vậy, nhờ chúng tòa án vẫn có khả năng đưa ra những kết luận nhất
định về vụ việc dân sự đang giải quyết. Căn cứ vào tính liên quan của chứng
cứ, trong quá trình giải quyết vụ việc, Tòa án có thể loại bỏ được những cái
không liên quan đến vụ việc dân sự. Từ đó, không phải xác minh làm rõ

chúng, bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự được nhanh chóng và đúng
đắn.
Tính hợp pháp:


11

Chứng cứ có tính hợp pháp bởi việc giải quyết vụ việc dân sự không thể
tách rời quá trình nghiên cứu, đánh giá và sử dụng chứng cứ. Quá trình này lại
phức tạp vì thế pháp luật phải quy định cụ thể những vấn đề liên quan đến
chúng thì mới có thể làm cho việc giải quyết vụ việc dân sự đúng với bản chất
của nó.
Tính hợp pháp của chứng cứ yêu cầu chứng cứ phải được rút ra từ
những nguồn nhất định do pháp luật quy định; quá trình thu thập, nghiên cứu,
đánh giá và sử dụng phải được tiến hành theo đúng quy định của pháp luật.
Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, các chủ thể chứng minh phải tuân
thủ đúng các quy định của pháp luật chứng cứ. Đối với những gì không được
rút ra từ các nguồn do pháp luật quy định, không được thu thập, nghiên cứu,
đánh giá và sử dụng theo đúng quy định của pháp luật thì không được coi là
chứng cứ, không được sử dụng giải quyết vụ việc dân sự.
Chứng cứ thường được phân thành các loại sau:
- Dựa vào nguồn thu nhận chứng cứ: chứng cứ được phân ra chứng cứ
theo người và chứng cứ theo vật.
+ Chứng cứ theo người gồm chứng cứ theo lời nói của con người và
chứng cứ kết luận giám định (chứng cứ khách quan về mặt chuyên môn) do
các chuyên gia có chuyên môn giám định.
+ Chứng cứ theo vật chiếm đa phần các loại chứng cứ, ví dụ như con
dao, di chúc,...
- Căn cứ và hình thức tạo thành chứng cứ: gồm chứng cứ gốc và chứng
cứ thuật lại.

+ Chứng cứ gốc là những lời khai của người biết đầu tiên, không thông
qua một ai, trực tiếp nhìn thấy, nghe thấy.
+ Chứng cứ thuật lại là chứng cứ mà một người được nghe kể lại từ một
người khác, hay thuật lại, tường thuật lại.
- Căn cứ vào mối liên hệ giữa chứng cứ với những sự kiện cần chứng
minh được chia thành chứng cứ trực tiếp và chứng cứ gián tiếp.


12

+ Chứng cứ trực tiếp là những chứng cứ có ảnh hưởng luôn, không
thông qua một nguồn nào khác. Ví dụ như giấy vay nợ, hợp đồng mua bán tài
sản,...
+ Chứng cứ gián tiếp là những chứng cứ cần phải thông qua một trung
gian nào đó. Ví dụ như giấy đi công tác, hóa đơn chứng từ khi nghỉ, hóa đơn
khi đi ăn,...
Về nguồn của chứng cứ, BLTTDS 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011)
quy định tại Điều 82 nguồn chứng cứ bao gồm: Các tài liệu đọc được, nghe
được, nhìn được; các vật chứng; lời khai của đương sự; lời khai của người làm
chứng; kết luận giám định; biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ; tập quán;
kết quả định giá tài sản, thẩm định giá tài sản và các nguồn khác mà pháp luật
có quy định.
So với quy định trên, Điều 94 BLTTDS 2015 có một số sửa đổi, bổ
sung tại khoản 1: “Tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được, dữ liệu điện tử”;
bổ sung khoản 2: “Văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có
chức năng lập”; khoản 9: “Văn bản công chứng, chứng thực”. Ngoài ra, Điều
94 BLTTDS 2015 còn bỏ “Tập quán” như một nguồn chứng cứ. Như vậy,
theo quy định của BLTTDS 2015, dữ liệu điện tử; văn bản ghi nhận sự kiện,
hành vi pháp lý do người có chức năng lập; văn bản công chứng, chứng thực
là các nguồn chứng cứ.

- Dữ liệu điện tử: là ký hiệu, chữ viết, chữ số, hình ảnh, âm thanh hoặc
dạng tương tự được tạo ra, lưu trữ, truyền đi hoặc nhận được bởi phương tiện
điện tử. Giao dịch dân sự bằng dữ liệu điện tử được các bên thực hiện truyền
thông tin từ máy tính đến máy tính nhằm góp phần giản tiện về thời gian, chi
phí.... mà vẫn đảm bảo được hiệu quả công việc. Hiện nay được sử dụng khá
phổ biến và phù hợp với Điều 1 Luật Giao dịch điện tử năm 2005. Do đó, việc
bổ sung nguồn chứng cứ này là cần thiết nhằm đáp ứng được những yêu cầu
thực tế đặt ra.


13

- Văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có chức năng lập:
Không phải mọi văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý đều được xem là
nguồn của chứng cứ, mà văn bản đó chỉ có hiệu lực pháp lý khi được lập bởi
người có chức năng. Điển hình cho loại nguồn chứng cứ này chính là vi bằng
do Thừa phát lại lập, ghi nhận sự kiện, hành vi được sử dụng làm chứng cứ
trong xét xử và trong các quan hệ pháp lý khác (khoản 3 Điều 2 Nghị định số
135/2013/NĐ-CP ngày 18/10/201 sửa đổi, bổ sung tên gọi và một số điều của
Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày 24/7/2009 của Chính phủ về tổ chức và
hoạt động của Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh).
- Văn bản công chứng, chứng thực: Hiện nay, phần lớn thủ tục, hồ sơ
thực hiện các giao dịch dân sự đều sử dụng văn bản công chứng của tổ chức,
cá nhân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Việc thực hiện công
chứng, chứng thực do người của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền thực hiện
nên có giá trị xác thực, giá trị pháp lý và độ tin cậy hơn các loại giấy tờ không
có chứng nhận xác thực hoặc chỉ trình bày bằng miệng. Các văn bản công
chứng đảm bảo sự an toàn của các giao dịch, tạo nên sự tin tưởng của khách
hàng, là cơ sở quan trọng để Tòa án có được quyết định chính xác trong bản
án, quyết định.

1.1.2. Khái niệm, đặc điểm cung cấp chứng cứ trong tố tụng dân sự
Được quy định tại Điều 6 BLTTDS năm 2015, cung cấp chứng cứ là
quyền và nghĩa vụ của đương sự, giúp họ chứng minh cho yêu cầu của mình
là có căn cứ bằng việc chủ động thu thập và giao nộp chứng cứ cho Tòa án.
Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà
Nội đưa ra định nghĩa: “Cung cấp chứng cứ là hoạt động tố tụng của các chủ
thể tố tụng trong việc đưa lại cho Tòa án, Viện kiểm sát các chứng cứ của vụ
việc dân sự”. Theo định nghĩa này, cung cấp chứng cứ trước hết là một hoạt
động tố tụng trong việc đưa ra, đem lại cho Tòa án, Viện kiểm sát các chứng
cứ. Các chủ thể cung cấp chứng cứ ngoài đương sự còn có những chủ thể
khác có đưa ra yêu cầu cho Tòa án giải quyết vụ việc dân sự và những chủ thể


14

đang lưu giữ, quản lý chứng cứ được Tòa án, Viện kiểm sát yêu cầu. Các chủ
thể tiếp nhận việc cung cấp chứng cứ là Tòa án và Viện kiểm sát, trong đó chủ
yếu là Tòa án.
Định nghĩa này đưa đến một cái nhìn đúng đắn và khái quát về một
trong những hoạt động tố tụng cơ bản, chỉ ra được các chủ thể có quyền và
nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, mục đích của việc cung cấp chứng cứ đến chủ
thể có nghĩa vụ tiếp nhận chứng cứ.
Trong Luận văn thạc sĩ Luật học Cung cấp chứng cứ trong tố tụng dân
sự (2015), tác giả Quàng Hồng Nết có đưa ra định nghĩa: “Cung cấp chứng cứ
trong tố tụng dân sự là hoạt động tố tụng của các chủ thể tố tụng trong việc
đưa lại cho Tòa án, Viện kiểm sát các chứng cứ của vụ việc dân sự theo trình
tự, thủ tục do pháp luật tố tụng dân sự quy định”.
1.2. Một số vấn đề chung về chứng minh trong tố tụng dân sự
1.2.1. Khái niệm chứng minh trong tố tụng dân sự
Theo Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Giáo dục, 1998, trang 178:

“Chứng minh là dùng lý lẽ, suy luận, bằng cứ để chỉ rõ điều gì đó đúng hay
không đúng.”
Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2003, trang 192 ghi:
“Chứng minh là làm cho thấy rõ là có thật, là đúng bằng sự việc hoặc lý lẽ”.
Với cách hiểu này, chứng minh trong tố tụng dân sự là làm rõ các tình tiết,
vấn đề, sự kiện của vụ án dân sự là có thật bằng các chứng cứ, lý lẽ và lập
luận.
Theo Từ điển Luật học, Nhà xuất bản Từ điển bách khoa, Nhà xuất bản
Tư pháp, 2006, trang 166, chứng minh trong tố tụng dân sự là:
“hoạt động tố tụng của chủ thể tố tụng theo quy định của pháp luật tố
tụng trong việc làm rõ các sự kiện, tình tiết của vụ án dân sự.
Chứng minh trong tố tụng dân sự bao gồm các hoạt động tố tụng như
cung cấp, thu thập, nghiên cứu, đánh giá chứng cứ, vv. Chứng minh được các


15

chủ thể tố tụng thực hiện trong suốt quá trình giải quyết vụ việc dân sự. Các
chủ thể chứng minh trong tố tụng bao gồm các đương sự, người đại diện,
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ
chức khởi kiện bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước hoặc yêu cầu
Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích của người khác. Trong đó, các đương sự là
chủ thể chứng minh chủ yếu.”
Trong thế giới khách quan luôn tồn tại nhiều sự vật, hiện tượng khác
nhau đòi hỏi con người phải nhận thức và đánh giá. Ở mỗi sự vật, hiện tượng
lại có nhiều đặc tính khác nhau, có những đặc tính có thể nhận biết một cách
nhanh chóng, rõ ràng bằng các giác quan, nhưng thực tiễn cũng tồn tại những
đặc tính không thể nhận biết ngay mà phải trải qua một quá trình tư duy, giải
thích, móc nối các sự kiện để đi đến được kết luận và việc đầu tiên là phải đưa
ra những giả thiết để định hướng tư duy, sau đó tổng hợp các sự kiện khách

quan để có thể đi đến kết luận cuối cùng. Quá trình giải quyết giả thiết bằng
cách tư duy, logic các sự kiện đó chính là chứng minh. Quá trình chứng minh
diễn ra liên tục, trong mọi mặt của đời sống xã hội và nó là động lực cho sự
phát triển, khám phá tìm tòi.
Trong tố tụng dân sự, chứng minh cũng là một dạng hoạt động, nhưng
không phải là hoạt động trong đời thường mà là hoạt động tố tụng, cụ thể là
hoạt động sử dụng chứng cứ với mục đích tái hiện lại trước Tòa án vụ việc
dân sự đã xảy ra trong quá khứ một cách chính xác và tỉ mỉ nhất có thể có,
qua đó, Tòa án có thể khẳng định có hay không các sự kiện, tình tiết khách
quan làm cơ sở cho yêu cầu hay phản đối của các bên đương sự trong vụ việc
dân sự. Tuy nhiên, hoạt động sử dụng chứng cứ trong tố tụng dân sự không
thể được tiến hành một cách tùy tiện theo ý chí chủ quan của Tòa án hay của
các chủ thể tham gia tố tụng mà phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của
pháp luật tố tụng dân sự về sử dụng chứng cứ thông qua các hoạt động tố tụng
cụ thể, bao gồm hoạt động cung cấp chứng cứ, thu thập chứng cứ, nghiên cứu
chứng cứ và đánh giá chứng cứ. Tất cả các hoạt động này là các yếu tố hợp


16

thành chứng minh hay nội dung của hoạt động chứng minh trong tố tụng dân
sự.
Như vậy, có thể hiểu Chứng minh trong tố tụng dân sự là tổng thể các
hoạt động của Tòa án và các chủ thể tham gia tố tụng trong việc cung cấp,
thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ dựa trên quy luật của hoạt
động nhận thức các quy định của pháp luật nội dung, pháp luật tố tụng, tập
quán và các tình tiết, sự kiện cần chứng minh và bằng niềm tin nội tâm của
các chủ thể chứng minh trong mỗi một quan hệ pháp luật dân sự cụ thể,
nhằm mục đích sử dụng chứng cứ để xác định sự thật khách quan của vụ,
việc dân sự.

Hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự có các đặc điểm cơ bản:
Hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự là một quá trình nhận thức
diễn ra xuyên suốt vụ án dân sự, được bắt đầu khi có quyết định thụ lý đơn
khởi kiện cho đến khi tòa án ra phán quyết.
Khởi đầu là việc chứng minh của nguyên đơn cho yêu cầu của mình
thông qua đơn khởi kiện, tiếp đến là hoạt động chứng minh của bị đơn bác
yêu cầu của nguyên đơn, yêu cầu phản tố (nếu có), hoạt động chứng minh của
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, của Viện kiểm sát (nếu có)...và kết
thúc khi tòa án chứng minh cho phán quyết của mình thông qua một bản án có
giá trị bắt buộc thi hành.
Bản chất của chứng minh chính là việc sử dụng chứng cứ:
Hai yếu tố cấu thành vụ án dân sự là yếu tố chủ quan (đương sự) và yếu
tố khách quan (bao gồm đối tượng - mục đích khởi kiện và nguyên nhân cách thức bảo vệ quyền của các chủ thể trước tòa án). Hoạt động chứng minh
được xếp vào các yếu tố thuộc mặt khách quan của vụ án. Điều này có nghĩa
là yếu tố cấu thành vụ án đã vốn có, vốn đã tồn tại, nay chỉ đi tìm lại, diễn đạt
lại một cách đầy đủ nhất, đúng đắn nhất. Hay nói cách khác, hoạt động chứng
minh là hoạt động thông qua việc sử dụng chứng cứ để tái hiện lại sự thật
khách quan của vụ án.


17

1.2.2. Quá trình chứng minh
Quá trình chứng minh không có gì khác ngoài việc sử dụng chứng cứ
đúng đắn (thỏa mãn ba yêu cầu về tính khách quan, tính liên quan và tính hợp
pháp) bao gồm bốn giai đoạn khác nhau là cung cấp, thu thập, nghiên cứu,
đánh giá chứng cứ. Các giai đoạn này có mối liên hệ mật thiết với nhau, chỉ có
giai đoạn trước mới có giai đoạn sau, và giai đoạn sau sẽ là cơ sở để đánh giá
tính đúng đắn và triệt để của giai đoạn trước. Phải có hoạt động thu thập, cung
cấp chứng cứ thì mới phát sinh hoạt động nghiên cứu, đánh giá chứng cứ và

kết quả của hoạt động nghiên cứu, đánh giá chứng cứ sẽ phát sinh những nhận
thức từ vụ án dân sự, nhận thức này có đúng đắn, khách quan và toàn diện hay
không hoàn toàn phụ thuộc vào việc thu thập, cung cấp chứng cứ có đầy đủ và
đúng hay không. Bốn giai đoạn này kéo dài, nối tiếp và đan xen nhau, không
thể tách bạch cơ học từ thời điểm nào đến thời điểm nào là giai đoạn cung cấp,
thu thập, nghiên cứu hay đánh giá chứng cứ. Nhưng có thể nhận thấy rằng
những giai đoạn này kéo dài xuyên suốt quá trình giải quyết vụ án dân sự, nó
chỉ kết thúc khi tòa án ra phán quyết. Mặc dù có thể Tòa án cấp dưới đã ra
quyết định giải quyết vụ án nhưng bản án này lại được giải quyết tiếp theo
trình tự phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm thì lại phát sinh hoạt động chứng
minh mới độc lập với hoạt động chứng minh trước đây.
- Cung cấp chứng cứ: là nghĩa vụ chủ yếu do đương sự giao nộp cho
Tòa án, đương sự muốn làm rõ được yêu cầu hay phản đối yêu cầu của họ là
có căn cứ hợp pháp thì trách nhiệm của họ là phải cung cấp, giao nộp chứng
cứ cho Tòa án để chứng minh. Việc cung cấp chứng cứ còn có thể do cá nhân,
cơ quan, tổ chức cung cấp.
- Thu thập chứng cứ: là trách nhiệm của các đương sự, một số trường
hợp do Tòa án thu thập. Việc thu thập, cung cấp và giao nộp chứng cứ phải
đúng hạn, nhanh chóng và kịp thời.
- Nghiên cứu và đánh giá là giai đoạn cuối cùng của hoạt động chứng
minh. Nó là một quá trình logic nhằm xác định giá trị chứng minh và sự phù


18

hợp của các chứng cứ - sự phù hợp của chứng cứ ở đây là sự phù hợp giữa
những tình tiết, sự kiện đã thu thập được với thực tế khách quan. Thông qua
nghiên cứu và đánh giá chứng cứ, Tòa án xác định đối tượng chứng minh và
sắp xếp các sự kiện theo một trình tự nhất định. Việc suy đoán chứng cứ có
thể được sử dụng trong quá trình đánh giá chứng cứ, nhưng việc suy đoán này

phải dựa trên các chứng cứ khác hoặc trên tổng thể các chứng cứ có trong hồ
sơ chứ không được theo nhận thức chủ quan của người đánh giá.
1.2.3. Chủ thể của hoạt động chứng minh
Chủ thể của hoạt động chứng minh rất đa dạng. Chứng minh là làm cho
rõ là đúng, là có thật. Trong một vụ án cụ thể có rất nhiều ý kiến cần phải
được chứng minh là đúng, là có thật đồng nghĩa với việc chủ thể thực hiện
hoạt động chứng minh là đa dạng. Nguyên đơn chứng minh cho yêu cầu của
mình; bị đơn chứng minh cho việc bác yêu cầu, yêu cầu phản tố (nếu có); tòa
án chứng minh cho phán quyết của mình; Viện kiểm sát chứng minh cho
kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm của mình... Ngoài ra, khi
đương sự không đủ khả năng tham gia tố tụng hoặc không hiểu biết về pháp
luật, không có kinh nghiệm tố tụng họ có thể nhờ người khác thay mình tham
gia tố tụng từ đó phát sinh ra các chủ thể khác tham gia tố tụng như người đại
diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự... Họ có quyền và
nghĩa vụ không giống nhau xuất phát từ vị trí tố tụng cũng như thỏa thuận
giữa họ và đương sự nhưng đây cũng là những chủ thể của hoạt động chứng
minh.
Theo quy định của BLTTDS, việc cung cấp chứng cứ và chứng minh
cho yêu cầu của mình trước hết thuộc về đương sự. Đây là một trong những
nguyên tắc xuất phát từ quyền tự định đoạt của đương sự đối với việc khởi
kiện. Đương sự có yêu cầu có nghĩa vụ phải cung cấp chứng cứ để chứng
minh yêu cầu đó là hợp pháp. Ngược lại, nếu đương sự phản đối yêu cầu của
người khác thì phải đưa ra chứng cứ để phản đối. Đồng thời, trong quá trình
giải quyết phải bảo đảm cho người yếu thế không thể cung cấp được tài liệu,


19

chứng cứ vẫn có điều kiện thực hiện việc tranh tụng, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình nên có một số trường hợp cụ thể nghĩa vụ chứng minh

phải thuộc về người bị yêu cầu (bị đơn). Vì vậy, BLTTDS 2015 tại Điều 91 đã
quy định rất cụ thể về nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự:
Thứ nhất, đương sự có yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ
để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp, trừ các trường hợp
sau đây thì nghĩa vụ chứng minh thuộc về người bị yêu cầu:
- Người tiêu dùng khởi kiện không có nghĩa vụ chứng minh lỗi của tổ
chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Tổ chức, cá nhân kinh doanh
hàng hóa, dịch vụ bị kiện có nghĩa vụ chứng minh không có lỗi gây ra thiệt
hại theo quy định của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
- Đương sự là người lao động trong vụ án lao động mà không cung cấp,
giao nộp được cho Tòa án tài liệu, chứng cứ vì lý do tài liệu, chứng cứ đó
đang do người sử dụng lao động quản lý, lưu giữ thì người sử dụng lao động
có trách nhiệm cung cấp, giao nộp tài liệu, chứng cứ đó cho Tòa án.
- Người lao động khởi kiện vụ án đơn phương chấm dứt hợp đồng lao
động thuộc trường hợp người sử dụng lao động không được thực hiện quyền
đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động hoặc trường hợp không được xử lý
kỷ luật lao động đối với người lao động theo quy định của pháp luật về lao
động thì nghĩa vụ chứng minh thuộc về người sử dụng lao động.
- Các trường hợp pháp luật có quy định khác về nghĩa vụ chứng minh.
Thứ hai, đương sự phản đối yêu cầu của người khác đối với mình phải
thể hiện bằng văn bản và phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu,
chứng cứ để chứng minh cho sự phản đối đó.
Thứ ba, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện để bảo vệ lợi ích công cộng,
lợi ích của Nhà nước hoặc yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của người khác phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng


×