Tải bản đầy đủ (.docx) (66 trang)

CƠ sở lý LUẬN về PHỐI hợp các lực LƯỢNG xã hội TRONG bồi DƯỠNG GIÁO VIÊN các TRƯỜNG mầm NON

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (246.92 KB, 66 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHỐI HỢP CÁC LỰC LƯỢNG
XÃ HỘI TRONG BỒI DƯỠNG GIÁO VIÊN CÁC
TRƯỜNG MẦM NON

1


Cơ sở lý luận
Từ ngàn đời nay, nghề giáo luôn được tôn vinh và có
một vị trí vô cùng quan trọng trong xã hội. Trong lịch sử Việt
Nam, nghề giáo là người chăm lo, dẫn dắt thế hệ trẻ; là người
luôn coi trọng tri thức, dạy người, lấy dạy chữ làm lẽ sống của
mình. Là người truyền đạt kiến thức trong việc hình thành và
phát triển kỹ năng sống, đạo đức cho học sinh và là tấm
gương sáng cho học sinh noi theo. Đây là những người coi
trọng danh dự, lương tâm, gìn giữ khí tiết, xác lập vị trí của
mình trong xã hội bằng tài năng, đức độ, học vấn, cống hiến.
Tại Điều 15, Luật giáo dục đã nêu rõ "Nhà giáo giữ vai
trò quyết định trong việc đảm bảo chất lượng giáo dục. Nhà
giáo phải không ngừng học tập, rèn luyện, nêu gương tốt cho
người học. Nhà nước tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo, co
chính sách bảo đảm các điều kiện cần thiết về vật chất và tinh
thần để nhà giáo thực hiện nhiệm vụ của mình…" [Error:
Reference source not found].
Do đó việc bồi dưỡng, phát triển đội ngũ nhà giáo vừa là
mục tiêu, vừa là động lực phát triển của toàn xã hội; tăng
cường xây dựng đội ngũ nhà giáo một cách toàn diện theo
2


hướng chuẩn hóa là nhiệm vụ vừa đáp ứng yêu cầu trước mắt,


vừa mang tính chiến lược lâu dài nhằm thực hiện thành công
chiến lược phát triển giáo dục và chấn hưng đất nước.
Đối với GVMN là một nghề khá đặc biệt, vẫn được gọi
là nghề "làm dâu trăm họ", là nhà giáo nhưng không chỉ "dạy"
mà còn phải "dỗ", không chỉ giáo dục mà còn chăm sóc và
hơn hết đây là nghề làm vì "tình yêu".Người GVMN có trách
nhiệm dạy cho các trẻ nhỏ những nhận thức đầu tiên, dạy
chúng biết đọc, biết múa hát, biết vẽ… và quan trọng hơn là
dạy trẻ phát triển về mọi lĩnh vực về: Đức, trí, thể, mỹ và lao
động. Điều này đòi hỏi một số kỹ năng đặc biệt ở người giáo
viên mầm non, họ không giống với những giáo viên ở một
cấp học nào khác. Họ là những người ảnh hưởng lớn nhất
trong quá trình phát triển của một đứa trẻ ở từng cấp độ.
Chính vì vậy một người GVMN cần phải được đào tạo
chính quy và đúng chuyên ngành. Việc bồi dưỡng GVMN
cũng là một trong nhiệm vụ của quá trình đào tạo; được thực
hiện thường xuyên và liên tục với mục tiêu cập nhật, bổ sung
kiến thức, đào tạo tiếp tục, đào tạo lại về chuyên môn nghiệp
vụ cho người giáo viên, giúp người giáo viên không ngừng
nâng cao năng lực và phẩm chất nghề nghiệp, có trình độ
3


chuyên môn sâu, rộng; có kỹ năng sư phạm lành nghề, có
trình độ giảng dạy, phẩm chất đạo đức….nhằm đáp ứng với
yêu cầu ngày càng cao của giáo dục mầm non trong giai đoạn
hiện nay.
Trên thế giới
Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều coi trọng công tác
giáo dục, trong đó có công tác giáo dục mầm non. Trong công

tác giáo dục, thì hoạt động bồi dưỡng giáo viên là vấn đề phát
triển cơ bản trong phát triển giáo dục. Nó phù hợp với việc
tạo mọi điều kiện thuận lợi để mọi người có cơ hội học tập
suốt đời, học tập thường xuyên để kịp thời bổ sung kiến thức
và đổi mới phương pháp hoạt động phù hợp với sự phát triển
KT-XH và cũng là phương châm hành động của công tác quản
lý giáo dục nói chung.
Vấn đề bồi dưỡng giáo viên đối với các nước phát triển
như: Đức, Nga, Hà Lan, Anh, Mỹ....đã được coi là nhiệm vụ
quan trọng không thiếu trong giáo dục, dù ở đó trình độ giáo
viên đạt đến mức cho phép và với sự hỗ trợ của công nghệ
hiện đại, nhưng hàng năm họ vẫn vẫn coi trọng công tác bồi
dưỡng giáo viên.
4


Với những nước đang phát triển, thì việc nâng cao công
tác giáo giáo dục; bồi dưỡng giáo viên được coi là vấn đề thiết
yếu, như:
Về phối hợp các LLXH trong việc tham gia vào sự
nghiệp giáo dục và phát triển nhà trường một cách có hiệu quả
nhằm nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường và kết quả
học tập của học sinh có một số tác giả tiêu biểu đã đề cập đến
vấn đề này.
Trong cuốn sách "Cha mẹ và cộng đồng", tác giả Tangri,
S. và Moles đã nghiên cứu và đưa ra được "những ảnh hưởng
khi cha mẹ học sinh co những hình thức tham gia vào quá
trình học tập của học sinh. Các thành tích, kết quả đạt được
và hành vi, thái độ của học sinh co liên quan đến việc như:
Cha mẹ tham gia với tư cách là trợ lý lớp học, cha mẹ làm

tình nguyện viên, hỗ trợ làm bài tập ở nhà và tạo môi trường
giáo dục ở nhà" [Error: Reference source not found].
Trong cuốn sách "Thúc đẩy sự tham gia của cộng đồng
đong gop cho giáo dục trong các điều kiện xung đột" hai tác
giả Laura Brannelly và Joan Sullivan-Owomoyela đề cập đến
sự tham gia của cộng đồng và phát triển mô hình cộng đồng
5


tham gia vào giáo dục ở một sô nước như: Jordan, Afghanistan,
Iraq, Liberia, Uganda và vùng lãnh thổ Palestine. Các tác giả
đã nghiên cứu dựa trên sự tham gia của cộng đồng vào giáo
dục trong các hoàn cảnh chính trị của mỗi quốc gia, mỗi vùng
lãnh thổ khác nhau. Từ đo, các tác giả đã xác định tầm quan
trọng và vai trò của cộng đồng trong việc tham gia vào bối
cảnh tái thiết đất nước sau xung đột và xây dựng lại giáo dục
[Error: Reference source not found].
Cuốn sách: "Minh chứng mới về những tác động của
nhà trường, gia đình và cộng đồng đến kết quả học tập của
học sinh" được biên dịch và nghiên cứu dựa trên hơn 50 công
trình được công bố từ năm 1995 của các tác giả Anne
Henderson và Karen Mapp. Kết quả cho thấy, để có được sự
tham gia tích cực của cha mẹ học sinh thì nhà trường phải liên
kết các hoạt động của cha mẹ học sinh với mục tiêu học tập
của học sinh và phải quan tâm đến hoàn cảnh khác nhau của
mỗi gia đình học sinh [Error: Reference source not found].
Luận án của Cynthia V.Crites "Sự tham gia của cha mẹ
học sinh và cộng đồng: Một nghiên cứu điển hình". Luận án
nghiên cứu dựa trên phân tích điển hình, mô tả những cách
thức để tăng cường sự tham gia của cha mẹ học sinh và cộng

6


đồng vào giáo dục. Nghiên cứu chỉ ra rằng để tăng cường sự
tham gia của CMHS và cộng đồng thì nhà trường phải để họ
tham gia vào quá trình ra quyết định, lập kế hoạch hoạt động
của nhà trường [Error: Reference source not found].
Luận án của Marie DeLuci, với đề tài "Nghiên cứu điển
hình về sự tham gia của xã hội vào các trường tiểu học ở ba
trường của Ethiopia" đã nêu tầm quan trọng của cộng đồng
tham gia phát triển nhà trường. Đồng thời tác giả đã chứng
minh rằng để huy động được sự tham gia của cha mẹ học sinh
và cộng đồng cần có một tổ chức hay một uỷ ban nào đó đại
diện cho cộng đồng hay cha mẹ học sinh để cải tiến nhà
trường, đặc biệt rất cần sự nỗ lực phối hợp giữa Nhà nước cha mẹ học sinh và các tổ chức phi chính phủ trong việc cùng
quan tâm đến nhà trường cũng như con em họ [Error:
Reference source not found].
Qua nghiên cứu các nghiên cứu về sự tham gia của các
LLXH vào giáo dục nhà trường trên thế giới, có thể thấy, các
công trình đều khẳng định sự cần thiết phải phối hợp các
LLXH sự tham gia vào các hoạt động giáo dục của nhà
trường, trong đó có hoạt động bồi dưỡng giáo viên.

7


Ở Việt Nam
Trong giai đoạn hiện nay, khoa học - công nghệ, hội nhập
kinh tế quốc tế, toàn cầu hóa…đã ảnh hưởng sâu rộng đến sự
phát triển của tất cả các quốc gia trên thế giới, nên mọi quốc

gia đều đặt giáo dục ở vị trí trung tâm trong các chiến lược
phát triển đất nước. Đứng trước yêu cầu đó, Đảng, Nhà nước,
Chính phủ đã có những nghị quyết, chương trình, mục tiêu,
giải pháp nhằm đổi mới, cải cách nền giáo dục. Chúng ta đã
xây dựng được một hệ thống giáo dục hoàn chỉnh liên thông từ
giáo dục mầm non đến giáo dục đại học đáp ứng một cách tích
cực nhu cầu nâng cao dân trí, nhu cầu nhân lực nhân tài cho
đất nước và đã có tác động tích cực trong việc thích nghi với
sự thay đổi và ảnh hưởng của thế giới.
Trong suốt tiến trình ấy, hòa chung với sự phát triển của
đất nước, hệ thống giáo dục Việt Nam đã không ngừng được
xây dựng, trưởng thành về mọi mặt và đạt được những thành
tựu nhất định. Cùng với đó là các chương trình, chiến lược, dự
án, giải pháp…phát triển giáo dục cũng đã được đưa ra, như:
Nghị quyết số 29-NQ/TW, Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành
Trung ương khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục

8


và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa
trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế; Chiến lược phát triển Giáo dục
2011-2020 của Bộ Giáo dục & Đào tạo (GD&ĐT) và đưa ra
11 giải pháp, trong đó giải pháp; "Xây dựng đội ngũ nhà giáo
và cán bộ quản lý giáo dục" được coi là 1 trong 2 giải pháp có
tính đột phá [Error: Reference source not found] và hiện nay
Bộ Giáo dục và Đào tạo đang triển khai 14 dự án thuộc
chương trình mục tiêu quốc gia về Giáo dục và Đào tạo đến
năm 2020, trong đó có dự án "Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ

nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục" [Error: Reference
source not found].
Song hành với đó, rất nhiều nhà khoa học đã đầu tư công
sức, trí tuệ để nghiên cứu và tổng kết những vấn đề lý luận,
thực tiễn liên quan đến chất lượng giáo dục, chất lượng đội ngũ
giáo viên,như: Đặng Quốc Bảo, Nguyễn Cảnh Toàn, Nguyễn
Thị Mỹ Lộc, Đặng Bá Lãm, Nguyễn Văn Lê, Hồ Sĩ Thế, Đinh
Thị Kim Thoa... nhằm mục đích góp phần nâng cao hơn nữa
chất lượng giáo dục, trong đó có việc đào tạo, bồi dưỡng nâng
cao chất lượng giáo viên hiện nay.
Đối với GVMN hiện nay đã có nhiều có đề tài nghiên
9


cứu có tính hệ thống, đầy đủ, khoa học về phối hợp các lực
lượng trong bồi dưỡng giáo viên mầm non, như: Giáo trình
"Nghề giáo viên mầm non" (2014) của Nhà xuất bản Đại học
Huế về cơ bản có đầy đủ nội dung về GDMN. Trong đó đề
cập sâu sắc về nhân cách của người GVMN, chuẩn nghề
nghiệp GVMN, hoạt động học tập và rèn luyện hình thành
nhân cách của người GVMN, bài tập thực hành về xử lí tình
huống sư phạm trong trường mầm non.
Về sự tham gia của các LLXH với giáo dục đã được
Đảng và Nhà nước quy định trong các văn kiện, nghị quyết….
Trong các tư liệu nghiên cứu đề cập rất nhiều sự cần thiết phối
hợp giữa các LLXH trong cộng đồng với sự nghiệp giáo dục.
Nhiều hội thảo tập trung bàn về các vấn đề lý luận và các
quan điểm mới và sự phối hợp của các tổ chức xã hội, cộng
đồng trong giáo dục nhà trường. Một số hội thảo đi sâu vào
phân tích các yếu tố quan trọng để thực hiện thành công sự

phối hợp các lực lượng trong giáo dục.
Bên cạnh đó là các công trình nghiên cứu về sự tham gia
của cha mẹ học sinh, cộng đồng của các tác giả khác đã tổng
hợp những quan điểm lý luận và thực tiễn về vai trò và nhiệm
vụ của cộng đồng, sự phối hợp của Nhà trường - Gia đình 10


cộng đồng trong giáo dục học sinh:
Tác giả Phạm Minh Hạc khẳng định sự nghiệp giáo dục
của Việt Nam không phải chỉ do Nhà nước gánh vác, mà phải
có sự chung sức của các LLXH cùng tham gia vào sự nghiệp
giáo dục nước nhà, tạo nên một xã hội học tập được thể hiện
trong cuốn Trong cuốn "Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng
cửa của thế kỉ XXI" [Error: Reference source not found].
Tác giả Võ Tấn Quang, với cuốn sách "Những nhân tố
mới về giáo dục trong công cuộc đổi mới" đã nhấn mạnh tầm
quan trọng của quần chúng trong công tác giáo dục, theo tác
giả: "xã hội hoa trong giáo dục là phải phát động phong trào
quần chúng làm giáo dục, huy động toàn xã hội tham gia sự
nghiệp GD&ĐT, hình thành và phát triển nhân cách thế hệ
trẻ" [Error: Reference source not found]. Ngoài ra còn các các
nghiên cứu như "Về tính thống nhất, liên tục và toàn vẹn trong
quan hệ giáo dục nhà trường, gia đình, xã hội" [Error:
Reference source not found], nghiên cứu của Nguyễn Thị Kỷ,
Hà Nhật Thăng về "Những quan điểm phương pháp luận của
việc liên kết giáo dục giữa nhà trường, gia đình và xã hội cho
học sinh hiện nay" [Error: Reference source not found],…

11



Qua các công trình nghiên cứu liên quan đến việc sự
phối hợp giữa nhà trường với các lực lượng xã hội trong giáo
dục học sinh có thể rút ra những vấn đề cốt yếu sau:
Sự phối hợp của các LLXH với nhà trường là vô cùng
quan trọng trong sự nghiệp phát triển giáo dục. Sự tham gia
của các LLXH vào nhà trường là một trong giải pháp quan
trọng để giúp cho học sinh đạt được kết quả cao nhất trong
học tập và giảm tỉ lệ bỏ học cũng như có ảnh hưởng tốt đến
hành vi và tính tích cực của học sinh.
Tuy nhiên, rất ít tác giả nghiên cứu về vấn đề phối hợp
các lực lượng cộng đồng trong bồi dưỡng giáo viên nói chung
và bồi dưỡng GVMN nói riêng. Vì thế, đề tài "Phối hợp các
lực lượng trong bồi dưỡng giáo viên các trường mầm non
thuộc Tổng cục công nghiệp, Bộ Quốc phòng" được tiếp thu,
kế thừa những thành tựu nghiên cứu trên là rất cần thiết và có
giá trị trong thực tiễn
Một số khái niệm cơ bản
Lực lượng xã hội

12


Lực lượng xã hội là tất cả các cơ quan, tổ chức và cá
nhân tham gia vào hoạt động phát triển GDMN nói chung và
bồi dưỡng GVMN nói riêng. Cụ thể, các LLXH trước tiên là
các tổ chức Đảng, chính quyền các cấp; các cơ quan, ban
ngành, nhất là các ngành có chức năng, có trách nhiệm trong
việc phát triển giáo dục của địa phương như y tế, công an, bảo
vệ, tổ dân phố..., các tổ chức đoàn thể: Hội cha mẹ học sinh,

Mặt trận Tổ quốc, Hội Cựu chiến binh, Đoàn thanh niên, Hội
phụ nữ, các tổ chức từ thiện...), các cơ sở sản xuất kinh doanh,
dịch vụ; các tổ chức quốc tế, các cá nhân người dân, đặc biệt
là cá nhân có uy tín,... Họ là những cá nhân, những tổ chức
phối hợp với nhà trường để cùng phát triển giáo dục.

Phối hợp các lực lượng xã hội
Phối hợp là hoạt động cùng nhau của hai hay nhiều cá
nhân, tổ chức để hỗ trợ cho nhau thực hiện một công việc
chung.
Ví dụ sự phối hợp giữa chính quyền phường và các
LLXH trong tuyên truyền và bảo vệ an ninh, trật tự xã hội có
vai trò rất quan trọng. Hiệu quả của quá trình tuyên truyền và
13


bảo vệ an ninh, trật tự xã hội phụ thuộc một phần đáng kể vào
sự thống nhất tác động của chính quyền, người dân, các cơ
quan chức năng, đoàn thể…
Phối hợp các LLXH là nói đến hoạt động của các cơ
quan, đơn vị, các cá nhân trong việc tổ chức các LLXH thực
hiện xã hội hóa công tác tuyên tuyền, đồng thời cũng nhấn
mạnh đến sự chủ động, tích cực của chủ thể trong hoạt động
này. Để phối hợp có hiệu quả, cần phải xác định những lĩnh
vực hoạt động chung; trong mỗi lĩnh vực ấy nội dung phối
hợp là gì? mỗi tổ chức phải làm gì? trách nhiệm ra sao?
Đối với hoạt động giáo dục, việc phối hợp các lực lượng
giáo dục ngoài trường hay huy động cộng đồng là quá trình
vận động và tổ chức mọi thành viên trong cộng đồng tham gia
vào việc xây dựng và phát triển nhà trường, từ việc xây dựng

cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho việc dạy và học,
chăm lo đời sống giáo viên, tạo môi trường giáo dục thống
nhất giữa nhà trường - gia đình - xã hội, đến việc tham gia bồi
dưỡng giáo viên nhằm nâng cao chất lượng giáo dục.
Thực tế, đây là một hình thức xã hội hóa giáo dục, là tư
tưởng chiến lược của Đảng và Nhà nước Việt Nam, để huy
14


động sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội tham gia vào giáo
dục và coi đây là điều kiện tiên quyết để phát triển toàn diện,
có hiệu quả sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ nói riêng và nền giáo
dục quốc dân nói chung. Như vậy, sự nghiệp giáo dục thực sự là
của dân, do dân và vì dân. Nhà nước thông qua nhà trường giữ
vai trò quản lý, định hướng, chỉ đạo, điều hành, kiểm tra và
giám sát việc thực hiện xã hội hóa giáo dục.
Phối hợp các LLXH trong bồi dưỡng GVMN là quá
trình vận động và tổ chức cho tất cả các thành viên trong cộng
đồng xã hội tham gia vào quá trình bồi dưỡng giáo viên từ
việc xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho công
tác bồi dưỡng giáo viên đến đóng góp tài chính, nhân lực để
hoạt động này đạt hiệu quả cao.
Giáo viên mầm non
Giáo viên là người co khả năng sử dụng kiến thức
chuyên môn nghiệp vụ vững vàng và kinh nghiệm thực tế
phong phú để co thể đưa ra những cách thức xử lí tin cậy và
phù hợp với những tình huống cụ thể khác nhau vì lợi ích của
người học và đạo đức nghề nghiệp.

15



GVMN là người làm nhiệm vụ nuôi dưỡng, chăm sóc,
giáo dục trẻ em trong nhà trường, nhà trẻ, nhóm trẻ, lớp mẫu
giáo độc lập. GVMN ngoài những tiêu chuẩn chung của nhà
giáo được quy định tại Điều 70, Luật Giáo dục cần có những
tiêu chuẩn và phẩm chất như sau: "Yêu mến, tôn trọng trẻ, có
lòng nhân hậu, vị tha, công bằng, tế nhị và chu đáo với trẻ.
Tính tình cởi mở, cứng rắn, kiên nhẫn và biết tự kiềm chế; Có
tinh thần trách nhiệm trong việc quan tâm, chăm sóc, giáo dục
trẻ; Có kiến thức hiểu biết về học vấn phổ thông, hiểu biết đặc
điểm tâm sinh lý trẻ; Có năng lực tổ chức cuộc sống và các
hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ một cách linh hoạt, sáng tạo;
Ứng xử sư phạm khéo; Có năng lực sư phạm như múa, hát,
đọc và kể chuyện; Biết tư vấn cho cha mẹ trẻ cách chăm sóc,
giáo dục trẻ ở gia đình; Có năng lực tự kiểm tra hoạt động giáo
dục của mình và đồng nghiệp; Có ý thức học tập nâng cao
trình độ nghiệp vụ và hoàn thiện bản thân. Xét dưới góc độ
quản lý nhà nước về giáo dục, GVMN phải có trình độ trung
học sư phạm mầm non trở lên" [Error: Reference source not
found].
GVMN là lực lượng nòng cốt của chương trình cải cách
và đổi mới giáo dục, là những người trực tiếp thực hiện mục
16


tiêu giáo dục và là nhân tố quan trọng quyết định chất lượng
giáo dục ở các cơ sở GDMN.
Giáo viên các trường mầm non thuộc Tổng cục Công
nghiệp Quốc phòng

Trong Quân đội nói chung và trong Tổng cục Công
nghiệp Quốc phòng nói riêng, giáo viên các trường mầm non,
là một bộ phận những nhà sư phạm công tác tại các trường
mầm non ở đơn vị, doanh nghiệp quốc phòng, ở vùng rừng
núi xa xôi hẻo lánh rộng khắp trên mọi miền Tổ quốc, đồng
thời cũng là một bộ phận của nhà giáo thuộc Tổng cục Công
nghiệp Quốc phòng.
Giáo viên trường mầm non trong Tổng cục Công nghiệp
Quốc phòng: là một bộ phận của đội ngũ giáo viên mầm non
noi chung; họ là những người trực tiếp giảng dạy ở các
trường mầm non, ở đơn vị, doanh nghiệp quốc phòng, co
nhiệm vụ chăm soc giáo dục trẻ, nhằm thực hiện mục đích
giáo dục trẻ mầm non phát triển toàn diện nhân cách theo
mục tiêu xác định.
Bồi dưỡng

17


Theo quan niệm của UNESCO thì bồi dưỡng với ý nghĩa
là nâng cao nghề nghiệp, quá trình này chỉ diễn ra khi cá nhân
và tổ chức có nhu cầu nâng cao kiến thức hoặc kỹ năng
chuyên môn, nghiệp vụ của bản thân nhằm đáp ứng nhu cầu
lao động nghề nghiệp.
Theo cách lý giải của Đại từ điển tiếng Việt: "Bồi dưỡng
là làm cho tăng thêm năng lực hoặc phẩm chất" [Error:
Reference source not found].
Theo Từ điển Giáo dục học: "Bồi dưỡng là trang bị thêm
kiến thức, kỹ năng, nhằm mục đích nâng cao và hoàn thiện
năng lực hoạt động trong các lĩnh vực cụ thể" [Error:

Reference source not found]. Ví dụ: bồi dưỡng lý luận, bồi
dưỡng kiến thức chuyên môn, bồi dưỡng năng lực dạy học...
Tác giả Nguyễn Minh Đường cho rằng: "Bồi dưỡng là
khâu tiếp nối của quá trình đào tạo, có thể coi bồi dưỡng là
quá trình cập nhật những kiến thức còn thiếu hoặc đã lạc hậu,
bổ túc nghề nghiệp, đào tạo thêm hoặc củng cố kỹ năng nghề
nghiệp theo các chuyên đề" [Error: Reference source not
found].

18


Như vậy, bồi dưỡng là một trong những hoạt động quan
trọng nhất của quá trình phát triển nguồn nhân lực. Hoạt động
đó luôn phải được tiến hành thường xuyên, liên tục và có kế
hoạch. Mặt khác, khi thực hiện tốt hoạt động bồi dưỡng, nó sẽ
tạo ra sức mạnh cho tổ chức đó.
Bồi dưỡng là quá trình tác động của chủ thể giáo dục
đến đối tượng được giáo dục, làm cho đối tượng được bồi
dưỡng tăng thêm năng lực, phẩm chất và phát triển theo chiều
hướng tốt hơn.
Khái niệm bồi dưỡng được hiểu theo hai nghĩa, nghĩa
rộng và nghĩa hẹp. Bồi dưỡng theo nghĩa rộng là quá trình
giáo dục, đào tạo nhằm hình thành nhân cách và những phẩm
chất riêng biệt của nhân cách theo định hướng mục đích đã
chọn. Như vậy, bồi dưỡng theo nghĩa rộng bao hàm cả đào
tạo. Bồi dưỡng theo nghĩa hẹp là trang bị thêm những kiến
thức, thái độ, kỹ năng nhằm mục đích nâng cao và hoàn thiện
năng lực hoạt động trong các lĩnh vực cụ thể. Như vậy, bồi
dưỡng theo nghĩa hẹp là một kế tục và bổ sung cho quá trình

đào tạo.

19


Bồi dưỡng là quá trình diễn ra khi cá nhân và tổ chức có
nhu cầu nâng cao kiến thức hoặc kỹ năng chuyên môn, nghiệp
vụ của bản thân để đáp ứng nhu cầu lao động nghề nghiệp.
Hay bồi dưỡng là một quá trình cập nhật kiến thức và kỹ năng
còn thiếu hoặc đã lạc hậu trong một cấp học, bậc học và
thường được xác nhận bằng một chứng chỉ. Thực chất của quá
trình bồi dưỡng là để bổ sung tri thức và kỹ năng còn thiếu
hụt, hoặc đã lạc hậu để nâng cao trình độ, phát triển thêm
năng lực trong một lĩnh vực hoạt động chuyên môn, dưới một
hình thức phù hợp. Bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ thể hiện
quan điểm giáo dục hiện đại đó là: "Đào tạo liên tục và học
tập suốt đời". Nội dung bồi dưỡng được triển khai ở các mức
độ khác nhau, phù hợp cho từng đối tượng cụ thể. Sau khi
được bồi dưỡng, năng lực cá nhân được gia tăng, đáp ứng nhu
cầu phát triển nguồn nhân lực trong hiện tại và trong tương lai
của tổ chức.
Từ các khái niệm nêu trên thì bồi dưỡng là khâu tiếp nối
của quá trình đào tạo nhằm trang bị thêm những kiến thức, kỹ
năng để nâng cao năng suất và hiệu quả công việc. Sau khi
được bồi dưỡng, năng lực cá nhân được nâng cao, đáp ứng nhu

20


cầu phát triển nguồn nhân lực hiện tại và trong tương lai của

của tổ chức.
Như vậy: "Bồi dưỡng là quá trình bổ sung tri thức, kỹ
năng, thái độ nhằm nâng cao năng lực, phẩm chất trong lĩnh
vực hoạt động chuyên môn nào đo mà người tham gia đã co
một trình độ chuyên môn nhất định".
Bồi dưỡng đội ngũ giáo viên các trường mầm non
thuộc Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng, Bộ Quốc phòng
Từ khái niệm trên, chúng tôi cho rằng: Bồi dưỡng giáo
viên các trường Mầm non thuộc Tổng cục Công nghiệp Quốc
phòng, Bộ Quốc phòng là quá trình bổ sung tri thức, kỹ năng,
thái độ nhằm nâng cao năng lực, phẩm chất của người giáo
viên mầm non đang chăm soc, giáo dục trẻ trong các đơn vị,
doanh nghiệp quốc phòng… trong việc thực hiện các công
việc để đạt được mục tiêu giáo dục mầm non.
Người giáo viên trong các trường mầm non thuộc
Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng, Bộ Quốc phòng
Vai trò của giáo viên

21


Các trường mầm non trong Tổng cục CNQP, là một bộ
phận trong hệ thống giáo dục quốc dân co nhiệm vụ chăm soc
và giáo dục trẻ phát triển một cách toàn diện, cụ thể hoa
những yêu cầu đạt đối với từng độ tuổi. Tuyên truyền hướng
dẫn cho các bậc cha mẹ những kiến thức khoa học về nuôi
dạy trẻ. Kết hợp chặt chẽ với gia đình trong việc chăm soc và
giáo dục trẻ. Đội ngũ giáo viên là một lực lượng cơ bản, nòng
cốt của nhà trường, là chủ thể của hoạt động giáo dục trực
thuộc sự quản lý của nhà trường trong Quân đội.

Nghề nuôi dạy trẻ là một nghề khó nhọc, đa năng, tinh
tế, đòi hỏi người làm nghề phải được đào tạo công phu. Vì
thế, GVMN là người lao động đa năng, họ phải vừa có những
phẩm chất của người mẹ, nhà giáo dục, nghệ sĩ, thầy thuốc,
người cấp dưỡng. Hoạt động nghề nghiệp của GVMN phải có
tính tích hợp cao. Đặc điểm quan trọng nhất của lao động sư
phạm mầm non là trong suốt quá trình lao động luôn có sự
tương tác giữa cô giáo và trẻ.
Trẻ con bắt chước rất nhanh, kể cả thói xấu của người
lớn. Hằng ngày, phần lớn thời gian trẻ tiếp xúc với cô giáo. Vì
vậy, cô giáo mầm non có ảnh hưởng đáng kể tới sự hình thành
và phát triển nhân cách của trẻ bằng việc tổ chức các hoạt
22


động giáo dục. Thông qua hoạt động hàng ngày, giáo viên
giáo dục cho trẻ biết quan tâm, tự tin, tự ý thức và tôn trọng
mọi người xung quanh, giáo dục tinh thần tự lực, tự giác, ý
thức kỷ luật, trật tự trong sinh hoạt, hành vi văn minh, giữ gìn
vệ sinh, giáo dục tình thương, quan hệ đoàn kết thân ái với
bạn, biết yêu mến và tôn trọng người lớn, tinh thần chăm sóc
và giữ gìn của công cũng như của riêng mình. Vui chơi là hoạt
động chủ đạo của lứa tuổi mẫu giáo, bằng việc tổ chức các trò
chơi, các đặc điểm tâm lý mới, các nét tính cách mới của trẻ
được hình thành. Giáo viên cần phân loại trò chơi, phân vai
theo chủ đề để tác động vào nhiều khía cạnh đạo đức của trẻ.
Trong trò chơi phân vai theo chủ đề, có hai mối quan hệ, đó là
quan hệ giữa trẻ với nhau và quan hệ giữa các vai chơi với
nhau. GVMN tổ chức các hoạt động học tập nhằm trau dồi
cho trẻ những tri thức cần thiết về cuộc sống xung quanh, có

tình cảm về đất nước, con người, thiên nhiên, biết yêu quê
hương, yêu quí người lao động, có ý thức bảo vệ thiên nhiên,
nhận biết được điều tốt, điều xấu, thúc đẩy hành vi đạo đức
cho trẻ; giáo dục trẻ có ý thức kỷ luật, biết chủ động vượt qua
khó khăn; giáo viên cũng tổ chức hoạt động lao động cho trẻ,
qua đó hình thành những ý thức ban đầu về phẩm chất của

23


người lao động, thông qua các công việc như lau bàn, thu dọn
đồ chơi...
GVMN cần có sự phối hợp với phụ huynh, tư vấn cho
các bậc phụ huynh trong phương pháp giáo dục trẻ.
GVMN thuộc Tổng cục CNQP là người thực hiện nhiệm
vụ chăm sóc, giáo dục trẻ
+ Lập kế hoạch chăm sóc giáo dục trẻ
+ Xây dựng môi trường giáo dục
+ Tạo cơ hội cho trẻ hoạt động tích cực
+ Giám sát, quan sát, điều chỉnh các mối quan hệ của trẻ
+ Đánh giá kết quả chăm sóc, giáo dục trẻ, trên cơ sở đó
lập kế hoạch cho chu kì giáo dục tiếp theo.
GVMN là người hướng dẫn, dẫn dắt trẻ phát triển
+ Lựa chọn phương pháp hướng dẫn phù hợp, cô giáo là
người dẫn dắt, hướng trẻ đến với niềm hứng thú, đến sự tích
cực nhận biết để tìm ra những điều bí mật của cuộc sống diệu
kì xung quanh trẻ.

24



+ GVMN thuộc Tổng cục CNQP là người đáp ứng, làm
thỏa mãn nhu cầu và hứng thú hoạt động của trẻ, mặt khác
kích thích, làm nảy sinh những nhu cầu, hứng thú mới ở trẻ,
nâng sự phát triển của trẻ lên tầm cao mới. Phát huy tính tích
cực của trẻ khi tham gia các hoạt động ở trường.
Chức năng, nhiệm vụ của người giáo viên mầm non
Giáo viên các trường mầm non trong Tổng cục CNQP có
chức năng, nhiệm vụ về chăm sóc, giáo dục trẻ mầm non bao
gồm:
Thực hiện trọng trách chăm soc và giáo dục trẻ em theo
nguyên tắc và chương trình GDMN, giáo viên phải co năng
lực lựa chọn các kiến thức, kĩ năng cơ bản, hiện đại, thực tiễn
phù hợp với trẻ đồng thời co năng lực phát triển cảm xúc,
thái độ và hành vi của trẻ, giúp trẻ dần thích ứng với cuộc
sống xã hội, chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1.
Giáo viên phải co ý thức, nhu cầu và tiềm năng không
ngừng tự hoàn thiện mình, phát huy tính chủ động, sáng tạo
trong hoạt động sư phạm, biết phối hợp nhịp nhàng với tập
thể nhà trường trong việc thực hiện các mục tiêu giáo dục trẻ
đã đặt ra.
25


×