Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ RỦI RO VÀ ĐÁNH GIÁ RỦI RO TRONG THẨM ĐỊNH DỰ ÁN VAY VỐN TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.86 KB, 26 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ RỦI RO VÀ ĐÁNH GIÁ RỦI RO TRONG THẨM
ĐỊNH DỰ ÁN VAY VỐN TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.1. Tổng quan về Ngân hàng thương mại
1.1.1. Vai trò của Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế
Đối với mọi nền kinh tế trên thế giới, Ngân hàng luôn là một trong các tổ chức
tài chính quan trọng nhất, có tầm ảnh hưởng lớn đến đời sống kinh tế- xã hội của mỗi
quốc gia.
Tùy thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói
riêng, Ngân hàng bao gồm nhiều loại nhưng chiếm tỷ trọng lớn nhất về cả quy mô tài
sản, thị phần và số lượng các ngân hàng chính là Ngân hàng thương mại.
Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và
thường xuyên là nhận tiền gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số
tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán.
Ngân hàng thương mại ngày càng có vai trò quan trọng đối với mọi nền kinh tế,
thể hiện cụ thể qua các vai trò sau:
Thứ nhất: Ngân hàng thương mại là một tổ chức trung gian tài chính tốt nhất để
thực hiện chức năng làm cầu nối giữa cung và cầu về vốn.
Từ xưa nay, trong xã hội luôn tồn tại tình trạng thừa và thiếu vốn tạm thời, tồn
tại hai nhóm cá nhân và tổ chức khác nhau. Một nhóm là những cá nhân và tổ chức
thặng dư trong chi tiêu, có nghĩa thu nhập hiện tại của họ lớn hơn các khoản chi tiêu
cho hàng hóa, dịch vụ và do vậy họ có một lượng tiền tạm thời nhàn rỗi để tiết kiệm.
Nhóm còn lại là những cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu, tức là chi tiêu cho
tiêu dùng và đầu tư đã vượt quá thu nhập, vì vậy họ cần bổ sung vốn. Và khi đó Ngân
hàng xuất hiện như một địa chỉ tốt nhất để những người có nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi
có thể gửi một cách an toàn và được hưởng thu nhập từ chính khoản tiền đó, còn những
người thiếu vốn có thể vay vốn để đáp ứng nhu cầu sử dụng vốn cho tiêu dùng bản thân
hay để đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Ngân hàng thương
mại trở thành chủ thể đứng ra huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của nhóm
người thặng dư vốn và sử dụng nguồn vốn huy động đó để cung cấp cho nhóm người
thâm hụt vốn, cung cấp vốn cho nền kinh tế thông qua hoạt động tín dụng.
Qua đó, doanh nghiệp- cá nhân vay vốn có điều kiện để mở rộng sản xuất, cải


tiến mua sắm máy móc thiết bị công nghệ, nâng cao năng suất lao động, nâng cao được
hiệu quả sản xuất kinh doanh, tạo thuận lợi thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Đối với
những cá nhân- tổ chức có lượng tiền nhàn rỗi chọn ngân hàng thương mại là nơi gửi
tiền bởi chính sự an toàn cao mà tổ chức tín dụng này mang lại. Ngoài ra, họ còn nhận
được một khoản thu nhập từ chính khoản tiền gửi của mình với mức lãi suất mà ngân
hàng qui định và sau một thời hạn nhất định. Mặc dù lãi suất mà ngân hàng đưa ra có
thể thấp hơn so với việc đầu tư tiền vốn vào những lĩnh vực khác như: đầu tư chứng
khoán, bất động sản hay sản xuất kinh doanh… nhưng việc gửi tiền vào Ngân hàng có
hệ số an toàn cao nhất, ít gặp phải rủi ro.
Thứ hai: Hoạt động của Ngân hàng thương mại đã góp phần tăng cường hiệu
quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nói riêng cũng như góp
phần thúc đẩy nền kinh tế nói chung.
Trong nền kinh tế thị trường phát triển ngày càng sôi động, để hoạt động sản
xuất kinh doanh đạt hiệu quả, để tìm được chỗ đứng cho mình, đòi hỏi những doanh
nghiệp tham gia thị trường nâng cao chất lượng về mọi mặt, phải không ngừng nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực, củng cố hoàn thiện cơ cấu kinh tế, chế độ hạch toán
kinh tế, đặc biệt phải không ngừng cải tiến mua sắm những thiết bị công nghệ hiện đại,
tìm kiếm và sử dụng những nguyên vật liệu đầu vào mới, mở rộng quy mô sản xuất một
cách thích hợp.
Những hoạt động này đòi hỏi doanh nghiệp phải có một lượng vốn đầu tư lớn,
mà nguồn vốn tự có của doanh nghiệp thường không đủ đáp ứng nhu cầu lớn về vốn
này. Và khi đó việc doanh nghiệp tìm đến Ngân hàng thương mại để vay vốn là con
đường nhanh gọn và hiệu quả. Như vậy Ngân hàng thương mại thông qua hoạt động tín
dụng của mình đã trở thành cầu nối giữa doanh nghiệp với thị trường, thúc đẩy doanh
nghiệp và thị trường hoạt động sôi nổi và hiệu quả hơn.
. Mặt khác, để có thể vay một lượng vốn nào đó thì doanh nghiệp đi vay phải trả
lãi với một tỷ lệ lãi suất nhất định và trong một thời hạn vay nhất định cho Ngân hàng.
Có lẽ chính áp lực từ khoản lãi vay và thời hạn vay sẽ thêm động lực thúc đẩy tổ chức,
doanh nghiệp đi vay hoạt động một cách hiệu quả hơn, phải cố gắng tìm ra những
phương án sản xuất tối ưu để thu được kết quả tốt. Điều này cũng góp phần làm tăng

hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nói riêng cũng như của cả nền kinh tế nói
chung.
Thứ ba: Ngân hàng thương mại có vai trò thực thi chính sách tiền tệ đã được
hoạch định bởi Ngân hàng Trung ương.
Ngân hàng Trung ương là đơn vị chịu trách nhiệm hoạch định các chính sách
tiền tệ quốc gia thông qua các công cụ như lãi suất, dự trữ bắt buộc, tái chiết xuất, thị
trường mở, hạn mức tín dụng… Và đơn vị chịu tác động trực tiếp là các ngân hàng
thương mại. Đồng thời các Ngân hàng thương mại cũng là cầu nối chuyển tiếp các tác
động của chính sách tiền tệ đến khu vực phi ngân hàng và nền kinh tế. Ngược lại, thông
qua Ngân hàng thương mại và các tổ chức trung gian khác, tình hình sản lượng, giá cả,
công ăn việc làm, lãi suất, tỷ giá… của nền kinh tế được phản hồi về Ngân hàng Trung
ương để Chính phủ và Ngân hàng Trung ương có những chính sách điều tiết thích hợp.
Bằng các chính sách và biện pháp tín dụng, Ngân hàng thương mại có thể gia
tăng mở rộng hoặc thu hẹp khối lượng vốn vay cho từng doanh nghiệp. Điều này sẽ ảnh
hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh của từng doanh nghiệp cũng như của nền kinh
tế. Do đó, việc vay vốn của Ngân hàng sẽ giúp doanh nghiệp đáp ứng được nhu cầu về
vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, cũng như khiến doanh nghiệp có ý thức về
trách nhiệm của mình trong quá trình sử dụng vốn.
Qua việc thu hút, tiếp nhận khối lượng tiền mặt từ các cá nhân và tổ chức trong
nền kinh tế để rồi cung ứng tiền mặt cho các cá nhân, tổ chức cần vốn, Ngân hàng
thương mại đã tạo ra quan hệ giữa lưu thông hàng hóa và lưu thông tiền tệ trong nền
kinh tế. Bằng những chính sách hấp dẫn và nghệ thuật kinh doanh của mình, các ngân
hàng tiếp nhận lượng tiền mặt lớn, rồi được cung ứng cho những cá nhân và doanh
nghiệp và cá nhân, đảm bảo lượng tiền mặt cần thiết cho nền kinh tế được lưu thông
thường xuyên liên tục, đảm bảo nền kinh tế được phát triển bình thường.
Như vậy, với vai trò thực thi các chính sách tiền tệ, Ngân hàng thương mại đã
giúp hoạt động của các doanh nghiệp trong nền kinh tế được tiến hành một các bình
thường và ngày càng phát triển.
Thứ tư: Với chức năng tạo tiền, Ngân hàng thương mại góp phần vào hoạt động
điều tiết vĩ mô nền kinh tế.

Trong nền kinh tế thị trường, chức năng điều tiết nền kinh tế vĩ mô thuộc về
Ngân hàng Trung ương. Ngân hàng Trung ương tham gia xây dựng chiến lược phát
triển kinh tế và soạn thảo chính sách tiền tệ. Là tổ chức soạn thảo và khởi động chính
sách tiền tệ, nhưng Ngân hàng Trung ương không trực tiếp giao dịch với công chúng
mà các chính sách này được lan ra qua hoạt động của hệ thống Ngân hàng thương mại
và các tổ chức trung gian tài chính khác.
Hệ thống ngân hàng được hoạt động theo hình thức hai cấp: là Ngân hàng Nhà
nước và Ngân hàng thương mại. Một khả năng kỳ bí của ngân hàng hai cấp này là tạo
tiền và điều chỉnh mức cung ứng tiền để ổn định tiền tệ. Do việc phân cấp thành hai
cấp, dẫn đến việc phân chia hai loại tiền: Tiền ngân hàng trung ương là giấy bạc hay
tiền mặt, do Ngân hàng Trung ương độc quyền phát hành, và tiền Ngân hàng( tiền ghi
sổ, bút tệ) là tiền do Ngân hàng thương mại tạo ra thông qua việc cấp tín dụng cho nền
kinh tế, đặc biệt là tiền trên các tài khoản thanh toán séc.
Cho đến nay, tiền được phân ra làm nhiều loại khác nhau nhằm tách các loại tiền
khác nhau về mặt thanh toán ra làm từng nhóm. Việc này giúp Ngân hàng Trung ương
và Chính phủ theo dõi được mức độ đầu tư trong nước vào các loại tài sản sinh lợi, giúp
nền kinh tế huy động một cách hiệu quả các nguồn lực, các nguồn tài sản khác nhau, và
đáp ứng nhu câu cần sự gọn nhẹ, bảo đảm, có lãi cho tài sản và dễ dàng thanh toán ở
mọi lúc mọi nơi. Chỉ cần nhìn vào tỷ lệ các loại tiền có thể biết được sự ổn định và chất
lượng của tiền tệ.
Như vậy, với chức năng tạo tiền, Ngân hàng thương mại đã thể hiện được vai trò
quan trọng của mình trong việc góp phần vào điều tiết nền kinh tế vĩ mô.
1.1.2. Các hoạt động chủ yếu của Ngân hàng thương mại
1.1.2.1. Hoạt động huy động vốn
Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ. Một đặc trưng quan trọng
trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại là đi vay để cho vay. Do vậy,
khác với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực phi tài chính, hoạt động huy động
vốn là hoạt động rất quan trọng đối với Ngân hàng thương mại. Huy động vốn chính là
hoạt động tạo ra nguồn vốn hoạt động cho Ngân hàng thương mại, nó đóng vai trò quan
trọng, ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động của Ngân hàng.

Hoạt động huy động vốn tại Ngân hàng thương mại gồm có: tự tài trợ bằng vốn
chủ sở hữu, nhận tiền gửi từ khách hàng, phát hành các giấy tờ có giá ra công chúng
hoặc vay từ các tổ chức khác.
Ngay từ khi mới thành lập, để có thể tiến hành các hoạt động kinh doanh của
mình ngân hàng phải có một lượng vốn nhất định, gọi là vốn chủ sở hữu cuat doanh
nghiệp. Đây là loại vốn có thể sử dụng lâu dài, hình thành nền trang thiết bị, máy móc
nhà cửa cho ngân hàng. Vốn chủ sở hữu bao gồm: nguồn vốn hình thành ban đầu,
nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động như nguồn từ lợi nhuận, từ phát hành
thêm cổ phần, góp thêm, hay từ các quỹ của ngân hàng. Đặc điểm của nguồn vốn này
tại Ngân hàng thương mại là nó chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng nguồn vốn huy
động, khoảng dưới 10% tổng nguồn vốn huy động.
Chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng vốn huy động của ngân hàng là vốn huy động
từ tiền gửi của khách hàng. Nghiệp vụ đầu tiên khi một ngân hàng bắt đầu đi vào hoạt
động là mở các tài khoản tiền gửi để giữ và thanh toán hộ cho khách hàng, đây là cách
chủ yếu và quan trọng nhất để ngân hàng huy động được tiền của dân cư và các tổ chức,
doanh nghiệp.
Có nhiều hình thức huy động tiền gửi mà các Ngân hàng thương mại đã thực
hiện, cụ thể có các hình thức: tiền gửi thanh toán, tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp,
tổ chức xã hội, tiền gửi tiết kiệm của dân cư và tiền gửi của các ngân hàng khác.
Với bất kỳ một Ngân hàng thương mại thì hoạt động huy động vốn bằng tiền gửi
của khách hàng cũng là nguồn quan trọng nhất. Tuy nhiên khi cần thiết, ngân hàng có
thể vay mượn thêm cả các tổ chức khác, như vay của Ngân hàng Trung ương, vay trên
thị trường vốn hay vay của các tổ chức tín dụng khác.
Ngoài ra, Ngân hàng thương mại còn có thể huy động từ một số nguồn khác như
nguồn ủy thác, nguồn trong thanh toán…
1.1.2.2. Hoạt động sử dụng vốn.
Hoạt động của Ngân hàng thương mại là đi vay để cho vay, tìm kiếm các nguồn
vốn để sử dụng nó nhằm thu lợi nhuận. Song song với hoạt động huy động vốn, thì hoạt
động sử dụng vốn là hoạt động chủ yếu và quan trọng của mọi ngân hàng thương mại.
Hoạt động sử dụng vốn gồm có hoạt động ngân quỹ, hoạt động đầu tư chứng

khoán và hoạt động tín dụng( hoạt động cho vay).
Ngân quỹ của một ngân hàng thương mại thường gồm tiền mặt tại két và tiền gửi
tại các ngân hàng khác. Khoản tiền này thường không sinh lời hoặc nếu có thì rất nhỏ
nhưng bởi sự tiện lợi và cần thiết của nó mà mỗi ngân hàng thương mại đều phải giữ
một lượng tiền nhất định tại két của ngân hàng hoặc gửi tại các ngân hàng khác.
Thường thì mỗi ngân hàng đều cố gắng giữ mức ngân quỹ ở mức thấp nhất có thể.
Ngân hàng thực hiện hoạt động đầu tư chứng khoán bởi chứng khoán cỏ thể
mang lại thu nhập và cũng vì tính thanh khoản của nó, ngân hàng có thể bán đi khi cần
thiết để gia tăng ngân quỹ.
Hai hoạt động ngân quỹ và đầu tư chứng khoán chỉ chiếm tỷ trọng khiêm tốn
trong hoạt động sử dụng vốn của Ngân hàng thương mại. Hoạt động chiếm tỷ trọng lớn
nhất chính là hoạt động tín dụng( cho vay). Đây là hoạt động quyết định sự thành bại
của ngân hàng thương mại bởi nó là hoạt động chính đem lại lợi nhuận cho ngân hàng.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế và hệ thống các ngân hàng, nhu cầu của
khách hàng cũng ngày một đa dạng phong phú hơn. Do vay, ngân hàng cũng ngày càng
đưa ra nhiều hình thức tín dụng để khách hàng lựa chọn.
Căn cứ vào thời hạn: có tín dụng ngắn hạn, tín dụng trung hạn và tín dụng dài
hạn
Căn cứ theo hình thức tài trợ tín dụng có cho vay, bảo lãnh, cho thuê…
Căn cứ theo đảm bảo thì có tín dụng không có đảm bảo và tín dụng có đảm bảo
bằng tài sản thế chấp, cầm cố.
Căn cứ theo rủi ro, tín dụng có tín dụng có độ an toàn cao, khá, trung bình và
thấp…
Hoạt động tín dụng là hoạt động quan trọng, chủ chốt và mang lại nguồn lợi
nhuận chính cho ngân hàng. Đồng thời nó cũng là hoạt động chứa đừng nhiều rủi ro và
xảy ra mất mát.
Bản chất tự nhiên của hoạt động ngân hàng chính là rủi ro. Dù là một ngân hàng
mới thành lập hay một ngân hàng đã có lịch sử lâu đời, dù là ngân hàng quy mô nhỏ hay
một ngân hàng phát triển mạnh với quy mô lớn thì những rủi ro trong hoạt động kinh
doanh là không thể tránh khỏi. Trong nền kinh tế thị trường, rủi ro là yếu tố không thể

tách rời với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. nhưng hơn bất cứ một
doanh nghiệp nào khác, ngân hàng phải đối phó với các loại rủi ro từ mọi nguồn gốc.
Bao gồm: rủi ro tín dụng, rủi ro thiếu vốn khả dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro hối đoái, rủi ro
trong tín dụng quốc tế và trong tín dụng ngoại thương, rủi ro mất khả năng thanh toán.
Với mục tiêu là tìm kiếm lợi nhuận cao, thì việc ngân hàng phải đương đầu với rủi
ro là không thể tránh khỏi. Mức lợi nhuận kỳ vọng càng cao thì mức độ rủi ro cũng
càng lớn. Vì vậy, để thu được lợi nhuận ngày càng cao thì công tác quản lý, đánh giá
rủi ro phải càng được chú trọng trong mọi khâu, mọi hoạt động của ngân hàng.
1.2. Thẩm định dự án và Đánh giá rủi ro trong thẩm định dự án vay vốn tại
Ngân hàng thương mại.
1.2.1. Thẩm định dự án vay vốn tại Ngân hàng thương mại.
Nói một cách chung nhất thì thẩm định dự án đầu tư là việc thẩm tra, so sánh,
đánh giá một cách khách quan, khoa học và toàn diện các nội dung của dự án, hoặc so
sánh đánh giá các phương án của một hay nhiều dự án để đánh giá tính hợp lý, tính hiệu
quả là tính khả thi của dự án đầu tư. Từ đó có những quyết định đầu tư, cho phép đầu tư
hoặc tài trợ vốn cho dự án.
Mục đích chung của thẩm định dự án đầu tư là nhằm lựa chọn được dự án có
tính khả thi cao. Cụ thể là đánh giá tính hợp lý, tính hiệu quả và khả năng thực hiện của
dự án. Tuy nhiên, đối với mỗi chủ thể khác nhau thì mục đích cuối cùng của thẩm định
dự án cũng khác nhau.
Đối với các chủ đầu tư thì việc thẩm định dự án nhằm đưa ra quyết định đầu tư.
Đối với các cơ quan quản lý Nhà nước thì thẩm định dự án là để xét duyệt cấp giấy
phép đầu tư. Còn đối với các định chế tài chính, trong đó có các Ngân hàng Thương
mại thì việc thẩm định dự án vay vốn nhằm để đưa ra quyết định vay vốn.
Việc thẩm định dự án tại các Ngân hàng thương mại là quan trọng và không thể
thiếu với mỗi dự án xin vay vốn. Bởi dự án đầu tư thường có thời gian thực hiện khá
dài, đòi hỏi một lượng vốn lớn và chịu nhiều yếu tố chi phối mà trong tương lai có thể
có những biến động khó lường. Bên cạnh đó, những con số tính toán cũng như những
nhận định đưa ra trong dự án khi tiến hành lập dự án chỉ là dự kiến, do đó chứa đựng ít
nhiều tính chủ quan của người lập dự án. Vì vậy, Ngân hàng thương mại có thể gặp

phải khá nhiều rủi ro khi tiến hành cho vay vốn. Để ngăn ngừa và giảm thiểu những rủi
ro có thể gặp phải khi tiến hành cho vay vốn, một giải pháp hiệu quả mà các Ngân hàng
thương mại sử dụng đó là tiến hành Thẩm định dự án trước khi cho vay vốn, trong khi
Khách hàng nộp hồ sơ vay vốnPhòng thẩm định tiếp nhận hồ sơKiểm tra, xem xét tính hợp lệ của HS
Yêu cầu bổ sung tài lệu, hồ sơ
Phòng TĐ tiến hành thẩm địnhLập báo cáo thẩm định
Phòng QHKH xem xét, đánh giá lại, cho ý kiếnBan tín dụng hoặc hội đồng tín dụng ra quyết định cho vay
vay, và sau khi cho vay. Và khi tiến hành thẩm định dự án thì các phương diện mà các
Ngân hàng thương mại tập trung chủ yếu là đánh giá tính khả thi, hiệu quả về mặt tài
chính và khả năng trả nợ của dự án.
1.2.1.1. Quy trình thẩm định dự án vay vốn tại Ngân hàng thương mại
Sơ đồ 1.1: Quy trình thẩm định dự án vay vốn tại Ngân hàng thương mại
Bước 1: Tiếp nhận hồ sơ vay vốn của khách hàng, tiến hành kiểm tra, xem xét
tính hợp lệ của hồ sơ.
Khi khách hàng có nhu cầu vay vốn tại Ngân hàng, cán bộ tín dụng sẽ trực tiếp
trao đổi với khách hàng, hướng dẫn khách hàng lập hồ sơ vay vốn. Hồ sơ vay vốn được
nộp cho phòng quan hệ khách hàng( trước đây có tên là Phòng Tín dụng). Sau đó, Hồ
sơ vay vốn của khách hàng được chuyển vể phòng thẩm định. Cán bộ phòng thẩm định
sẽ kiểm tra, xem xét tính hợp lý, hợp lệ của hồ sơ về cả khách hàng vay vốn và dự án
vay vốn. Nếu hồ sơ chưa đầy đủ, hợp lệ, sẽ yêu cầu khách hàng giải trình, bổ sung. Nếu
hồ sơ, tài liệu đã hợp lý, đầy đủ, thì cán bộ thẩm định tiến hành tổng hợp chúng để
chuẩn bị cho bước tiếp theo của quy trình.
Bước 2: Tiến hành thẩm định khách hàng vay vốn.
Sau khi hồ sơ vay vốn được xem là hợp lệ, thì cán bộ thẩm định, cán bộ tín dụng
tiến hành thẩm định về khách hàng vay vốn dựa trên những tài liệu, hồ sơ mà khách
hàng cung cấp. Trên cơ sở đó thẩm định về tư cách, năng lực pháp lý, năng lực điều
hành, năng lực quản lý sản xuất kinh doanh, mô hình bố trí, tổ chức lao động ở doanh
nghiệp. Thẩm định đánh giá khả năng tài chính của khách hàng, đánh giá tình hình quan
hệ của khách hàng đối với ngân hàng.
Thẩm định khách hàng là bước trước khi tiến hành thẩm định dự án vay vốn.

Bước 3: Tiến hành thẩm định dự án vay vốn.
Cán bộ thẩm định tiến hành thẩm định về dự án đầu tư trên mọi khía cạnh của
dự án: từ khía cạnh pháp lý của dự án, đến khía cạnh thị trường, khía cạnh kinh tế xã
hội, kỹ thuật của dự án, khía cạnh tổ chức quản lý thực hiện dự án, khía cạnh tài chính
và rủi ro của dự án. Đặc biệt tập trung phân tích, đánh giá, thẩm định về khía cạnh hiệu
quả tài chính, thẩm định rủi ro( bao gồm cả rủi ro đầu tư và rủi ro tín dụng) và khả
năng trả nợ của dự án.
Thẩm định hồ sơ vay vốn của khách hàngThẩm định khách hàng vay vốnThẩm định dự án vay vốnThẩm định các biện pháp đảm bảo tiền vay
Sau khi mọi phương diện đều được thẩm định xong, cán bộ thẩm định sẽ lập tờ
trình, báo cáo thẩm định và nộp, chuyển sang phòng Quan hệ khách hàng.
Bước 4: Phòng Quan hệ khách hàng xem xét, đánh giá lại. Hội đồng tín dụng
đưa ra quyết định cho vay.
Báo cáo thẩm định sẽ được nộp cho phòng tín dụng( Phòng QHKH) để xem xét,
rà soát, đánh giá lại dự án. Sau đó được trình lên một ban tín dụng hoặc hội động tín
dụng xem xét, đưa ra quyết định cho vay đối với dự án vay vốn.
1.2.1.2. Nội dung thẩm định dự án vay vốn tại Ngân hàng thương mại.
Sơ đồ 1.2: Nội dung thẩm định dự án vay vốn tại Ngân hàng thương mại
* Thẩm định hồ sơ vay vốn của khách hàng.
Thẩm định hồ sơ vay vốn của khách hàng xem xét tính hợp lệ, đầy đủ của hồ sơ.
Theo quy định của Ngân hàng, những hồ sơ cần thiết phải có bao gồm:
- Hồ sơ chứng minh năng lực pháp lý của bên vay:
+ Quyết định thành lập hoặc giấy phép thành lập
+ Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh còn hiệu lực
+ Điều lệ của doanh nghiệp
+ Quyết định bổ nhiệm giám đốc, kế toán trưởng
+ Hợp đồng liên doanh( nếu có doanh nghiệp nước ngoài tham gia)
+ Giấy phép đầu tư.
+ Danh sách hội đồng quản trị, ban lãnh đạo của doanh nghiệp
- Hồ sơ về việc sử dụng vốn vay:
+ Giấy đề nghị vay vốn theo mẫu của ngân hàng

+ Dự án đầu tư
+ Các hợp đồng kinh tế chứng minh việc mua bán nguyên vật liệu đầu vào, máy
móc thiết bị, công nghệ…, các hợp đồng tiêu thụ sản phẩm..
+ Hồ sơ thẩm định về kinh tế, kỹ thuật của dự án.
+ Quyết định đầu tư của cơ quan có thẩm quyền đối với dự án của Nhà nước.
+ Văn bản của hội đồng quản trị hoặc các thành viên sáng lập về việc chấp thuận
vay vốn Ngân hàng để thực hiện đầu tư dự án với khách hàng vay vốn là công ty cổ
phần, cty trách nhiệm hữu hạn, công ty liên doanh.
- Hồ sơ tài, tài liệu về tình hình hoạt động kinh doanh và khả năng tài chính của doanh
nghiệp
+ Báo cáo tài chính tối thiểu 2 năm gần nhất, báo cáo tài chính các quý của năm
vay vốn. Nếu doanh nghiệp hoạt động chưa đủ 2 năm thì phải gửi báo cáo kể từ ngày
thành lập đến thời điểm xin vay.
+ Báo cáo tài chính phải được kiểm toán đối với doanh nghiệp liên doanh.
- Hồ sơ đảm bảo tín dụng
+ Nếu khách hàng có đảm bảo tín dụng bằng tài sản thì phải có các giấy tờ chứng minh
quyền sở hữu tài sản của bên vay.
+ Nếu khách hàng có đảm bảo tín dụng bằng bảo lãnh của Ngân hàng khác thì phải
cung cấp bản chính thư bảo lãnh.
+ Nếu khách hàng có đảm bảo tín dụng bằng giá trị các khoản đầu tư xây dựng công
trình thuộc vốn Nhà nước, vốn đầu tư nước ngoài chưa thanh toán thì phải có quy định
cụ thể trong hợp đồng giữa bên thi công và bên thanh toán tại điều khoản thanh toán.
- Các hồ sơ tài liệu khác nếu cán bộ ngân hàng thấy cần thiết và có liên quan đến việc
giải quyết cho vay.
* Thẩm định khách hàng vay vốn
- Thẩm định về lịch sử hình thành, phát triển của doanh nghiệp.
+ Xuất xứ hình thành doanh nghiệp
+ Các bước ngoặt lớn trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp
+ Những khó khăn, thuận lợi, lợi thế, bất lợi của doanh nghiệp
+ Uy tín của doanh nghiệp trên thương trường

- Thẩm định về tư cách pháp lý của chủ đầu tư, chủ doanh nghiệp
+ Xem xét về lịch sử bản thân chủ đầu tư, trình độ học vấn, năng lực chuyên
môn
+ Thẩm định năng lực trình độ quản lý, kinh nghiệm làm việc.

×