Tải bản đầy đủ (.docx) (155 trang)

Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học của vi khuẩn streptococcus suis gây bệnh ở lợn tại tỉnh thái nguyên và chế tạo autocvaccine phòng bệnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.95 MB, 155 trang )

1

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
––––––––––––––––––––––––

NGUYỄN MẠNH CƯỜNG

NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC
CỦA VI KHUẨN STREPTOCOCCUS SUIS GÂY BỆNH Ở
LỢN TẠI TỈNH THÁI NGUYÊN VÀ CHẾ TẠO
AUTOVACCINE PHÒNG BỆNH

LUẬN ÁN TIẾN SĨ THÚ Y

THÁI NGUYÊN - 2019


2

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
––––––––––––––––––––––––

NGUYỄN MẠNH CƯỜNG

NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC
CỦA VI KHUẨN STREPTOCOCCUS SUIS GÂY BỆNH Ở
LỢN TẠI TỈNH THÁI NGUYÊN VÀ CHẾ TẠO
AUTOVACCINE PHÒNG BỆNH
Ngành: Ký sinh trùng và Vi sinh vật học thú y


Mã số : 9.64.01.04

LUẬN ÁN TIẾN SĨ THÚ Y

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

1. PGS.TS. Tô Long Thành
2. TS. Nguyễn Văn Quang

THÁI NGUYÊN - 2019


3
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng: Đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi; các số
liệu, kết quả nghiên cứu trong luận án này là trung thực và chưa từng được ai công
bố trong bất kỳ công trình nào khác và chưa từng sử dụng để bảo vệ một học vị
nào.
Tôi xin cam đoan mọi sự giúp đỡ cho việc hoàn thành luận án này đã được cảm
ơn, các thông tin trích dẫn trong luận án đều đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Thái Nguyên, tháng 7 năm 2019
Tác giả luận án

Nguyễn Mạnh Cường


4
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình triển khai thực hiện đề tài và hoàn thành luận án, tôi luôn nhận
được sự quan tâm, giúp đỡ của các thày, cô, các bạn đồng nghiệp, cơ quan công tác

và gia đình.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Khoa Chăn nuôi - Thú y, Phòng Đào tạo, Trường
đại học Nông Lâm, Viện Khoa học Sự sống - Đại học Thái Nguyên; Trung tâm
chẩn đoán Thú y trung ương - Cục Thú y, Bộ môn Vi trùng - Viện Thú y, Chi cục
Chăn nuôi - Thú y tỉnh Thái Nguyên đã nhiệt tình giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi
cho tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và thực hiện đề tài luận án.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến các thày hướng dẫn khoa
học là: PGS.TS. Tô Long Thành - Giám đốc Trung tâm chẩn đoán Thú y trung
ương, Cục Thú y và TS. Nguyễn Văn Quang - Nguyên Trưởng Khoa Chăn nuôi Thú y, Trường đại học Nông Lâm, Đại học Thái Nguyên đã trực tiếp hướng dẫn,
giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu và hoàn thiện luận án.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến Ban lãnh đạo và tập thể cán bộ Bộ môn Vi trùng Trung tâm chẩn đoán thú y trung ương - Cục Thú y, Bộ môn Vi trùng - Viện Thú y
và Bộ môn Công nghệ Vi sinh, Công nghệ Phân tử - Viện Khoa học Sự sống - Đại
học Thái Nguyên đã tạo điều kiện, giúp đỡ và hướng dẫn thực hiện các thí nghiệm của
đề tài luận án.
Nhân dịp này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới các thày, cô, các bạn đồng
nghiệp, học viên cao học, các em sinh viên và đặc biệt là gia đình đã luôn giúp đỡ,
động viên, hỗ trợ tôi trong thời gian qua để hoàn thành luận án này.
Thái Nguyên, tháng 7 năm 2019
Tác giả


5
MỤC LỤC


6
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT VÀ KÝ HIỆU
ADH
AMD
ARA

BHI
CFU
CPS
cs
EF
ELISA
ESL
GAL
GLYG:
GUR
HIP
ICAM
IHA
INU
LAP
LAC
LD
MAN
MRP
NAG
NAM
NIN
PAL
PBS
PCR
PYRA
QCVN
RAF
RIB
RR

S. suis
SLY
SOR
STSS
TCCS
TCVN
TRE
TSA
TSB
TYE

: Arginine Dihydrolase
: amidon
: arabinose
: Brain Heart Infusion
: Colony Forming Unit
: Capsule polysaccharide
: cộng sự
: Extracellular factor
: Enzyme - linked Immunosorbert Assay
: Esculin
: Galactosidase
: glycogen
: Glucuronidase
: acid Hippuric
: Intercellular adhension molecule
: Indirect Haemaglunation test
: đường inulin
: Leucine AminoPeptidase
: đường lactose

: Lethal dose
: đường mannitol
: Muramidase - released protein
: N-acetylgluco acid
: N-acetylmuramic acid
: Ninhydrin
: Alkaline Phosphatase
: Phosphate-buffered solution
: Polymerase Chain Reaction
: Pyrrolidonyl Arylamidase
: quy chuẩn Quốc Gia
: đường raffinose
: đường ribose
: Relative Risk
: Streptococcus suis
: Suilysin
: đường sorbitol
: Streptococcus toxic shock syndrome
: tiêu chuẩn cơ sở
: tiêu chuẩn Quốc Gia
: trehalose
: Tryptone soya agar
: Tryptone soya broth
: Tryptone Yeast Extract Broth


7
VP
VCAM
YE


: Voges Proskauer
: Vascular cell adhension molecule
: Yeast Extract


8
DANH MỤC CÁC BẢNG


9
DANH MỤC CÁC HÌNH


10
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chăn nuôi lợn ở tỉnh Thái Nguyên trong những năm qua phát triển nhanh về
số lượng và được cải tiến nhiều về chất lượng nên đã đáp ứng với nhu cầu tiêu
dùng nội tỉnh và hướng tới xuất khẩu, góp phần giải quyết việc làm và tăng thu
nhập cho người chăn nuôi trên địa bàn. Theo thống kê của Chi cục Chăn nuôi và
Thú y tỉnh Thái Nguyên (1/10/2018) [2] năm 2018 tổng đàn lợn có trên 680.000
con, tổng sản lượng thịt hơi đạt trên 80.170 tấn, đây là nguồn cung cấp thực phẩm
chủ yếu trong ngành chăn nuôi. Vì vậy, chăn nuôi lợn đã chiếm vị thế quan trọng
trong phát triển kinh tế của tỉnh và trở thành ngành mũi nhọn được quan tâm phát
triển. Chăn nuôi lợn ở Thái Nguyên hiện tại vẫn chủ yếu là các trại quy mô nhỏ nên
gặp rất nhiều khó khăn đặc biệt là khâu kiểm soát dịch bệnh nên đã ảnh hưởng lớn
đến hiệu quả chăn nuôi. Ngoài các bệnh truyền nhiễm gây ra cho đàn lợn như lở
mồm long móng, dịch tả, tai xanh… thì viêm phổi, viêm khớp ở lợn do vi khuẩn S.
suis cũng xảy ra khá phổ biến và gây tổn thất về kinh tế cho người chăn nuôi. Bệnh

do S. suis ở lợn với các biểu hiện bệnh lý như bại huyết, viêm phổi, viêm khớp,
viêm não…dẫn đến chết, đặc biệt là ở giai đoạn lợn con sau cai sữa, làm ảnh hưởng
tới tăng trọng, chất lượng con giống và tăng tỷ lệ loại thải.
Vi khuẩn S. suis đóng vai trò quan trọng trong gây bệnh hô hấp và viêm
khớp ở lợn. Nghiên cứu của Nguyễn Thị Nội và Nguyễn Ngọc Nhiên (1993) [15]
về hệ vi khuẩn đường hô hấp của 162 lợn mắc ho thở truyền nhiễm cho thấy vi
khuẩn Streptococcus chiếm tỷ lệ 74,0%. Kết quả điều tra của Đỗ Ngọc Thúy và cs.
(2009b) [32] từ những lợn khỏe nuôi tại trại, lợn được đưa tới lò mổ, lợn có triệu
chứng bệnh đường hô hấp, tai xanh hoặc viêm khớp, viêm não đều đã phân lập
được vi khuẩn S. suis với các tỷ lệ khác nhau. Trong số các chủng vi khuẩn S. suis
phân lập được đã phát hiện thấy các serotype gây bệnh quan trọng và phổ biến là
serotype 2, 7 và 9.
Không chỉ gây thiệt hại trên đàn lợn, vi khuẩn S. suis còn gây bệnh nguy
hiểm cho người. Ở Việt Nam cũng đã ghi nhận nhiều ca mắc và chết do S. suis


11
serotype 2. Trong 6 tháng đầu năm 2017 cả nước có 69 người mắc bệnh liên cầu
khuẩn lợn, trong đó có 4 ca chết do nhiễm khuẩn nặng (Phương Trang, 2017) [142].
Theo thống kê của Cục Y tế dự phòng (Bộ Y tế) [140] trong năm 2017 cả nước ghi
nhận 171 ca mắc bệnh liên cầu lợn, trong đó 14 người chết. Đặc biệt, trong tháng
6/2018 trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên có 3 ca mắc bệnh do S. suis (Phương Nam,
2018) [141]. Những người bị mắc bệnh đều được xác nhận là có tiếp xúc với lợn mắc
trong chăn nuôi, giết mổ, ăn thịt hoặc tiết canh lợn nhiễm liên cầu khuẩn.
Xuất phát từ tình hình thực tế sản xuất và an toàn thực phẩm hiện nay,
nhằm có hiểu biết đầy đủ hơn về vi khuẩn S. suis gây viêm phổi và viêm khớp ở
lợn, làm cơ sở khoa học cho việc nghiên cứu các biện pháp phòng, trị bệnh hiệu
quả là một yêu cầu cấp thiết, góp phần nâng cao hiệu quả, tăng thu nhập cho người
chăn nuôi lợn và bảo vệ sức khoẻ cộng đồng, vì vậy chúng tôi thực hiện đề tài:
“Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học của vi khuẩn Streptococcus suis gây bệnh ở

lợn tại tỉnh Thái Nguyên và chế tạo Autovaccine phòng bệnh”.
2. Mục tiêu của đề tài
- Xác định một số đặc điểm sinh học của vi khuẩn S. suis gây bệnh viêm
phổi và viêm khớp ở lợn nuôi tại tỉnh Thái Nguyên.
- Nghiên cứu chế tạo Autovaccine thử nghiệm phòng viêm phổi và viêm
khớp cho lợn từ các chủng S. suis phân lập được và thử nghiệm các phác đồ điều trị
bệnh viêm phổi và viêm khớp cho lợn do S. suis gây ra có hiệu quả cao, góp phần
thúc đẩy chăn nuôi lợn trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên phát triển.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
3.1. Ý nghĩa khoa học
- Là một công trình nghiên cứu có hệ thống về đặc điểm sinh học của các
chủng vi khuẩn S. suis ở lợn nuôi tại Thái Nguyên.
- Nghiên cứu chế tạo Autovaccine từ các chủng S. suis phân lập được để
phòng viêm phổi, viêm khớp cho lợn nuôi tại Thái Nguyên có hiệu quả và đề xuất
được phác đồ điều trị viêm phổi, viêm khớp cho lợn do S. suis cho hiệu quả cao.
-

Bổ sung và làm phong phú thêm dữ liệu khoa học, sử dụng làm tài liệu

tham khảo trong giảng dạy và nghiên cứu về vi khuẩn S. suis gây bệnh ở lợn.


12
3.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Sử dụng Autovaccine thử nghiệm tiêm phòng cho lợn nuôi tại tỉnh Thái
Nguyên đã góp phần giảm tỷ lệ lợn mắc viêm phổi, viêm khớp do vi khuẩn S. suis
gây ra.
- Áp dụng phác đồ điều trị bệnh viêm phổi, viêm khớp ở lợn cho hiệu quả
cao, góp phần tăng thu nhập cho người chăn nuôi và phát triển bền vững ngành
chăn nuôi lợn tại tỉnh Thái Nguyên.

-

Kết quả nghiên cứu của đề tài là cơ sở khoa học để xây dựng các biện

pháp phòng, trị bệnh do vi khuẩn S. suis gây ra ở lợn đạt hiệu quả.
4. Những đóng góp mới của đề tài:
- Là công trình nghiên cứu có hệ thống và đầy đủ về vi khuẩn S. suis gây
bệnh ở lợn tại tỉnh Thái Nguyên.
- Chế tạo thành công Autovaccine từ các chủng S. suis phân lập có hiệu quả
trong phòng viêm phổi, viêm khớp cho lợn và xác định phác đồ điều trị lợn mắc
viêm phổi, viêm khớp đạt hiệu quả cao được ứng dụng vào thực tiễn sản xuất chăn
nuôi lợn tại Thái Nguyên.


13
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Tình hình nghiên cứu bệnh liên cầu khuẩn và chế tạo vaccine phòng bệnh
trên lợn gây ra do S. suis ở trong và ngoài nước
1.1.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước
Vi khuẩn S. suis là một trong các nguyên nhân gây ra bệnh quan trọng và gây
ra những thiệt hại cho ngành chăn nuôi lợn. Bệnh do S. suis gây ra ở lợn được xác
nhận lần đầu tiên ở Hà Lan vào năm 1951 và ở Anh năm 1954. Từ đó, bệnh đã xảy
ở hầu khắp các nước trên thế giới nơi có ngành chăn nuôi lợn phát triển (Higgins R.
và Gottschalk M., 2006) [77].
Theo Gottschalk M. (2012) [68] vi khuẩn S. suis serotype 1 và serotype ½
thường gây bệnh cho lợn con theo mẹ từ 1 - 3 tuần tuổi, có khi tới 6 tuần tuổi và
thường ở thể bại huyết hoặc nhiễm trùng như viêm phổi, viêm khớp, màng não,
viêm nội tâm mạc, đặc biệt là ở lợn con từ 1 - 7 ngày tuổi. Vi khuẩn S. suis thuộc

serotype 2 cũng gây bệnh cho lứa tuổi này nhưng thường gây cho lợn trong giai
đoạn sau cai sữa và lợn thịt (4-16 tuần tuổi) với các thể bệnh như trên.
Theo Segura M. và cs. (2014a) [109] đã xác định từ 30 - 70% vi khuẩn S.
suis cư trú ở đường hô hấp trên của lợn khỏe xâm nhập vào đường hô hấp dưới gây
nhiễm trùng huyết, viêm phổi, viêm khớp, viêm ngoại tâm mạc, màng não... khi hệ
miễn dịch của lợn bị suy giảm. Bệnh thường xảy ra vào mùa xuân khi điều kiện
chăn nuôi bất lợi và thuận lợi cho sự phát triển của các loại cầu khuẩn.
Ở Anh, các nghiên cứu cũng cho thấy vi khuẩn S. suis serotype 2 là nguyên
nhân chính gây bại huyết, viêm não và viêm đa khớp, ít khi gây viêm phổi; trong
khi đó ở Bắc Mỹ khi lợn mắc bệnh liên cầu khuẩn thì bệnh tích ở phổi vẫn là chủ
yếu. Vi khuẩn S. suis serotype 2 có thể lây nhiễm từ đàn này sang đàn khác hoặc
trong cùng một đàn do sự tiếp xúc giữa các cá thể lợn với nhau hoặc từ chất thải
nhiễm vi khuẩn (Segura M. và cs., 2014b) [110].
Bệnh do vi khuẩn S. suis gây ra ở lợn là đa dạng gồm viêm phổi, viêm khớp,
viêm não, viêm nội tâm mạc... và thường dẫn đến chết. Ở Hàn Quốc, Han D.U. và


14
cs. (2001) [73] đã khảo sát xác định S. suis ở hạch amidan của lợn thịt khỏe là
13,8%; trong khi đó ở Trung Quốc, nghiên cứu của Rui P. và cs. (2012) [106] trong
mẫu dịch mũi của lợn khỏe có 24,67% nhiễm S. suis. Theo Goyette - Desijardins G.
và cs. (2014) [70] các nghiên cứu ở nhiều nước cho thấy S. suis serotype 2 được
tìm thấy trên lợn khỏe, có thể lây nhiễm cho người qua tiếp xúc hoặc sử dụng các
loại thực phẩm từ lợn không qua nấu chín.
Ở Trung Quốc, năm 2005 đã chế tạo vaccine vô hoạt từ các chủng S. suis
serotype 2 để kiểm soát dịch bệnh liên cầu khuẩn ở lợn theo Lun Z.R. và cs. (2007)
[94]. Nghiên cứu của Jiang X. và cs. (2016) [81] đã xác định chủng S. suis serotype
5 (XS045) độc lực thấp có thể sử dụng để sản xuất vaccine nhược độc cho an toàn
và hiệu quả trong việc bảo vệ cơ thể chống lại S. suis serotype 2 và 9 độc lực cao.
Theo Jiao J. và cs. (2017) [82] peptide NZ.2114 là một dẫn xuất từ kháng sinh

defensin và plectasin của nấm rừng, có hoạt tính kháng S. suis serotype 2 trong điều
kiện invitro và invivo mạnh hơn so với ampicillin.
Theo Dutkewicz J. và cs. (2017) [54] dựa vào kháng nguyên vỏ
polysaccharide, vi khuẩn S. suis được phân thành 35 serotype từ 1 đến 34 và
serotype ½. Đến nay, nhiều nghiên cứu đều cho thấy 6 serotype của S. suis bao gồm
serotype 20, 22, 26, 32, 33 và 34 đã có những biến đổi về đặc tính sinh học của
chúng so với ban đầu.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Ở Việt Nam, nghiên cứu của Trịnh Phú Ngọc và Lê Văn Tạo (2001) [11] cho
thấy trong 37 chủng vi khuẩn Streptococcus spp. phân lập được từ lợn ở các lứa
tuổi khác nhau, trong đó có 19 chủng từ hạch phổi. Kết quả của Cù Hữu Phú và cs.
(2005) [22] khi nghiên cứu nguyên nhân gây viêm phổi của lợn nuôi tại một số tỉnh
phía Bắc đã xác định vi khuẩn S. suis là một trong những căn nguyên phổ biến có
vai trò gây bệnh quan trọng.
Đỗ Ngọc Thúy và Lê Thị Minh Hằng (2009a) [31] đã nghiên cứu đặc tính
sinh học và các phản ứng PCR để xác định các gen mã hóa một số yếu tố độc lực,
các serotype thông thường của S. suis cho thấy các phản ứng đã thiết lập và chuẩn
hóa đều đảm bảo các yêu cầu và tính chính xác cao, được ứng dụng trong khảo sát


15
các yếu tố gây bệnh và serotype thông thường của các chủng S. suis. Năm 2010, Đỗ
Ngọc Thúy và cs. (2010) [33] nghiên cứu chế tạo và thử nghiệm đặc tính gây miễn
dịch của vaccine vô hoạt keo phèn phòng bệnh cho lợn do vi khuẩn S. suis gây ra
có đậm độ vi khuẩn trong vaccine đạt từ 3,2 - 3,5 x 10 8 vi khuẩn/ml bước đầu có
sinh đáp ứng miễn dịch trên lợn thí nghiệm.
Nghiên cứu của Hoa N.T. và cs. (2011) [78] tỷ lệ lợn khỏe ở lò mổ tại các
tỉnh miền Nam nhiễm S. suis là 41,0%, trong đó từ bệnh phẩm là hạch amidan, là
nơi cư trú thường xuyên của vi khuẩn S. suis nên có tỷ lệ cao hơn.
Trương Quang Hải và cs. (2012) [6] nghiên cứu lợn mắc bệnh viêm phổi tại

tỉnh Bắc Giang cho thấy tỷ lệ phân lập được S. suis là 51,67%. Trong đó, tỷ lệ cao
nhất ở lợn sau cai sữa từ 1,5 đến 3 tháng tuổi chiếm 59,46% và thấp nhất là ở lợn
con dưới 1,5 tháng tuổi (39,29%). Theo Lê Văn Dương và cs. (2013) [3] lợn dương
tính với PRRS tại tỉnh Bắc Giang phân lập được S. suis là 55,10%. Các chủng S.
suis phân lập được thuộc serotype 2 với tỷ lệ là 56,29%, serotype 9 là 17,03% và
serotype 7 là 5,18%, các chủng thuộc serotype 21 và 29 đều chiếm tỷ lệ thấp
(2,22%).
Cù Hữu Phú và cs. (2013) [24] nghiên cứu chọn chủng vi khuẩn A.
pleuropneumoniae, P. multocida và S. suis để chế tạo vaccine phòng bệnh viêm
phổi cho lợn cho thấy các chủng S. suis thuộc serotype 2 có gen mã hóa độc tố
được phân bố rải rác trong các kiểu tổ hợp gen là arcA, arcA/sly; arcA/mrp;
arcA/mrp/sly; arcA/mrp/sly/epf. Theo Cù Hữu Phú và cs. (2014) [25] các lô vaccine
vô hoạt có chất bổ trợ keo phèn được chế tạo từ các chủng vi khuẩn trên đều sinh
miễn dịch và có hiệu lực bảo hộ cao (90 - 100%) khi thử trên động vật thí nghiệm.
Hoàng Văn Minh và cs. (2017) [21] khi thử nghiệm vaccine vô hoạt phòng viêm
phổi cho lợn do vi khuẩn A. pleuropneumoniae, P. multocida và S. suis gây ra tại
Bắc Giang cho thấy lợn được tiêm chủng vaccine này đã sinh miễn dịch, đạt tỷ lệ
bảo hộ là 71,04%.
Nghiên cứu của Bùi Thị Hiền và cs. (2016) [8] về sự lưu hành của S. suis
trên một số địa bàn thuộc tỉnh Thừa Thiên - Huế trong vụ xuân hè năm 2015 cho
thấy tỷ lệ nhiễm S. suis trên lợn khỏe là 11,4%. Huỳnh Ngân Hà và cs. (2016) [4]


16
khảo sát mức độ nhiễm S. suis trên các sản phẩm từ lợn ở cơ sở giết mổ tại thành
phố Hồ Chí Minh cho thấy tỷ lệ mẫu tìm thấy S. suis là 72,2%, trong đó S. suis
serotype 2 là 14,8% trên tổng số mẫu khảo sát. Lê Quốc Việt và cs. (2017) [41] đã
xác định tỷ lệ nhiễm S. suis ở lợn giết mổ trên địa bàn thành phố Huế cũng cho thấy
trong 100 mẫu dịch mũi của lợn đã phát hiện có 9,0% nhiễm S. suis serotype 2 và
đã tạo dòng, biểu hiện gen mã hóa 6 - phosphogluconate - dehydrogenase protein

trong E. coli BL21.
Lê Hồng Thủy Tiên và cs. (2018) [34] khảo sát tỷ lệ mang S. suis trên lợn
khỏe ở các độ tuổi khác nhau tại miền Đông Nam Bộ cho thấy S. suis là tác nhân
gây bệnh viêm phổi, viêm khớp, viêm màng não, nhiễm trùng máu ở lợn, đặc biệt
là S. suis serotype 2 và đã phân lập, xác định được tỷ lệ lợn khỏe mang S. suis là
12,05%.
Từ những nghiên cứu trên có thể thấy S. suis là vi khuẩn được quan tâm
nghiên cứu trong thời gian gần đây, tuy tỷ lệ phát hiện được chưa cao nhưng sự có
mặt của S. suis đã chứng tỏ vai trò quan trọng trong bệnh viêm phổi, viêm khớp ở
lợn tại Việt Nam hiện nay nên việc chăm sóc, phòng và trị bệnh cho lợn con cần
được lưu tâm nhằm hạn chế nhiễm bệnh do S. suis cho đàn lợn cũng như cho người chăn
nuôi.
1.2. Vi khuẩn S. suis
1.2.1. Phân loại vì khuẩn S. suis
Phân loại vi khuẩn S. suis nếu dựa vào phản ứng sinh hoá thì gặp khó khăn
bởi các serotype đều có các đặc tính sinh hóa tương tự nhau. Ban đầu, S. suis được
phân loại huyết thanh học thành các nhóm theo ký hiệu S, R, RS và T. Sau đó, các nhóm
S, R và RS này lần lượt được thay thế bằng các serotype ký hiệu lần lượt là 1; 2 và 1/2,
còn nhóm T được thay thế bằng serotype 15 (Higgins R. và Gottschalk M., 2006) [77].
Trong thời gian từ năm 1983 đến 1995, có 32 serotype mới của S. suis được
phát hiện và phân loại dựa trên cấu trúc kháng nguyên polysaccharide của giáp mô,
nâng tổng số serotype của vi khuẩn này lên thành 35 loại (ký hiệu từ 1 đến 34, và
1/2). Trong đó, đáng chú ý nhất là các chủng thuộc serotype 2 phân lập được


17
thường xuyên nhất ở lợn và cũng là nguyên nhân gây ra các thể bệnh nguy hiểm
khác nhau ở lợn và người (Dutkewicz J. và cs., 2017) [54].
Các chủng thuộc các serotype khác nhau có đặc tính gây bệnh khác nhau và
gây ra các thể bệnh khác nhau. Thậm chí các chủng vi khuẩn thuộc cùng một

serotype cũng có thể gây ra các thể bệnh khác nhau do vùng địa lý mà chúng phân
bố. Một sổ serotype không có độc lực và có thể được phân lập từ lợn khỏe mạnh,
không có triệu chứng lâm sàng như các serotype 17, 18, 19 và 21. Trong khi đó, có
một số chủng có thể phân lập được từ lợn và cả các loài động vật khác nữa như
serotype 20 và 31 từ bê, serotype 33 từ cừu non (Segura M. và cs., 2017) [113].
Đỗ Ngọc Thúy và cs. (2009b) [32] khi xác định serotype của các chủng S.
suis phân lập từ lợn tại các tỉnh miền Bắc Việt Nam cho thấy số chủng thuộc
serotype 2 chiếm tỷ lệ cao nhất; tiếp sau là các serotype 7, 9; 31; 32; 7; 17; 21 và 8.
1.2.2. Hình thái và tính chất nuôi cấy của vi khuẩn S. suis
Vi khuẩn S. suis thuộc bộ: Lactobacillales, họ: Streptococcaceae, lớp:
Bacilli, giống: Streptococcus.
Vi khuẩn S. suis có hình cầu hoặc hình trứng đường kính nhỏ hơn 1,0 μm,
thường xếp thành từng chuỗi như chuỗi hạt, có độ dài ngắn khác nhau tùy thuộc
vào môi trường nuôi cấy, từ hai đến 6 - 10 cầu khuẩn và dài hơn tạo thành liên cầu
khuẩn. Chiều dài của chuỗi tuỳ thuộc vào điều kiện môi trường. Vi khuẩn bắt màu
Gram dương, không di động, không sinh nha bào. Trong bệnh phẩm vi khuẩn đứng
thành chuỗi ngắn thường có từ 2 - 8 đơn vị. Khi nuôi cấy trong môi trường lỏng, hình
thái các chuỗi được nhìn thấy rõ và vi khuẩn xếp thành chuỗi dài (Lê Văn Tạo và cs.,
2005) [28].
Trong canh trùng sau 30 giờ nuôi cấy, vi khuẩn có thể thay đổi tính chất bắt
màu, chuỗi cũng thấy dài hơn. Theo Nguyễn Quang Tuyên (2008) [39] vi khuẩn S.
suis bắt màu dễ dàng với một số loại thuốc nhuộm thông thường, ở trong canh
trùng non chúng bắt màu Gram (+), ở trong dịch viêm và canh trùng nuôi cấy trên
28 giờ thì thường bắt màu Gram (-).
Theo Quin P. và cs. (2005) [102] S. suis là những vi khuẩn hiếu khí hay yếm
khí tùy tiện, thích hợp ở nhiệt độ 37 oC. Trong môi trường nước thịt: lúc đầu phát


18
triển làm đục đều môi trường, sau 24 giờ nuôi cấy vi khuẩn hình thành các hạt hoặc

bông nhỏ bám vào thành ống, rồi lắng xuống đáy ống nghiệm, môi trường trong ở
phía trên và ở đáy có cặn.
Trên môi trường đặc: sau 24 giờ nuôi cấy phát triển thành các khuẩn lạc kích
thước nhỏ từ 1-2 mm, sau 72 giờ thì khuẩn lạc có kích thước lớn từ 3-4 mm. Khi
nuôi cấy S. suis trong điều kiện có 5-10% C02 thì khuẩn lạc sẽ phát triển nhanh và
to hơn. Khuẩn lạc thường tạo chất nhầy mạnh và rõ nếu vi khuẩn được nuôi cấy vài
giờ ở môi trường nước thịt có bổ sung huyết thanh trước khi cấy sang môi trường
đặc hoặc thạch máu. Khuẩn lạc trên môi trường thạch thường nhỏ và khô hơn trên
môi trường có bổ sung dinh dưỡng.
Trên môi trường MacConkey: Vi khuẩn phát triển tốt, sau 24 giờ nuôi cấy
hình thành các khuẩn lạc nhỏ bằng đầu đinh ghim.
Trên môi trường thạch máu: Sau 24 giờ nuôi cấy, hình thành khuẩn lạc nhỏ,
hơi vồng và sáng trắng. Có thể quan sát thấy dung huyết dạng α: vùng dung huyết
xung quanh khuẩn lạc có màu xanh (dung huyết không hoàn toàn); hoặc dung
huyết dạng β: bao quanh khuẩn lạc là một vùng tan máu hoàn toàn trong suốt, có bờ
rõ ràng do Hemoglobin bị phân huỷ hoàn toàn và dung huyết dạng γ (không dung
huyết): không làm biến đổi thạch máu. Theo Phạm Sỹ Lăng và cs. (2012) [19] đa số
vi khuẩn S. suis gây bệnh cho lợn đều có khả năng dung huyết dạng α và β, gây thiếu
máu cho lợn.
1.2.3. Đặc tính sinh hoá của vi khuẩn S. suis
Vi khuẩn S. suis có khả năng lên men đường glucose, lactose, succrose,
insulin, trehalose, maltose, fructose. Chúng không lên men các loại đường ribose,
arabinose, sorbitol, mannitol, dextrose và xylose. Vi khuẩn S.suis không chứa men
catalase và oxidase nên phản ứng catalase và oxidase đều cho kết quả âm tính
(Nguyễn Quang Tuyên, 2008) [39].
Các chủng Streptococcus phân lập từ lợn ở Việt Nam khi kiểm tra đặc tính
sinh hóa cho thấy chúng phân hủy arginin, lên men đường inulin, salicin, glucose,
trehalose, lactose, sucrose, galactose, fructose. Tất cả các chủng đều không lên men
đường sorbitol, mannitol, dulcitol, xylose, rabinose, dextrose, glycerol. Phản ứng



19
sinh hóa thường được sử dụng để giám định vi khuẩn S. suis phân lập được là phản
ứng amylase dương tính và Voges Proskauer âm tính (Tiêu chuẩn Quốc gia : TCVN
8400-2 :2010) [36].
1.2.4. Cấu trúc kháng nguyên của vi khuẩn S. suis
Vi khuẩn S. suis có cấu trúc kháng nguyên rất phức tạp, một số kháng nguyên
đã được tìm thấy là:
Kháng nguyên thân (Somatic antigen): Kháng nguyên thân có vai trò quan
trọng trong việc quyết định các yếu tố dịch tễ và độc lực của vi khuẩn. Kháng
nguyên thân nằm ở thành vi khuẩn (Cell wall) và được cấu tạo bởi các phân tử
peptidoglycan ở lớp trong cùng (N - acetylglucosamine và N - acetylmuramic acid), tiếp
đến là lớp giữa gồm các polysaccharide (N - acetylglucosamine và rhamnose) và lớp
ngoài cùng là các protein gồm M protein, lipoteichoic acid, R và T protein (Baums C.G.
và c., 2009) [45].
Kháng nguyên giáp mô (Capsule antigen): Kháng nguyên giáp mô có vai trò
quan trọng trong việc bảo vệ vi khuẩn, chống lại thực bào của cơ thể vật chủ. Nhiều
nghiên cứu cũng đã cho thấy các chủng S. suis có giáp mô thì có độc lực và khả
năng gây bệnh, còn các chủng không có giáp mô thì không có khả năng này. Thành
phần của kháng nguyên giáp mô khác nhau tùy thuộc vào loại vi khuẩn, cảc chủng
S. suis thuộc nhóm A thì giáp mô được tạo thành bởi các hyaluronic acid, còn các
chủng S. suis thuộc nhóm O thì thành phần của giáp mô là polysaccharide (Van
Calsteren M. R. và cs., 2010) [123].
Kháng nguyên bám dính (Fimbriae antigen): Vai trò của kháng nguyên bám
dính của S. suis còn chưa được biết đến một cách rõ ràng, nhưng có ý kiến cho rằng
chúng đóng vai trò quan trọng trong việc giúp vi khuẩn bám dính vào tế bào biểu
mô. Vi khuẩn S.suis là một trong số ít các loại vi khuẩn Gram dương có mang cấu
trúc này. So với các loại vi khuẩn khác thì kháng nguyên bám dính của S. suis có
cấu trúc mỏng, ngắn, đường kính khoảng 2 nm và dài có khi tới 200 nm (Kouki A.
và cs., 2013) [85].

Hiểu biết về thành phần và cấu trúc kháng nguyên chủ yếu liên quan tới độc
tính của vi khuẩn là những thông tin quan trọng, sẽ cung cấp cơ sở khoa học cho


20
việc phát triển kỹ thuật chẩn đoán huyết thanh đặc hiệu và chế tạo vaccine phòng
bệnh cho lợn.
1.2.5. Các yếu tố độc lực của vi khuẩn S. suis
Những hiểu biết về các yếu tố độc lực của vi khuẩn S. suis còn rất hạn chế.
Phần lớn những nghiên cứu được tiến hành với các chủng thuộc serotype 2. Các
nhà khoa học đều có chung quan điểm: có sự tồn tại của chủng độc và không độc
của vi khuẩn S. suis type 2. Thành phần CPS được chứng minh là yếụ tố độc lực
quan trọng của vi khuẩn này vì các chủng đột biến không có giáp mô đều thể hiện
là không có độc tính và nhanh chóng bị loại bỏ khỏi hệ thống tuần hoàn của lợn và
chuột trong các thí nghiệm gây nhiễm thực nghiệm. Tuy vậy không phải tất cả các
chủng có giáp mô đều là chủng có độc lực (Lun Z.R. và cs., 2007) [94].
Thành phần CPS của vi khuẩn S. suis có thành phần polysaccharide được
chứng minh là yếu tố độc lực quan trọng của vi khuẩn. Bên cạnh đó, các yếu tố độc
lực khác của giáp mô cũng đóng vai trò quan trọng trong quá trình sinh bệnh của
chúng. Trong đó, yếu tố gây dung huyết (Suilysin) có trọng lượng phân tử là 65
kDa và có độ phóng xạ riêng là 0,7 x 106 Units/mg được coi là yếu tố độc lực quan
trọng của vi khuẩn S. suis và được mã hoá bởi gen sly. Ngoài ra, vi khuẩn S. suis
còn có hai loại protein cũng được xác định là đóng vai trò quan trọng trong quá
trình gây bệnh là protein giải phóng muramidase được mã hóa bởi gen mrp và
protein giải phóng yếu tổ ngoại bào bởi gen epf. Các chủng S. suis còn sản sinh ra
enzym arginine deiminase được mã hoá bởi gen arcA có vai trò quan trọng trong sự tồn
tại của vi khuẩn trước những tác động của yếu tố stress (Segura M. và cs., 2017) [113].
Các yếu tố độc lực khác, ngoài polysaccharide của giáp mô cũng đóng vai
trò quan trọng trong quá trình sinh bệnh của vi khuẩn, bao gồm: Yếu tố gây dung
huyết, hay còn gọi là "suilysin" có trọng lượng phân tử 65 kDa và có độ phóng xạ

riêng là 0,7 x 106 Units/mg. Suilysin (SLY) thuộc về nhóm độc tố với những đặc
điểm chung là dễ bị oxy hoá, dễ bị hoạt hóa bởi một số hóa chất khử, dễ bị ức chế
bởi cholesterol với nồng độ loãng, ức chế tính hoạt động của một số lượng ít, gốc N
- của chuỗi amino acid của suilysin giống vởi perfringolysin O, streptolysin O,
listeriolysin O, alveolysin, pneumolysin (Takeuchi D và cs., 2013) [120]. Trong


21
điều kiện invivo, chuột và lợn đã được chứng minh là có khả năng tạo ra miễn dịch
khi được tiêm vaccine chứa suilysin để kháng lại S. suis serotype 2 gây bệnh.
Suilysin là yếu tố độc lực quan trọng của S.suis vì sự trung hoà của yếu tố này đủ
dể bảo vệ chuột thí nghiệm chống lại các tác động có hại của S. suis type 2
(Gottschalk M và cs., 2013) [69]. Tuy nhiên, yếu tố gây dung huyết dường như
không phải là yếu tố độc lực quan trọng đối với các chủng phân lập được ở Bắc
Mỹ, ngược lại rất nhiều chủng có nguồn gốc từ Lợn mắc ở châu Âu lại có hoạt tính
này. Hoạt tính của suilysin không thể phân biệt được bằng các phương pháp sinh
hoá và miễn dịch thông thường, vì vậy, một số nghiên cứu đã cho rằng suilysin có
thể là yếu tố độc lực quan trọng của một số chủng vi khuẩn. Mặc dù vậy, một số
chủng S. suis serotype 2 không có khả năng dung huyết vẫn đã được chứng minh
rằng có độc lực cao (Tenenbaum T. và cs., 2016) [119].
Hai loại protein: protein giải phóng muramidase MRP có trọng lượng phân
tử 136 kDa và protein giải phóng yếu tổ ngoại bào EF đã được xác định là các yếu
tố độc lực quan trọng trong sinh bệnh học của S. suis type 2 gây bệnh ở lợn và
người. Các nghiên cứu về gây bệnh thực nghiệm trên lợn cũng đã cho thấy các
chủng vi khuẩn có mang 2 yếu tố gây bệnh này (MRP - EF -) đã được phân lập từ
các phủ tạng của lợn sau khi gây nhiễm với các triệu chứng điển hình của bệnh,
trong khi đó các chủng không mang các yếu tố gây bệnh này (MRP - EF -) có thể
phân lập được thưòng xuyên trong amidan của lợn khỏe và không có khả năng gây
bệnh cho lợn thí nghiệm (Feng Y. và cs., 2010) [64]. Tuy nhiên, quy luật này lại
không đúng với trường họp các chủng S. suis serotype 2 phân lập được từ lợn và

người bị bệnh tại Canada và Bắc Mỹ vì hầu hết các chủng đều không gây dung
huyết và không mang các yểu tổ gây bệnh MRP và EF khác biệt hoàn toàn với các
chủng phân lập được từ châu Âu, kể cả về cấu trúc di truyền (Gottschalk M. và cs.,
2013) [69].
Các nhà nghiên cứu tại GREMIP (Trung tâm nghiên cứu thuộc trường Đại
học Tổng hợp Montreal, Canada) cũng đã mô tả một số loại loại protein bao gồm
protein sốc nhiệt có trọng lượng phân tử 60 kDa, protein gắn albumin và protein có
khả năng gắn với IgG. Những protein này có thể được tạo ra bởi cả chủng có độc


22
và không có độc lực của tất cả serotype của S. suis, kể cả serotype 2. Tuy nhiên,
nhiều khả năng là các yếu tố độc lực này chỉ được tạo ra trong điều kiện invivo.
Ngoài ra, yếu tố bám dính (adhesins), men phân huỷ protein, bacteriocin và
fimbriae cũng được xem là các yếu tố độc lực của vi khuẩn S. suis (Gottschalk M.,
2007) [66].
Nghiên cứu của Đỗ Ngọc Thúy và cs. (2009b) [32] cho thấy trong 211 chủng
S. suis phân lập được từ lợn tại các tỉnh miền Bắc Việt Nam đã xác định được 7 tổ
hợp gen mã hóa các yếu tố độc lực. Theo Segura M. và cs. (2017) [113] nhiều loài
Streptococcus có giáp mô, bản chất là polysaccharide (capsular polysaccharide CPS) được coi là một yếu tố độc lực quan trọng của vi khuẩn. Streptococcus sinh ra
men streptokinaza và streptodoranse diệt bạch cầu, hyaluroridaza phân hủy acid
hyaluronic gây nhão mô.
1.3. Bệnh liên cầu khuẩn ở lợn do vi khuẩn S. suis gây ra
1.3.1. Đặc điểm dịch tễ học
Vi khuẩn S. suis serotype 2 đã được thông báo từ lâu là loại thường gặp nhất
gây bệnh cho lợn và người ở hầu hết các nước trên thế giới (Denicourt M. và cs.,
2000) [57]. Còn sự phân bố của các serotype khác và các thể bệnh do chúng gây ra
ở lợn ở các nước là có sự khác nhau, ở Scanđinavia, serotype 7 chiếm ưu thể trong
những năm 1980, nhưng sau đó, số chủng thuộc serotype 2 lại vượt trội, tại Nhật,
serotype 2 chiếm tỷ lệ cao nhất (28%), serotype 7 (11%), serotype 9 là loại phổ

biến nhất ở Australia, trong khi đó ở Anh, serotype 14 chiếm ưu thế (25%), chỉ sau
serotype 2 (62%) (Higgins R. và Gottschalk M., 2006) [77].
Nhiều công trình nghiên cứu đã kết luận rằng các chủng vi khuẩn gây bệnh
cho lợn chủ yếu thuộc về một nhóm serotype nhất định có ký hiệu từ 1 - 8
(Gottschalk M. và cs., 2010) [67]. Trong khi đó, có một vài serotype, đáng chú ý
nhất là serotype 21, và ít phổ biến hơn là serotype 17, 18 và 19 chủ yếu chỉ được
tìm thấy ở lợn khoẻ và không có triệu chứng lâm sàng.
Vi khuẩn S. suis serotype 2 cũng phân lập được từ lợn khoẻ nhưng với tỷ lệ
thấp. Ở Anh, khi tiến hành điều tra tỷ lệ nhiễm ở 4 đàn lợn khoẻ, cho thấy hai đàn
không có serotype 2, một đàn mang serotype 2 với tỷ lệ 1,5% và đàn còn lại với tỷ


23
lệ 20%. Kết quả này cũng phù hợp với các nghiên cứu khác được tiến hành tại
Canada cho kết quả là serotype 2 có trong 12% đàn không có triệu chứng lâm sàng
và trong 4% sổ lợn của các đàn này; ở Canada, đã phân lập được serotype 2 ở 8/19
đàn lợn khoẻ, trong đó serotype 2 có trong xoang mũi của 1,5% số lợn, còn serotype
19 là 24% và serotype 21 là 19% (Gottschalk M., 2012) [68].
Điều đáng chú ý là lợn bị bệnh có thể mang một hoặc vài serotype khác nhau
trong cùng một cơ thể. Cụ thể, 31% lợn có mang một serotype củạ S. suis ở xoang
mũi, 38% mang 2 hoặc 3 serotype, và 6% có mang trên 4 serotype. Kết quả này có
vai trò rất quan trọng trong chẩn đoán bệnh vì cần phải xác định chính xác serotype
gây bệnh chính. Ở Anh, bệnh do serotype 2 gây ra chủ yếu là gây bại huyết và viêm
não ở lợn đã cai sữa. Ở Hà lan, S. suis serotype 2 là nguyên nhân chính gây viêm
phổi (42%), viêm não (18%), viêm nội tâm mạc (18%) và viêm đa thanh mạc (10%).
Ngoài serotype 2, S. suis thuộc các serotype khác cũng đã phân lập được từ lợn bị viêm
phổi - màng phổi ở Đan Mạch, Hà Lan, Bỉ, Phần Lan, Australia, Canada và Mỹ (Feng Y.
và cs., 2014) [65].
Trong ổ dịch do S. suis serotype 9 gây ra tại Canada, thấy 100% lợn chết có
biểu hiện viêm khớp, 91% có viêm não, 73% có viêm phổi kẽ, 42% có viêm nội

tâm mạc. Các nhà nghiên cứu cho rằng sự phân bố của các bệnh tích này ở lợn mắc
là hoàn toàn khác so với bệnh do serotype 2 gây ra. Như vậy, nhiều khả năng là một
vài serotype nhất định có các đặc điểm độc lực và đặc tính gây bệnh riêng. Chính
điều này đã giải thích cho các trường hợp viêm phổi rất nghiêm trọng do serotype 3
gây nên ở Achentina hoặc của serotype 14 ở Anh và chính serotype này cũng đã
gây bệnh ở người (Gottschalk M. và cs., 2013) [69].
Khả năng gây bệnh của S. suis phụ thuộc vào nhiều yếu tố như sức đề kháng
của con vật, điều kiện vệ sinh môi trường, chế độ chăm sóc nuôi dưỡng, thời tiết
khí hậu và yếu tố độc lực của vi khuẩn.
Việc lây truyền bệnh giữa các đàn với nhau chủ yếu xảy ra trong quá trình
vận chuyển của các lợn khỏe mang trùng. Việc nhập lợn khỏe mang trùng (lợn hậu
bị, lợn đực giống, lợn cai sữa) vào đàn không có mầm bệnh thường dẫn tới việc
phát sinh bệnh ở lợn đã cai sữa hoặc lợn vỗ béo. Lợn con có thể bị nhiễm mầm


24
bệnh từ lợn mẹ qua đường hô hấp. Các nghiên cứu cũng đã cho thấy hầu hết lợn đã
cai sữa đều có mang các chủng S. suis nhưng chỉ có một số ít các chủng này có khả
năng gây bệnh cho lợn ở giai đoạn sau đó (Goyette-Desjardins G. và cs., 2014)
[70]. Trong tự nhiên, đường lây truyền của các chủng S. suis có độc lực cao thường do
từ lợn khỏe nhiễm S. suis vào đàn lợn chưa bị nhiễm có thể dẫn đến sự khởi phát bệnh ở
lợn cai sữa và lợn thịt. Lợn nái lây nhiễm S. suis sang lợn con trong quá trình sinh sản
do âm đạo bị nhiễm trùng hoặc qua đường hô hấp, tiêu hóa (Cloutier G. và cs., 2003)
[55].
Bệnh có thể bị lây nhiễm từ trại này sang trại khác thông qua vật chủ trung
gian là ruồi, có thể mang S. suis serotype 2 tới 5 ngày và có thể làm nhiễm mầm
bệnh vào thức ăn mà chúng đậu phải ít nhất là trong vòng 4 ngày. Sự tồn tại của lợn
chết mang vi khuẩn S. suis trong chuồng nuôi cũng là một cách để truyền S. suis
(Luque I. và cs., 2010) [93].
Theo Huong V.T.L. và cs. (2014) [80] bệnh lây lan trong đàn do sự tiếp xúc

giữa lợn khỏe và lợn bệnh, lợn mẹ mắc bệnh sẽ truyền sang cho đàn lợn con. Bệnh
còn có thể lây qua đường hô hấp, đây là đường truyền lây có ý nghĩa quan trọng do
số lượng vi khuẩn ở môi trường rất lớn. Ngoài ra, bệnh có thể truyền lây qua dụng
cụ chăn nuôi và một số yếu tố trung gian như ruồi, một số loài chim, chuột... và vật
mang khác.
Theo Hồ Thị Kim Hoa (2016) [9] nhiễm trùng ở lợn hầu hết là sự kết hợp
giữa vi sinh vật gây bệnh và môi trường ô nhiễm làm giảm sức đề kháng của vật
nuôi, tạo điều kiện cho quá trình nhiễm trùng. Ngoài các virus gây bệnh phổ biến
cho lợn còn có một số vi khuẩn khác trong đó có S. suis.
1.3.2. Cơ chế sinh bệnh
Theo Lê Văn Tạo (2007) [29] khoảng 30 - 70% con vật khoẻ mạnh phân lập
được Streptococcus spp. từ đường hô hấp trên. Khi hàng rào bảo vệ của cơ thể bị
suy giảm hoặc phá vỡ thì vi khuẩn sẽ xâm nhập vào đường hô hấp dưới và gây
viêm phổi, vi khuẩn theo hệ thống tuần hoàn gây nhiễm trùng huyết, sau đó tràn
vào nội và ngoại tâm mạc, màng não, xoang khớp để gây ra các thể bệnh ở đó.
Theo Trần Văn Bình (2008) [1] vi khuẩn Streptococcus spp. gây dung huyết kiểu


25
alpha, khi vào máu và đến các cơ quan sẽ gây ra các ổ áp xe thứ phát, dẫn đến viêm
tủy xương, viêm khớp, viêm van tim, viêm nội tâm mạc, thận, gan, hạch lympho và
đường sinh dục.
Trong cơ thể lợn, vi khuẩn S. suis thường tồn tại ở hạch amidan, mũi, đường
sinh dục, tiêu hóa và chúng có thể được phát hiện ở lợn mọi lứa tuổi. Nơi cư trú
thích hợp của vi khuẩn S. suis ở lợn cũng như ở người là đưòng hô hấp trên, đặc
biệt là hạch amidan và xoang mũi (Gottschalk M và cs., 2012) [68]. Từ đó, vi
khuẩn di chuyển theo hệ lâm ba tới hạch dưới hàm, cư trú ở các mô, nhưng lúc đó
cơ thể chưa có dấu hiệu lâm sàng gì của bệnh, ở các tổ chức cư trú, vi khuẩn sống
và nhân lên trong các tế bào thích hợp (monocyte), rồi di chuyển vào xoang dịch
não tuỷ, kích thích các tế bào đơn nhân (monocyte) và đại thực bào (macrophage)

sản sinh cytokine, gây ra hiện tượng thâm nhập viêm từ mạch máu vào hệ thần kinh
trung ương, gây ra viêm não. Đồng thời, vi khuẩn cũng qua con đường nhiễm trùng
huyết xâm nhập vào khớp xương và các mô khác để gây bệnh (Dutkiewicz J. và cs.,
2018) [59].
Nhiều nhà nghiên cứu đang tìm và giải thích con đường xâm nhập và khả
năng gây bệnh cho lợn của vi khuẩn này. Điều này có ý nghĩa hết sức quan trọng
trong việc nghiên cứu biện pháp phòng trị bệnh do chúng gây ra. Qua những nghiên
cứu về nhóm cầu khuẩn, vi khuẩn Streptococcus spp. thường xuất hiện trên các tổn
thương bề mặt của da. Từ đó, các vi khuẩn này có thể xâm nhập vào cơ thể và gây
nhiễm trùng máu. Các tổn thương do cơ giới (cắn xé nhau, đánh nhau) thường là
cửa ngõ cho Streptococcus spp. xâm nhập vào cơ thể và gây bệnh. Tuy nhiên, bệnh
có thể khỏi dần hoặc nặng thêm phụ thuộc vào sức đề kháng của cơ thể và số
lượng, độc lực của vi khuẩn nhiễm vào (Huong V. T. L. và cs, (2014) [80].
Khi nghiên cứu về vai trò gây bệnh của S. suis serotype 2 thì nhiều nhà khoa
học cho rằng nguyên nhân chủ yếu là do kháng nguyên CPS, các protein có liên
quan đến độc lực như protein giải phóng muramidase MRP và yếu tố ngoại bào EF,
hemolysin hoặc suilysin và một số yếu tố bám dính khác, trong đó, CPS đóng vai
trò quan trọng nhất do có khả năng kháng lại đại thực bào, gây viêm màng não
(Lun Z. R. và cs, 2007) [94]. Vi khuẩn S. suis sau khi xâm nhập vào hạch amidan,


×